Bỉ Vỏ
Tác giả: Nguyên Hồng
Chương 1
Năm ấy tôi mười sáu tuổi, hết hạn tù, được
tha. Mẹ tôi lên tận nhà giam tôi, đón tôi. Nhưng chúng tôi không về Nam Định -
quê hương của chúng tôi - mà dắt nhau ra Hải Phòng.
Khi tôi đi tù, đoạn tang cha tôi, mẹ tôi bước
đi một bước nữa. Nên lúc rời bỏ cái tỉnh đã chứng kiến bao nhiêu việc không hay
kế tiếp phá tan gia đình tôi, sự ngậm ngùi của mẹ tôi bắt tôi nghĩ đến lòng héo
hắt của một người đàn bà đã cải giá trước sự khinh bỉ rẻ rúng của họ hàng nhà
chồng và trước sự ghê tởm của mọi người quen biết đối với con mình, mới một dúm
tuổi mà đã trải hết lao này sang lao khác.
Hôm đó, trời thu trong và sáng. Con tàu chở
chúng tôi lướt trên một dòng sông lặng lẽ giữa những đồng ruộng xanh bát ngát.
Ra Hải Phòng chúng tôi càng khổ sở. Trông
vào vài hào làm vốn buôn trầu cau, mẹ con tôi được bữa sớm mất bữa tối. Lắm
phen, luôn mấy hôm, chỉ một bữa cháo lót lòng.
Bao nhiêu ngày tháng, bị câu thúc thân thể
và phải làm những việc bẩn thỉu, nặng nhọc quá sức mình, tôi tưởng khi thoát khỏi
cảnh tù tội đày ải ấy sẽ sống no ấm... ngờ đâu! Vì thế xác thịt tôi dần suy nhược;
cái ngực thỉnh thoảng đau nhói lên, tôi cảm thấy đời tôi đã bị rút ngắn đi và một
ngày rất gần kia sẽ hết. Chết! Mỗi lần cái chữ đen tối khủng bố ấy hiện ra, tôi
thấy sao mà chung quanh tôi sự vật gì cũng sáng sủa, tươi đẹp! Hết thảy đều kêu
gọi lòng ham sống của tôi.
Tôi chết đi, mới mười sáu tuổi đầu, sẽ làm
cho mẹ tôi đau đớn biết chừng nào. Và cái phút cuối cùng của một đời sớm tắt ấy,
tôi sẽ quằn quại như con bướm non bị hai ngón tay dữ tợn kẹp chặt vừa lúc nó mới
đánh thấy mùi nhị hoa thơm ngát.
Những lúc lo sợ, bối rối, đau đớn quá,
trong tâm trí người ta hay nảy ra những ước muốn khác thường. Tôi, tôi muốn có
một cái gì để mãi mãi an ủi mẹ tôi và để tỏ lòng tôi mến tiếc và thương nhớ những
người và vật đã làm tôi vui thích đến say mê. Nghĩa là tôi phải để lại một cái
gì tinh khiết nhất của hồn và xác tôi cho cõi đời mà tôi yêu mến.
Ý quyết viết tiểu thuyết thụ thai trong trí
tưởng tôi mỗi ngày một mạnh mẽ thêm, lan rộng mãi ra. Khi ăn, khi chơi, khi ngủ...
lúc nào tôi cũng nghĩ đến viết. Ở nhà, ngoài đường, trên vỉa hè, ở ghế vườn
hoa, dưới gốc cây, bờ sông bến tàu, đâu đâu cũng là chỗ tôi mơ tưởng đến viết.
Có một xu một trinh nào tôi cũng mua giấy để viết. Không có tiền mua sách, báo,
tôi cố đón đọc những báo hàng ngày ở phòng đọc báo của một hội ái hữu kia chỉ mở
cửa từ 7 giờ đến 9 giờ tối để xem cách viết của một số nhà văn.
Nhưng, tiền càng ngày càng hiếm, tưởng như
không còn bao giờ lọt vào tay tôi nữa, và trời về tối dạo ấy càng rét dữ dội với
những ngọn gió tê buốt và những trận mưa dầm dài ghê sợ. Mẹ tôi phải đi vào
Vinh, cầu cứu một người chị họ tôi, để tôi ở nhà với ông chú dượng. Trước khi
đi, phải vay cho chúng tôi tám ngày gạo và một món tiền chi tiêu không quá bốn
hào để mua củi và thức ăn.
Đã lâu lắm mới sẵn có một thạp gạo ở trong
nhà ông chú dượng tôi và tôi bị khiêu khích. Không ngày một bữa nữa. Chúng tôi
tin rằng vào tới Vinh vay mượn được tiền, mẹ tôi thế nào sớm tối chả gửi ra.
Chúng tôi đã thất vọng. Và càng lo sợ, càng khổ sở vì đói. Hơn mười ngày rồi mà
chẳng thấy thư từ gì ở trong đó gửi ra.
Tôi còn nhớ, nhớ rõ ràng lắm, những đêm mưa
dầm gió bấc, trong một căn nhà không đèn lửa gì cả và ran ran tiếng muỗi, trên
một cái phản lung lay, hai thân hình nhọc lả co quắp trong một chiếc chăn rách
mướp, ông chú dượng tôi và tôi không ai nói với ai nửa nhời vì không đủ sức mà
nói và cũng cảm thấy tiếng nói lúc bây giờ chẳng còn ý nghĩa gì hết, chỉ làm
đau tủi thêm hai con người muốn mà chẳng có việc gì làm để được sống. Sự yên lặng
còn là sự đau đớn xót xa đến cực điểm của chúng tôi trước sự sống của vợ chồng
người thuê nhà bên cạnh.
Người chồng làm thợ quét vôi, hiền lành, thất
nghiệp, nghiện rượu. Người vợ, một người buôn thúng bán mẹt ở các chợ, rất lắm
điều. Họ không còn cha mẹ già nhưng đông con. Chưa đứa nào quá mười ba tuổi và
tinh khôn chút ít để đỡ đần công việc. Bữa có, bữa không, rách rưới và ốm yếu
cũng như chúng tôi. Nhưng vợ chồng người này luôn luôn cắn cấu, đay nghiến, chửi
rủa và đánh đập nhau. Đã mấy lần, người chồng bị vợ sỉ vả đã uất lên, chực thắt
cổ mình và dìm ao mấy đứa con bé.
Bỗng gần về sáng đêm thứ mười hai, một tiếng
người thất thanh gọi chúng tôi. Chúng tôi bổ choàng dậy. Giời ơi! Mẹ tôi đã về.
Mẹ tôi về với hai sọt hàng trầu vỏ mà ông chú dượng tôi và tôi ưỡn đến gẫy lưng
mới khiêng vào được.
Từ ngày đó bụng tôi không đến nỗi cồn cào
quá như trước. Và tôi đã có tiền mua cả một thếp giấy. Tiền mua giấy đó, mẹ tôi
cho tôi những hôm lãi nhiều. Tôi không cần phải hỏi mẹ tôi cũng đưa. Mẹ tôi
không nỡ trông thấy tôi thẫn thờ trước một ít giấy đã kín chữ.
Mấy truyện ngắn tôi đã viết xong từ lâu, và
“Bỉ vỏ”, trải bao nhiêu ngày tháng đã dàn xếp kỹ càng trong đầu óc tôi.
* * *
Thưa mẹ, người mẹ hiền từ của con, thưa các
bạn, những bạn đọc yêu dấu của tôi, “Bỉ vỏ” đã viết xong rồi.
“Bỉ vỏ” đã viết xong trên một cái bàn kê
bên khung cửa trông ra vũng nước đen ngầu bọt của một bãi đất lấp dở dang và một
chuồng lợn ngập ngụa phân tro; “Bỉ vỏ” đã viết xong trong một căn nhà cứ đến chập
tối là vang lên tiếng muỗi và tiếng trẻ khóc; “Bỉ vỏ” đã viết xong trong một
đêm lạnh lẽo âm thầm mà mọi vật như đều rung lên cùng với lòng thương yêu của một
đứa trẻ ham sống dào dạt trong những bụi mưa thấm thía.
Thưa mẹ, người mẹ hiền từ của con, con xin
dâng “Bỉ vỏ” cho mẹ với cả tấm lòng kính mến trong sạch của con, và xin tặng nó
cho các bạn với tất cả cảm tình đằm thắm tươi sáng của tôi.
Nguyên Hồng
Tháng 3-1938
*
Bữa cơm chiều nay khác hẳn mọi ngày, buồn
bã và uể oải lắm.
Bính ngồi sát bức vách lâu ngày đã nứt nẻ
loang lổ, cầm bát cơm đầy nhưng chẳng buồn và. Thằng Cun, cái Cút, hai đứa em
nhỏ của Bính bị sợ lây, lấm lét nhìn đĩa đậu phụ om tương vàng ánh mỡ, thèm quá
mà không dám gắp. Những tiếng ho khàn khàn của bố chúng và cặp mắt toét nhoèn
cau có của mẹ chúng luôn luôn lườm Bính, làm chúng càng rụt rè kinh hãi. Chúng
càng thêm thương Bính, một người chị hay tươi cười vỗ về các em những ngày các
em bị đánh mắng, bị hắt hủi, bị bắt nhịn đói vì quá nô đùa và cãi cọ với trẻ
con hàng xóm, nhất là những khi nhà túng thiếu, không còn biết tính toán ra
sao, không còn biết chạy vạy ở đâu.
Rồi chúng ngạc nhiên hơn thấy Bính đã gần nửa
tháng nay buồn bã, ít ăn, ít nói. Tại sao? Vì duyên cớ gì? Những khối óc ngây
thơ ấy cố nghĩ mãi không ra.
Nồi tư cơm mới hết non nửa; sự cảm động lo
lắng làm khô cả miệng hai đứa trẻ; chúng há hốc mồm, mặt đờ đẫn, trông vừa buồn
cười vừa thương hại.
- Kìa chúng mày ngồi nhìn nhau đấy à?
Bác lái Thìn cất giọng khàn khàn nói đoạn
đưa cặp mắt gườm gườm nhìn Bính. Thấy vậy Bính vội vàng và mau cho hết bát cơm;
hai đứa trẻ cũng lập cập ăn. Rồi một phút sau, cả ba đều đứng dậy. Thằng Cun
tót ngay ra cổng, cõng cái Cút lên lưng, lẩm bẩm một mình:
- Bố ác ghê! Chửi mắng chị Bính suốt ngày,
chắc lại sắp đánh chị ấy đấy!
Nó cười, khen cho mình mau trí khôn, biết
trước mà chuồn khỏi nhà chứ không thể nào cũng bị đòn lây như chiều qua. Lúc ấy,
Bính cắp rổ bát ra bờ sông ở ngay sau nhà để rửa. Mặt sông lặng lẽ, sương lam mịt
mùng. Cái lạnh man mác của chiều thu gần tàn Bính cảm thấy rõ rệt lắm. Nhưng,
Bính muốn ở mãi đây dù bị mưa rét cũng cam tâm. Vì hễ động thấy mặt Bính, bố mẹ
Bính không mắng mỏ, thì chìa bỉu, day dứt, đay nghiến Bính chỉ vì sự lầm lỡ đó.
Bính yên lặng nhìn trời, sông một màu xám
ngắt, lòng tê tái và buồn bã. Bỗng có tiếng gọi Bính xáo xác... Rùng mình, Bính
nâng vội rổ bát, cắp ngang lưng lủi thủi về nhà.
Gần đến cái cổng bằng tre bắt khum chằng chịt
những dây bìm điểm hoa tím, Bính còn ngoái cổ trông. Chua xót, Bính thở dài.
Len lét Bính đi qua chỗ bố nằm rồi vào buồng
mình. Buồng tối đen. Cây đèn hoa kỳ vặn nhỏ đặt trên trạn bát ở cuối buồng, mẹ
Bính đã tắt đi ngay lúc Bính bước chân xuống bếp. Lau lau vội tay vào vạt áo
rách, Bính rón rén đến bên cái chõng tre. Bính vừa lật chiếc tã vải lên, đàn muỗi
bay ran ra như ri, náo động cả gian nhà. Bính cúi xuống bế con, khe khẽ kêu:
- Giời! Muỗi đói đốt chết con tôi còn gì!
Đứa bé thức giấc khóc oa oa. Tiếng khóc
càng to, Bính thêm sợ sệt. Bính vội vàng vạch vú cho nó bú, không có hàng xóm
biết thì bố mẹ Bính sẽ lại không để Bính yên thân đâu. Muỗi bay mỗi phút một
nhiều, tạt vầm vập vào mặt Bính. Những tiếng vo vo trong cái im lặng mờ tối của
gian buồng hôi hám không mấy khi có nổi ánh sáng mặt trời, càng làm Bính bối rối.
Bính thấy mình như một người tù nặng, bị bó buộc mãi mãi nếu đứa con nhỏ này
còn trong tay.
- Con ơi!
Bính ôm ghì lấy đứa con vào ngực, nức nở
trong bóng tối. Bính lại thầm thì khóc. Không thể sao ngồi yên được, Bính đi đi
lại lại, và đã ba hôm nay giọng khàn mất rồi, Bính lại phải rung rung cánh tay
để ru con. Thật Bính có ngờ đâu và cũng không bao giờ dám nghĩ tới nông nỗi
này. Lòng người Bính cứ tưởng như lời người nói. Còn sự phụ bạc Bính đinh ninh
một hạng người ăn học như thế không thể nào có được! Nhưng đến nay Bính mới rõ
cái bề ngoài che đậy sự khốn nạn độc ác thì đã muộn lắm rồi. Chắc Bính phải đau
khổ mãi mãi vì sự lừa dối đó thôi.
Bính như không đủ sức nhấc nổi chân nữa,
bèn ngồi xẹp xuống chõng, dựa lưng vào bức vách, đầu ngả về một bên, mỏi mệt
nhìn bóng tối. Phút chốc trong tâm tưởng Bính lại hiện ra những hình ảnh không
bao xa.
Mới cách đây gần một năm, nhưng tại nhiều sự
khác thường đã xẩy ra, nên ngày giờ dài và thấm thía thêm. Dạo ấy Bính thường
gánh gạo lên chợ huyện bán, lần nào Bính cũng bắt gặp một người vận quần áo
tây, chải chuốt ngắm trông Bính. Có khi Bính còn nghe thấy tiếng gọi vồn vã, tiếng
chòng ghẹo dịu dàng. Nếu đi một mình, Bính chẳng thẹn mấy, song vì có các bạn
gái cười đùa chế giễu thêm vào khiến Bính hổ thẹn vô cùng.
Và trong sự hổ thẹn ấy Bính dần dần thấy
băn khoăn vẩn vơ. Bính đã phải nghĩ đến người đàn ông sang trọng và trai trẻ nọ.
Lâu nay trai làng vẫn ghẹo đùa Bính. Họ đã không được Bính để ý mà thỉnh thoảng
còn bị Bính nói nhẹ cho nữa. Cái thứ vóc người cục kịch, quần áo nâu mồ hôi
rách vá kia Bính thấy thế nào ấy, đối với cái thân hình thanh tú đầu tóc bóng
mượt thơm tho kia. Cả cái tên “quan tham đạc điền” nghe cũng khác lạ sao. Nó hứa
với Bính bao nhiêu sự sung sướng hãnh diện chứ đâu như những cái tên “nhiêu”, “khán”,
“trương” của những ngôi thứ tầm thường nhỏ mọn ở thôn quê.
Dần dần Bính yêu người ấy mà Bính thấy có
thể gửi gắm cả đời mình. Bính để người ấy gần gũi Bính luôn. Rồi một ngày kia,
một ngày thầm vụng, Bính buông phó cả thân thể cho y.
Bính vùng đứng ngay dậy, nghiến chặt hai
hàm răng, rít lên. Ước vọng của Bính đã nhào đổ hết. Người tỉnh sang trọng và
trẻ trai nọ đã bỏ Bính đi không một lời an ủi. Y đã bỏ Bính lại với một cái kết
quả mà sự thảm khốc chưa bao giờ Bính thấy đến như thế, cũng như chưa bao giờ
Bính lại tưởng mình sẽ phải chịu đựng như thế. Cả người Bính rung chuyển. Hai
cánh tay rời rạc mỏi rã, Bính đặt đứa con xuống chõng, lấy vạt áo xua xua muỗi.
Không chịu nằm, đứa bé lại khóc thét lên. Lập tức, từ ngoài cửa liếp lại đưa
vào những tiếng rít mắng:
- Con đĩ voi giày kia, mày lại để bố mày
khóc rồi. Có mau bắt nó nín đi không!
Tiếp đến một giọng lanh lảnh cố nói cho nhỏ:
- Đấy, con gái nhớn ông đấy! Đã sung sướng
mát lòng mát ruột cho tôi chưa! Thật là bôi gio chát trấu vào mặt tôi.
Bính rớt nước mắt, phải chùi vội đi, bế con
lên, nhè nhẹ đặt vú vào miệng thằng bé. Cánh tay Bính lại rung rung với những
tiếng hát nhỏ và khàn đặc. Câu hát càng đầm nước mắt nọ của những người đàn bà
nhẹ dạ đã hát mà trước kia khi nghe hát Bính ghê sợ lắm, không ngờ ngày nay
chính Bính lại chịu cái cảnh âm thầm đau đớn trong câu hát ấy:
“Chót
đa mang thì phải đèo bòng,
Chót
bế lên bụng phải bồng lấy con”.
Đứa trẻ vẫn khóc. Tiếng rít lanh lảnh lại cất
nhỏ lên:
- Con quỉ cái kia, bố trẻ mày không nín tắp
thì mày nhét giẻ vào mồm nó cho tao.
- Phải đấy! Hay là vái giời rồi bóp mũi nó
đem chôn quách nó đi cho rứt nợ.
Bính rởn cả người, kinh hãi quá sức. Bố mẹ
Bính đối với Bính thật cạn tàu ráo máng và đến mức độ ác hơn là thú dữ. Bính thật
hết hy vọng nuôi con cho đến khi khôn lớn ở cái nhà này cũng như Bính đã hết hy
vọng được gặp mặt bố đứa trẻ xấu số nọ lần thứ hai vậy.
Gian buồng chật hẹp tối tăm thêm. Không khí
càng đè nén vì những tiếng nghẹn ngào. Và Bính chưa hết buồn sợ, những hình ảnh
khác đã đến, khiến Bính càng bối rối.
Dạo ấy Bính còn bé, độ lên chín hay lên mười,
Bính theo người lớn ra đình xem làng ngả vạ một ả đi hoang.
Một ngày tháng Năm, đường đá, sân gạch bỏng
rẫy chân, thế mà chị Minh, người bị làng phạt vạ, phải quỳ ở giữa sân đình, nón
không có, bế đứa con mới được mười ngày, cũng đỏ hon hỏn như con Bính hiện giờ,
giữa trời nắng chang chang.
Bính nhớ kỹ lắm: chị Minh mặt mày tái mét,
đẫm mồ hôi, răng cắn chặt. Mõ làng đứng gần chị Minh, sau cái án thư bày la liệt
những giấy má, bút mực, tay cầm cặp roi mây sơn đỏ bịt đồng, ra bộ nghêng ngang
vô cùng. Thỉnh thoảng y hất hàm nhìn chị Minh rồi đột nhiên lại lấy đầu roi, lật
tà áo che mặt đứa bé lên cho mọi người xem giống ai trong làng.
Bà già, đàn ông, con gái, trẻ con lại đổ xô
cả đến cái lan can bằng gạch xây ven sân, nghển cổ nom. Một người trong bọn lớn
tiếng nói:
- Cứ cái mũi kia thì nó giống khán Thư tây
lai đấy.
Em gái khán Thư thấy anh mình vốn có tính
trai lơ bị họ bêu riếu, liền đáp ngay:
- Này chị nhiêu Khuôn xem kỹ lại nó có giống
khán Thư không hay là giống ông Ba Nhòm nhà ta đấy!
Ba Nhòm là ông nội nhiêu Khuôn ngày xưa tằng
tịu với một người đàn bà góa bị em chồng họ bắt quả tang, phải quỳ lạy người em
nọ rồi cởi truồng về nhà.
Thế là hai người lại om sòm lên và đám đông
lại được mẻ cười đùa ầm ĩ, tròng ghẹo nhau, máy móc những cái mắt, cái tai, cái
môi, nét mặt phảng phất giống đứa bé mà ghép lẫn nhau là bố nó.
Chị Minh chỉ càng cúi gằm mặt xuống. Bọn
hương lý chức dịch ngồi chiếu trong đình lại quát vọng ra.
- Mõ! Các cụ truyền bay bắt nó ngẩng đầu
lên chứ!
Mãi khi chè chén no nê xong, một người
trong bọn mới khệnh khạng nhè mồm gọi bố chị Minh ra mà phán rằng:
- Thôi bây giờ con bác Nhiêu đã chót dại mà
xưa nay bác là người tử tế, ăn chịu đóng góp với làng đầy đủ, vậy làng thương
tình phạt bác ba đồng bạc, hai trăm cau tươi, tám chai rượu, lập tức tối hôm
nay bác phải thân đưa đến nhà tôi.
Phó hội sẵn có hiềm khích với bác Nhiêu, thấy
tiên chỉ xử vậy, bèn vung tay lên nói:
- Trình cụ, cụ ngả có bằng ấy thật là nhẹ
quá. Tôi xin hội đồng phạt thêm ba đồng nữa và một nửa lợn vì còn cái khoản gia
pháp bất nghiêm nữa kia.
Lại một hồi bàn tán xôn xao, sau cùng Chánh
hội kiêm thứ chỉ ra trước cái bàn ngoài sân, bệ vệ bảo bố con chị Minh:
- Làng ta từ cổ đến giờ có ai dám bậy bạ
như nhà các người, bỗng ngày nay bị phạm lây một sự xấu xa, thành thử danh giá
làng thua kém các làng bên, vậy tội của bố con chị không phải là không to,
nhưng làng thương tình mà phạt từng này thôi: sáu đồng bạc, hai trăm cau tươi
và tám chai rượu.
Không thấy nói đến nửa lợn, nhất là con lợn
này đã đẫy niên, em Phó hội đương nhằm mua rẻ để thịt bán, Phó hội hậm hực mãi
mới thôi. Phải! Mấy khi được món “bở” như thế để các ông chia tay nhau nhắm
nháp cho sướng miệng, còn sống chết mặc ai. Giấy tờ đóng sẵn dấu lý trưởng và
có cả chữ ký cả hội đồng kỳ mục kia chỉ dùng để dọa nạt sự ngu đần khiếp nhược
của bố con chị Minh, và cả mấy trăm dân làng dốt nát.
Xong cái cảnh ê chề ấy, sáng hôm sau Bính lại
được xem một cảnh buồn cười và thê thảm hơn.
Không biết ai xúi bẩy bác Nhiêu để tỏ rằng
nhà bác không nuông con đâu, mà bác nỡ nhẫn tâm cạo trọc đầu chị Minh, bôi vôi
trắng hếu, úp rế lên rồi rong chị đi khắp làng.
Mấy ông già bà lão đã nhảy lên mà khen bác
và có một bà cụ già nói rằng:
- Hình phạt đó chưa lấy gì làm đáng tội lắm,
chưa đúng y như lề lối xưa: cứ theo tục lệ trước kia của các cụ thì chị Minh
còn phải lột trần truồng, đeo mo cau vào mặt.
Luôn hai ngày bị hành hạ, chị Minh đã có lần
định thắt cổ chết, nhưng nhờ mấy chị em bạn nghèo hàng xóm giằng giữ lại và
khuyên giải nên chị lại cắn răng chịu đựng. Người chị võ hẳn đi, đứa con cũng
đen rạc vì bêu nắng với mẹ. Như mọi khi, hễ nhắc tới cảnh “gọt gáy bôi vôi”
trên kia, Bính không sao không ngạc nhiên và nhịn được cười, và muốn tấn tuồng
lạ lùng đại loại kiểu ấy diễn lại luôn luôn. Nhưng nay... Bính gai hết cả da thịt
và tâm trí. Bính đau đớn cho Minh và e ngại cho mình không biết có đủ sức chịu
đựng những nỗi bêu riếu nhục nhã như kia không. Chẳng cần suy nghĩ, Bính dằn giọng
nhủ thầm: Nếu lâm phải bước này Bính đành bỏ cha và mẹ, bỏ hai em, bế con đi
tha hương cầu thực cho xong.
Cái ý định liều lĩnh đó vụt sáng lên với một
tia hy vọng. Bính sẽ gặp Chung, bố đứa trẻ. Chung sẽ nghĩ lại tìm cách nuôi nấng
mẹ con Bính, rồi vợ chồng con cái về ăn ở với nhau.
Thốt nhiên ở gian ngoài đèn vặn to lên.
Cánh cửa liếp xịch mở. Bính vội nhỏm người nhìn qua kẽ vách. Phó lý Thưởng và vợ
y bước vào.
Bính cuồng lên muốn chạy trốn. Cảnh ngả vạ
đã đến. Song chạy lối nào? Thông từ buồng Bính ra gian nhà ngoài kia chỉ có mỗi
một lối đi thì vợ chồng phó lý và bố mẹ Bính đã ngồi ngay đấy, một Bính còn chả
ra lọt huống hồ lại đèo thêm con. Bính cố dằn lòng, áp mặt vào bức vách nghe
ngóng.
- Này nhà ông lái, bà lái! Tôi thu xếp xong
rồi đấy nhà ông bà có ưng như thế không? - Vợ phó lý nói.
Bố Bính yên lặng một lát, đoạn gãi tai trả
lời:
- Bẩm ông bà nghĩ như thế thì vợ chồng con
được đội ơn vô cùng.
Phó lý liền dõng dạc nói một thôi dài:
- Nhà ông bà phải biết, tại vợ chồng tôi
thương nhà ông bà hiền lành, ngoan đạo, lại sắp được Cha xứ cắt lên làm trưởng
giáo để trông coi dạy bảo phần hồn cho trẻ mỏ trong họ. Vậy mà chẳng may nhà
ông bà phải đứa con gái bỗng đâm ra hư đốn như thế nên tôi gỡ giúp tai tiếng
cho, chứ tôi hòng gì mà nhờ đứa bé ấy.
Vợ phó lý ngắt nhời:
- Ối giời, nòi nào giống nấy, nó lại bắt
chước bố nó chứ gì? Ông ạ, tôi không nuôi đâu, ông có muốn nuôi thì mướn vú về
mà nuôi.
Phó lý bèn đưa mắt cho vợ bảo im. Không phải
là y rộng lòng nhân đạo chẳng tưởng đến sự bội bạc sau này của đứa bé đâu.
Không! Y làm việc này là vì có một người em giai buôn bán giàu có lắm ở trên Hà
Nội cũng hiếm hoi như y. Người nọ thường nhắn phó lý xem ở quê có nhà nào túng
đói thì mua cho y một đứa con giai, càng trứng nước càng hay. Mấy hôm nay, chợp
được cơ hội Bính đã đẻ và đẻ con giai và nhà đương lo lắng khốn đốn không biết
thu xếp ra sao, phó lý đã lên tỉnh lấy thêm của em năm chục đồng bạc nữa bảo phải
mua ngay đứa bé không Bính cho bà xơ mất.
Thấy phó lý cũng là người làng và họ hàng
giàu có, lại không phải là người đi đạo nên bố mẹ Bính càng yên tâm.
Muốn lấy lòng bà phó, bố Bính ngọt ngào
thưa một câu bâng quơ:
- Thưa vâng, ông bà ăn ở phúc đức thương
người như thế con chắc ông bà còn là giàu sang vinh hiển.
Phó lý mỉm cười vuốt râu, hất hàm hỏi bố
Bính:
- Vậy tôi giúp ông bà mười đồng ông bà bằng
lòng chứ?
Mẹ Bính vội nhăn mặt:
- Thằng bé kháu khỉnh lắm, mặt mày sáng sủa,
chân tay bụ bẫm xin trả cho hai mươi đồng để nhà cháu lo lót với mấy cụ trong
làng.
Bố Bính gãi tai tiếp lời:
- Thật vợ chồng cháu cảm cái ơn ông bà ông
phó lắm chứ không nài xin hơn thiệt gì đâu.
Phó lý cười không đáp, nhìn hỏi ý kiến vợ.
Vợ phó lý ngẩng trông xà nhà, vuốt dài hai ngón tay quệt quýt trầu rồi lúng
búng nói:
- Thôi tôi giúp thêm nhà ông bà ba đồng nữa
là mười ba đồng có thuận thì tối mai bế thằng bé sang nhà tôi mà nhận tiền.
Bính càng nín thở lắng tai nghe. Bính như đứt
từng khúc ruột. Giời! Cái ác tâm của bố mẹ Bính.
Luôn mười hôm ròng gìn giữ giam cầm Bính
trong gian buồng này không cho Bính bế con ra khỏi nửa bước, bố mẹ Bính trước hết
sợ hàng xóm thóc mách, sau sợ Bính bế con đi. Nhưng thôi, từ ngày mai trở đi,
sau khi dứt đi khỏi đứa bé và được hàng chục bạc, bố mẹ Bính sẽ vừa hết cả lo sợ
ngã vạ vừa được món tiền mừng chân Trưởng giáo và ăn tiêu, sự tính toán ấy thật
khôn khéo quá chừng!
Bính lại ôm chặt lấy con, thương xót cho
thân phận nó bị dằn hắt và kèo nhèo mặc cả như một con trâu con lợn. Bính ghê sợ
cho bố mẹ Bính và vợ chồng nhà phó lý kia đang tay cắt đứt tình yêu thương của
mẹ con Bính như một khúc dồi, một miếng phèo vậy. Dù sao Bính cũng không thể cưỡng
lại được. Bính đến phải nuốt nước mắt trao con cho bố mẹ bán đi thì mới tránh
thoát những hình phạt quái ác không biết của ai, từ đời nào đã đặt ra để trừng
trị những đàn bà đẻ hoang, và Bính mới mong được yên thân với cha mẹ.
Bính mím môi lại, cúi gầm mặt nức nở, kéo
dài thêm những ý nghĩ: “Phải! Bính phải cắn răng mà cho con đi khỏi lúc khốn
khó này. Rồi chờ năm ba bữa nửa tháng, Bính thừa cơ trốn đi hoặc Hải Phòng hoặc
Nam Định, chịu khó làm ăn buôn bán, dành dụm một món tiền. Ba bốn năm qua...
chuyện cũ nhạt dấu vết, Bính sẽ trở về làng chuộc con, rồi có thể thì nói với
cha mẹ và hai em lên tỉnh làm ăn, bỏ hẳn cái nơi quê hương ác nghiệt kia bao đời
nay làm ăn đầu tắt mặt tối mà không cất mặt mở mày lên được.
Bính tê mê nâng đứa con lên tận mặt, rít miệng
vào má nó, vào trán nó, rồi Bính nhìn ngước lên như để phân trần với bóng tối nỗi
đau đớn trong lòng. Sau đó Bính đăm đắm trông con thiêm thiếp ngủ. Dưới ánh đèn
lù mù ở bên ngoài qua kẽ liếp lọt vào, da dẻ nó hồng hào biến thành xanh trong
xanh bóng; mớ tóc đen láy, lơ phơ trở nên hung hung mốc mác khô cứng. Vệt chàm
dài hơi giống hình con thạch sùng bò từ một bên trán đến mang tai xám ngắt hẳn
đi như một vệt máu. Và cái vết lẹm trên mí mắt cũng ở bên phải thấy thương như
một lốt dao chém vậy.
Hai hàng nước mắt Bính đã lại ròng ròng
trên má lã chã đầm đìa xuống cả mặt đứa bé.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét