Giấc Mơ Bị Đánh Cắp
Tác giả: Alexandra Marinina
Người dịch: Nguyễn Văn Thảo
Nhà Xuất Bản Công An Nhân Dân - 09/2004
Chương 15
- Ngồi yên, Sezar! - Larsev nghe thấy phía sau cửa một giọng
hách dịch. Nghe thấy tiếng bước chân, cửa mở ra. Chính người đàn bà ấy đứng ở cửa.
- Chào chị, chị nhận ra tôi không? Chúng ta vẫn gặp nhau ở
các buổi họp phụ huynh của trường số 64. Chị nhớ chứ? Tôi là bố của Nadia.
Người đàn bà kêu ối lên và tựa vào cửa.
- Anh muốn nói là bố dượng? - bà ta hỏi cho rõ hơn.
- Ồ không, đúng là bố. Mà tại sao lại phải là bố dượng chứ?
- Nhưng sao lại thế được... - bà ta máy mắt bối rối. - Tôi
nghĩ, bố của Nadia...
- Chị nghĩ gì? - Larsev hỏi gắt khi đi vào phòng và đóng cửa
lại.
Người đàn bà bật khóc.
- Xin lỗi, vì Chúa, tha lỗi cho tôi, tôi đã biết rằng điều
này sẽ kết thúc chẳng tốt đẹp gì, tôi đã cảm thấy... những số tiền như thế...
tôi đã cảm thấy.
Sự lắp bắp của bà ta luôn luôn bị cắt ngang bởi những tiếng
sụt sịt, sau đó bà ta lục tìm thuốc valocordin, run rẩy uống nước, nhưng cuối
cùng Larsev cũng sắp xếp lại từ những lời tản mạn được gần như một câu chuyện.
Năm ngoái có một người nhờ bà ta đi họp phụ huynh ở trường
64, trong lớp có Nadia học. Ông ta là bố của Nadia, nhưng đã chia tay với vợ do
một vụ tai tiếng nặng nề, cô vợ không muốn nghe gì về ông ấy và không muốn cho
ông ấy đến gần con gái. Mà ông ấy lại rất muốn được biết dù chỉ là gì đó về cô
bé, về việc học của nó, nó xử sự thế nào ở trường, nó có những vấn đề gì, có ốm
hay không. Ông ấy có vẻ là một ông bố chân thật, đau khổ và yêu con đến mức
không thể từ chối nổi ông ấy. Hơn nữa, ông ấy còn đưa ra số tiền thưởng khá lớn
vì sự giúp đỡ không vất vả là bao.
- Ông ta là ai? - Larsev hỏi.
- Tôi không biết, - Dakhno lại khóc.
- Ông ta tìm chị bằng cách nào?
- Chúng tôi cùng xếp hàng trong cửa hàng. Hàng dài, chúng
tôi đã nói chuyện, ông ấy than vãn về vấn đề gia đình... Chỉ có thế. Và tôi
không gặp lại ông ta thêm nữa. Ông ta tự gọi điện thoại cho tôi.
- Thế chị nhận tiền của ông ta bằng cách nào?
- Ông ấy bỏ chúng trong phong bì và cho vào thùng thư của
tôi, sau mỗi buổi họp, ngày hôm sau. Buổi tối sau cuộc họp ông ấy gọi cho tôi,
tôi kể hết với ông ấy, còn ngày hôm sau - phong bì trong thùng thư. Anh nên hiểu
cho tôi, - Dakhno sụt sịt, - tôi là thợ săn, mà điều đó đòi hỏi một số tiền khổng
lồ. Cần xe để chở trang bị, cần vũ khí, đạn, giấy phép... Còn tôi không thể
không đi săn, tôi sẽ chết nếu thiếu nó. Tôi sinh ra ở Xibir, ở khu bảo tồn, bố
tôi là thợ săn chuyên nghiệp, đã dạy tôi quen với nghề săn từ bé. Tước nó đi,
tôi sẽ chết khô trong thành phố.
Dakhno biện bạch, thỉnh thoảng tay ôm lấy ngực, uống thuốc
trợ tim, sụt sùi và hỉ mũi. Họ ngồi trong căn phòng rộng nhưng không ấm cúng, với
đồ gỗ nhiều kích cỡ khác nhau, rõ ràng được mua tình cờ vào những thời gian
khác nhau, thiếu phong cách và ý nghĩa thống nhất. Tất cả các bức tường căn hộ
ba phòng rộng được treo những chiến tích thợ săn và vũ khí. Con chó doberman thuần
chủng to lớn có tên Sezar nằm trịnh trọng trên ngưỡng cửa dẫn ra phòng ngoài.
- Gắng bình tĩnh lại, chị Dakhno, - Larsev nói nhẹ nhàng. -
Chúng ta thử phục hồi lại tất cả ngay từ đầu những gì chị nhớ về người này. Đừng
vội, hãy suy nghĩ.
- Anh cần gì người ấy? - Dakhno bỗng hỏi với vẻ ngờ vực.
- Chị thấy đấy, con gái tôi bị bắt cóc, và chính hắn đã tổ
chức vụ bắt cóc này.
- Sao?! - Dakhno lại ôm lấy tim. - Trời ơi, khủng khiếp làm
sao, khủng khiếp làm sao! - Bà ta rên rẩm, ôm lấy đầu và lắc lư trên ghế. - Lỗi
tại tôi, con đần cả tin, đã chạy theo tiền, đã tin đồ đểu giả...
Và tất cả lại bắt đầu: nức nở, thuốc trợ tim, nước, những lời
ăn năn, đấm ngực. Larsev trở nên thương cảm tuyệt vọng người đàn bà không còn
trẻ này, người đầu tiên, như con thiêu thân, bị cuốn hút bởi ánh sáng thành phố,
sau đó đã bị bỏng. Cô bé từ khu bảo tồn vùng Xibia bắt đầu nghẹt thở trong
thành phố lớn bằng đá đầy bụi bặm, đặc khói và sự xả hơi duy nhất của cô ta
trong tất cả những năm ấy là đi săn, như ngụm khí lành và sự trong sạch của tự
nhiên.
* * *
Từ bến “University” Larsev đến nhà Dakhno bằng metro, nhưng
khi chuyển sang tuyến vòng tròn thì những người theo dõi đã để sổng mất anh. Giờ
cao điểm, mọi người kẹt vào nhau, thúc đẩy, cản đường, quành qua vô số quầy và
sạp sách báo xuất hiện khắp các đường ngầm và lối qua lại.
- Ta quay lại ngay Hội thợ săn và câu cá Moskva, - người thấp
và lớn tuổi hơn ra lệnh. Cặp đôi với ông ta là một chàng trai trẻ tóc sẫm dễ mến,
khéo léo ngoằn ngoèo thoát ra khỏi đám đông và hoà vào dòng người ngược chiều,
lấy mình tạo đường cho người lớn tuổi hơn.
Ngày làm việc đã hết và cô nhân viên của Hội thợ săn và câu
cá Moskva từng nói chuyện với Larsev, đã đi khỏi đấy. Lấy địa chỉ của cô chỗ
người trực, những người theo dõi báo cáo về Petrovca cho Jerekhov, và phóng đi
Kungevo. Khó lắm mới thuyết phục được người phụ nữ lên xe và quay lại chỗ làm
việc. Không giấu vẻ bực tức, cô mở két và vứt ra bàn các sổ thống kê.
Cô có những kế hoạch khá xác định cho tối ấy, và những người
công an kì quặc chạy theo nhau chẳng gây cho cô gì hơn ngoài sự bực tức.
- Anh ta quan tâm đến ai đó phải không? - Chàng trai cao hỏi
nhã nhặn khi lật các phiếu với ảnh các nữ thợ săn.
- Không biết. Anh ta không ghi chép gì cả. Chỉ nhìn qua
thôi.
- Xin chị nhớ lại cho, có thể anh ta ngó sổ nào đó lâu hơn,
hỏi chị gì đó? Chúng tôi cần bất cứ chi tiết nào.
- Chẳng có gì như thế cả. Đơn thuần nhìn qua một cách chăm
chú tất cả các sổ, cảm ơn và đi khỏi.
- Vậy có thể là anh ta không tìm được điều cần tìm? Chỉ cảm
thấy thế nào?
- Tôi hỏi anh ta, anh ta đáp là đã tìm được. Các anh còn giữ
tôi lâu không đây?
- Bây giờ chúng tôi sẽ đi, chỉ viết lại các địa chỉ nữa
thôi. Này, - người trẻ chợt nói với người già hơn, - phần lớn những người phụ nữ
này làm việc ngay tại đây, ở Hội. Nếu Larsev không ở lại đây và không làm rõ điều
gì, nghĩa là anh ta quan tâm đến một người không phải trong số họ. Những phụ nữ
làm việc ở nơi khác không nhiều.
- Đã nhẹ hơn - người lớn tuổi mừng rỡ. - Cậu khá lắm. Chúng
ta ghi nhanh các địa chỉ, vạch kế hoạch đi một vòng và xin Jerekhov cho thêm
người giúp.
Địa chỉ đầu tiên trong kế hoạch là ở phố Domodedovo, thứ hai
là nhà trên phố Liublin để làm xong phần phía Nam Moskva và đi tiếp qua trung
tâm, đầu tiên về phía đồng, sau đó về phía bắc. Địa chỉ Dakhno ở đầu đại lộ
Lenin là thứ ba trong kế hoạch. Đã tám giờ kém hai mươi tối.
* * *
Đến bảy giờ tối Gradov cuối cùng đã hiểu rằng sự việc của y
là hoàn toàn tồi tệ. Vào khoảng hai giờ rưỡi khi y chia tay với Arxen và khi ngồi
trong quán bar, cố lập lại trật tự tương đối của các ý nghĩ, y bỗng chợt lóe hiểu
ra. Đã xảy ra sự hiểu nhầm nào đó! Arxen nhắc đến Nikiforov, và Gradov đã sợ đến
nỗi hoàn toàn mất khả năng suy nghĩ chứ chưa nói gì đến chống lại sự tấn công của
Arxen. Giờ đây, khi nhớ lại các chi tiết cuộc nói chuyện, y nhớ lại rằng Arxen
trách y tự ý hành động. Lão có ý gì? Y, Gradov, không hề cho phép bản thân tự ý
làm gì cả. Đó là sai lầm, sai lầm đáng bực cần làm rõ, và Arxen sẽ quay lại với
giao kèo và tiến hành công việc đến cùng. Cần phải gấp rút liên lạc với lão.
Gradov vội vã ra khỏi bar, ngồi lên xe và đi về nhà. Y gọi mấy
lần từ điện thoại gia đình theo số quy ước và bắt đầu chờ tín hiệu trả lời để
thoả thuận về địa điểm và thời gian gặp gỡ. Nhưng không có chuông đáp trả. Y lặp
lại, nhưng vẫn không kết quả. Gradov bắt đầu bị kích động và liên lạc với người
quen của mình ở Bộ Nội vụ với đề nghị kiểm tra xem số điện thoại mà y quan tâm
được mắc ở đâu và cho ai. Lời đáp đến nhanh và y thất vọng: cái điện thoại như
thế không đăng kí tên ai và trong suốt 1 năm trước đây vẫn tự do.
Vẫn còn một cách, mà nhờ nó lần đầu tiên y đến gặp Arxen.
Gradov gọi điện thoại cho người đã cho y cách tiếp cận lần đầu
với văn phòng.
- Chào anh Piotr, tôi là Gradov đây, - y nói hấp tấp. - Xin
mách giùm, làm sao để tôi liên hệ gấp được với người quen của anh?
- Gradov ư? - một giọng trầm kêu to vẻ ngạc nhiên. - Tôi
không nhớ. Ai giới thiệu ông?
- Sao lại thế được, anh Piotr, hai tháng trước tôi đã gọi
cho anh và anh từng cho tôi số điện thoại để liên hệ với người có thể giúp
trong một chuyện tế nhị. Tôi cần gấp người này.
- Tôi không hiểu ông nói cái gì. Có thể ông lẫn số điện thoại
chăng?
Gradov cũng hoàn toàn không nghi ngờ rằng Arxen thận trọng
và nhìn xa, ngay sau cuộc nói chuyện với y đã gọi cho Piotr và nói:
- Nếu anh bạn cậu dám đi tìm kiếm tôi, hãy giải thích với hắn
là hắn không đúng.
Gradov hoảng sợ nghĩ rằng mọi sự đã hỏng. Y không tìm nổi
Arxen. Không bao giờ. Chỉ còn lại một hi vọng cuối cùng. Hi vọng cuối cùng đó
là Fictin.
Gradov lớn lên là một đứa trẻ được âu yếm nuông chiều. Hắn
thật tình đau khổ vì tất cả bạn bè của hắn đều có người bố bên cạnh, còn bố hắn
chỉ thỉnh thoảng mới qua lại, cũng không ít khi ông bố tới thì mẹ đã đuổi hắn
ra sân chơi. Bố luôn luôn đến với quà tặng, đồ chơi, mẹ yêu ông ta điên cuồng
và luôn mồm nói: Bố của chúng ta là tốt nhất, đơn giản bố có vợ khác với hai đứa
con mà ông là người trung thực nên không thể bỏ họ. Về phần bố thì ông đoan chắc
với hắn: con trai ạ, nếu có chuyện gì - bao giờ bố cũng sẽ giúp, bố không bỏ
con trong hoạn nạn, con có thể dựa vào bố, con và mẹ là những người yêu thương
nhất của bố. Nhiều lần Gradov gây ra những trò ngu ngốc kiểu trẻ con thông thường,
nhưng chưa bao giờ bị trừng phạt vì chúng, ngược lại, bố và mẹ, cảm thấy có lỗi
trước đứa trẻ vì thiếu đi một gia đình toàn vẹn, đã tự dàn xếp tình hình và
không mắng con, thậm chí còn có vẻ như thương xót.
Cùng với năm tháng, ở Gradov đã phát triển sự thiếu kĩ năng
và không mong muốn tuyệt đối nghĩ về các hậu quả của những hành động của bản
thân, dù là nhìn xa trước chỉ một bước. Hắn làm tất cả những gì hắn cho là cần,
dành cho bố mẹ cái vinh dự sửa chữa những bước thiếu suy nghĩ và đôi khi nguy hại
của hắn. Kết quả chính là điều mà các nhà tâm lí học gọi là sự rối loạn kích động
của tư duy. Trong tình huống stress, đầu óc Gradov mụ mị, hắn lĩnh hội tồi, bắt
đầu nói và làm những điều phi lí. Mà bất cứ sự thay đổi hoàn cảnh nào đòi hỏi sự
chú ý, suy ngẫm, phản ứng, tiếp nhận quyết định cũng trở thành stress đối với hắn.
Một sự căng thẳng tâm lí nhỏ nhất y cũng không thể chịu đựng nổi.
Sau quân ngũ, ông bố đã sắp xếp cho Gradov vào trường Đại học
Quan hệ quốc tế. Học ở MGIMO nơi đa số là con cái của những phụ huynh quyền cao
chức trọng mà nhiều người đủ các mối quan hệ để “dự thi” cho quý tử của mình
ngay sau tốt nghiệp phổ thông, vì thế có không nhiều sinh viên đã qua quân đội.
Họ thu hút bởi sự trưởng thành, tri thức, lối sinh hoạt quân đội, những chuyện
tiếu lâm thô tục, những câu chuyện về đàn bà và gái say rượu, những người bẩn
thỉu rất giống lũ trẻ mồ côi. Người ta tìm kiếm sự chú ý của họ, kính trọng họ,
nghe theo lời họ.
Từ nhóm của mình, Gradov đặc biệt tách riêng Nikiforov, kẻ
hoàn toàn khác bản thân hắn. Nikiforov lớn lên ở nước ngoài trong gia đình một
nhà ngoại giao, thời trẻ sống với sách vở, piano và học ngoại ngữ, tiếp xúc chủ
yếu với mẹ, được nuôi dưỡng giữa một nhóm người Xô viết ít ỏi. Học xong lớp mười
ở Moskva và lập tức thi vào đại học. Thoát khỏi gia đình, Nikiforov rơi trọn vẹn
vào ảnh hưởng của Gradov, dường như dứt ra khỏi xiềng xích. Cha mẹ cậu ta lại
đi công tác dài hạn ở nước ngoài, để lại cho con trai căn hộ, cấp tiền và quần
áo mốt một cách đều đặn.
Sau chuyện xảy ra trong rừng, Gradov và Nikiforov dễ dàng giải
quyết vấn đề trả tiền cho chồng của nạn nhân, lần lượt bán cái này cái nọ từ những
thứ đồ bố mẹ của Nikiforov gửi về. Nhưng Gradov, không có khả năng lấy tiền của
mẹ, không muốn vĩnh viễn mắc nợ gã công tử no đủ.
Ý đồ thoát khỏi kẻ tống tiền dai dẳng là của hắn. Eremina là
người quen của hắn, và hắn không khó gì thuyết phục Lusnicov sau lần chuyển tiền
thường lệ, cả ba cùng đi uống, ngồi một lát ở chỗ “một cô ả ngọt ngào”. Eremina
bị chuốc say nhanh đến trạng thái không chịu trách nhiệm một cách trọn vẹn về
hành động và được đặt nằm ngủ; với Lusnicov phải vất vả hơn nhưng cuối cùng cả
anh ta cũng được đưa đến giường của Eremina. Chúng chém bằng dao làm bếp theo
thứ tự. Sau đó ngồi ngoài bếp và chờ khi Eremina tỉnh lại. Nikiforov nhấp nhổm
như ngồi trên đống lửa và muốn bỏ đi sao cho nhanh hơn, nhưng Gradov giải thích
một cách đầy uy tín rằng nhất thiết phải đợi cho tới khi Eremina phát hiện ra tử
thi, và đóng một màn kịch trước cô ta nhằm thuyết phục cô ta rằng, chính
Eremina, uống say đến mất trí, đã giết chết chàng trai. Nếu khác, thì chưa rõ sự
thể sẽ quay trở thế nào.
- Không được bỏ tình huống ngoài tầm kiểm soát, - Gradov
tuyên bố với vẻ quan trọng khi lấy thêm khoai tây và bánh mì. Vụ giết người vừa
gây ra không đánh mất sự ngon miệng của hắn. Hắn thậm chí không để ý đến đứa
con gái Victoria ba tuổi của Eremina đang lặng lẽ loay hoay dưới gầm bàn và thở
phì phò với những vấn đề trẻ em của mình.
Chúng chờ lâu. Cuối cùng từ phòng vọng đến những tiếng động,
thoạt đầu khó hiểu, nhưng rất chóng chuyển thành tiếng hét man dại. Trên ngưỡng
cửa xuất hiện Eremina xanh xám vì kinh hãi với hai tay đầy máu. Máu nhỏ giọt từ
các ngón tay, và cô ta nhìn tay mình vẻ ngơ ngác, như người bị mất trí, chùi
tay lên bức tường quét vôi. Cảnh tượng khủng khiếp đến nỗi Nikiforov khó lắm mới
kìm được nôn mửa. Hắn rất không muốn mất mặt trước người bạn tốt nhất, và để
phô trương sự tự chủ, hắn vớ lấy cục phấn thợ may màu xanh lơ từ cái hộp và vẽ
cái cần đàn violon ngang qua các vạch máu để lại trên tường. Vào thời điểm ấy hắn
cho hành động của mình là độc đáo và bất tuân nguyên tắc và đã cười to vẻ thỏa
mãn. Hắn có thể tự hào về bản thân. Tiếp theo mọi sự diễn ra như Gradov đã
nghĩ. Với tiếng la: “Đ. mẹ, cô đã làm gì cơ chứ, cô đã chém anh ta!” - chúng
lao ra cầu thang, kéo sự chú ý của các hàng xóm và tạo nên, như Gradov diễn đạt,
dư luận quần chúng. Công an đến, những gã trai trẻ cho lời khai, và ngay đó
Nikiforov chợt tỉnh ngộ:
- Họ ghi địa chỉ và nơi học của chúng ta. Thế nhỡ ra họ gửi
điện báo về trường, rằng chúng ta chơi cùng con say giết người? Chỉ sau ba giây
người ta sẽ tống cổ chúng ta ra khỏi trường.
Gradov không lường trước chuyện đó. Nhưng vẫn không sợ hãi lắm.
Có bố, rốt cuộc thì bao giờ ông cũng giúp.
Gradov bèn trình bày với bố cái giả thuyết mà hắn đã nói với
các nhân viên công an. Nhưng Popov quá biết rõ con trai nên đâu nuốt nổi sự lừa
dối như thế.
- Đó là chúng mày làm hả? - ông hỏi không úp mở.
- Vâng ạ, nhưng sao bố đoán được? - Gradov nhìn thẳng vào mắt
bố với vẻ thách thức. Hắn đã trở nên vô lương tâm tuyệt đối, và sự thiếu trừng
phạt thường xuyên đã làm mất đi những dấu vết cuối cùng của nỗi sợ trước cơn thịnh
nộ của cha mẹ.
Ông bố giảng giải cho con trai trong những diễn đạt cô đọng,
ngắn gọn, hình tượng nhưng khá cụ thể, rằng hắn đã gây ra một hành động khá xấu
xa. Nhưng dẫu sao vẫn hứa giúp. Và đã giúp.
Sau khi tốt nghiệp đại học, đường đi của Gradov và Nikiforov
đã tách ra. Popov tiến nhanh trên bậc thang Đảng, đã sắp xếp cho con trai vào
thành ủy Moskva. Với những chuyến xuất ngoại thì không xong vì Gradov lười học
ngoại ngữ, học các thứ tiếng chẳng đâu vào đâu nên khó hi vọng. Gradov tự thỏa
mãn với sự phân công, không vội vàng xây dựng con đường công danh. Đến khởi đầu
của cải tổ, hắn đã mở rộng vô số mối quan hệ và nghĩ một phương cách kiếm ngoại
tệ dễ đàng, khi đã tổ chức tại Paris một đống văn sĩ và dịch giả trẻ đói nghèo
trong giới di tản và cấp cho họ vật liệu để nhào nặn văn chương và viết những
truyện trinh thám buốt xé lòng người.
Sau vụ bạo động năm 1991, khi một đảng đã chết trọn vẹn và
thay vào chỗ của nó, như đám nấm, xuất hiện vô số các đảng và phái mới, Gradov
với sự phấn khích được củng cố bởi nền tảng vật chất ngoại tệ, đã bắt đầu xây đắp
một trang mới trong cuộc đời mình. Và ở đây, trên đường đi của hắn sau nhiều
năm tách biệt bỗng lại xuất hiện Nikiforov.
Nikiforov đã sống hoàn toàn khác qua 18 năm sau sự phân
công, ở năm cuối đại học gã cưới một nữ sinh cũng của trường này, một cô gái gầy,
không cao với cặp vú nhỏ gợi cảm và những kì vọng lớn, từ một gia đình rất tốt
và với một tính cách rất tồi. Sau câu chuyện xảy ra trong rừng, theo bản năng,
gã tránh né những người đàn bà kiểu Nga điển hình, to con, tóc sáng, mắt xám và
mặt tròn, đơn giản là gã không thể tưởng tượng nổi, làm cách nào đụng đến họ,
chứ chưa nói chuyện ngủ cùng. Tự gã - thanh nhã, dáng cao, với khuôn mặt đẹp dịu
dàng, cuốn hút các cô gái, nhưng trong tất cả các ứng cử viên gã đã lựa chọn
Lena - người ít giống nhất với những mĩ nhân Nga. Nikiforov, từ nhỏ đã thông thạo
nhiều ngoại ngữ, với sự thích thú nghiên cứu tiếng Hà Lan trong trường đại học,
điều đã giúp gã thông qua bạn gái Hà Lan nhận được đề cử sang Hà Lan với tư
cách đại diện của một trong những Công ty Ngoại thương. Cô vợ hết sức hân hoan.
Mọi thứ diễn ra như cô ta tưởng tượng khi lấy Nikiforov. Họ sinh được một bé
gái.
Nhưng đường công danh vừa bắt đầu sáng chói bỗng mắc nghẽn.
Nikiforov đều đặn uống rượu và rơi vào sầu não, nghe nhạc buồn và lí giải về ý
nghĩa cuộc sống, tội lỗi và sự vớ vẩn khác. Cô vợ bắt đầu bị kích động, cô lấy
chiếc cặp ngoại giao của gã và cho rằng gã phải làm việc, lấy lòng những người
cần thiết, đi đến các cuộc tiếp kiến, nhưng thay vào đó gã cứ giả vờ như một thằng
ngốc. Còn sau đó, tại một cuộc tiếp kiến vô cùng quan trọng, Nikiforov say mềm,
mất mặt, nói những điều ngu xuẩn - tóm lại, đã xử sự không đúng. Đề tài chủ yếu
của những phát biểu nảy lửa lúc say của gã là gã cần làm việc, ý rằng tất cả
chúng ta ở đây là những kẻ no nê và thành đạt và chúng ta làm ra vẻ là mọi thứ
đều ổn thỏa, nhưng thực sự mỗi người chúng ta đi đến đây qua những xác chết và
trên mỗi xác đó để lại tội lỗi. Trong vòng một ngày gã bị gọi về Moskva. Gã bị
cấm xuất ngoại, không còn những chuyến đi nước ngoài, vì thế vợ gã, không nghĩ
ngợi lâu, đã ôm con gái và những gì kiếm được qua thời chung sống và rời bỏ chiếc
giường vợ chồng không một chút thương tiếc. Đó là năm 1977. Đến năm 1980
Nikiforov uống rượu đủ để bị đuổi khỏi ngành Ngoại thương và từ đấy sống trong
nhà xuất bản “Tiến bộ” như một dịch giả. Năm 1981 khi bố mẹ từ nước ngoài đã về
hẳn, cuộc sống của gã trở nên hoàn toàn không thể chịu đựng nổi. Gã không thể
kiếm đủ tiền mua căn hộ riêng, vì thế hàng ngày phải nghe những lời rền rỉ và
trách móc của bố mẹ. Gã chịu đựng hết mức có thể, sau đó cưới một cô hầu bàn và
đến sống với cô ta. Suốt những năm ấy gã chỉ gặp anh bạn tâm tình Gradov có một
lần, vào năm 1983, tại cuộc gặp gỡ sinh viên tốt nghiệp khóa 1973, nói qua một
đôi lời, trao đổi số điện thoại, gã cảm thấy bấn loạn và rời ngay hội. Gã chẳng
có gì để huênh hoang.
Những hoạt động liên doanh càng xuất hiện, công việc của
Nikiforov càng tiến triển tốt hơn, gã được mời dịch trực tiếp tại những cuộc
thương thuyết nghiêm túc và không nghiêm túc.
Năm 1991, gã được mời đi dịch tại các cuộc thương thuyết với
một doanh nhân Hà Lan nào đó. Ông Hà Lan ngay lập tức đã để mắt tới cô thư kí
Victoria xinh đẹp, người bê cà phê và đồ uống, và sau kết thúc phần trọng thể
đã mời cô ta đi hiệu ăn. Nhân thể cũng gọi cả Nikiforov, bởi vì không thể trò
chuyện với cô mà thiếu sự giúp đỡ của Nikiforov. Trong nhà hàng, mọi người uống
đủ, và nhà doanh nghiệp chở họ về chỗ mình ở khách sạn, vào căn hộ sang trọng
hai phòng. Trong khi ông ta giải trí với Victoria, Nikiforov kịp ngủ trên
đivăng ở phòng bên. Ông Hà Lan ra khỏi phòng ngủ với nụ cười mệt mỏi và mời
Nikiforov món ăn thừa từ bàn ăn lãnh chúa. Cô gái đẹp khác thường, và Nikforov
nguyền rủa trong bụng vì sự yếu đuối và vượt qua sự tởm lợm của chính mình, đã
tiếp nhận. Victoria gợi gã mơ hồ nhớ tới một ai đó, và gã hỏi họ tên cô, hi vọng
đã gặp cô ở đâu đó. Nghe thấy cái tên Eremina, gã rùng mình và chết lặng, nhưng
lập tức tự trấn an rằng cái họ này phổ biến và đây hẳn chỉ là một sự trùng lặp
mà thôi.
Nhưng hóa ra không đơn giản thoát khỏi sự quan tâm bệnh hoạn
tới Victoria, vì thế Nikiforov tự xin đưa cô từ khách sạn về nhà, ghé vào chỗ
cô và ở lại đến sáng. Ngay giữa đêm cô tỉnh dậy với tiếng kêu thét, cả người đẫm
mồ hôi nước mắt, nhổm lên khỏi giường, rót vodca ra cốc uống một hơi và kể với
Nikiforov về giấc mơ vẫn luôn làm cô sợ. Sau đó cô nức nở, đấm ngực như bị thần
kinh, cô nôn mửa, Nikiforov lau nước mắt cho cô và với nỗi kinh hoàng nghĩ rằng,
chính là gã với Gradov có lỗi trong cuộc đời bị bật gốc và tâm lí bị bẻ gãy của
cô gái. Gã thương Victoria đến đau đớn dày vò và cũng dằn vặt dày vò như thế.
Sau hai chục năm, những ăn năn về điều đó đã là giọt cuối làm tràn miệng chén.
Đến sáng gã gọi cho Gradov và nói những lời quanh co, ý là
chúng phải giúp Victoria, chúng có lỗi trong chuyên cuộc đời cô bị bẻ gảy, tội
ác đè nặng lên chúng. Một thời gian sau đó Gradov đã trấn an được anh bạn cũ.
- Cậu bây giờ là một trợ thủ thế nào cơ chứ? - Gradov ngọt
ngào thuyết phục, - ngay cậu không sống nổi một ngày thiếu rượu. Đầu tiên chúng
ta giúp cậu ổn định đã, sau đó ta sẽ nghĩ cách giúp cô bé. Tớ sẽ đưa cậu đến chỗ
bác sĩ của mình, ông ấy sẽ chạy chữa cho cậu, rồi khi đó chúng la sẽ quyết định.
Những lời khuyên nhủ làm gã yên tâm được một thời gian,
nhưng sau đó Nikilorov càng gọi điện thoại thường xuyên hơn cho Gradov về đêm với
những ý tưởng mê sảng như tự tử và để lại bức thư sám hối, hoặc đến gặp cha cố
xưng tội, hoặc thú nhận tất cả với Victoria và xin cô tha thứ. Gradov hiểu rằng
Nikiforov đã trở nên nguy hiểm. Và Gradov có quyết định, như thông thường, thô
lỗ và triệt để.
* * *
- Con bé thế nào? - Arxen hỏi nhỏ, co rúm vì lạnh và thở hơi
sưởi hai tay cóng lạnh.
Trong phòng mờ tối, máy điện tâm đồ kêu khẽ, máy tự động vạch
những đường cong bí ẩn mà trong đó là lời đáp cho câu hỏi được đặt ra.
- Tạm thời chưa có gì, còn chịu được, - bác sĩ đáp, tách dây
điện khỏi người cô bé và xếp dụng cụ vào chiếc vali nhỏ. - Nhịp tốt, mạch lạc.
- Nhưng không tiếp tục giữ lâu được như thế chứ? - Arxen hỏi
cho rõ thêm.
- Biết nói sao với ông... - bác sĩ dài giọng không xác định.
- Ông hãy nói với tôi ông cần gì, và lúc ấy tôi sẽ nói cần làm thế nào cho tốt
hơn.
Ông ta ngần ngại nhìn vào mặt Arxen, để làm điều đó ông ta
phải cúi thấp đầu, bởi vì lão già thấp hơn nhiều.
- Đừng có dựa vào tôi, - Arxen nói gay gắt. - Anh là bác sĩ,
vậy thì hãy nói với tôi tuyệt đối chính xác, còn có thể giữ con bé bao lâu bằng
thuốc mà không nguy hiểm đến sức khỏe của nó. Anh hãy nêu thời hạn cuối, và lúc
đó tôi sẽ có quyết định phù hợp với nó.
- Ông thấy đấy. - ông ta bối rối. Ông rất muốn lấy lòng
Arxen, và ông ta cố hiểu, lão kia thích nghe lời đáp như thế nào. - Nói
chung... Điều đó phụ thuộc vào trạng thái hoạt động của tim... Nói chung thì cô
bé khỏe như thế nào, gần đây có bị bệnh gì nặng không.
- Đừng làm đầu tôi rối lên đi, - Arxen nổi nóng. - Tôi làm
việc với vợ ông dễ hơn. Cô ấy luôn luôn đánh giá rõ ràng cả tình huống, cả khả
năng của mình, và không sợ nói ý kiến riêng. Nếu tôi có thể tự giải quyết được
các vấn đề y học, tôi đã không trả cho anh những món tiền khổng lồ vì sự giúp đỡ.
Vậy xin anh hãy làm việc cho xứng đáng một cách trung thực. Đấy, anh vừa tiêm
cho con bé. Nó sẽ đủ cho bao lâu?
- Cho mười hai giờ.
- Tức ngày mai vào tám giờ sáng cần làm mũi tiếp theo?
- Về nguyên tắc, thì vâng.
- Về nguyên tắc nghĩa là sao?
- Điều đó đã là nguy hiểm. Mũi tiêm tiếp theo có thể giết chết
nó. Con bé có thể sẽ không tỉnh dậy nữa.
- Thế, đã có chút rõ ràng, - Arxen khịt mũi. - Thế có thể là
cả mũi tiêm sau cũng không làm hại nó?
- Tất nhiên. Thì tôi nói, điều đó phụ thuộc vào sức khỏe,
tim của nó...
- Nghĩa là tình huống trông có vẻ thế này, - Arxen kết luận.
- Sáng mai anh khám cho con bé và báo với tôi, có thể làm mũi tiêm tiếp hay
không. Nếu có thể - hãy cứ làm. Nếu không - tôi sẽ có quyết định, đánh thức con
bé hay vẫn cứ tiêm thuốc. Cho đến sáng tôi còn đủ thông tin để có một quyết định.
- Nhưng ông hiểu cho rằng, sau mũi tiêm ngày mai nó có thể...
- bác sĩ ngắc ngứ và nuốt nước bọt.
Arxen ngẩng đầu lên một chút và cắm cặp mắt nhỏ rất sáng của
mình vào mặt người bác sĩ. Lão kéo dài khoảng im lặng, và sự im lặng của lão
còn đầy biểu cảm và đe dọa hơn nhiều so với bất cứ những lời nghiêm khắc và chửi
rủa nào. Cuối cùng tia sáng dữ tợn trong mắt cũng mờ đi, bộ mặt của lão già lại
trở nên bình thường và chẳng có gì đáng kể.
- Hoàng đế sống thế nào? - lão hỏi gần như vui vẻ khi nghiên
cứu lịch trình các chuyến tàu nội hạt lấy trong túi ra.
- Sezar ấy à? Tuyệt, ăn gấp hai, làm nũng gấp ba, thế nhưng
tính hung dữ trong nó đủ cho cả chục con chó khác, - trong giọng bác sĩ vang
lên nốt nhẹ nhõm không giấu diếm. Ông ta không chỉ muốn lấy lòng Arxen. Ông sợ
lão khủng khiếp.
- Tôi không hỏi về cậu con, tôi biết về nó. Vợ khỏe không?
- Cảm ơn, mọi chuyện chỗ chúng tôi ổn cả.
- Sao chỗ anh lạnh quá đấy, - lão già lại co rúm. - Con bé sẽ
không bị cảm lạnh chứ?
- Nó được ủ ấm. Mà nói chung thì trong phòng nên thoáng
đãng. Trong phòng nóng khó chịu đựng nổi giấc ngủ say do ma túy, - bác sĩ giải
thích một cách có uy tín, - Ông thấy đấy, ở đây chỉ có một hệ thống sưởi ấm, thế
là đủ, còn ở phòng bên, nơi bọn trẻ của ông ngồi, ấm hơn nhiều. Ở đấy có hai hệ
thống sưởi và thêm nữa bếp ga bật thường xuyên, họ luôn đun nước sôi.
- Thôi được, bạn ạ, đã đến lúc tôi đi, - cuối cùng Arxen đã
chọn được chuyến tàu thuận tiện và chuẩn bị đi. - Sáng mai anh xem con bé, và 8
giờ 15 tôi đợi điện thoại của anh. Nếu tôi có quyết định không tiêm tiếp, hãy
nói với đám vệ sĩ để chúng đưa nó về thành phố và bỏ ở công viên nhỏ, chúng biết
đó là ở đâu rồi.
- Thế nếu... - bác sĩ hỏi rụt rè.
- Lúc ấy hãy tiêm. Và đừng nhét vào đầu đủ thứ ngốc nghếch
khác nhau.
Arxen ra khỏi phòng, xuống thềm và giẫm lên lớp tuyết lạo xạo
dưới chân. Nơi đây, ở ngoại ô, là mùa đông thực sự. Tuyết không tan dưới chân
và bánh xe mà nằm thành một lớp băng phẳng trắng muốt như đường. Lão già biết rằng
từ trại thiếu niên vắng người về mùa đông (đó là trước kia, còn giờ đơn giản là
trại trẻ) đến đường tàu, đi vừa phải thì mất đúng hai mươi ba phút.
Lão ra đi trước năm ba phút khi tàu đến để không một giây thừa
tại bến tàu và không lộ mình một cách vô ích.
Cuộc trò chuyện với bác sĩ đọng lại trong lão, như thường
xuyên, một cảm giác khinh dể.
Già nua nhưng hèn nhát và nịnh bợ, dù tuyệt đối trung thành,
ông ta làm Arxen ít thích hơn nhiều so với vợ ông ta. Chính cô ta mới là vật
tìm được đích thực. Đơn giản là báu vật. Nhưng cũng không thể thiếu tay bác sĩ,
cần giữ ông ta trên dây dắt ngắn, hoàn toàn không được làm ông ta sợ. Đấy, ông
ta đã giúp trong việc với con bé. Arxen hiểu rõ rằng trả lại Nadia là nguy hiểm,
nó đã biết tất cả và có thể giúp sờ nắn được những mối dây nào đó dẫn đến lão.
Và đồng thời cần phải trả về để không làm mất ảnh hưởng đối với Larsev, cả đối
với Naxtia. Phương án đánh thuốc mê con bé đã giải quyết vấn đề một cách lí tưởng:
con bé không thấy không nghe gì cả, vì thế có thể trả nó về không một chút mạo
hiểm gì, nhưng ông bố ương bướng sẽ hiểu rằng nếu xử sự tồi, thì lần sau người
ta sẽ đối xử khác đi với con bé. Thực tiễn chỉ ra rằng, sự thể không bao giờ xảy
ra đến lần thứ hai, những bậc cha mẹ cương cường sẽ trở nên lặng hơn nước, thấp
hơn cỏ, nỗi kinh hãi đã trải qua thời gian vắng đứa trẻ đủ cho họ trong quãng đời
còn lại. Việc bắt cóc Nadia là lần thứ năm trong hoạt động của Arxen và văn
phòng của lão, và trong những vụ này bác sĩ là người tuyệt đối không thể thay
thế.
Arxen bước lên sân ga ngay vào thời điểm khi trước mặt lão
cánh cửa tự động của toa tàu mở ra. Lão bước vào toa tàu ấm áp, ngồi vào một
góc, tựa đầu vào vách và nhắm mắt.
* * *
Đại tá Gordeev suy ngẫm các tin tức mà Meserinov đưa về từ
bà góa Nikiforov.
Hôm qua, 29 tháng 12 Gordeev nhận được thông tin đầu tiên về
sự đồng phạm của Gradov trong việc xảy ra ở căn hộ của Eremina. Tiếc rằng điều
tra viên Xmelianov không nhớ các thanh niên được cấp tốc “dọn” khỏi hồ sơ vụ án
hình sự, đã học ở trường nào. Trong khi Naxtia “tính ra” Gradov, tìm ra hắn qua
sự trùng hợp địa chỉ của một trong số những kẻ bị tình nghi của vụ án này,
trong khi thu thập cứ liệu và làm sáng tỏ hắn đã học ở trường đại học nào, đã
qua đi không ít thời gian. Trong tính toán thông thường đó chỉ là mấy giờ, sự vớ
vẩn nhất, nhưng trong cuộc đời của các nhân viên tác chiến, mấy giờ này biến
thành vực thẳm không thể vượt qua, Gordeev đã không kịp bước qua nó: khi trước
ông có tài liệu của hai năm trước về việc phát hiện ra thi thể Nikiforov,
Naxtia đã ở nhà, và không thể gọi điện thoại cho chị. Giờ đây Gordeev thật tình
tiếc về điều này, bởi vì trong các tài liệu đó chứa đựng một chi tiết rất quan
trọng. Hồi ấy, hai năm trước, cái chết của Nikiforov được công nhận là trường hợp
tai nạn. Thiếu gì chuyện kẻ say rượu chết khi không thể chống chọi nổi với sự
cuốn hút đến với hơi men, bất chấp sự ngăn ngừa nghiêm khắc nhất của bác sĩ cai
nghiện? Các nhân viên công an đã làm tất cả một cách trung thực, nhưng đã không
thể tìm ra kẻ thù nào của tay dịch giả nghiện ngập, cũng không thể hiện những động
cơ vụ lợi. Nhưng hôm nay cái chi tiết này được bao bọc bởi tất cả những gì đã xảy
ra qua hai tháng gần đây, đã rọi ánh sáng lên hoàn cảnh cái chết của Nikiforov.
Vì thế, ngay hôm qua Gorđeev đã ra lệnh cho thực tập viên Meserinov đến nhà bà
vợ góa của người chết.
Gordeev không thể biết rằng, lập tức sau khi nhận nhiệm vụ,
Meserinov đã báo cáo hết với Arxen.
- Hãy đi, nhưng trước khi báo cáo lên Gordeev, hãy liên lạc
với tôi, tôi sẽ định hướng cho cậu, - lão già ra lệnh.
Buổi tối Meserinov không gặp người đàn bà, bà làm hầu bàn và
không thể thoát khỏi công việc trước một giờ rưỡi đêm, mà quấy rầy bà vì một vấn
đề tế nhị như thế thì tay thực tập viên không dám. Hắn xuất hiện chỗ bà vào buổi
sáng, làm rõ mọi điều hắn quan tâm, và mô tả tất cả một cách sinh động với
Arxen. Đến thời điểm đó thủ lĩnh văn phòng đã biết rằng Gordeev vừa gọi điện
thoại cho Naxtia và than vãn về áp lực tích cực từ “trên”. Thông tin về
Nikiforov chỉ củng cố lão trong quyết tâm cắt đứt với Gradov, để mặc hắn tự
mình tháo gỡ.
“Ái chà, Gradov của
chúng ta đúng là đồ đểu”, - Arxen ngẫm ngợi với sự giễu cợt khi nghe câu
chuyện ngắn gọn rõ ràng của tay thực tập. Còn ít là đã giấu chuyện xưa với vụ
giết Lusnicov, thế mà lại còn im cả về kẻ đồng lõa của mình. Hoàn toàn coi
Arxen già nua là kẻ ngốc. Thủ lĩnh văn phòng đã quen là những người nhờ cậy lão
hoàn toàn tin lão như bệnh nhân tin bác sĩ. Lẽ nào một người bình thường sẽ
nghĩ chuyện che giấu bác sĩ một nửa những triệu chứng bệnh tật và sau đó hi vọng
rằng người ta sẽ giúp cho anh khỏe mạnh lại? Nếu Gradov không hiểu những điều
giản đơn như thế, thì hắn chả có hi vọng gì ở văn phòng và về lão, Arxen.
- Có thể kể cho thủ trưởng của anh mọi thứ như nó có, - lão
cho phép Meserinov với vẻ ban ân.
* * *
Nếu đại tá Gordeev biết sự thật, hẳn ông sẽ cười nhạo rằng,
khi gây ra sai lầm và tin tay thực tập, kết quả lại nhận được thông tin xác thực.
Nhưng vào thời điểm ấy ông chưa biết sự thật, vì thế đã không nghĩ sâu về sự
đan xen phức tạp của cuộc chiến giữa chân lí và giả trá.
Bà góa Nikiforov kể rằng, tháng cuối trước khi chết, chồng
bà đã uống nhiều hơn bình thường và đêm đêm hay gọi cho Gradov nào đó, khóc, nhắc
đến tên “Victoria”. Người phụ nữ không biết Victoria và Gradov là ai, và hai
năm trước đây đi tìm họ giữa Moskva nhiều triệu dân là điều không thể. Mà để
làm gì cơ chứ, nếu cái chết của Nikiforov trông không có vẻ hình sự? Ngoài ra,
bà kể rằng, chồng bà nhiều lần khơi chuyện với bà về những đứa trẻ.
- Em nghĩ thế nào, - ông hỏi, - bọn trẻ ba tuổi có hiểu những
chuyện gì xảy ra xung quanh không? Mà em nghĩ sao, khi lớn lên chúng có nhớ về
những gì đã từng có khi chúng còn bé không? Đấy, em nhớ mình vào tuổi trẻ con
không?
Sao có sự quan tâm nóng bỏng như thế đến tâm lí trẻ nhỏ,
Nikiforov không bao giờ giải thích. Nhưng một lần đã buột miệng rằng, anh ấy
nói, rất muốn biết, con gái sẽ nhớ anh ấy khi lớn lên hay không. Bà vợ đầu của
anh ấy mang theo đứa bé và gây dựng gia đình mới, đã gạch toẹt anh ấy khỏi cuộc
đời con bé.
Sự giải thích có vẻ khá thuyết phục đối với bà vợ thứ hai,
nhưng hoàn toàn không thỏa mãn Gordeev, người nắm được sự mô tả về cuộc sống
chi tiết của nhà ngoại giao không thành, lập tức hiểu ngay rằng, vào thời điểm
li hôn, con gái của Nikiforov không phải lên ba mà mới một tuổi rưỡi.
Chi tiết quan trọng nhất lại chính là nhân thân của người
qua đường đã tình cờ phát hiện ra thi thể Nikiforov trong một ngách tối gần nhà
ga metro. Ông ta tình cờ vấp phải một người nằm bất động, đã định chạy đi gọi xe
cấp cứu khi nghĩ rằng người kia có thể vẫn còn sống, nhưng trông thấy chiếc xe
tuần tra chạy ngang qua đó, đã vẫy hai tay gọi công an đến giúp. Tên của người
qua đường ấy là Fictin.
* * *
Gordeev ghé qua chỗ Jerekhov. Mọi việc chỗ phòng ông này đã
kết thúc, thi thể Morozov đã được khiêng đi. Các giám định viên đã làm tất cả
những gì cần thiết và đi rồi, để lại sau mình mùi nhẹ của các chất phản ứng.
- Larsev thế nào? - đại tá hỏi từ ngoài cửa.
- Đã đến Hội thợ săn và câu cá, sau đó cánh trẻ để mất cậu
ta, bây giờ đang cố tìm cho ra.
- Jerekhov này, Larsev sờ được gì đó rồi. Cậu ta đang tìm một
người nào đó cụ thể, hãy cử thêm người theo sau cậu ấy. Cần bảo hiểm cho cậu
ta. Do tuyệt vọng Larsev có thể bị cùn nhụt đi cảm giác nguy hiểm.
- Tôi sẽ làm, - Jerekhov gật đầu.
- Tin tức về bác sĩ Rascova?
- Không có gì đáng ngờ. Sống với chồng nghỉ hưu. Chồng say
mê tem thư. Không thấy có sự dư giả trong nhà. Con cái sống riêng. Không có gì
để có thể bám vào.
- Thôi được, nghĩa là tôi sợ quá hóa cẩn trọng thừa, hoàn
toàn mất sự nhạy cảm. Giờ là chuyện khác. Tăng cường việc theo dõi Fictin. Điều
này có thể là rất thú vị.
- Anh Gordeev, hãy nghĩ anh đang nói gì! - Jerekhov lắc đầu
vẻ buồn bực. - Lấy người ở đâu? Chỗ chúng ta thử hỏi có mấy người. Nếu sự vụ do
bộ trưởng kiểm soát, lúc ấy hẳn chúng ta sẽ nhận được bao nhiêu lực lượng và
phương tiện mà chúng ta xin. Còn vụ này thậm chí không nằm trong sự kiểm soát của
Cục trưởng Cục điều tra hình sự Moskva. Vậy tôi đẻ ra mọi người chắc? Hôm nay để
kiểm tra tình hình cạnh nhà Naxtia và thực hiện nhiệm vụ về bác sĩ Rascova mà
anh giao, tôi đã gỡ việc theo dõi Fictin. Bây giờ anh lại cần người chạy theo
Larsev. Tôi sẽ làm việc đó. Còn lấy ở đâu ra người theo dõi Fictin - tôi không
nghĩ ra nổi. Gontsarov ngày hôm nay đã trách tôi ba lần rồi, và lần sau đau hơn
lần trước. Và anh ta, dẫu thế, vẫn đúng, anh Gordeev ạ. Chúng ta không có một kế
hoạch rõ ràng, chúng ta lắc lư từ bên này sang bên nọ, làm những cử động cơ thể
co giật khi hoàn toàn không hiểu điều gì sẽ xảy ra vào phút tiếp theo. Nhưng đó
là những khó khăn của anh và của tôi. Chả thông thái gì việc Gontsarov nổi
điên. Chúng ta xáo đi xáo lại vô tận người của anh ta, thay đổi nhiệm vụ khi
chưa kịp thực hiện chúng cho ra hồn...
- Rồi có lúc tôi sẽ giết anh mất thôi, - Gordeev nổi đóa. -
Và anh chết vẫn chỉ là kẻ bảo thủ và cau có. Anh sao đấy, không có bạn bè ở các
đồn công an hử? Anh sao đấy, năm đầu tiên sống ở Moskva, chưa thiết lập được
các mối quan hệ hay sao? Hãy gọi điện thoại, cầu khẩn, hứa cả téc vodca và toa
tàu thức nhắm, anh có lăn quay ra đấy cũng mặc nhưng sau nửa giờ Fictin phải có
“đuôi”. Hết, Jerckhov ạ, kết thúc. Tôi biết anh không thể chịu nổi khi phải làm
không đúng quy định, lại càng không thích yêu cầu ai đó vi phạm sự chỉ dẫn.
- Hãy xổ toẹt vào cái điều anh thích và không thích. Cứ coi
đó là mệnh lệnh. Nếu có gì không đúng - tự tôi sẽ chịu trách nhiệm.
Nặng nề thở dài, Jerekhov với tay đến điện thoại.
* * *
Bọn trẻ do chú Colia phái đi theo dõi Arxen, tuyệt vọng ngó
theo chuyến tàu đi xa dần. Chúng có nhiệm vụ làm rõ địa chỉ của lão già, nhưng
từ chỗ gặp gỡ với chú Colia, lão đi ra ga Iaroxlav và lên tàu nội hạt. Bọn trẻ
đi cùng với lão đến ga lão cần. Lão già bước đi chậm rãi về phía rừng trên con
đường hoàn toàn vắng vẻ. Đi theo sau lão ở khoảng cách nhỏ là mạo hiểm, vì thế
bọn trẻ vớ được một bà béo với túi xách lỉnh kỉnh cạnh sân ga đã xuống từ chính
đoàn tàu đó.
- Thưa cô, làng ở phía kia ạ? - chúng hỏi, chỉ tay về hướng
Arxen vừa đi.
- Không, làng ở phía này cơ, - người phụ nữ giải thích sốt sắng.
- Còn phía các chú chỉ, không có gì, chỉ có một trại thiếu nhi thôi.
- Thế đến trại có xa không?
- Chừng nửa giờ thôi. Các chú trẻ, có thể cần ít hơn.
- Cảm ơn cô ạ, - bọn trẻ cảm ơn.
Quyết định được chấp nhận là đơn giản. Khi đã không thể đi
theo Arxen ở khoảng cách gần, vì đường vắng và đi sau lão ở khoảng cách xa là
vô nghĩa, bởi đã tối hoàn toàn và không trông thấy gì, phải thả lão và đi đến
trại muộn hơn. Lão cũng chẳng thể đi đâu nổi ngoài đến trại.
Sự tính toán hóa ra đúng. Ở lại trại và chịu lạnh cóng chừng
ba mươi phút, bọn trẻ thấy lão già ra khỏi cổng và bằng bước tự tin đều đặn đi
về phía nhà ga. Chúng để lão đi xa hơn để khỏi nghe thấy tiếng lẹt xẹt của bước
chân trên tuyết, và đi phía sau giữ nhịp theo Arxen. Sai lầm khi phía xa vang
lên tiếng còi và tiếng gõ của bánh tàu, Arxen lúc đó chỉ cách sân ga ba mươi
mét. còn bọn trẻ - còn cách xa hơn nhiều. Chúng dấn bước, sau đó lợi dụng tiếng
ồn của đoàn tàu đang đến gần, chuyển sang chạy. Dẫu vậy vẫn không kịp. Vào giây
chót chúng bị đoàn tàu đi ngược lại chắn ngang. Hội ý chớp nhoáng, bọn trẻ của
chú Colia quay trở lại trại, thận trọng di vòng quanh khu nhà và phát hiện ra
trong dãy nhà khu quản trị có hai gã đàn ông ngồi trong bóng tối ở văn phòng
giám đốc. Nói chung không đâu có ánh sáng, chúng chỉ nhận thấy điểm sáng yếu ớt
của máy lò sưởi điện.
- Sự quỷ quái gì đây, - gã trai không cao, tóc vàng hoe tên
là Xlavic, trước kia vốn là vô địch đua ôtô, nhún vai vẻ phân vân. - Tao không
hiểu có bao nhiêu đứa trong đó. Ba đứa phải không?
- Hình như hai, - kẻ đi cùng hắn, một tên không cao, cằm bạnh,
tóc sáng thì thào vẻ lưỡng tự khi đang căng thẳng ngó qua cửa sổ vào căn phòng
mờ tối. - Quỷ mới biết, chả thấy gì cả.
- Bọn chúng khóc đấy, - Xlavic đánh giá. - Đang trốn ai đó
chăng?
- Chăng, chăng cái khỉ gió, - gã tóc sáng giễu lại một cách
cay độc. - Có thể, không phải trốn ai mà đang canh giữ ai đó. Hoặc bày trò phục
kích và đang rình.
- Chúng rình ai? - Xlavic lo lắng. - Rình chúng ta chăng?
- Ôi, đồ ngu. Cậu có thể nói dù chỉ một câu thiếu chữ
“chăng” của cậu không?
- Cút mẹ mày đi - cựu vô địch đua ô tô ném ra hờ hững. -
Chúng ta sẽ làm gì tiếp?
- Phải gọi điện thoại cho chú Colia, để ông ấy chỉ đạo, - gã
tóc sáng đáp khi sửa lại khẩu súng máy cưa nòng dưới tấm áo khoác rộng. - Và có
gì ăn cũng không tồi. Dù sao thì chúng ta cũng để xổng mất lão già, vậy chẳng
đi đâu mà vội. Khi nào thì chúng ta vẫn kịp nhận lời chửi rủa của chú Colia.
- Điều đó thì chính xác, - Xlavic tiếp lời. - ông sẽ bắt chúng
ta dựa vào tường.
Chúng đi tới sân ga, đi đến làng và tìm được bưu điện mà từ
đó có thể gọi điện thoại về Moskva.
Chú Colia không bằng lòng tột độ, nhưng không để mất thì giờ
cho việc quát tháo. - Bỏ xổng lão già là điều tồi tệ. Thế nhưng tìm được những
kẻ nào đó của lão, đó đã là tốt. Hôm trước Arxen nói gì về quần ướt và tay đẫm
mồ hôi ấy nhỉ? Cứ để bây giờ sẽ biết rằng Fictin luôn nhớ sự xúc phạm. Và không
chỉ nhớ đơn thuần, mà sẽ trả lại đủ vì chúng. Tất nhiên, Fictin muốn thanh toán
với lão già có hại và nguy hiểm, nhưng lúc này điều đó không phải là chủ yếu.
Quan trọng nhất làm Arxen sợ, cho lão hiểu rằng trong tay
chú Colia có một lực lượng mạnh, rằng hắn không ngu đần và đơn giản như thoạt
nhìn. Chủ yếu - bắt lão già nhăn nheo phụ thuộc mình và bắt thực hiện thỏa thuận
với chủ nhân. Cứu chủ nhân và củng cố địa vị của hắn - đó là nhiệm vụ tiên quyết.
- Hãy quay về thành phố, lấy xe và thêm hai người nữa, rồi
đi đến trại và sắp xếp lại trật tự. Đừng để sự bẩn thỉu lại, hãy mang theo và
ném vào rừng, xuống rãnh, - hắn ra lệnh.
Dẫu sao thì đầu óc của Fictin cũng nghèo nàn, giết người và
ném xác vào rừng là đỉnh cao tối đa trong tầm bay trí tưởng tượng của hắn.
* * *
Dakhno lại tiếp tục xáo lộn trong túi tìm valocordin, không
quên sụt sịt đúng lúc, và lạnh lùng suy nghĩ về việc không thể để cho vị khách
thoát ra khỏi nhà. Mụ cần cấp tốc liên lạc với Arxen, nhưng lúc này một mình mụ,
không chồng, không con, không thể làm điều đó. Đành phải kéo dài thời gian, cho
đến lúc có ai đó trở về. Tiếc rằng, tình huống có thể kéo dài chỉ với một thời
hạn không xác định, ông chồng đi ra ngoại ô đến nơi Arxen giam giữ con gái của
Larsev, và có thể không chóng quay về. Con trai thì nói chung không rõ bao giờ
trở về, cô thế sau một phút, mà có thể, vào lúc nửa đêm.
Mụ cảm thấy rằng vở kịch đã thành công và ông bố bất hạnh đã
tin mụ. Mụ có một linh cảm khác thường, ngửi thấy mùi của sự bi phẫn và sự ngờ
vực, như một động vật, và điều đó cho phép mụ đánh giá không hề nhầm lẫn và xác
định chính xác cái giới hạn mà sau nó là bắt đầu sự mạo hiểm nguy hại, nhưng có
thể diễn cho đến điểm đó. Arxen đặc biệt đánh giá phẩm chất này của mụ và lặp lại
nhiều lần:
- Khi Chúa trời phân phát cảm giác mức độ và khả năng tiếp cận
với sự mạo hiểm hợp lí, có lẽ cô đứng ở hàng đầu. Còn nhờ việc đi săn cô còn
thêm được kĩ năng cảm giác mối nguy hiểm và sức chịu đựng. Vì thế tôi tuyệt đối
tin vào linh cảm của cô.
Dakhno đúng là người Xibia, sinh trưởng trong gia đình thợ
săn, chi tiết mụ không nói dối Larsev. Thi vào trường đại học Y khoa Moskva, tốt
nghiệp với học bổng Lenin, học bắn, tham gia đội xạ thủ của trường và liên tục
thắng trong các cuộc thi, sau đó là thực tập sinh, trợ lí, nghiên cứu sinh, sự
cất nhắc vào làm việc tại phòng khám đa khoa của KGB. Mụ lấy chồng là một người
học cùng khóa, người đã không đạt được đường công danh rực rỡ khi làm công việc
bác sĩ gây mê ở một bệnh viện thành phố. Dakhno, vốn là sĩ quan KGB kiếm được
tiền nhiều hơn chồng, bằng cách ấy bắt ông ta lâm vào tình thế bị phụ thuộc, sự
phụ thuộc càng trở nên sâu thêm bởi sự yếu đuối của bản thân và bởi sức mạnh đạo
đức khó so bì của mụ. Một điều tệ hại, họ không có con. Dakhno lợi dụng mạng lưới
quan hệ rộng trong ngành y, đã qua những cuộc chữa chạy có thể và không thể,
nhưng chẳng gì giúp được mụ. Khi không còn hi vọng về việc sinh được đứa con của
mình, vợ chồng Dakhno đã tìm cách nhận ai đó làm con nuôi, nhưng người ta từ chối
yêu cầu đó vì điều kiện nhà ở không phù hợp: họ sống trong căn hộ một phòng
cùng ông bố chồng già, và dù họ đã đứng xếp hàng nhận phân nhà, nhưng đến lượt
họ phải cả chục năm nữa, không sớm hơn.
Bất hạnh rơi xuống Dakhno chỉ trong vòng một giờ.
Ngay trước đó, sau một khóa chữa chạy đau đớn, phán quyết cuối
cùng đã dành cho mụ: mụ không bao giờ có con nổi. Các loại vô sinh như thế
không chữa chạy nổi ở đâu trên thế giới này, và mọi cố gắng tiếp theo chỉ làm
hao tốn sức lực mà thôi.
Mụ đã khóc suốt đêm, buổi sáng nuốt thuốc an thần và lê người
đến nơi làm việc. Đầu như nứt ra, tim đau, thỉnh thoảng nước mắt lại ứ lên, cuộc
sống có vẻ đã mất đi mọi ý nghĩa.
Nhưng ngay đó, một vị thiếu tướng, Phó Cục trưởng của một Cục,
với da dẻ đỏ đòng đọc vì rượu, với hơi men và giọng trầm kiểu chỉ huy. Ghê
chưa, hông ông ta đau. Không sao, đau một chút rồi khỏi, - bác sĩ phẫu thuật
Dakhno bực dọc nghĩ trong khi kê đơn thuốc đau thận cho vị tướng và hẹn ông ta
sau ba ngày đến khám lại.
Sau ba ngày vị tướng đến, có phần nhợt nhạt, nhưng vẫn đầy
mùi rượu như thế. Và chết. Ngay trong phòng làm việc của hác sĩ phẫu thuật
Dakhno. Hóa ra, vị tướng bị đau ruột thừa dần dần chuyển sang viêm ruột thừa,
nhưng ông ta phải chịu đựng suốt bốn ngày, khi kìm nén nổi đau không thể chịu đựng
bằng phương cách dân dã từ lâu đã được thử thách.
Kết luận của ủy ban y khoa nói rằng, các triệu chứng bệnh
đau ruột thừa là hiển hiện ngay tại thời điểm bệnh nhân gặp bác sĩ Dakhno lần đầu
tiên, nhưng bác sĩ không tiến hành những khám xét cần thiết và chỉ định sự điều
trị không đúng, bằng cách ấy thể hiện sự thờ ơ tội lỗi kéo theo cái chết của bệnh
nhân. Viễn cảnh mất tự do đã lấp ló rất gần, Dakhno đã cảm thấy trên mặt mình
hơi thở của nó. Và bỗng xuất hiện Arxen.
- Tôi muốn giúp cô, cô Dakhno ạ, - lão nói ngọt ngào, - bởi
cô là người tốt, một bác sĩ tuyệt vời, đơn thuần là số phận ngáng chân cô, và
cô vấp phải nó. Vào tù phải là những tên tội phạm đích thực, những kẻ đểu giả
lì lợm, chứ không phải những người đứng đắn gặp nỗi bất hạnh. Cô đồng ý với tôi
không?
Dakhno lặng lẽ gật đầu và chùi nước mắt.
- Hôm nay tôi giúp cô, còn ngày mai cô sẽ giúp tôi, thỏa thuận
nhé? - trong khi đó Arxen tiếp tục. - Tôi với cô sẽ cứu những người tốt, những
người xứng đáng không may bị rơi vào bất hạnh, Nếu cô trở thành chiến hữu của
tôi, cô sẽ có một căn hộ tốt, và tôi sẽ giúp cô có con nuôi. Cô sẽ có không phải
một đứa trẻ thừa vớ vẩn nào đó với gen của bố mẹ say rượu, mà là một đứa con tốt
nhất, khỏe mạnh nhất, thông minh tài giỏi nhất nếu có thể tìm ra nổi. Thật ra,
đó không phải đứa trẻ sơ sinh, phải là trẻ vị thành niên, mà tôi với cô cần phải
biết chắc về sức khỏe, tâm lí và trí tuệ của nó, chứ với những trẻ sơ sinh thì
có thể sai lầm. Ngoài ra, cô sẽ có được khả năng chuyên chú vào trò đi săn ưa
thích của mình. Thế nào, cô đồng ý chứ?
Dĩ nhiên mụ đồng ý. Mà cũng chả thế nào khác được. Arxen
không bao giờ cố gắng thu phục những người mà lão chưa để mắt đến từ trước. Tất
cả những gì lão biết về Dakhno chứng tỏ một cách không bàn cãi rằng mụ chính là
người cần thiết. Và lão đã không nhầm.
Sau những điều khó chịu với vị tướng, đành phải bỏ nghề y.
Arxen bố trí cho mụ công việc ở Phòng thống kê và quản lí của một trong những đầu
mối điện thoại Moskva. Lương như nước mắt muỗi, nhưng những nhiệm vụ của Arxen
được trả hào phóng đến độ chả bao lâu những mơ ước thầm kín nhất của Dakhno và
chồng đã trở thành hiện thực. Họ có căn hộ tuyệt vời, ôtô, vũ khí đắt tiền, tiếp
theo là nhà nghỉ mà tất cả tiền được bỏ vào đó để làm nó thành một lâu đài đích
thực giữa thiên nhiên. Không phải Dakhno không yêu quý căn hộ thành phố của
mình, đơn thuần mụ không muốn phô trương sự giàu sang với những người Moskva
quen biết. Thế nhưng mụ với chồng đã bỏ toàn tâm vào nhà nghỉ. Và họ đã dạy dỗ
con trai như ý muốn của Arxen.
Dakhno ném ánh mắt nhìn đồng hồ. Đã gần chín giờ tối. Mụ còn
kéo dài được bao lâu để không gợi nghi ngờ ở nhân viên tác chiến? Đã hai lần mụ
ở ngưỡng ngất xỉu, lần thứ ba thì đã là thừa, mụ sẽ không bao giờ thắng nổi. Cần
cố khơi gợi cho Larsev nói chuyện.
- Vợ anh có lẽ đang tuyệt vọng, - mụ nói bằng giọng có lỗi.
Tôi không bao giờ tha thứ cho bản thân... Không có nỗi đau nào hơn nỗi đau người
mẹ.
- Vợ tôi mất rồi, - Larsev buông ra kiệm lời. - Và dẫu sao,
chị Dakhno ạ, ta hãy cùng một lần nữa cố hồi phục lại tất cả những gì chị biết
về người đó.
Ổ khóa cửa có tiếng chìa ngoáy, cửa sập lại.
- Mẹ ơi, mẹ có nhà không? - Larsev nghe thấy. Anh cảm thấy một
giọng mơ hồ quen thuộc.
Anh ngoái lại phía cửa và cắm mắt vào cái đầu hươu nhồi trên
tường. Và chính thời điểm đó anh chợt hiểu rằng, anh đã sai lầm kinh khủng
không thể cứu chữa. Người đàn bà trò chuyện với anh đã hai giờ đồng hồ, không
thể là thợ săn được. Nước mắt, lời rền rĩ và sự ngất xỉu mà anh được cho ăn đầy
rẫy nơi này không thể nào là của người đàn bà quen hàng mấy giờ liền kiên nhẫn
chờ đợi, đứng bất động trong rừng mùa đông trong sự cô đơn tuyệt đối và chờ khi
nào con lợn rừng nổi đóa xông vào người, người đàn bà bơi trên thuyền trong những
bụi lau sậy cao hai mét trong thời gian săn vịt trời, khi rất dễ mất định hướng
và bị lạc, người đàn bà đã quen giết chim thú và làm đổ máu. Và con chó trong
căn hộ cũng không phải chó săn, mà là chó cảnh sát, loại doberman thuần chủng vẫn
thực hiện chức năng vệ sĩ, không cho phép làm phật ý chủ nhân và không cho vị
khách không mong muốn vào nhà. Nếu người thợ săn đích thực có thể nuôi chó, thì
anh ta tất nhiên sẽ kiếm một con laica, setter hay gì đó từ loài terier. Còn nếu
người thợ săn giữ một con doberman, điều đó có nghĩa là trong cuộc sống của anh
ta có những thứ nghiêm trọng và nguy hiểm hơn nhiều so với việc đi săn... Anh,
Larsev, đã cho phép bị đánh lừa. Trong anh, kẻ bị dày vò và suy sụp, bị mù do nỗi
sợ cho đứa con gái mười một tuổi, nhà chuyên nghiệp đã thức tỉnh một cách quá
muộn mằn. Larsev vớ lấy súng lục, nhưng Meserinov bước vào phòng đã kịp giật khẩu
súng săn treo trên tường. Tiếng súng nổ vang lên cùng một lúc.
Chương 16
Tám năm về trước... Arxen gọi điện thoại và thông báo bằng một
giọng thỏa mãn:
- Cô Dakhno này, tôi đã tìm được cho cô một thằng đểu nhỏ đầy
quyến rũ. Mười ba tuổi, thông minh, tuyệt đối khỏe mạnh về thể lực và tâm hồn,
chẳng hề có những điều vớ vẩn và kiểu cách trí thức dỏm nào trong cái đầu trẻ
thơ của nó. Hãy đi ngay, giám đốc đang chờ cô đấy.
Dakhno lập tức hiểu và phóng nhanh đến trại trẻ mồ côi nằm ở
tỉnh bên. Giám đốc đã nhận trước tiền thưởng hào phóng vì đã cho các bác sĩ và
các nhà tâm lí học từ Moskva đến gặp thằng bé, với hai tay dang rộng đón Dakhno
và sẵn sàng đưa cho mụ xem tất cả giấy tờ về Meserinov.
- Nó từ một gia đình rất tốt, - giám đốc trại mồ côi xun
xoe, bởi người ta đã ám chỉ khá rõ với bà rằng, nếu Dakhno chịu nhận Meserinov
làm con nuôi, điều đó sẽ không bị bỏ quên thiếu sự chú ý và phần thưởng. - Cha
mẹ là những cán bộ khoa học, là những tiến sĩ, đã mất cách đây hai năm trong cuộc
thám hiểm vùng núi cao ở Pamir. Trong gia đình không có ai bị bệnh mãn tính,
không uống rượu. Cậu bé được giáo dục tốt. Ở cậu hình thành một tính cách tuyệt
vời, trầm tĩnh, hòa hiếu. Nói chung, ở đây Meserinov là cậu bé nhã nhặn, có
giáo dục nhất. Chị cô muốn tôi gọi cháu đến không?
- Hãy gọi đi, - Dakhno gật đầu.
Mụ rất hồi hộp. Dakhno khá thông minh đủ để hiểu một cách
rành rẽ: mụ có trách nhiệm nhận đứa bé này, thậm chí mụ dứt khoái không thích
nó, bởi vì đây là lệnh của Arxen. Và mặc cho vẻ ngoài đó giống như mối quan tâm
về mụ, và mặc cái vẻ là sự giúp đỡ trong việc tìm kiếm đứa trẻ để nhận làm con
nuôi, Dakhno không hề cố tự đánh lừa bản thân. Mụ hiểu rất rõ gì là gì. Nếu mụ
không thích thằng bé, mụ vẫn nhận nó làm con, nhưng điều đó sẽ biến thành cây
thánh giá nặng trĩu trong suốt cuộc đời.
Cửa thận trọng mở ra, một trẻ vị thành niên cao, vai rộng với
mái tóc sáng, cái nhìn thẳng thắn và chiếc cằm cương nghị bước vào.
- Chào bà ạ, - hắn nói không một chút bối rối. - Cháu là
Oleg Meserinov, Giám đốc bảo là bà muốn gặp cháu.
Dakhno trong tích tắc đã trông rõ cả sự căng thẳng dày vò, cả
nỗ lực ý chí không hề trẻ thơ mà thằng bé cố đè nén sự xúc động hay ít ra là giấu
được nó.
- Chào Oleg, mụ mỉm cười. - Có lẽ người ta đã nói với cháu
là cô muốn nhận cháu làm con. Nhưng dĩ nhiên, cần sự đồng ý của cháu. Vì thế
cháu hãy quyết định, cháu có muốn đến ở chỗ cô một thời gian và làm quen gần
hơn với cô và chồng cô không, hay cháu thấy là đủ, nếu ngay ở đây cô lập tức trả
lời tất cả mọi câu hỏi của cháu?
- Nhà bà có trẻ con không ạ? - Oleg hỏi chẳng đâu vào đâu.
- Không, - Dakhno lắc đầu.
- Nghĩa là nếu bà nhận cháu làm con nuôi...
- cháu sẽ là đứa con duy nhất của gia đình, - Dakhno kết
thúc thay cho gã.
- Cháu bằng lòng làm con nuôi ạ, - thằng bé đáp một cách cứng
cỏi.
- Nhưng cháu hoàn toàn chưa biết gì về cô, - mụ bối rối. -
Thậm chí cháu không hỏi tên cô, cô làm gì và làm ở đâu... Cháu tin chắc rằng có
thể có quyết định ngay ở đây à?
- Cháu rất muốn được gọi bà là mẹ ạ, - Oleg nói nhỏ và mạnh
dạn nhìn thẳng vào mắt mụ.
Và trong thời điểm đó Dakhno hiểu nhiều điều về Oleg
Meserinov mười ba tuổi. Cứ cho là không phải tất cả đi, nhưng rất, rất nhiều. “Không vô cớ Arxen gọi mày là thằng đểu nhỏ.
Ngươi đúng là một thằng đểu, và đã không còn là nhỏ nữa. Ngươi thông minh, đọc
nhiều, thằng đểu lớn trước tuổi. Với tuổi mười ba của mình ngươi đã biết nhìn
người một cách không tồi. Thấy rõ, trong gia đình với cha mẹ, ngươi đã rất sướng,
ngươi đã được thoải mái và đầy đủ tiện nghi, được yêu, được nuông chiều âu yếm,
được tặng vô số quà. Hay có thể, người ta đã không nuông chìu và không âu yếm,
mà đối xử với sự trân trọng với những điều ngươi say mê và những điều kì quặc
nho nhỏ của ngươi, đã không săn đón với những lời giáo huấn, không làm tình làm
tội bằng sự săn sóc quá đáng, không chèn ép, không trách cứ vì những điều vặt
vãnh. Ngươi lớn lên là người trầm tĩnh và có nghị lực, ngươi hoàn toàn biết rõ
là cần cái gì trong cuộc sống này, và sẵn sàng đạt cho được cái của mình, dù điều
đó đáng giá thế nào đi nữa. Ngươi không yêu cha mẹ của mình một cách điên cuồng
và vô tận đơn giản vì đó là cha mẹ. Ngươi yêu họ, như người ta yêu món ăn ngon,
cái ghế thoải mái, quyển sách hay. Họ đối với ngươi là nguồn của sự thoải mái
và tiện nghi, còn khi họ mất đi và theo ý muốn của số phận ngươi rơi vào trại
trẻ mồ côi, ngươi đã quyết rằng, ngươi sẽ làm tất cả mọi điều có thể để làm sao
nhanh nhất lại được rơi vào một gia đình, lại nhận được khẩu phần ăn của mình với
món xúp gia đình, chiếc giường ấm và áo quần không phải của nhà kho. Ngươi đã hỏi,
trong gia đình ta có trẻ con hay không. Tất nhiên, đối với ngươi quan trọng là
để ngươi trở thành kẻ duy nhất, để sự chú ý và tình yêu của chúng ta không bị
chia sẻ giữa ngươi và thêm ai đó khác. Chúng ta không phải là những kẻ từ thiện,
chúng ta là cha mẹ không con cái, và điều đó có nghĩa là ngươi sẽ đặt ra các
nguyên tắc của trò chơi, còn chúng ta sẽ nhẫn nhục tuân theo chúng.
Ngươi muốn gọi ta là mẹ
ư? Điều đó là tốt, có điều chớ nghĩ rằng từ những lời này ta đã tan ra và đánh
mất khả năng tư duy tỉnh táo. Ngươi quá khôn đối với tuổi của mình.Và một tên đểu
hơi quá lớn so với thằng đểu thông thường ở lứa tuổi này. Nhưng dù sao ta vẫn
nhận ngươi làm con nuôi. Bởi vì ta cảm thấy: ta với ngươi có chung một loại
máu...”
- Cô rất mừng là chúng ta thích nhau, - Dakhno mỉm cười mềm
mỏng. - Cô hi vọng cô sẽ nhanh chóng thu xếp xong mọi thủ tục, và nếu cháu
không nghĩ lại, thì chỉ sau hai, ba ngày là chúng ta đã cùng sống với nhau.
Nhưng Oleg này, cô sợ những quyết định quá chóng vánh. Dẫu sao cháu cũng nên
suy nghĩ thêm. Và nếu cháu nghĩ lại, cô có thể hiểu được cháu và không phật ý
đâu.
- Cháu không suy nghĩ lại đâu, - thằng bé đáp nhỏ và nghiêm
túc.
- Đã thế thì chúng ta tạm chia tay bây giờ, và cô sẽ bắt đầu
lo thủ tục nhận con nuôi. Trong thời gian gần nhất chúng ta sẽ đưa cháu ra khỏi
đây. Tạm biệt nhé, Oleg.
- Chào... mẹ, - gã thốt lên có phần gắng gượng và nói tiếp dễ
dàng hơn: - Có thể, cho con hôn mẹ trước khi chia tay không ạ?
“Ái chà, đồ chết giẫm!
- Dakhno thầm nghĩ với sự khâm phục khi chìa má cho Oleg hôn. - Ngươi học ở đâu ra thế? Rõ một điều: ngươi
cư xử như ta muốn. Bất cứ người đàn bà nào mong có con nuôi đều muốn đứa trẻ xử
sự chính như ngươi đang thể hiện”.
Mụ vững vàng lái xe trên xa lộ, suy ngẫm đến cuộc nói chuyện
sắp tới với chồng. Cần tạo cho ông cái ấn tượng là người ta xin lời khuyên của
ông ấy, dù Dakhno đã quyết định rồi: Mụ sẽ nhận Oleg làm con nuôi. Trái tim mụ
không háo hức lao đến đón gặp thằng bé như đã có lúc mụ cảm thấy trong những ước
muốn khi mụ hình dung một thiên thần nhỏ tóc xoăn với lúm đồng tiền trên hai má
và cặp mắt xanh biếc, tỏa hơi sữa và sự vô tội trẻ thơ.
Từ Oleg tỏa ra ý chí, trí tuệ lạnh lùng và hiểm họa. Nhưng
ông chồng không nên biết điều đó.
Khi mụ bước vào căn hộ, ông chồng đang say sưa xem bóng đá
trên truyền hình.
- Bà đã ở đâu, - ông hỏi thờ ơ, mắt không rời khỏi màn hình.
- Tôi sẽ kể hết với ông, - mỉm cười bí ẩn, Dakhno đáp. - Ta
hãy đợi cho hết hiệp một, sau đó chúng ta sẽ nói chuyện. Tôi ăn tối đã.
Mụ đã tính đúng: ông chồng sẽ dễ dãi và dễ thuyết phục để cảm
ơn việc mụ đã thể hiện sự chú ý và không dứt ông khỏi những đam mê bóng đá.
- Hôm nay tôi đã đến trại trẻ, - mụ bắt đầu thận trọng khi
ông chồng bước ra bếp trong lúc giải lao.
- Tại sao không có tôi? - ông chồng kêu lên vẻ không bằng
lòng. - Hình như không chỉ mỗi một bà muốn nhận con. Đó cũng là việc của tôi nữa
chứ.
- Xin lỗi ông nhé, nhưng ông nói rằng hôm nay ông có cuộc phẫu
thuật phức tạp. Tôi quyết định không quấy quả ông. Ông biết không, thằng bé mà
tôi đã thấy, rất khác thường. Thông minh, tự lập, khỏe mạnh, được giáo dục tốt.
Nhưng đồng thời, nó đã trải qua một bi kịch hãi hùng, cùng một lúc mất cả bố lẫn
mẹ, vậy nên tâm trạng của nó là không đơn giản. Nói chung, tôi không biết nên
quyết định thế nào. Ông khuyên tôi làm gì đây? Ông nói sao, tôi làm vậy.
- Thằng bé mấy tuổi?
- Mười ba.
- Lớn thế ư? - ông chồng kinh ngạc.
- Tìm đứa nhỏ thì khó hơn, - Dakhno nhẫn nại giải thích. -
Chính ông vẫn nhớ, chúng ta đã khổ sở thế nào khi tìm kiếm một đứa nhỏ. Dễ tìm
trẻ vị thành niên hơn, người ta không hứng thú lắm nhận chúng về nhà. Vậy ông sẽ
nói gì với tôi?
Ông chồng hỏi vô số câu mà Dakhno đã trả lời chúng một cách
cặn kẽ. Một lúc nào đó mụ bỗng hiểu rằng đã dồn ông vào ngõ cụt: như thường lệ,
ông cố lấy lòng mụ và nói điều mụ muốn nghe nhưng ông không sao có thể hiểu, mụ
muốn chính là gì từ ông. “Bà ấy thích thằng bé hay không? Bà ấy muốn nhận nó
làm con hay đang tìm cớ để từ bỏ điều đã nghĩ?” Còn mụ, về phần mình, không hề
có chút biểu hiện chân thực nào đối với Oleg, để ở ông chồng, cầu trời, nảy
sinh ngờ vực rằng mụ thúc ép và trói buộc quyết định của mình cho ông.
Còn thực tế, mụ có thích Oleg không? Dakhno biết tuyệt đối
chính xác rằng, thằng bé không có gì chung với hình ảnh đứa con mà mụ nâng niu
và bao bọc trong tâm hồn bị dày vò bởi những hi vọng không thành.
Nhưng mụ biết điều khác nữa: đích thân Arxen đã chọn thằng
bé và đã lựa chọn vì một số phận hoàn toàn xác định.
Nhiệm vụ của mụ, Dakhno - dạy dỗ thằng bé như Arxen ra lệnh,
biến từ nó thoạt đầu là một trợ thủ, sau đó là người cùng chí hướng, sau nữa là
chiến hữu. Và việc mụ thích hay không thích Oleg, muốn hay không muốn trở thành
mẹ của nó đều không hề có ý nghĩa gì. Chỉ có một ý nghĩa: thằng bé có hợp hay
không cho cái số phận mà Arxen đã định sẵn cho nó. Và mụ đến trại mồ côi không
phải để chọn con trai, mọi thứ đó chỉ là những trò chơi lễ nghi với để tài
“giúp đỡ nhận con nuôi”, ngõ hầu dù chút ít che giấu sự trơ trẽn ghê sợ của
liên minh giữa mụ và Arxen. Mụ đi đánh giá ứng cử viên sẽ giữ chức nhân viên của
cơ quan Bộ Nội vụ, làm việc cho các cơ cấu tội phạm. Biết sao được, ứng cử viên
nhận được điểm rất cao. Giờ đây cần thực hiện thêm một trò nghi lễ, lần này là
với chồng, theo kịch bản “ông trong nhà là chủ, nên ông quyết định”.
Trong bất cứ trường hợp nào cũng không được làm chồng phật
ý, Arxen đã kiên quyết đòi hỏi điều này, điều mà chính Dakhno cũng hiểu một
cách tuyệt vời. Ông chồng yếu đuối, dễ rơi vào sự phụ thuộc, chỉ cần nhớ lại rằng,
nhờ sự nhiệt tình và sự mạnh bạo mụ đã cưới được anh chàng đẹp trai, thiếu ý
chí và trầm tư này như thế nào. Đó chính là mụ, một trong số những nữ sinh viên
ít thú vị nhất, để khỏi nói là xấu xí trong khóa học, không tiền và không nhà ở
Moskva! Vậy nên xử sự với chồng cần đặc biệt dè dặt, đừng đẩy ông ấy ra xa, đừng
xúc phạm để ông ấy khỏi trở thành miếng mồi ngon cho người đàn bà khác. Ông chồng
biết quá nhiều, để có thể thả ông ra khỏi gia đình, mà chính xác hơn, khỏi móng
vuốt cấu chắc của Arxen. Và ông chồng có chuyên môn cần thiết có giá trị - bác
sĩ gây mê. Arxen không thể thiếu một chuyên gia như thế, còn tìm và mua chuộc một
bác sĩ mới thì phức tạp và không thiếu nguy hiểm.
“Cần cho ông ấy hiểu rằng
mình thích thằng bé, còn khác đi, ông ấy sẽ không bao giờ quyết một điều gì cả”,
Dakhno thầm nghĩ và nói:
- Ông này, với thằng bé cần đối xử rất chăm chút để giúp nó
phục hồi lại sau một bi kịch tinh thần như thế. Tôi có cảm giác là tôi biết
cách làm điều đó. Ông nghĩ thế nào?
Và ông chồng thở phào nhẹ nhõm...
* * *
...Sáu năm trước... Mụ chạy trên vỉa hè trơn, suýt nghẹt thở
vì hồi hộp và tình cảm dịu dàng. Trên ngực, dưới lớp áo lông cừu non, động đậy
một cục nhỏ bé ấm áp - chú chó cún hôm nay mụ vừa mua được. Trong cả đàn, mụ chọn
chính nó, bởi vì chỉ nhìn nó một cái, trong ngực mụ đã lan tỏa một làn sóng yêu
thương đến mất trí.
- Hãy xem, mẹ đem gì về này! - mụ kêu lên long trọng khi bay
vào phòng và cởi áo lông.
Trên mặt Oleg là sự nhìn nhận thờ ơ, sau đó là vẻ quan tâm lịch
sự. Gã không thích chó. Thế nhưng sau nửa giờ gã đã cùng Dakhno bò quanh con
cún, xúc động, chiều chuộng, chọc ngón tay vào bụng nó, hôn vào cái trán thẳng
và cái mũi ướt.
- Mẹ, con có thể đi dạo với nó được không?
- Có thể, con ạ, nhưng chỉ sau mấy tháng nữa. Nó còn bé lắm,
chưa thể ra đường, đầu tiên cần tiêm chủng đã.
- Thế có thể, con sẽ tự cho nó ăn? Con sẽ mua các sách chuyên
môn và sẽ làm nghiêm ngặt theo khoa học. Được chứ ạ?
- Tất nhiên, con ạ, - Dakhno mỉm cười, vì sự thay đổi bất thần
trong tâm trạng của thằng bé không giấu nổi mụ. Thứ nhất, nó không thích chó,
điều đó thì đã rõ từ trước, và cả những phút đầu tiên nó đã không thể che giấu
sự không bằng lòng vì sự xuất hiện một thành viên mới của gia đình. Thứ hai, nó
muốn là đối tượng duy nhất của sự chú ý, và trong bất kì trường hợp nào nó cũng
không thể thích cái sự kiện xuất hiện trong căn hộ thêm một sinh thể đòi hỏi sự
săn sóc chăm bẫm. Nhưng nó đã trấn áp được điều đó. Nó đã làm được. Trong tuổi
mười lăm của mình đã có thể vượt qua chính bản thân và trở thành người mà bà mẹ
nuôi muốn nhìn thấy. Kẻ bắt chước. Niềm mơ ước hiện thân. Từ hắn sẽ có ích lợi...
* * *
...Bốn năm trước... Dakhno trở về từ cuộc đi săn, kéo theo
người một ba lô lớn. Ông chồng chưa bao giờ khích lệ sự đam mê của mụ. Nói thật,
ông thờ ơ sâu sắc trước việc bà vợ tiêu phí thì giờ vào những trò tiêu khiển,
nhưng còn hậu quả... Phải chặt thịt đưa về từ cuộc săn, phải lột da thỏ, phải vặt
lông vịt. Đó là công việc nặng nhọc, bẩn thỉu, vấy máu mà sau đó cả bếp, từ sàn
đến trần, vấy máu và những mụn nội tạng. Mùi thịt sống cũng khá đặc trưng, phải
lâu lắm mới quen được với nó. Ông chẳng bao giờ giúp Dakhno xử lí với thịt, ông
đơn giản bỏ đi khỏi nhà đến chỗ bạn bè hoặc thỏa thuận trước để ngày hôm đó ông
sẽ trực ở bệnh viện.
Mọi sự thay đổi với sự xuất hiện của Oleg. Hắn quan tâm một
cách sôi nổi những chuyện kể về việc đi săn, đặt các câu hỏi, chung cảm xúc với
mẹ, kêu ối a ở những chỗ đặc biệt kịch tính, an ủi theo kiểu hoàn toàn người lớn
khi có lần Dakhno trong đêm tối đã giết nhầm một con thiên nga và đã sầu não đến
nỗi thậm chí không đưa những con thú săn được về nhà, bỏ lại tất cả cho những
người đi săn. Nhưng cái cốt yếu - hắn không tránh né công việc bếp núc bẩn thỉu,
giúp Dakhno chặt thịt và xếp gọn gàng, nhẫn nại nhổ lông thú lông chim, lau các
vũng máu, chùi tường và đồ gỗ trong bếp. Đôi khi tình cờ bằng khóe mắt mụ trông
thấy Oleg khi hắn thả lỏng và không kiểm soát vẻ mặt, và lúc đó mụ hiểu, hắn cần
một nỗ lực lớn nhường nào để không biểu lộ cái sự tởm lợm vì mùi và sắc máu. Hắn
là trợ thủ quên mình và can đảm của người mẹ trong các việc đi săn của mụ.
Và lần này, mụ mang về một con lợn rừng. Con lợn rừng khổng
lồ xông thẳng đến mụ. Dakhno bắn cách hai chục bước và trúng vào trán con thú,
nhưng tốc độ của nó lớn đến mức nó vẫn tiếp tục lao về phía trước, và chắc khối
thịt nửa tấn sẽ đè bẹp người đàn bà. Dakhno không nhớ đã bắn lần thứ hai như thế
nào, và hoàn toàn không hiểu, làm thế nào trong trạng thái mất trí trọn vẹn vì
khiếp sợ vẫn bắn trúng vào mắt con vật. Thế nhưng mụ nhớ rất rõ cái nỗi kinh
hoàng đã trải qua. Chân vẫn run thậm chí ngay cả bây giờ, khi đã ngồi trong bếp
và đang uống trà với Oleg. Tất nhiên, hẳn mụ thích gì đó mạnh hơn thay cho trà,
nhưng không thể uống trước mắt thằng trai mười bảy tuổi. Tại sao ấy mụ ngại làm
lộ sự yếu đuối của mình.
- Mẹ đã sợ lắm nhỉ? - Oleg hỏi, ngó vào mắt mụ.
- Phải, con ạ, có gì mà giấu. Cho đến giờ vẫn chưa hồi lại,
- Dakhno trả lời trung thực.
Oleg đứng lên, mở tủ lạnh và lấy chai vodca đã mở nắp.
- Chúng ta làm mỗi người một li nhé, mẹ? Mẹ cần thư giãn,
không thì sẽ chẳng ngủ nổi đâu, - gã con trai nói khi lấy ly trong tủ và làm đồ
nhắm bằng bánh mì cặp thịt.
- Cảm ơn, Oleg yêu quý, - mụ thở phào đầy biết ơn. - Mẹ thực
rất muốn uống nhưng đã ngại.
Oleg bỏ dao xuống, đi lại gần Dakhno, áp má vào má mụ.
- Con là con trai của mẹ. Không bao giờ mẹ cần e ngại vì
con, nghe chưa? Bởi vì mẹ là mẹ của con, và mẹ luôn luôn là người tốt nhất, xứng
đáng nhất, đúng đắn nhất, thông thái nhất đối với con, dù mẹ có gây ra điều gì
đi nữa.
- Cảm ơn, con ngoan. - Mụ âu yếm vỗ lên mái tóc rậm, vuốt má
và vai của hắn. - Mẹ đánh giá cao thái độ của con đối với mẹ. Nhưng có thể, con
không nên uống cùng mẹ chăng?
- Thứ nhất, uống một mình là bất nhã, đó là dấu hiệu của sự
nghiện rượu, - Oleg cười to. - Còn thứ hai, con sợ không ít hơn mẹ đâu khi tưởng
tượng điều gì có thể xảy ra. Mẹ là người dũng cảm, nhưng dẫu sao mẹ cũng cần giữ
mình. Con không muốn còn lại mà thiếu mẹ.
Dakhno cảm thấy một cách vật chất, tâm hồn mụ tách đôi ra
như thế nào. Một nửa hiểu rằng đó là trò chơi khéo, sự bắt chước cái điều mà
vào thời điểm này người cùng trò chuyện đang chờ từ Oleg. Thằng bé là nhà tâm
lí học hiếm có, tinh tế nhất nắm bắt được tâm trạng của những người khác và
trong nháy mắt tổ chức hướng hành vi của bản thân phù hợp với những chờ đợi đòi
hỏi cao nhất, với những tiêu chí cao nhất. Không vô cớ tất cả, không có ngoại lệ,
đều yêu quý hắn. Qua bốn năm - không một hành vi, không một lời mà vì chúng có
thể phủ nhận hắn.
Nhưng nửa thứ hai của tâm hồn mụ thực muốn tin làm sao, rằng
tất cả mọi thứ đó là sự thật, rằng Oleg đích thực là đứa con dịu dàng, quan
tâm, nhạy cảm, sùng mộ mẹ, rằng hắn là một cậu bé tài năng, có chí hướng, đứng
đắn, trung thực!
“Chớ yếu mềm, -
Dakhno luôn luôn tự tay giật bản thân, - không
thể tin hắn, chính ngươi hiểu rất tuyệt rằng hắn là thứ gì rồi. Hắn là kẻ do
ngươi giáo dục, nhưng không bao giờ hắn trở thành con của ngươi. Hắn diễn vai
con yêu chỉ để buộc ngươi trở thành bà me ân cần thôi. Nhưng sao mà muốn tin
vào...”.
* * *
Hai năm trước... Lần đầu tiên Dakhno đem theo Oleg đến trường
bắn.
Thường thường mụ đi tập một mình, con trai sống theo lịch
riêng và học bắn vào thời gian khác và ở những nơi khác, về các thành tích thể
thao của Oleg, Dakhno chỉ biết từ những lời của hắn, và từ những giấy khen và
cúp mà hắn vẫn hay đưa về nhà. Ngoài bắn súng còn có bơi, vật, cờ vua.
Kết quả của cuộc tập bắn chung làm mụ choáng váng. Oleg bắn
không chỉ đơn thuần là tốt. Hắn bắn tốt hơn cả mụ. Nhưng Dakhno bị chấn động
hơn bởi một cảm giác hoan hỉ trước đây chưa hề biết, rằng có ai đó lại bắn tốt
hơn so với mụ. Trong nhóm người quen chưa bao giờ có người nào sánh ngang mụ, mụ
luôn luôn là thứ nhất, tốt nhất, đã là nhà vô địch, mụ là thước đo. Và ý nghĩ rằng
sớm hay muộn sẽ tìm được người sẽ phá các kỉ lục của mụ làm mụ khó chịu. Hoàn
toàn bất ngờ, mụ đã tìm ra con người ấy, và còn bất ngờ hơn nữa là mụ lại thật
sự muốn khóc vì sung sướng. Sung sướng trước cái điều là có ai đó vượt hơn tài
nghệ của mình chỉ có thể là những người thầy chân chính và các bậc cha mẹ
thương yêu con.
- Cảm ơn con, - mụ lắp bắp, ôm Oleg và giấu mặt để che đi những
giọt nước mắt tứa ra.
- Vì gì ạ? - gã kia kinh ngạc.
“Vì rằng đã cho ta khả
năng trải qua cảm giác sung sướng và tự hào không thể tưởng này về con. Vì rằng,
có lẽ ta thực sự yêu quý con”, - Dakhno thầm nghĩ, nhưng nói đùa thành tiếng:
- Vì đã không làm hổ danh người mẹ vô địch.
- Ôi, mẹ nói gì vậy, con còn xa mới với đến mẹ. Đó là hôm
nay quỷ ru con, đơn giản là gặp may thôi. Lần thứ hai con sẽ không có kết quả
như thế đâu. Nhưng con đã rất gắng, nói thật đấy ạ. Con luôn luôn muốn giống được
như mẹ, vậy nên những kết quả của mẹ - đối với con đó là lí tưởng cần vươn tới.
* * *
... Một năm trước... Lần đầu tiên sau nhiều năm Dakhno đã phản
bội chồng. Và không phải đơn thuần phản bội, mà say mê đến mất trí, si đến mức
nhiều khi mất cả sự thận trọng.
Sớm hay muộn điều đó cũng sẽ xảy ra. Mụ đi với tình nhân đến
nhà nghỉ của mình, vốn tin chắc rằng chồng đang trực ban, còn con đang ở những
giờ học tại Học viện Công an. Khi trên thềm vang lên những bước chân và giọng
nói, Dakhno đã chết lặng. Ông chồng không nên biết mụ có tình nhân, điều này có
thể trở thành tai họa đối với tất cả. Từ khi còn là sinh viên, Dakhno đã biết
cách gợi lên cho ông ý nghĩ về những ưu thế khác thường về tình dục và gảy sợi
dây đàn ấy, nhanh chóng biến anh bạn cùng khóa thoạt đầu thành tình nhân, sau
đó là chàng rể, còn sau nữa là thành chồng. Thực tế, ông là người không đặc biệt
khỏe, nhưng tồi tệ hơn - ông là một bạn tình vụng về và không muốn học gì cả.
Mà cần gì phải học cơ chứ khi vợ đoan chắc rằng mọi việc tuyệt vời đến thế - thực
không cần mong gì tốt hơn.
Rơi vào mạng lưới dối trá, Dakhno nhẫn nại chịu đựng những
nghĩa vụ vợ chồng, luôn bày tỏ niềm khoái lạc và sự thỏa mãn, bởi mụ nhớ: có thể
bất cứ là gì, chỉ không có sự cắt đứt và li dị. Không, không, trong bất kì trường
hợp nào cũng không được cho phép điều đó, ông ấy biết quá nhiều về văn phòng và
quá cần cho Arxen. Trong trường hợp đụng độ đành phải “dọn” ông ấy đi.
Dakhno dồn mọi sự can đảm đáng khen của mình, khoác áo
choàng và nhảy từ buồng ngủ ra phòng ngoài. Trên cửa là Oleg và một tiểu thư
đáng yêu mặc bành tô da dài với chiếc khăn quàng cổ xanh ngọc bích quấn buông
thả. Trên mặt tiểu thư hiện rõ nụ cười giễu cợt không che giấu. Dakhno đến đây
bằng xe của tình nhân, và cái cảnh là cạnh nhà có chiếc xe lạ, còn từ phòng ngủ
nhảy ra một mụ xồn xồn trung niên đầu bù tóc rối trong cái áo choàng cài cúc sơ
sài và với bộ mặt méo xệch vì hoảng hốt không để lại khả năng cho sự lí giải mập
mờ. Rõ ràng tiểu thư buồn cười với ý nghĩ rằng, người đàn bà xấu xí không còn
trẻ này cũng làm tình y chang các chủ nhân trẻ tuổi với những thân hình thanh
thoát và tuyệt mĩ.
- Oleg, hãy đưa bạn vào phòng khách, mời cô ấy uống gì đó và
hãy vào phòng làm việc của bố. Chúng ta cần nói chuyện, - Dakhno nói lạnh lùng.
Mụ ngồi trên chiếc ghế hành sâu trong phòng làm việc của chồng
và cố tập trung ý nghĩ. Bằng bất cứ giá nào cũng phải kéo cho được Oleg về phía
mình, hứa với hắn tất cả những gì hắn muốn, chỉ mong nhận được sự im lặng của hắn.
Có thể, bịa vội ra một sự dối trá nào đó, viện đến nhiệm vụ của Arxen?
Oleg vào phòng và im lặng dừng lại trước mụ.
Chỉ mấy tích tắc thôi họ không nói một lời, nhìn vào nhau,
nhưng mấy tích tắc ấy là đủ cho hắn hiểu tâm trạng bà mẹ và nhanh chóng định hướng.
Hắn quỳ gối xuống trước ghế bành, cầm lấy tay Dakhno.
- Mẹ, con rất mừng cho mẹ. Qua bảy năm chưa lần nào con thấy
mẹ đẹp với cặp mắt rực sáng thế này! Mẹ là một phụ nữ khác thường, thế mà mẹ thấy
cái gì trong đời mình? Ông bố buồn chán, công việc buồn chán, con buồn chán. Bố
của chúng ta là người tuyệt vời, ông đôn hậu, đứng đắn, trầm tĩnh, nhưng mẹ đôi
khi ít ra cũng cần giải trí, nếu khác, mẹ sẽ hoàn toàn chán ngấy. Nói thật, con
rất mừng là đã tìm được một người biết đánh giá mẹ, trí tuệ của mẹ, vẻ đẹp của
mẹ, sự phi phàm của mẹ. Và mẹ có thể hoàn toàn yên tâm, bố sẽ không biết gì
đâu. Hơn thế, nếu sau này con có thể có ích gì cho mẹ, mẹ có thể dựa vào con.
Trên đời chưa sinh ra người đàn bà nào mà không thể mua được
bằng sự tâng bốc. Vấn đề chỉ ở mức độ tinh tế của sự tâng bốc ấy. Một thằng đểu
trẻ tuyệt vời. Hiện thân ước mơ của người mẹ.
* * *
…Một tháng trước
- Con đã hỏi ý kiến của bác Arxen chưa?
- Rồi. Bác nói rằng cần phải làm một người trung bình cứng.
Từ chối việc thực tập tại Tổng cục điều tra Moskva là ngu ngốc, điều đó sẽ đập
ngay vào mắt. Nhưng cần làm sao để nhận xét về kì Thực tập là đáng khen, nhưng
để cho họ sau nửa năm không nhận con về làm việc.
- Tại sao?
- Con cần cho bác Arxen ở khu Bắc. Thậm chí nếu con qua thực
tập ở Cục điều tra Moskva, dù thế con vẫn sẽ nhận sự phân công ở khu Bắc. Bác ấy
có kế hoạch của mình.
- Biết làm sao, bác Arxen rõ hơn...
* * *
... Một tuần trước...
- Hãy bớt sự khéo léo đi, con yêu. Không cần trông có vẻ quá
thông minh. Xét qua thông tin mà chúng ta có, Naxtia nói chung không mộc mạc thế
đâu. Liệu đừng để cô ta nhìn ra con.
- Mẹ bảo con giảm vòng quay?
- Chính thế đó.
- Tuân lệnh, thưa tướng quân! Ôi, sự nhạy cảm của mẹ đúng
là...
* * *
Những tiếng súng vang lên cùng một lúc. Larsev rũ xuống như
bị phạt ngang, còn Oleg khuỵu xuống từ từ, người dựa vào thành cửa. Dakhno chưa
kịp nhận thức điều gì xảy ra thì chuông cửa đã vang lên. Tiếng sủa dữ lợn của
Sezar lập tức đáp lại. Ông chồng có chìa khóa, nên đó không phải là ông ấy. Mụ
không định mở cửa cho bất cứ một ai.
Chuông lại réo lên lần nữa, Sezar sủa to hơn, sau đó có tiếng
đập cửa, vọng vào những giọng nói:
- Hãy mở ra, công an đây!
Sau mấy giây những cú đập càng dữ hơn, Dakhno hiểu ra rằng,
công an chẳng rõ xuất hiện từ đâu đang phá cửa. Tại sao họ ở đây? Chẳng lẽ
Oleg? Đâu đó đã lầm lẫn, bị lộ, gây ra ngờ vực và kéo theo “đuôi”? Ôi Oleg, con
yêu, sao con lại thế chứ! Mụ muốn hét lên. Mụ quá thường xuyên nhìn thấy cái chết,
như một bác sĩ và như một thợ săn. Oleg đã chết, chẳng còn nghi ngờ gì nữa.
Oleg, kẻ được mụ dạy dỗ mà với thời gian mụ đã xem như con ruột, mà sau đó đã
yêu như con, đứa đã cho mụ sống những phút giây hạnh phúc với những cảm giác
sâu sắc, với niềm tự hào, cho mụ cảm thấy sức quyến rũ đặc biệt của tình bạn và
tình chiến hữu giữa mẹ và con. Qua tám năm này mụ đã trải qua bao nhiêu niềm
vui, mà trong toàn bộ cuộc đời quá khứ của mụ không thể gom nổi. Chưa bao giờ
có ai như Oleg biết cách yểm trợ vào những phút nghi ngờ, an ủi những phút đắng
cay, vào thời điểm cần thiết nói những lời cần thiết. Và cứ mặc mọi điều dù nó
không thật, cứ mặc đó là trò chơi khéo léo, tinh vi, nhưng mà đã từng có, từng
có! Và đã từng vui sướng làm sao!...
Nhưng trừ Oleg vẫn còn ông chồng, và có cả chính mụ, và cả
ba chục năm cuộc đời mà mụ cần được sống trong những điều kiện bình thường chứ
không phải trong hang hốc.
Cảnh cửa bị phá rên lên ken két. Tiếng sủa của con Sezar trở
nên khản đặc và khò khè. Dakhno thực muốn tru lên và kêu khóc. Mụ cảm thấy một
nỗi đau sắc ngọt trong ngực và ngất xỉu.
* * *
Đêm khuya ngày 30 tháng 12, Naxita với vẻ thỏa mãn khi xác định
được rằng trò chơi của Coloboc và chị đã cho một số kết quả. Con người với giọng
nhung mượt đã gọi điện thoại đều đặn, lịch sự xin lỗi vì đã không thể phái
Diacov đến chỗ chị, hỏi có cần gì đó thêm để kết thúc tốt nhất vụ án hay không,
và không nói gì có ý chỉ trích.
Thính giác nhạy cảm của Naxtia nắm bắt trong giọng lão ta sự
căng thẳng tăng dần mà lão che giấu khá khéo léo. Hiện thời mọi thứ trôi chảy
như chị đã nghĩ: kéo dài thời gian, phô trương sự sẵn sàng hợp tác trọn vẹn nhằm
cứu sự sống của mình khỏi Larsev đang nổi cơn điên.
Nỗi hoảng sợ bao trùm lấy chị trong những ngày gần đây, đã
tan đi dưới những tia sáng nóng bỏng của cường lực, không phải của con người mà
trong đó tình thế quay trở bất ngờ đã kìm giữ Naxtia. Chị đã sẵn sàng làm tất cả
bất kì điều gì, chỉ làm sao cho không xảy ra chuyện gì với Nadia. Bất kì chuyện
gì. Mặc cho án mạng không phá nổi, mặc cho bọn tội phạm thoát khỏi trách nhiệm,
mặc cho người ta đuổi việc chị, chỉ mong sao không hại đến đứa bé.
Nhưng Naxtia sẽ không phải là Naxtia, nếu cho phép xúc cảm
chèn ép trọn vẹn những lợi ích nghề nghiệp. Có thể làm thế nào để vụ tội phạm dẫu
sao vẫn bị phá hay không? Có thể hay không, khi làm tất cả những gì có thể và
không thể cho cô bé, mà vẫn tóm được ít ra là một tên giết người?
Giải xong một bài toán lại đẻ ra nhu cầu giải bài tiếp theo.
Cùng với Alexei chị phác họa ra một số sơ đồ cho phép thực hiện mối liên lạc
không tiếp xúc. Chị cảm thấy tối ưu là cái sơ đồ mà trong đó đã khởi động một số
nhân viên của đầu mối liên lạc (theo ước tính của họ, không quá bốn người) và
thêm một nhân vật sống ở địa phận của đầu mối này phục vụ. Bắt đầu óc lo giải
quyết bài toán đơn thuần để giết thời gian, Naxtia đi đến một kết luận đáng buồn
là chị đã rơi vào những nỗi lo sợ tồi tệ nhất. Tạo một hệ thống như thế để chống
lại sự điều tra chỉ một vụ án hình sự là điều hết sức phi lí như bao năm dệt một
tấm thảm treo tường với bao hình vẽ phức tạp rồi chỉ một lần đem nó gói rác
trong nhà để vứt đi. Nghĩa là Larsev không nhầm, chị có việc với kẻ trung gian,
kẻ không có mối quan tâm máu thịt trong vụ án Victoria.
Kẻ trung gian này là ai đây? Tên phụ trách câu lạc bộ
“Variac” mà Diacov phụ thuộc ư? Hoàn toàn có thể. Gradov quen với hắn, chúng sống
chung một tòa nhà, điều tự nhiên là trong tình huống cấp thiết, Gradov đã nhờ
chính hắn. Còn nếu không phải là hắn thì là ai đây? Và trong trường hợp ấy
Fictin với bọn Variac của mình có vai trò gì?
Ý nghĩ làm Naxtia lo lắng là chị có thể làm quẫn trí kẻ
trung gian được bao lâu bằng những đòi hỏi tìm cho được Diacov. Vào một thời điểm
nào đó sự lừa dối của chị sẽ bị phanh phui.
Còn điều gì xảy ra sau đó - mới nghĩ đã ghê sợ.
Diacov bị bắt và bị giấu kín một cách chắc chắn trong xà lim
ngay thời điểm khi hắn lên tàu để rời khỏi Moskva. Các nhân viên chuyên trách hẳn
đã nhận được thông tin là Diacov đã cho tất cả mọi người biết việc hắn đi và
báo trước rằng hắn sẽ không có mặt ở nhà ba, bốn tháng. Kẻ đi trốn sẽ không xử
sự như thế, họ xét đoán, rất giống rằng đơn giản nhất là người ta định khử
Diacov và chuẩn bị cơ sở để mọi người không lao đi tìm hắn ngay. Vì thế gã trai
được kèm chu đáo tới toa tàu, cho những kẻ đưa tiễn, nếu như có những kẻ như thế,
tin chắc là hắn lên tàu thuận lợi, và một phút trước khi tàu chuyển bánh, họ đã
đưa hắn qua chỗ nối toa không làm việc trên tuyến về phía khác của đường ke đón
khách.
Khi Gordeev qua điện thoại bắt đầu hát với chị về việc “ai
đó đang ép chúng ta từ trên xuống”, Naxtia lĩnh hội được rằng Coloboc cũng cảm
thấy ý tưởng về kẻ trung gian có khả năng và đã có ý đồ làm tên này xích mích với
Gradov. Còn chị, về phần mình, đã thử thúc đẩy kẻ trung gian với Fictin, buộc
chúng tìm kiếm Diacov một cách vô hiệu quả. Trong khi người ta tìm hắn, có thể
cho rằng Nadia vẫn được an toàn. Tất nhiên nếu người ta chưa làm gì ngay với
cháu bé. Nhưng vào bất kì phút nào cũng có thể nổi lên sự thật về việc bắt giữ
Diacov, và kẻ trung gian sẽ hiểu rằng Naxtia đang dắt mũi hắn. Chị không thể
không biết về sự bắt giữ, vì điều đó xảy ra khi chị chưa bị cách li nghiêm ngặt
như hôm nay. Giờ đây toàn bộ hi vọng chỉ trông nhờ Gordeev, nhờ rằng ông có thể
ngăn chặn sự rò rỉ thông tin về Diacov, dù chỉ một Chúa biết, ông sẽ làm nổi điều
đó bằng cách nào, nếu tại Petrovca những kẻ đưa tin của tên trung gian gần như ở
mỗi phòng làm việc, cứ cho là, chí ít trên mỗi tầng và ở mỗi đơn vị. “Có thể, mọi thứ chưa chắc đã đáng sợ như thế,
- chị tự an ủi, có thể, Larsev do hoảng sợ
đã phóng đại số lượng của chúng, tất nhiên có chúng, điều đó miễn nghi ngờ,
nhưng nhóm người gồm những tên quái thai này dẫu sao thì cũng ít hơn nhiều”.
Nhưng trong khi chúng còn chưa tìm ra Diacov, điều đó gieo được phần nào hi vọng.
Chí ít, cho Naxtia thời gian nghĩ được thêm gì đó để kéo dài.
Chị không hề có ý nghĩ rằng cháu bé bị giữ trong trạng thái
hôn mê và mọi thứ diễn ra “với sự chính xác đến ngược lại”. Nếu tới sáng không
tìm được Diacov, Arxen sẽ có chỉ thị làm cho con bé một mũi tiêm nữa. Trong khi
Diacov là mối nguy tiềm năng đối với lão, lão cần giữ đòn bẩy tác động đến
Larsev. Mũi tiêm ngày mai có thể sẽ là cuối cùng đối với con bé. Nếu như Naxtia
biết được điều này...
* * *
Trong đêm 30 tháng 12, Fictin cấp tốc rời căn hộ của mình,
ngồi lên chiếc Gưguli tầm tầm và phóng đến phố Xtalevarov, nơi Xlavic tay đua
xe đang sống. Nửa giờ trước đó bọn trẻ mà hắn phái đi xử lí những người của
Arxen đang ẩn trong cái trại đóng cửa nghỉ đông, gọi điện thoại cho hắn và bối
rối báo rằng đã phát hiện thấy ở đấy có một đứa bé bị ốm. Thoạt đầu chúng đã
nghĩ là nó ngủ, nhưng không thể đánh thức được, rõ ràng nó đang bất tỉnh.
“Con tin, - Fictin
lạnh người. - Giờ thì ta sẽ bắt ngươi nhảy
nhót, đồ nhăn nheo hôi thối. Ngươi sẽ ăn một cái dép vào mõm!”
- Hãy đưa con bé đến chỗ Xlavic, nó sống một mình, - chú
Colia ra lệnh.
Cả đêm hắn ngồi canh cô bé, cố làm nó hồi tỉnh, nhưng hoàn
toàn không kết quả. Mạch chậm, nhưng đều. Nó không mở mắt và không có phản ứng
đối với tiếng nói.
Đến sáng Fictin định gọi cấp cứu, hắn đã dừng lại chỉ vì thiếu
một huyền thoại: đứa trẻ là thế nào và từ đâu nó lại có mặt ở nhà Xlavic. Kể về
cái trại thì khác gì tự sát: ở đấy bao nhiêu là máu, cứ như ở lò mổ súc vật ấy.
Có thể nói rằng người ta nhặt được nó ngoài đường, nhưng trường hợp quá là lạ,
cầu Chúa để người ta không báo với công an, mà thu xếp với công an thì hiện giờ
Fictin không tiện.
Hắn đã gần như rơi vào tuyệt vọng khi cô bé bắt đầu hơi nhúc
nhích, đến khoảng 9 giờ sáng, nó mở mắt và cố nói gì đó, nhưng cặp môi của nó
chỉ phát ra tiếng khe khẽ không nghe nổi. Chú Colia phấn khởi lên chúi ít. Hắn
khó tưởng tượng họ giúp cô bé bằng cách nào, nhưng đã đọc ở đâu đó rằng sau khi
bị đánh thuốc mê (mà hắn không nghi ngờ gì rằng đó là thuốc mê hoặc gì đó rất
giống) cần uống nước thật nhiều để thuốc cùng với chất lỏng thoát ra khỏi cơ thể.
Những chai nước khoáng đã sẵn sàng, chú Colia đã cử Xlavic đi lấy nó từ rạng
sáng.
Cho cô bé khi thì nước, khi thì trà ấm, hắn đã có thể lấy được
những lời đầu tiên từ cô bé:
- Bố cháu đâu?
- Thế bố cháu là ai, bé con? - Fictin hỏi ngọt ngào.
- Công an, - cô bé thì thào. - Bố làm ở Petrovca, trong điều
tra hình sự. Gọi bố để bố đến đón cháu đi.
- Chú sẽ gọi bây giờ. - Fictin đón lấy ngay. - Hãy nói số điện
thoại và tên bố.
Đó là cơ hội không tồi. Con tin của Arxen - con gái của cán
bộ công an. Nghĩa là, lão ta làm các việc của lão như thế đấy. Chà, giờ thì hắn,
Ficlin, sẽ thay Arxen ra lệnh cho những gã công an này và áp đặt ý chí của mình
cho họ để giúp chủ nhân. Nếu may ra thách giá được với công an, Gradov trăm năm
sẽ không quên rằng chú Colia làm được điều mà lão già cau có không thể.
Số điện thoại do con bé cho, không có người trả lời.
- Thế thì cần gọi đến nơi làm việc, - cô bé mấp máy khó khăn
và đọc số điện thoại khác.
Nhưng ở cơ quan cũng không có bố của Nadia.
- Anh ấy sẽ đến muộn hơn, - người ta trả lời Ficlin. - Ai hỏi
anh ấy ạ?
- Người quen. Anh ấy đề nghị tôi gọi sáng nay.
- Hãy để số điện thoại của anh lại, anh ấy sẽ gọi sau.
- Anh ấy biết số của tôi, - chú Colia nói dối. - Thế khi nào
có thể gọi để gặp được anh ấy?
- Tôi không thể nói với anh, tôi không biết.
Fictin rót thêm trà nóng vào cốc cho Nadia và nói vẻ an ủi:
- Đừng thất vọng, bé ạ, bố đi làm việc ở đâu đó. Rồi sẽ gọi
được cho bố, và bố sẽ đến đón cháu.
Nhưng con bé cảm thấy tồi tệ, khi thì nó bị nôn, khi thì đi
tả, nó bất chợt xanh tái người và đẫm mồ hôi. Rõ ràng, những phương tiện trợ
giúp y tế kiểu xó bếp là không đủ. Còn chỗ ông bố làm việc người ta vẫn trả lời:
- Hiện giờ chưa có anh ấy. Anh ấy sẽ đến muộn hơn.
Dần dần Fictin đã từ giã với hi vọng tìm ra đòn bẩy tác động
đến cán bộ điều tra tội phạm. Hắn có cảm giác rằng con bé sắp chết đến nơi trên
tay hắn, nhưng cần phải cố thách giá được gì đó từ nó. Dù chỉ một chút nhỏ
nhoi. Mà cần phải làm điều này sao cho nhanh nhất trong khi còn có thể giúp nó.
Không được để đứa bé chết. Biết sao được, khi đã không thỏa thuận được với công
an, có thể thử thỏa thuận với Arxen. Trao đổi con tin lấy lời hứa thực hiện hợp
đồng và giúp chủ nhân.
Fictin lao về câu lạc bộ, bởi vì hắn chỉ có thể nối liên lạc
với Arxen từ đó. Mấy lần hắn cố làm điều này từ những máy điện thoại khác,
nhưng không đạt được gì. Chỉ có chuông từ câu lạc bộ dẫn đến việc là sau một
khoảng thời gian Arxen sẽ gọi lại cho hắn. Fictin rất vội, bởi vì thời gian
liên lạc đã được thỏa thuận chính xác. Nếu hắn cần chuyển thông tin khẩn, cần gọi
trước sáu phút mỗi giờ chẵn. Trên đồng hồ đã 13h45. Nếu sau mười phút hắn không
kịp gọi, thì lời đáp cho bất cứ cú gọi nào cũng chỉ đến không sớm hơn sau một
giờ. Nếu kịp thì hắn sẽ nói chuyện được với Arxen chỉ sau hai mươi phút. Chú
Colia đã kịp. Khi hắn quay số, là 13h54 trên đồng hồ điện tử đặt trên bàn trong
căn phòng phía sau gian thể thao.
Lúc 14 giờ 15 điện thoại reo, và Fictin chồm lên nhấc ống
nghe.
- Anh không sao tìm ra Diacov nhỉ? - vang lên giọng giễu cợt
của lão già.
- Ông nhầm. Tôi đã tìm được con tin của ông. Và tôi có đề
nghị với ông. Tôi trả lại cho ông con bé, rõ ràng, ông rất cần nó cho những việc
gì đó. Đổi lại, ông sẽ làm đến cùng công việc của sếp tôi.
- Con bé nào? - Arxen kinh ngạc không vờ vĩnh. - Anh ba hoa
gì thế?
- Con bé từ trại trẻ, - chú Colia thốt ra khoái trá. - Và với
những kẻ canh giữ nó, tôi đã thu xếp xong. Giờ đây ông tìm chúng lâu đấy. Vậy
thế nào, ông tiếp nhận đề nghị của tôi chứ?
- Tôi không biết con bé nào cả và không biết trại trẻ nào, -
Arxen nói nhỏ và rành rẽ vào ống nói. - Và nói chung, Trecnơmo, đã đến lúc cút
mẹ mày đi cho rồi chăng?
Điều đó được nói chính xác với ngữ điệu y như trong các gia
đình thượng lưu Anh người ta vẫn nói: “Hôm nay thời tiết tuyệt thật, phải không
ạ?”.
Những tiếng tút ngắn trong ông nghe đã làm Fictin tỉnh lại.
Cả ở đây cũng hỏng, hắn nghĩ trong tuyệt vọng.
Hắn đã nhẫn nhục với việc là hắn không còn hiểu nổi Arxen và
hành động của lão, bây giờ hắn chỉ nghĩ làm sao đồng thời giúp được chủ nhân và
đứa bé. Và hắn quyết định quay lại chỗ Xlavic để một lần nữa cố gắng tìm ra ông
bố công an của Nadia.
* * *
Điều Fictin nói chẳng có gì là mới đối với Arxen. Đến sáng,
không chờ nổi điện thoại của bác sĩ, chính lão đã đến trại và nhìn thấy những dấu
vết của vụ chém giết. Cô bé trốn mất. Đoán đó không phải do bàn tay công an mà
của chú Colia và bọn trẻ của hắn không phức tạp mấy. Hẳn chúng đã phục kích
trong trại. Arxen vừa trở về nhà thì Dakhno gọi điện thoại và kể về thảm kịch
ngày hôm qua. Oleg chết, Larsev bị thương.
Mụ với chồng bị giữ cả đêm tại Petrovca, người ta hỏi cung,
làm sáng tỏ điều đó đã xảy ra thế nào. Mụ cố chịu đựng với sự lạnh lùng đổ mọi
sự cho Oleg. Nói ý là Larsev đi đến gặp gã chứ không phải đến gặp mụ. Y làm gì,
mụ không biết. Đơn giản nói là cần Oleg, và chờ hẳn hai giờ mà không hề giải
thích gì cả. Dẫu sao thì thằng bé cũng không còn nữa.
- Cô nghĩ sao, Larsev có sống nổi không? - Arxen hỏi.
- Chắc gì. Vết thương quá nặng. Nhưng thậm chí nếu người ta
làm phẫu thuật thành công cho hắn, tối thiểu hắn cũng bất tỉnh cả tuần, còn sau
đó sẽ là sự tàn phế, - cựu bác sĩ phẫu thuật tuyên bố một cách đầy uy tín.
- Thôi thì chí ít, nghĩa là tôi với cô có tối thiểu một tuần
để cô với chồng có thể tạm thời thu xếp mọi chuyện, - Arxen bình phẩm. - Nếu
Larsev sau một tuần có thể nói gì, điều đó đã không còn có thể giúp được gì nữa.
Được, cô bé, đến chiều tôi sẽ rõ mọi sự, lúc ấy chúng ta sẽ quyết cần hành động
thế nào. Còn hôm nay hãy phái thợ điện đi gỡ bỏ cái gì không cần thiết đi.
Valer là kĩ sư chính của trạm điện thoại và cũng được nuôi
dưỡng từ máng ăn của Arxen.
Vì những sự kiện ấy Arxen không thèm lo về Nadia nữa. Khi
Larsev vắng mặt còn lâu, nếu không là vĩnh viễn, bị bật khỏi cuộc chơi, thì
lão, Arxen, không cần con bé thêm nữa. Mặc Fictin làm điều gì hắn muốn với nó.
Hôm nay sau bữa trưa cái số điện thoại mà qua đó chú Colia và Gradov chủ của hắn
nối liên lạc với lão sẽ không còn hoạt động. Hôm qua Gradov cả buổi tối cố liên
lạc với văn phòng, nhưng Arxen đã không trả lời những cú chuông của y. Gradov
năng nổ thậm chí đã cố thông qua bè bạn công an của mình làm sáng tỏ, cái số điện
thoại kia là gì và đặt ở đâu, nhưng Dakhno, như luôn luôn, vẫn là cao tay. Chỉ
mỗi một mụ chịu trách nhiệm về sự phân bổ và thống kê những số điện thoại trống
tại trạm và cũng chỉ mụ cho những giải đáp chính thức. Chỗ mụ toàn bộ tài liệu
nằm trong một trật tự mà không thể đào bới được gì và không lần ra nổi. Về
nguyên tắc, lẽ ra đã có thể bỏ đi từ hôm qua, thông thường Arxen làm điều đó
ngay lập tức sau khi kết thúc mỗi hợp đồng, nhưng lão cần giữ liên lạc với
Fictin phòng trường hợp hắn tìm được Diacov. Giờ đây số điện thoại này không cần
thêm nữa.
Thậm chí người ta bắt Fictin hay Gradov, chắc nhất sẽ xảy ra
điều đó, không ai có thể tìm nổi Arxen bí ẩn, và tất cả những chuyện kể của họ
- Petrovca sẽ trông có vẻ mê sảng, được nghĩ ra để thanh minh và chối bớt một
phần trách nhiệm.
Thế nhưng cuộc trò chuyện với Fictin đã làm Arxen bực mình đến
mức không còn là trò đùa. Cái tay tội phạm này cho phép hắn điều gì nhỉ? Nghĩ
chuyện buôn bán với ta chắc! Ôi, hắn muốn gì cơ chứ! Đồ cứt đái răng sắt. Đã
lâu không ngửi mùi nhà đá, hẳn đã quên rằng chỗ của hắn là cạnh cầu tiêu.
Arxen bước ra phố, dạo đến chiếc máy điện thoại tự động gần
nhất, nhấc ống nói và bấm số 02.
- Anh cán bộ chỗ các vị, thiếu tá Larsev, bị người ta bắt mất
con gái. Đó là do Fictin, kẻ có hai tiền án đã làm, hắn sống ở địa chỉ: Đại lộ
Liên bang, nhà 16 dãy 3, - và cúp máy.
* * *
Cú điện thoại về con gái Larsev đến Petrovca khi chú Colia
còn chưa kịp rời câu lạc bộ. Bộ phận theo dõi vòng ngoài báo rằng cả đêm và một
phần lớn của ngày hắn ở địa chỉ trên phố Xtalevarov. Nhóm vây bắt được phái đến
ngay. Một giờ sau cuộc trò chuyện với Arxen, Fictin và chủ nhà Xlavic tay đua
xe hơi bị bắt, còn Nadia Larseva được đưa vào bệnh viện.
* * *
Từ sáng sớm ngày 31 tháng 12, Gradov đã tìm kiếm chú Colia.
Tonia nói rằng hắn đã đi đâu đó giữa đêm và cho đến giờ vẫn chưa về.
- Khi hắn về, hãy liên lạc ngay với tôi, - Gradov đề nghị.
Nhiều giờ qua đi mà Fictin không xuất hiện, trong câu lạc bộ
cũng không có hắn, và không ai biết hắn ở đâu. Những linh cảm xấu đè nặng
Gradov và y hiểu rằng mọi sự đang diễn ra có liên quan với sự từ chối của Arxen
khỏi việc thực hiện hợp đồng. Khoảng năm giờ chiều y lại gọi điện thoại về nhà
cho Fictin.
- Thưa anh Gradov, - Tonia nức nở - người ta bắt Colia đi rồi.
Trong thời điểm hoảng hốt, Gradov lĩnh hội kém, và y cần ít
nhất cũng mấy phút để hiểu rằng Fictin là ranh giới cuối cùng giữa y, Gradov và
các cơ quan luật pháp. Nên Fictin bị bắt, thì người cuối cùng sẽ là Gradov.
Theo thói quen cố hữu Gradov cố xác định trong nhóm thân cận của mình cái người
mà y có thể đưa vào và sẽ thu xếp tất thảy. Từ hồi bé y đã có người bố hiền hậu
che chở gần như đến tận ngày cưới, sau đó xuất hiện các thư kí, trợ lí, chuyên
viên, bọn bợ đỡ, cuối cùng là Arxen. Tất cả những người này cùng chung một giọng
khẳng định: “Đừng lo, chúng tôi sẽ thu xếp mọi sự, tất cả sẽ ổn thỏa thôi”. Giờ
đây y buộc phải nhìn thẳng vào một sự kiện khó chịu: sẽ không có ai chịu gánh
giúp những vấn đề của y cả.
Ý nghĩ tiếp theo đến trong đầu Gradov là phải chăng vấn đề
có phức tạp và không thể giải quyết như y cảm thấy hay không? Có thể, nó hoàn
toàn chả là gì? Cứ mặc nó, điều đó chẳng đe dọa y một cách đặc biệt khủng khiếp.
Thêm mấy phút suy nghĩ căng thẳng dẫn Gradov đến một kết luận không được an ủi,
rằng không thể tránh thoát việc bị bắt và nhà tù. Chú Colia tất nhiên là con
chó trung thành, nhưng như thế cũng chẳng nhẹ nhàng hơn. Hắn có thể làm gì
trong sự trung thành vô hạn với sự thông minh nghèo nàn của mình? Phương án thứ
nhất: co lại trong sự im lặng ngạo nghễ và không đưa ra một lời khai nào. Nhưng
đối với bọn thám tử ở Petrovca thì sự im lặng đã là dấu hiệu của sự đồng ý. Bằng
cái vẻ vô tội bị xúc phạm không thể lừa nổi họ. Khi đã im - nghĩa là sợ cung
khai, khi sợ nói - nghĩa là giấu giếm gì đó. Hay bao che cho ai đó. Phương án
hai: chú Colia sẽ nghĩ ra cách nói dối khéo léo mà với nó gánh chịu toàn bộ tội
lỗi, còn Gradov không hề có một chút dính líu nhỏ nhất đối với toàn bộ thứ ấy.
Điều đó hẳn là lí tuởng, nhưng toàn bộ bất hạnh là ở chỗ, Fictin ngu đần dù rất
cố gắng thì đơn thuần vẫn không đủ khả năng nghĩ ra sự dối trá khéo léo được
thêu dệt kĩ và chắc chắn. Vậy nên không có hi vọng với phương án này. Thứ ba,
Fictin, con chó lang thang, đồ bỏ đi không nhớ, ngay giây phút đầu tiên sẽ phun
ra tất cả những gì hắn biết về Gradov. Ở đây thì mọi sự rõ ràng và không thể có
hai ý kiến được. Hóa ra, theo suy nghĩ tỉnh táo, từ ba phương án có thể thì chỉ
có hai là hiện thực, và cả hai đều dẫn đến việc bị bắt và ra tòa. Vậy, với điều
đó thì tất cả cũng dễ hiểu.
Nhưng có thể, việc bị bắt và bản án, điều đó không đáng sợ lắm?
Có thể, vẫn chịu đựng nổi?
Gradov biết một cách chắc chắn rằng y không thể chịu nổi cả
xà lim lẫn trại cải tạo. Điều đó không cần phải bàn cãi. Sự phản cảm đầu tiên dấy
lên khi y còn là đứa bé mười một tuổi, lần đầu tiên được đi trại hè thiếu nhi ở
ngoại ô Moskva. Thời ấy đó là một trại hè tốt, một trong số trại hè tốt nhất
dành cho con em giới tinh hoa của Đảng, và thậm chí kể cả đối với bố của
Gradov, kiếm được vé cũng không phải đơn giản. Ngay ngày đầu khi vào buồng vệ
sinh của trại, Gradov nhìn thấy bệ xí vấy bẩn, hít phải mùi lẫn lộn của clo, nước
tiểu và phân. Hắn bị nôn thốc nôn tháo. Khi không thể chịu nổi, hắn cố thử lại,
nhưng mọi sự còn tồi tệ hơn: không những hắn bị nôn mà còn bị đái són ướt cả quần.
Mỗi một phút ở trại thiếu nhi đối với thằng bé là sự tra tấn, bọn trẻ nhạo cợt
hắn là kẻ đái dầm, mấy lần đánh hắn. Gradov không thể ăn, cái mùi nhà xí bám riết
lấy hắn khắp nơi, kể cả trong nhà ăn, hắn luôn cảm thấy lờm lợm. Hắn không thể
đi vệ sinh bình thường, mỗi lần hắn buộc phải nhịn đến cùng, còn sau đó đứng
trước sự lựa chọn đau khổ: hoặc nôn trong nhà vệ sinh hoặc chạy khỏi trại cố ra
đến khu rừng nhỏ gần nhất, hoặc tìm chỗ kín đáo trong địa phận trại với sự mạo
hiểm rằng có ai đó bắt gặp và sẽ đổ lên đầu bao lời nhục nhã lúc xếp hàng chào
cờ buổi sáng. Tất cả các vấn đề còn lại mờ đi trước vấn đề chủ chốt này, mà vấn
đề thì có ít đâu. Gradov hoàn toàn không thể sống trong tập thể, trở thành như
tất cả mọi người, thức dậy cùng với tất cả, đi đều tập thể dục, sau đó xếp hàng
chào cờ, ăn thứ cháo loãng khó chịu, những mẩu gân mẩu thịt rưới đầy chất béo hỗn
hợp.
Sau mười ngày bố mẹ đón Gradov đi khỏi trại. Ấn tượng đọng lại
mạnh đến nỗi nghe đến chữ “trại” là cậu bé run lên. Đến thời kì vào quân đội hắn
đã vững vàng hơn cả về mặt thể lực lẫn tinh thần. Hắn đã không còn bị nôn khi
thấy nhà xí công cộng và ngửi mùi của nó, hắn đã có thể ép bản thân nuốt thức
ăn tập thể và tránh thoát những lời chế nhạo và phỉ báng. Nhưng dẫu sao thì hắn
vẫn cảm thấy và dằn vặt từng phút một trong suốt hai năm bất tận của quân ngũ.
Thêm nữa, hắn không gặp may: trong đơn vị nơi hắn phục vụ, sự sa đọa khá phát
triển nên buộc phải chịu đựng vì nó cũng không ít.
Trải qua địa ngục quân ngũ, Gradov tự nhủ một cách cứng rắn:
“Bất cứ là gì, chỉ trừ nhà tù!” Y đã mang theo nỗi ghê sợ trước “trại” qua cả
quãng đời người lớn, và với năm tháng, nỗi kinh sợ này không những không yếu
đi, trở nên quen thuộc mà, ngược lại, càng củng cố chắc thêm. Tự do báo chí đã
đem theo vô số những ấn phẩm cả văn học lẫn tư liệu về điều gì “ở kia, trong trại
giam”. Gradov với sự hiếu kì bệnh hoạn trộn lẫn với sự khủng khiếp và tởm lợm đọc
sự thật ghê sợ về chế độ trong các cơ sở lao động cải tạo và rùng mình vì rằng
mọi thứ hóa ra còn tệ hại hơn so với những gì y có thể mơ thấy trong những cơn
ác mộng kinh hoàng nhất. Còn sau đó chú Colia đầy kinh nghiệm ngồi tù đã khẳng
định: tất cả là như thế, chỉ có điều trong thực tế còn quái đản hơn, bởi vì
không tiện viết ra lắm về một số thứ. Ví dụ trong một phòng cách li điều tra có
đến 30 - 40 người, ngủ thành ba ca và sử dụng hố xí ngay trước mắt nhau.
Gradov sợ nhà tù đến nỗi không còn sợ gì khác nữa trong cuộc
đời này. Khi hình ảnh nhà tù lấp ló lần đầu tiên, y không chút chần chừ, quyết
định giết Lusnicov. Bằng chính tay mình y nhét Eremina bất hạnh vào tù. Tất cả
thứ ấy đối với y là những điều vớ vẩn nhỏ mọn không đáng gì so với nỗi sợ hãi
đang thiêu đốt y. Đến lượt nhà tù lấp ló lần thứ hai, khi thằng ngốc Nikiforov
kia bắt đầu sấn đến với những ý tưởng mê sảng thú nhận tất cả và ăn năn. Lại
đành phải dọn gã khỏi đường đi để không quẩn lấy dưới chân.
Sau đó mối đe dọa nảy sinh từ phía Victoria, con gái của
Eremina. Gradov lại đã tiêu diệt cả cô, như thường lệ, dứt đứt sợi chỉ nối giữa
y với cái nhà tù đầy thù ghét.
Hôm nay, 31 tháng 12, ngay trước Năm mới 1994, Gradov chợt
nhận thức rằng y lại cố tìm xem còn có thể giết ai đó để một lần nữa thoát khỏi
xà lim. Và hóa ra rằng, ngoài y, chẳng còn giết ai được nữa.
Những phẩm chất xấu của Gradov thì có thể liệt kê lâu, bởi y
là kẻ vô đạo đức sâu sắc.
Nhưng thậm chí những kẻ vô đạo cứng rắn nhất cũng buộc phải
thừa nhận rằng, trong số những phẩm chất ấy, y không hề có tính lưỡng tự.
Sau hai giờ ngồi trong ghế bành ở ngôi biệt thự ấm áp của
mình, Gradov, tên sát nhân trực tiếp của Lusnicov và Nikiforov và là kẻ tổ chức
các vụ sát hại Victoria và Coxar, lần cuối cùng nhìn nòng súng lục nắm chặt
trong tay và từ từ nhắm mắt lại. Hai mươi ba năm y mang theo mình cái đó. Y
không bị sự ăn năn gậm nhấm, lương tâm không bị dằn vặt, chỉ đôi khi có những mối
lo ngại khuấy động, rằng đến lúc nào đó sẽ nổi lên bề mặt cái bí mật ghê sợ về
căn hộ của Eremina. Một nửa bí mật đã chết cùng Nikiforov hai năm trước. Nửa thứ
hai sẽ chết bây giờ. Sau mấy giây hắn từ từ nhấn cò súng.
* * *
Đến giữa ngày 31 tháng 12, khó khăn lắm Naxtia mới trấn tĩnh
nổi. Kẻ trung gian không gọi thêm lần nào nữa, từ Gordeev chẳng có tin tức gì,
và chị cảm thấy là đã đánh mất trọn vẹn định hướng trong khi sự kiện đang diễn
ra. Chị nằm trên đi-văng quay mặt vào tường, cố vứt bỏ sự ớn lạnh thần kinh, và
tính các phương án.
Chuyện gì có thể xảy ra? Chúng đã biết về Diacov chăng? Nếu
thế, có thể chờ là sắp có chuông cửa và Larsev điên loạn với khẩu súng trong
tay sẽ xông vào phòng. Còn có thể xảy ra gì nữa?
Như cố ý, những hồi chuông điện thoại cứ đổ dồn: bạn bè và
người quen chúc chị nhân dịp Năm mới. Chị rùng mình với mỗi hồi chuông như bị
điện giật, tim bắt đầu đập thon thót đâu đó trong cổ họng, lòng bàn tay đổ mồ
hôi. Còn chúng thì mãi vẫn không gọi...
Khoảng tám giờ tối, rốt cuộc Coloboc cũng xuất hiện. Giọng của
ông buồn buồn:
- Công việc thế nào rồi, Naxtia?
- Bình thường ạ, - chị đáp sao cho bình thản nhất. - Thế chỗ
chú?
- Chỗ bọn tớ thì tồi tệ. Morozov đã chết. Thực tập viên
Meserinov của cô cũng vậy. Larsev bị thương nặng, tôi sợ không qua nổi.
- Ôi Chúa tôi...
Hai chân của Naxtia khuỵu xuống, chị buộc phải tì tay vào tủ
để không ngã.
- Khủng khiếp làm sao! Chuyện gì xảy ra thế, chú Gordeev?
- Kể thì dài lắm. Nào con gái, hãy đem theo thiên tài tóc
hoe của mình và đến chỗ chúng tôi. Nadia của tôi đã nướng và nấu cho cả một đại
đội lính, dù sao cũng là ngày lễ mà.
- Thưa chú Gordeev, tôi không thể, nói thực đấy.
- Có thể, Naxtia yêu quý ạ. Không còn ai canh giữ cô nữa
đâu.
- Thế nào... Chú nói gì.... - chị lắp bắp kinh ngạc.
- Thế đấy. Fictin đã bị bắt, con gái của Larsev được giải
thoát rồi, còn nghị sĩ Duma Gradov đã tự giải quyết số phận của mình, không cần
sự trợ giúp của chúng ta.
- Nghĩa là?
- Tự tử.
- Vậy nghĩa là xong ư? Mọi sự đã kết thúc?
- Đã kết thúc. Hoàn toàn không như chúng ta muốn, nhưng đã kết
thúc. Sao cô lại im lặng thế?
- Tôi đang khóc ạ, - Naxtia thốt ra qua nước mắt. Sự căng thẳng
vượt quá sức người đã buông tha chị khỏi móng vuốt chật cứng của nó, và xuất hiện
phản xạ.
- Thôi được, cứ khóc đi. Rồi sau đó mặc quần áo và hãy đến. Ở
đây chúng ta sẽ thảo luận mọi thứ.
Buổi đón mừng Năm mới trong nhà của đại tá Gordeev khá buồn.
Gordeev với bà vợ và Naxtia với Alexei đã uống sâm banh và uể oải chọc nĩa vào
những đĩa thức ăn ngon. Không ai cố làm ra vẻ là mọi sự đều ổn thỏa. Bà Nadia
có ba chục năm thâm niên làm vợ của nhà thám tử, hiểu tất cả không cần giải
thích và trong bất kì trường hợp thuận tiện nào đều rời khỏi bàn.
- Các vị hãy thổ lộ hết lòng mình đi, còn tạm thời chúng tôi
với Alexei đi xem phim. Hôm nay người ta đưa đến cho tôi cuộn băng của những
người được giải Oscar nào đó.
Naxtia ngẩng đầu và ánh mắt bắt gặp mắt của Alexei. Khuôn mặt
anh rất căng thẳng.
- Cứ để anh Alexei ở lại, - chị đề nghị Gordeev. - Anh ấy có
quyền biết.
Không ai dám khởi đầu cuộc nói chuyện. Cả Naxtia lẫn Gordeev
đều cảm thấy nặng nề và khó xử như nhau.
- Diacov và Fictin đã cung khai, - cuối cùng Gordeev thốt
ra. - Diacov, thằng nhóc, toàn bộ chỉ thế, mỗi gân bắp thôi, về tình huống
trong căn hộ của họa sĩ vẫn giữ giả thuyết cũ, hắn nói, ý là, một người đàn ông
nào đó đã đưa chìa khóa cho hắn và hứa trả tiền nếu hắn mang đến một lá thư từ
căn hộ của Cartasov. Tiếp nữa là theo một sơ đồ: tôi không biết, tôi không nhớ,
không trông thấy. Với cách bố trí như thế thì chả quy kết được gì cho hắn, nếu
như hắn nói y như đã nói với Cartasov, ý là, đã đến ăn trộm, có thể buộc hắn tội
có ý đồ ăn cắp với việc đột nhập vào nhà ở. Mà sự đột nhập vào nhà với mục đích
tìm lá thư không có giá trị vật chất, - làm gì được với hắn? Thằng Cuzin mà ở
nhà hắn người ta đã tìm thấy Nadia, hóa ra là chủ nhân của chiếc xe được sơn
chính xác y như màu của chiếc xe đã chèn Coxar, nên có thể thử múa may từ cái
lò sưởi này để gỡ mối những kẻ còn lại. Fictin thì có cứng đầu hơn. Bắt đầu cò
kè thách giá, hứa trao cho chúng ta một Arxen đầy quyền năng nào đó, kẻ đã tổ
chức tất cả các vụ giết người và bắt cóc cô bé. Đó là tạm thời hắn bao che cho
ông bạn Gradov của mình. Rồi tôi sẽ báo cho hắn rằng Gradov tự tử để xem hắn sẽ
cất lên bài ca gì. Tất nhiên chúng ta không tìm ra nổi một Arxen nào cả.
- Nhưng mà lão có thực cơ mà, - Naxtia nói nửa như hỏi.
- Có, tất nhiên, - Gordeev thở dài. - Nhưng kiếm lão như gió
trên đồng trống. Đã tan biến như bóng ma lúc bình minh. Cả số điện thoại mà
Fictin liên lạc với lão, cùng không tồn tại. Chỉ còn hi vọng vào Larsev. Nếu cậu
ấy qua khỏi thì có thể sẽ kể được gì đó. Ví dụ, cậu ấy đến nhà của tay thực tập
viên làm gì? Và tại sao họ lại bắn nhau?
- Tay thực tập viên là người của Arxen, - Naxtia nói chắc chắn.
- Giờ thì tôi khẳng định. Chính là hắn lấy mẫu chùm chìa khóa của tôi khi tôi từ
Italia trở về và lần đầu tiên nói đến Brizac. Đó là hắn đã ở chỗ bà góa Coxar,
lấy sổ ghi chép chỗ bà ấy và không trao cho tôi, bởi vì trong đó có số điện thoại
của Bondarenco. Hắn nói dối là đánh mất.
- Và thế thì sao? Larsev đã không chia sẻ điều gì với hắn?
- Có thể, Larsev biết được rằng Meserinov là người của lão
Arxen không bao giờ bị bắt kia, và nghĩ rằng hắn có liên đới đến việc bắt cóc
cháu Nadia? - Chị đề xuất.
- Có thể là cậu ta đã nghĩ, - Gordeev đồng tình. - Nhưng nếu
thế, tại sao chưa trò chuyện với hắn, cố thử tìm hiểu con bé ở đâu, mà đã bắn
ngay? Mẹ của Meserinov nói rằng họ không hề trao đổi lời nào. Còn một phương
án; Larsev có thể biết chính là Meserinov đã giết Morozov, vì thế đến để thanh
toán với hắn như với một tên phản bội. Ở đây thì không cần những cuộc nói chuyện.
Và đúng là bực mình: cánh trẻ của chúng ta chỉ chậm mất nửa phút, ngay từ cầu
thang họ đã nghe tiếng súng.
- Tôi không tin, - Naxtia lắc đầu. - Đến để giết ngay trước
mắt người mẹ ư? Ai cũng được, chỉ không phải là Larsev.
- Và tôi cũng không tin. Trước khi đi đến chỗ Meserinov,
Larsev đã đến Hội thợ săn và câu cá. Chắc nhất, cậu ấy cần gấp địa chỉ của
Meserinov, còn hắn có lẽ đã nói với cậu ta rằng mẹ của hắn là thợ săn, và hắn sống
trên đại lộ Lenin. Khả năng đi tìm địa chỉ như thế là đơn giản và hiệu quả hơn
so với việc quay về Petrovca và chờ tay thực tập viên hoặc thông qua Văn phòng
địa chỉ Trung tâm xác định địa chỉ. Còn những giả thuyết nào nữa không?
- Tạm thời không ạ. Nhưng tôi sẽ suy nghĩ. Tôi có cảm giác
không tốt thế nào ấy, rằng chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết nổi toàn bộ sự thật
trong chuyện này. Thế chuyện gì xảy ra với Morozov ạ?
- Naxtia ạ, với Morozov nổi lên câu chuyện không đẹp lắm.
Trong túi cậu ấy có cuốn sổ với những ghi chép về vụ Eremina. Hóa ra, cậu ta tiến
hành điều tra độc lập, đã giấu cô thông tin, có lẽ muốn tự tìm ra kẻ sát nhân.
Cô thì bị lún bùn, còn cậu ta rõ tất. Trong những ghi chép này có đủ tất thẩy
những gì trói Fictin và băng của hắn vào tội giết Victoria, vậy nên ít ra cũng
cảm ơn cậu ta vì điều đó. Nhưng rõ ràng, hôm qua đã xảy ra gì đó và cậu ta trở
thành cực kì nguy hiểm cho lão trung gian. Chính là gì thì giờ đây chẳng bao giờ
chúng ta biết được. Cậu ta không kể gì với Jerekhov, suốt thời gian chỉ chờ
tôi. Dù người ta không nói xấu về những người đã khuất, nhưng cậu ta là thằng
ngốc. Không thể vi phạm nguyên tắc trò chơi, nếu anh chơi trong một nhóm. Điều
đó bao giờ cũng kết thúc tồi tệ. Hãy lưu ý, chúng đã giết cậu ta, thậm chí
không thử làm rõ, cậu ta đã chia sẻ khám phá tiếp theo của mình với ai đó hay
chưa. Cô hiểu điều đó có nghĩa là gì không?
- Đó là biện pháp giáo dục định hướng nhằm chống lại cả tôi
trong số đó, - Naxtia đáp. - Ý rằng, chúng tôi không ném lời theo gió, cô đã hứa
là không còn ai thêm nữa định làm gì đó thêm về vụ án mạng Eremina, và đã không
thực hiện. Vậy đây là bài học trực quan cho cô. Chúa ơi, sao chúng quái vật đến
thế, nếu có khả năng giết người chỉ để chứng minh điều gì với ai đó! Meserinov
đã giết Morozov ư?
- Theo mọi nhẽ, có thể thế. Chí ít, đã tìm thấy khẩu súng lục
giảm thanh chỗ tên Thực tập viên, tuy vậy sự giám định mãi sau tết mới chuẩn bị
xong. Trời ơi, trời ơi, - Gordeev lắc đầu và mệt mỏi áp trán vào nắm tay, - chả
lẽ tôi đã không hợp với công việc này nữa? Với thằng bé thực tập tôi không nhìn
ra kẻ thù. Đã để lỡ Larsev. Mà chính bằng hai tay mình tôi đẩy cậu ấy vào mõm
con quái vật, mà không bảo hiểm nổi. Vẫn cứ hi vọng vào tính chuyên nghiệp của
cậu ấy và vào những người theo dõi vòng ngoài. Nếu họ không để lạc mất cậu ấy,
có thể mọi sự xoay chuyển khác đi chăng? Tôi không tha thứ cho mình cho đến khi
chết. Không phải lần đầu tôi để mất người, nhưng chưa bao giờ lại sai lầm thô
thiển đến thế.
- Không đáng tự hành hạ mình đến mức ấy, chú Gordeev ạ, -
Naxtia cố an ủi ông. - Nếu chú có đủ các trợ lí và sau khi bỏ mất Larsev, chắc
chú đã cử người đi đến cả chục địa chỉ cùng một lúc, hẳn đã ngăn chặn được bi kịch.
Chứ thế này...
- Cô biết lúc này tôi đang nghĩ gì không? - Gordeev bỗng sôi
nổi lên. - Tại sao Meserinov luôn luôn cản trở chúng ta xác định sự thật, đã vội
kể với tôi toàn bộ sự thật về Nikiforov?
- Tại sao vậy?
- Ồ tại vì tôi với cô chơi trò mò mẫm, thế mà vẫn đá thủng
gôn. Chúng ta đã gây ra xích mích giữa Gradov với kẻ trung gian, và lão đã
không giúp y thêm nữa. Cô nghĩ, chúng ta tình cờ hai tháng giẫm chân tại chỗ,
còn sau đó trong vòng một ngày đã tóm hết tất cả ư? Kẻ trung gian rời bỏ công
việc, và đó là kết quả. Chúng ta gây xích mích kẻ trung gian với Fictin, và nhờ
thế cứu được cháu bé, dù là bằng bàn tay của chú Colia.
- Hóa ra, thưa chú Gordeev, chúng ta cũng là những kẻ giật dây
điều khiển bù nhìn, như kẻ trung gian kia. Vậy chúng ta có gì tốt hơn lão?
- Câu hỏi đau, Naxtia ạ! Dù thừa nhận điều đó khó thế nào đi
nữa, nhưng trong công việc của chúng ta, không thể giữ được sự trong sạch đạo đức.
Cần nhìn thẳng vào sự thật, bởi vì những mẫu cổ tích đạo đức, chỉ tốt đối với bọn
ngốc thôi. Còn tôi với cô không là những tên ngốc. Mafia tất nhiên là bất tử,
nhưng những thám tử am hiểu hiện giờ vẫn chưa hết sạch. Và sẽ chẳng bao giờ hết.
Có thể, trong đó có một quy luật sinh học xã hội nào đó chăng? Alexei, dẫu sao
anh cũng là một giáo sư, hãy phán xét hộ chúng tôi với.
- Theo quan niệm chọn lọc tự nhiên, mafia sẽ trở nên cáo già
còn các thám tử sẽ vững vàng thêm. Những kẻ yếu nhất sẽ chết, kẻ mạnh nhất sẽ sống
sót, - Alexei đáp rất nghiêm túc. - Còn theo quan niệm toán học, các vị sẽ luôn
luôn tồn tại song song. Và sẽ không bao giờ giao nhau. Không bao giờ. Chúng
không bẻ gãy được các vị. Nhưng các vị cũng không đè bẹp được chúng.
- Ôi xin cảm ơn, đã làm tôi vui hơn, - Gordeev cười mỉa
không vui.
* * *
Rascova cắt một miếng thịt thăn nướng ướp gia vị ngon lành
và đặt lên đĩa cho chồng.
- Cảm ơn, bà nó ạ, - ông chồng nói và nâng cốc rượu. - Nào
chúng ta cùng uống chúc Năm mới, mong nó vẫn tốt như năm vừa rồi. Tôi với bà đã
già rồi, không muốn nhiều lắm từ cuộc sống. Cầu Chúa cho sức khỏe và những niềm
vui bình lặng là quý rồi, phải không bà?
- Phải lắm ông ạ, - Rascova đồng tình. - Nào, chúc Năm mới
và chúc cho chúng ta. Dẫu sao cũng bốn chục năm với nhau, dễ đùa đâu. Dù ông là
người nghiện tem thư điên rồ, nhưng tôi vẫn yêu ông.
- Và tôi cũng yêu bà, - Arxen mỉm cười và bằng những ngụm nhỏ
uống cạn cốc rượu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét