Giấc Mơ Bị Đánh Cắp
Tác giả: Alexandra Marinina
Người dịch: Nguyễn Văn Thảo
Nhà Xuất Bản Công An Nhân Dân - 09/2004
Chương 5
Ngồi ở cuộc họp buổi sáng chỗ Gordeev, Naxtia nhìn trộm các
đồng nghiệp của mình, quay đi trở lại với ý nghĩ: ai trong số họ? Một số chị biết
rõ hơn, số khác - biết ít hơn, nhưng không hề nghi ngờ một người nào lại là kẻ
lừa đảo và phản bội.
Dosenco. Thám tử trẻ nhất của Gordeev, người cao, mắt đen.
Đôi khi ngây thơ và cảm động đến nực cười, còn đôi khi làm kinh ngạc bởi sự tỉnh
táo của lí trí và sự khéo léo chuyên nghiệp. Luôn ăn mặc lịch sự, chải chuốt,
quần áo là ủi kĩ. Có lẽ, toàn bộ tiền lương được ném vào quần áo. Nhưng lẽ nào
ăn mặc đẹp là tật xấu? Nắm được Dosenco chỗ nào? Bằng tiền ư? Phải, có lẽ thế.
Hay bằng đàn bà. Nhưng cậu ta độc thân, vậy nên không thể tống tiền cậu ta được,
họa chăng tống tiền cô ta, nếu cô ta có chồng.
Corotcov. Sống với vợ, con trai và mẹ vợ bại liệt sau cơn đột
quỵ trong căn hộ hai phòng tí xíu. Nhiều năm xếp hàng đợi phân nhà, đến giờ vẫn
chưa đợi nổi. Giờ đây việc xây dựng của nhà nước đã bị giảm bớt, mà để mua được
nhà thì lương công an chẳng bao giờ đủ. Naxtia rất thân với anh, luôn luôn biết
rõ những phi vụ ái tình, những chiến thắng nho nhỏ và những bi kịch be bé của
anh. Corotcov rền rĩ than vãn hết với chị, còn chị an ủi anh và cho những lời
khuyên thông thái mà chủ yếu quy lại là để, cầu Chúa, đừng làm tổn hại đến gia
đình. Một năm rưỡi nay Corotcov có cuộc tình ổn định với một phụ nữ vốn là nhân
chứng một vụ án mạng. Vốn đa tình, nhanh bùng cháy và chóng tắt, anh đã phá vỡ
kỉ lục của bản thân về độ bền trong mối tình này. Chị tình nhân của anh có hai
con trai, và Corotcov quyết định dứt khoát là chờ đợi khi bọn trẻ lớn rồi, anh
sẽ cưới chị ta. Anh có cần tiền không? Cần, mà cần rất nhiều cơ. Điều đó có
nghĩa hay không để anh đi tới chỗ phản bội?
Xeluanov, một trong những cán bộ có kinh nghiệm nhất trong
Phòng của họ, một người thích đùa, khôi hài, bày trò, đôi khi thô lỗ. Nhưng có
thể ngay lập tức thay đổi, trở nên nghiêm nghị, lao đến giúp đỡ, dù điều đó có
thể anh phải trả giá như thế nào. Xeluanov đã li dị, chị vợ không chịu nổi tính
cách khó chịu của anh cùng với ngày làm việc không có chuẩn mực, đã đem các con
đi với anh chồng mới về Voronej. Naxtia biết rằng đôi khi, lừa dối ban lãnh đạo
một cách trắng trợn và tỏ vẻ như đang làm việc, Xeluanov bay về Voronej để sống
với các con mấy tiếng đồng hồ và ngay trong chiều hôm ấy quay về. Sau mỗi chuyến
đi anh lại say khướt và hai ba ngày sống u ám và trầm cảm. Anh ta chăng? Biết
đâu những chuyến đi này liên quan với việc thực hiện những nhiệm vụ của ai đó,
chứ không phải chỉ là muốn gặp các con?
Lexnicov, người điển trai được thừa nhận, người làm tất cả
các phụ nữ trẻ ở 38 Petrovca sầu gan héo
ruột. Khác với Xeluanov khôi hài và mở rộng lòng mình với bất cứ ai, Lexnicov
hiếm khi mỉm cười, luôn kín đáo và rất nghiêm nghị, thậm chí là một kẻ khó gần.
Naxtia hoàn toàn không biết gì về cuộc sống gia đình của anh ngoài việc anh đã
lấy vợ lần thứ hai và mới trở thành ông bố. Có phải anh ta là con ngựa đen hay
không? Có thể nắm anh ta ở chỗ tự cao, ở chỗ thăng tiến trên bậc thang danh vọng...
Những suy tư không vui của chị bị thủ trưởng cắt đứt.
- Cô Naxtia, tôi đang hỏi cô đấy. Tỉnh dậy đi.
- Tôi nghe đây, thưa chú Gordeev, - Naxtia rùng mình.
- Hãy kéo thực tập viên Meserinov vào công việc, cô sẽ là
người hướng dẫn cậu ta. Từ ngày hôm nay cậu ấy chịu sự quản lí của cô.
Từ góc phòng đối diện, học viên trường Cảnh sát Moskva vai rộng,
tóc sáng đang mỉm cười với chị.
Sau buổi họp Naxtia dẫn Meserinov vào phòng làm việc của mình.
- Hãy dùng cái bàn trống, Meserinov, đó sẽ là chỗ của anh
trong một tháng. Có thể gọi tôi đơn giản là Naxtia.
- Thế chị sẽ dạy tôi thế nào, như ở trường à?
Naxtia nhún vai.
- Tôi không rõ lắm người ta dạy anh như thế nào trong trường.
Không loại trừ là anh sẽ không thích phương pháp của tôi. Lúc ấy thì hãy xin đến
với một ai đó khác. Để bắt đầu, chúng ta sẽ kiểm tra xem anh có biết tư duy
trong hệ thống nhân cấp không đã.
- Đó là gì ạ? - Thực tập viên nhíu mày.
- Tôi đang suy nghĩ một chữ. Ví dụ như, họ của một diễn viên
điện ảnh hay đạo diễn nổi tiếng. Nhiệm vụ của anh - đoán xem là ai và thế nào.
Anh có quyền hỏi tôi bất cứ điều gì, nhưng với một hạn chế: các câu hỏi phải được
thể hiện dưới dạng mấy giải pháp khác nhau bao quát tất cả mọi phương án để tôi
không thể trả lời anh “chả cái này cũng chả cái kia”. Ví dụ anh có thể bắt đầu
từ câu hỏi: “Đó là đàn ông hay đàn bà?”. Không thể có phương án thứ ba. Rõ
chưa?
- Hình như, - Meserinov gật đầu vẻ thiếu tin tưởng.
- Vậy thì bắt đầu đi.
- Đó là đàn ông hay đàn bà?
- Đàn ông.
- Họ của ông ta bắt đầu bằng phụ âm hay nguyên âm?
- Tốt, - Naxtia khen. - Bằng phụ âm.
Nhưng lời khen là hơi sớm. Đến câu hỏi thứ ba thì Meserinov
nghĩ rất lâu.
Naxtia không giục cậu ta, im lặng sắp xếp vô số ghi chép
trên bàn.
- Tôi không biết cái gì tiếp theo, - cuối cùng cậu nói.
- Hãy nghĩ đi, - không ngẩng đầu, Naxtia đáp.
- Nhưng tôi không hiểu, cần điều đó để làm gì. Một sự ngốc
nghếch thế nào ấy. Tôi nghĩ, chị sẽ kể về những đấu pháp tác chiến hay giao nhiệm
vụ gì đó...
- Tôi sẽ giao. Có thể. Nhưng trước tiên tôi cần khẳng định
được là anh biết suy nghĩ đã. Không nhất thiết làm điều đó một cách nhanh
chóng, chính tôi cũng suy nghĩ chậm. Hãy nắm được bài học thứ nhất: khi anh
đang ở chỗ làm việc, anh sẽ không thể chọn lựa những bài toán mà anh không
thích, và từ chối không giải quyết cái gì không hợp sở thích của mình. Anh phải
sẵn sàng giải bất cứ bài toán lôgíc nào nảy sinh trong quá trình phá án. Không
ai khác làm điều đó thay cho anh. Còn nếu anh nghĩ rằng công việc của nhà thám
tử - đó chỉ là phục kích và bắt giữ, thì tôi phải làm cho anh thất vọng. Những
thứ đó sẽ là sau, gần về cuối. Còn khi trước mặt anh là một xác chết không ai
biết và không rõ vì sao bị giết, anh chẳng còn gì hơn ngoài việc suy nghĩ căng
thẳng, ai có thể và tại sao lại giết ông ta và làm cách nào để sáng tỏ và kiểm
tra điều đó. Vậy nên hãy làm ơn, nghĩ cho ra những câu hỏi cho đến khi giải được
bài toán tư duy, mà đồng thời cũng là luyện sức chịu đựng và sự kiên trì.
Thực tập viên nhíu mày và quay về phía cửa sổ. Dosenco ngó
vào phòng với cái tách bốc khói trên tay.
- Chị Naxtia, tôi có thể ngồi im trong phòng chị một chốc
không? Có người đến gặp Corotcov, họ cần nói chuyện mặt đối mặt, mà tôi thì vừa
pha trà xong...
- Hãy vào đi, anh Dosenco.
Dosenco là thám tử duy nhất của Phòng mà Naxtia gọi là
“anh”. Đó không phải là dấu hiệu tôn trọng đặc biệt đối với thượng úy Dosenco.
Giản dị là chính anh ta sùng kính Naxtia, coi chị là vô cùng thông minh và bao
giờ cũng gọi chị trang trọng, Xeluianov thậm chí vẫn nói đùa rằng thượng úy trẻ
đáng yêu thầm si mê bà Naxtia khắc nghiệt và vô tình. Tất nhiên là không phải
thế, nhưng chị chẳng còn cách nào khác, cũng phải gọi “anh” vì lịch sự và để
không rơi vào giọng điệu kẻ cả.
Chị nhanh nhẹn thu các ghi chép trên bàn, nhớ đến những lời
răn của Gordeev và đòi hỏi kiên quyết của ông là không bàn bạc với ai trong số
căn bộ của Phòng về tiến trình phá vụ án mạng Victoria. Chị mềm mỏng huyên
thuyên với đồng nghiệp về những chuyện vặt vãnh, than vãn đôi ủng cũ thấm nước,
còn đôi giày mới trong khi nước và bẩn nhiều thế này dưới chân thì chẳng mấy chốc
cũng hỏng, kêu ca rằng đã qua đi cái thời các cửa hàng bán những đôi ủng cao su
đủ màu sắc mà hẳn là rất hợp cho lúc này, tóm lại, chị “làm nhiễu khí quyển” để
không cho Dosenco khả năng nói về chuyện công vụ.
Sau một lúc Dosencov đi ra, còn thực tập viên ngồi im, vẫn
không nghĩ ra câu hỏi thứ ba. Cuối cùng cậu ta quay lại và thốt lên:
- Ông diễn viên này sinh ra ở Tây bán cầu hay Đông bán cầu vậy?
“Ơn Chúa, đã nhích khỏi chỗ, - đã bắt đầu nghi ngờ sự đúng đắn
về việc lựa chọn của mình, Naxtia nghĩ thầm nhẹ nhõm, - bây giờ sự thể sẽ tiến
nhanh hơn”.
Sự việc đúng là tiến triển nhẹ nhàng hơn, và sau một giờ rưỡi
của những nỗ lực khổ sở, Meserinov đã tiến đến Charles Chaplin.
- Chúng ta chuyển sang mức độ phức tạp thứ hai. Hãy lấy giấy
bút ra và ghi nhé...
Naxtia đọc cho cậu ta sự mô tả một tình huống khá thông thường
của việc phát hiện ra tử thi tại một nơi công cộng.
- Hãy sử dụng nguyên tắc chia đôi, lập cho tôi một danh mục
đầy đủ các giả thuyết. Có thể bắt đầu từ tình thế phải chọn lựa “tên sát nhân
quen hoặc không quen với bị hại”. Giả thuyết “không quen” bị loại bỏ vì những
tình thế tiếp theo: “tên sát nhân tình cờ hoặc được thuê”, và cứ thế tương tự.
Có hiểu không? Kết quả là anh phải có một sơ đồ, nơi mỗi ô vuông, trừ những ô
cuối cùng, còn được chia ra thành đôi nữa.
* * *
Naxtia cho vào xắc danh sách dài các bạn bè và người quen của
Cartasov với chỉ dẫn số điện thoại và nơi làm việc của họ. Nhiều họ tên đã được
đánh dấu bằng chữ thập, điều có nghĩa là họ đã được thẩm vấn. Nhưng dẫu sao thì
vẫn còn lại không ít...
Colobov, một người không cao, hơi gù, với bộ dạng luộm thuộm
và cặp mắt láu cá, trả lời các câu hỏi một cách miễn cưỡng.
- Vợ anh có những quan hệ thế nào với Victoria và Cartasov bạn
trai của cô ta?
- Thế nào, thế nào... - anh ta lầu bầu. - Bình thường. Với
Victoria đôi khi họ cắn xé nhau, còn với Cartasov thì hình như là không.
- Vì chuyện gì mà Lena cãi nhau với Victoria?
- Ai mà biết nổi họ? Đàn bà mà...
- Lena có kể với anh việc Victoria ốm không?
- Có nói.
- Hãy cố nhớ cô ấy đã nói gì, sao cho chính xác nhất.
- Đã nói gì à? Bao nhiêu thời gian đã qua, tôi không nhớ
chính xác nổi. Hình như đầu óc cô ta có vấn đề gì đó về những giấc mơ... Không,
tôi không nhớ.
- Hãy cố nhớ lại, lần cuối cùng anh nhìn thấy hay nói chuyện
với Victoria là bao giờ.
- Tôi không nhớ. Đã lâu. Khi ấy còn ấm, có lẽ vào tháng 9 hoặc
đầu tháng 10. - Nhưng làm sao anh lại nhớ là trời còn ấm?
- Trên người cô ta là bộ trang phục sang trọng. Cô ta đến chỗ
Lena, còn tôi lại đúng lúc định về, chạm nhau ở phòng ngoài. Victoria không mặc
áo choàng, chỉ áo vét thôi, nghĩa là đang ấm.
- Có thể cô ấy đi xe, vì thế không cần áo khoác?
- Có thể lắm - Colobov thốt ra không xác định. - Với con đĩ ấy
mọi chuyện đều có thể.
- Anh gọi Victoria là con đĩ. Anh không thích hành vi của cô
ta?
- Tôi thì có can hệ gì? Chỉ mong đừng quấy nhiễu thôi.
- Thế Victoria đã quấy nhiễu?
- Sao anh nói thế?
- Mặc dù vậy, anh đối xử với cô ta thế nào?
Lại tiếng gầm gừ không rõ và cái nhún vai. Không, rõ ràng
Colobov không thể là nhân chứng có thể mong muốn. Anh ta bán hàng trong một kiốt
suốt ngày trên ga Xavelovxki, làm một ngày nghỉmột ngày.
- Này, Victoria đến chỗ anh bao giờ chưa?
Rõ ràng Colobov không thích câu hỏi này. Sự mỉa mai biến mất,
anh ta cương lên và trả lời xít qua kẽ răng.
- Thế cô ta ra đó làm gì?
- Tôi không hỏi anh, cô ta cần gì ở đấy, tôi đang hỏi, anh
đã bao giờ trông thấy cô ấy trên ga Xavelovxki chưa. Và nếu anh trông thấy, thì
bao giờ, với ai, có đi lại gần kiốt của anh không và đã nói gì lúc ấy. Câu hỏi
rõ chứ?
- Cô ta không đến đó. Tôi chưa trông thấy lần nào.
- Thế có bao giờ anh đến chỗ cô ấy làm việc chưa?
Và cứ thế bất tận - “tôi không biết, không nhớ, không ở,
không thấy...”.
- Khi nào thì anh biết Victoria mất tích?
- Lena nói... cuối tháng 10, hình như thế. Chắc thế.
- Cụ thể cô ấy nói thế nào?
- Rằng Cartasov tìm Victoria, cô ta không đi làm và không có
ở nhà.
- Vào thời gian ấy vợ anh không đi đâu khỏi nhà chứ? Đến
thành phố khác hay đến chỗ bạn gái mấy ngày ấy?
- Hình như không.
- Hình như ư? Thông thường anh có rõ Lena ở đâu không?
- Thông thường - không. Tôi suốt ngày không ở nhà. Tôi làm
việc cách nhật, vì thế...
- Thế còn những ngày anh không làm việc?
- Tôi cũng không ngồi ở nhà. Và không kiểm tra Lena. Quan trọng
nhất - ở nhà sạch sẽ và thức ăn được chuẩn bị. Còn lại - không phải việc của
tôi.
- Cô ấy là vợ anh kia mà. Lẽ nào anh thờ ơ với việc cô ấy ở
đâu và làm gì à?
- Tại sao lại thờ ơ?
- Theo tôi, chính anh đã nói thế.
- Theo tôi, tôi không nói như thế.
- Cuối tháng 10 anh không đi đâu xa chứ?
- Không.
- Suốt thời gian anh vẫn làm việc cách nhật?
- Suốt thời gian.
- Đành phải đi ra ga, hỏi dân buôn bán địa phương về tay
Colobov này, - Naxtia nói trầm ngâm. - Sao đó mà anh ta giật nẩy mình khi bị hỏi:
“Anh ta có trông thấy Victoria trên ga hay không?”. Một người ra ga Xavelovxki,
người khác đến chỗ Lena. Nhanh lên.
* * *
- Có thể bao nhiêu lần nữa đây! - Lena than vãn. Đó là một
cô gái tóc sáng rất xinh xắn, mủm mỉm với cặp mắt xám to, thân hình mỡ màng và
cặp chân quyến rũ. Cố để lộ rõ cái eo thon nhỏ và cặp mông cân đối. Cô đã mặc
chiếc quần bò quá chật và cái áo len dài tay quá thoáng đãng. Thậm chí nói chuyện
với điều tra hình sự, cô ta cũng không thèm bỏ cái kẹo cao su đang nhai, vì thế
lời của cô ta, vốn thiếu nó cũng đã chậm, với các nguyên âm kéo dài, có vẻ đồng
thời vừa trẻ con vừa nhõng nhẽo.
- Các vị đã hỏi cung tôi bao nhiêu lần rồi.
- Tôi không hỏi cung cô. Đơn giản là chúng tôi trò chuyện với
cô, Lena? Hãy nói, tại sao cô bỏ việc và ngồi ở nhà?
- Colobov khăng khăng đòi thế. Anh ta cần một bà nội trợ, chứ
không phải một người vợ. Còn tôi thậm chí ở nhà thấy thích hơn là đi sơn tường.
- Và cô không buồn chán à?
- Khô-ông, không chán. Ngược lại, tốt lắm. Trước kia chưa
bao giờ tôi có nhà của mình, đầu tiên là trại trẻ mồ côi, trường nội trú, sau
là kí túc xá, thế nhưng giờ đây tôi suốt ngày dọn dẹp, lau sàn, chùi bụi, xả nước
vào bồn tắm. Tôi cũng rất thích nấu ăn nữa.
- Cần gì cô phải cố gắng thế khi chồng làm việc cách nhật
còn những ngày nghỉ cũng không ngồi ở nhà?
- Tôi cố cho chính mình. Tôi đúng là thích thú điều đó. Anh
chẳng thể hiểu đâu.
- Thế nấu ăn cho ai? Cũng cho bản thân?
- Cũng. Thức ăn trại trẻ mồ côi đủ với tôi rồi. Và sau nữa,
Colobov thích đưa khách khứa về nhà và bao giờ cũng không báo trước, cứ như cố
tình làm thế ấy. Nếu trong nhà không có gì để ăn là ầm ĩ lên. Vậy nên tôi bao
giờ cũng ở trạng thái sẵn sàng chiến đấu.
- Có trường hợp anh ấy đưa khách về mà chị không có nhà
không?
- Vẫn có chuyện đó. Tôi cũng không bị trói trong nhà này,
còn anh ta không nói trước, bao giờ về và về với ai.
- Vậy lúc ấy thì sao? Cũng gây gổ à?
- Khô-ông. - Mẩu kẹo cao su, loáng lên giữa những chiếc răng
nhỏ không đều, chuyển từ bên này sang bên kia. - Quan trọng đối với anh ấy là sự
sạch sẽ và tủ lạnh đầy, hâm nóng tự anh ấy có thể. Khi khách khứa ở nhà, nói
chung anh ấy không cần tôi. Đối với anh ấy, tôi cứ như một thứ đồ gỗ ấy.
- Và cô không phật ý à?
- Gì mà phật ý chứ? Tôi lấy chồng có vì yêu đâu. Colobov cần
một cô nội trợ, còn tôi cần nhà, là nhà mình, với căn bếp của mình, buồng tắm của
mình. Khi tôi sống trong kí túc xá Công ty xây dựng, tôi chẳng hề có một chút
hy vọng nào có nổi mái nhà riêng của mình.
- Hồi cuối tháng 10 chồng cô không đi đâu khỏi nhà chứ?
- Không, điều đó thì chính xác. Anh ấy không bỏ một ngày đi
làm nào.
- Sao cô biết?
- Tôi vẫn ra ga kiểm tra mà.
- Sao?!
Thuần túy là đáng sửng sốt. Ả mèo trắng mũm mĩm điệu đà này
cởi mở làm sao. Khó mà hiểu, đó là sự trơ tráo không che đậy, công khai chẳng
thèm vận áo quần tế nhị, hay là tính chân thật của một phụ nữ bị đẩy đến tuyệt
vọng không còn có thể và không muốn lừa dối bản thân và những người khác.
- Có điều anh đừng nói với anh ấy, nhé? Anh ta sẽ lập tức
đánh tôi, nếu biết. Xin hiểu cho, anh ta không đăng kí hộ khẩu cho tôi ở nhà
này, nên nếu anh ta có ý đồ li dị, tôi lại mục rữa trong kí túc xá mất thôi.
Năm ngoái anh ta có tình nhân, đúng là phi thực tế sao ấy, và tôi đã rất hoảng
sợ là anh ta sẽ vứt bỏ tôi và cưới cô ả kia. Lúc ấy anh ta cứ dối tôi luôn, rằng
người ta cử anh đi thành phố khác lấy hàng hóa, thực ra anh ta cứ quanh quẩn chỗ
ả kia, mà cũng có thể đi đâu đó với ả. Thế đấy, thế nên từ đó tôi luôn kiểm tra
anh ta: đang làm việc hay đã chuồn đi với đàn bà. Tất nhiên anh ta vẫn phản bội
tôi, nhưng điều đó thì mặc. Có điều đừng chìm sâu quá, để đừng xua đuổi tôi.
Bây giờ tôi sống như thế đó: 8 giờ sáng anh ta đi làm, sau hai giờ tôi bám theo
anh ta, ngó từ xa xa - anh ta ngồi trong kiốt thì tôi quay về. Gần tối tôi lại
đến một lần nữa. Tôi nói chính xác với anh, thời gian hai tháng gần đây anh ta
không bỏ mất một ngày làm việc nào. Thậm chí khi anh ta bị đánh tơi tả, thì
cũng chỉ nằm một ngày, ngày nghỉ của mình, còn ngày hôm sau với cái mặt bị băng
bó vẫn đi bán hàng. Có thể hiểu anh ta, trong kiốt ấy anh ta đâu phải ông chủ,
người ta trả phần trăm cho phần anh bán được hàng. Bỏ mất một ngày, sẽ nhận ít
hơn.
- Thế với người đàn bà kia thì sao? Cô đã nói, lúc ấy anh ta
bỏ nhiều ngày không làm việc.
- Ồ, cô ả có nhiều tiền, chắc ả dấm dúi cho thêm. Nhưng nói
chung, Golobov là kẻ tham lam, có thể bóp cổ vì một đồng xu, vì thế tôi mới dè
chừng khi biết được anh ta không đi làm. Tôi hiểu ngay, đó không phải một con
đĩ bình thường, loại mà anh ta thay xoành xoạch hàng ngày, mà là cái gì đó
khác. Đến bao thuốc lá anh ta cũng chẳng cho bọn gái đĩ của mình..
- Thêm một câu hỏi. Sao cô đã thôi việc mà vẫn có hộ khẩu
trong kí túc xá? Cô lập tức phải cắt hộ khẩu, đúng thế chứ?
- Khô-ông, tôi là trẻ mồ côi mà. Không thể cắt khẩu thiếu sự
đồng ý của tôi, thậm chí nếu tôi không còn làm ở xí nghiệp nữa.
- Rồi. Ta quay về chuyện chồng cô nhé. Tiện thể, anh ta
không kể vì sao lại bị đánh à?
- Chà, có mà kể. Nếu có kể thì cũng sẽ nói dối thôi. Vì thế
tôi chả hỏi anh ta gì cả, tôi không nhúng mũi vào công việc của anh ta.
- Hãy nói, anh ta không bao giờ nói là trông thấy Victoria
trên ga Xavelovxki chứ?
- Không, chưa hề có chuyện đó.
- Anh ta không hỏi cô xem Victoria làm việc ở đâu à?
- Có lần tự tôi đã nói với anh ta là cô ấy làm thư kí ở một
công ty. Còn anh ta không hỏi thêm chi tiết. Nói chung thì anh ta không có thiện
cảm với cô ấy.
- Tại sao?
- Ồ, anh ta cho rằng Victoria có thể ảnh hưởng xấu đến tôi.
- Về mặt nào?
- Say rượu và nói chung... Theo tôi, anh ta tức tối kinh khủng
vì Victoria kiếm được nhiều tiền hơn anh ta. Vì anh ta bao tôi, vì tôi chẳng có
một xu nhỏ nào và tôi phụ thuộc hoàn toàn vào anh ta. Vậy nên anh ta lo rằng
tôi sẽ đi theo con đường của Victoria, sẽ bắt đầu kiếm ra tiền và sẽ có thể mua
hay thuê được căn hộ riêng. Anh ta tìm ở đâu ra một con ngốc như tôi nữa? Không
một mụ đàn bà bình thường nào sẽ chịu đựng được lối sống này, anh cứ tin tôi
đi.
- Thế cô có ý định làm cái việc mà Victoria đã làm không?
Hay chồng cô lo sợ vô ích?
- Tất nhiên là vô ích. Anh ta là kẻ ngu nên đo tất cả bằng
thước đo của mình. Nhưng đầu tôi vẫn vững trên cổ. Thành như Vicioria - hẳn là
tôi không thể, mặt mũi không đạt. Còn để làm nghề điếm thông thường thì tôi đã
quá lứa. Nói chung nó không hợp với tôi. Tôi chỉ muốn quán xuyến chuyện nhà cửa,
nuôi con, chẳng cần gì hơn nữa. Colobov, đồ chó, hắn không muốn có con.
- Tại sao?
- Anh ta cần gì chúng? Phức tạp. Và nếu có con, sẽ không còn
dễ đẩy tôi về kí túc xá, anh ta biết luật, nên sợ rằng quyền lực của anh ta đối
với tôi sẽ hết.
... Cái gì níu giữ con người lại với nhau? Cái gì buộc họ phải
ở cùng nhau?...
* * *
Cái kiốt trên sân ga, trên giá mẫu - một tập hợp chuẩn các
loại rượu, thuốc lá, kẹo cao su và bao cao su. Người bán hàng - một thanh niên
độ hai mươi tuổi, da hơi đen, mũi khoằm, vẻ ngoài tương đối dễ thân thiện.
- Anh có biết Colobov không?
- Colobov hả? Có. Mà có chuyện gì?
- Anh có biết là khoảng một tháng trước, đầu tháng 11, ai đã
đánh anh ta thậm tệ không?
- Anh ta không nói, nhưng ai cũng biết. Mặt đầy xây xước.
- Thế anh không biết vì chuyện gì à?
- Anh ta không nói mà tôi cũng không hỏi. Chỗ chúng tôi
không chấp nhận điều đó. Đó là việc của họ.
- “Họ” là ai?
- Cứ như anh không biết ấy. Kiốt của Colobov bên kia đường,
của tôi - bên này. Phía kia do băng Bulurxcaia kiểm soát, còn phía bọn tôi -
băng Marinxcaia, tức của khu Marinxcaia Rossa. Thiếu gì chuyện xảy ra chỗ họ đằng
ấy. Chúng tôi không can thiệp vào.
- Nghĩa là anh nghĩ, đó là một vụ thanh toán?
- Thế còn là gì nữa chứ?
- Hãy nhìn tấm ảnh này. Đã bao giờ anh trông thấy cô gái này
chưa?
- Tôi không nhớ. Đẹp quá đi mất, lại có những cô như thế này
trên đời ư!
- Cảm ơn vì đã quấy phiền...
Kiốt tiếp theo.
- Colobov? Tất nhiên tôi biết. Chúng tôi ở đây biết nhau hết...
Bị đánh? Tôi nhớ, có chuyện đó. Chính là vào đầu tháng 11, chính xác. Không,
không biết. Colobov không kể. Tôi không thấy cô gái...
Thêm một kiốt, rồi một kiốt nữa và nữa... Và cứ thế tận chiều
tối. Không ai biết vì sao Colobov bị đánh và ai đã làm việc đó. Những người bên
phía Butưrxcaia đoan chắc rằng Colobov không dính một lỗi gì và không ai cần
thanh toán với anh ta. Vả lại, nếu như họ có nói dối và đánh Colobov đích thị
trên cơ sở những vụ buôn bán, thì chắc gì điều đó liên quan với việc giết hại
Victoria? Cũng không ai nhận biết cô gái trong ảnh. Thêm một ngày mất công toi.
“Chao, giờ đây thật cần Larsev” - Naxtia than thầm, - Chắc
chắn anh biết cách “xoay” Colobov và lôi ra từ anh ta sự thật về vụ đánh đập mà
không hiểu sao anh ta không hề nói với ai này. Một nhà tâm lí học có kinh nghiệm.
Larsev biết cách làm mở miệng thậm chí cả nhân sư, điều đôi khi không chỉ các
cán bộ của Phòng mà cả nhiều điều tra viên, nếu có dịp làm việc với anh, đã
hoàn toàn không ngại ngần lợi dụng. Làm rõ đến cùng chuyện ẩu đả và đặt dấu chấm
cho nó thì hay làm sao!
Chả hiểu thế nào Naxtia tin chắc rằng vụ đánh đập chồng của
Lena không có gì chung với vụ giết người, nhưng chị quen kiểm tra và nghiền ngẫm
mọi thứ đến tận cùng.
Chị vừa hé xin Gordeev giao cho Larsev trò chuyện với
Colobov. nhưng thủ trưởng nhăn mặt khó chịu:
- Hiện cô đã có bốn người, kể cả Dosenco nữa là năm. Còn thiếu
chuyện này. Larsev cũng đã quá tải rồi. Hãy tự mình xoay xở lấy.
Nhưng tại sao Colobov đã căng thẳng khi bị hỏi, Victoria có
đến nhà ga hay không? Hay đó chỉ là cảm giác của điều tra viên? Tất nhiên cũng
có thể là chỉ cảm thấy. Nhưng vốn không thích vứt bỏ giữa chừng cái việc đã bắt
đầu, Naxtia đành phải mất thêm một ngày để làm sáng tỏ tình huống.
Cùng với Morozov và thực tập viên Meserinov chị đã đi hỏi những
người bán vé, nhân viên nhà ga, cán bộ công an đường sắt, người bán quầy bar,
bác sĩ tại các trạm xá, công nhân đào hầm lò cạnh nhà ga đã hơn hai tháng...
Không gì cả.
Không ai nhớ nổi Victoria. Lại vẫn một sự trống rỗng.
* * *
Người đàn ông đứng tuổi được gọi giản dị là Arxen, đặt ống
điện thoại lên máy, ngẫm nghĩ mấy phút, sau đó lại nhấc nó và quay số. Không ai
trả lời lão. Lúc ấy lão nhổm lên khỏi ghế bành, đi sang phòng bên cạnh, nơi
cũng có máy điện thoại, và vẫn gọi theo số máy kia. Và vẫn những hồi tút dài
đáp lại. Arxen mỉm cười thỏa mãn, mặc chiếc áo khoác màu xanh đen, đi giày đế
cao có lớp lót bằng lông và bước ra đường. Qua hai dãy nhà, ghé vào bốt điện
thoại, gọi lại một lần nữa, không nhận được lời đáp và đi vào metro.
Qua nửa giờ sau lão đã ngồi trong một quán cà phê và uống rượu
“borj”. Đối diện lão là chú Colia đang nốc bia.
- Cần làm việc thêm nữa với chàng trai kia, - Arxen nói bình
thản.
- Sao, bài học đầu tiên không qua nổi à? - chú Colia nhướn
lông mày.
- Qua, đã qua, đừng lo, - Arxen cười mỉa vẻ bề trên. - Nhưng
cần phải bảo hiểm. Hình như, sẽ chóng thôi người ta sẽ gây áp lực lên cậu ấy.
Chúng ta cần phải làm việc đón đầu, vậy tốt nhất là nên nhắc cậu ta, cậu ta là
ai trên trái đất tội lỗi này.
- Chúng tôi sẽ nhắc, - chú Colia gật đầu và cười nụ cười kì
lạ của mình qua đó lóe lên những chiếc răng sắt đùng đục.
Người mà hôm nay nhiều người biết dưới cái tên là Arxen, thuở
nhỏ có tên thông thường nhất là Mitia, vốn là một cậu bé nghiêm nghị và trầm
tư, học giỏi và đọc nhiều. Ngay từ hồi còn nhỏ cậu đã bị ám ảnh bởi một nỗi sợ
hãi khó hiểu về sự trọn vẹn của thân thể mình, cậu rất sợ đau đớn, sợ tiêm, vết
xây xát, vì thế không chạy trên đường, không đuổi theo trái bóng với các chú bé
khác, không chơi với chúng trò đánh nhau hay trò nghịch ngợm khác, mà chỉ thích
ngồi ở nhà, giải những thế cờ và ngẫm nghĩ những ý tưởng nho nhỏ của mình.
Tuổi thơ của cậu trùng với thời kì hào hùng, khi tất cả các
chú bé đều mơ trở thành Papanin, Tscalov, Liapisev và Gromov (các anh hùng của
Liên Xô cũ những năm 30). Mitia cũng không phải là ngoại lệ. Nhưng người ta giải
thích với cậu rằng với sự yếu ớt, thiếu luyện tập thể thao và thị lực kém của cậu
thì tương lai vinh quang không dành cho cậu. Mitia bị dằn vặt vì điều này hoàn
toàn không lâu, bởi đầu óc cậu nhận được một cú thúc mới và bắt đầu đặt ra cho
cậu bé những câu hỏi mới. Những người thế nào thì hợp với công việc thế nào?
Người khuân vác cần mạnh khỏe. Thầy giáo cần phải kiên nhẫn. Phi công phải
không sợ độ cao... Câu hỏi hóa ra hấp dẫn đến nỗi Mitia đã tìm đọc những cuốn
sách chuyên về tâm lí học mà thời ấy đâu phải có nhiều. Người ta biết cậu trong
nhiều thư viện thành phố và luôn luôn với sự khâm phục nhìn cậu bé nhỏ nhắn, gầy
gò, đeo kính, nhiều giờ liền ngồi ở một góc phòng đọc với cuốn sách quý hiếm gì
đó.
Thời gian trôi đi, và đến thời điểm khi Mitia đã là cán bộ
Phòng tổ chức của KGB (ủy ban an ninh quốc gia), gã tự xem mình là người am hiểu
trong lĩnh vực định hướng nghề nghiệp. Thái độ trầm tư và có trách nhiệm đối với
mọi thứ gã làm đã thể hiện trong công tác. Gã luôn nói chuyện lâu với những người
xin vào làm việc, và thậm chí cho họ những lời khuyên rằng, ở đơn vị nào họ có
thể ứng dụng tốt nhất cho khả năng và thiên phú của họ. Gã có cảm giác rằng
đang làm một công việc cần thiết và quan trọng khi giúp phân bổ đúng các cán bộ
trong cái tổ chức quan trọng dường ấy, và bằng cách đó, dù là gián tiếp, đang
đóng góp phần mình vào sự củng cố an ninh của Tổ quốc.
Có lần, một cản bộ trẻ của Sở an ninh Moskva đến chỗ gã để
làm thủ tục vào công tác ở bộ máy trung tâm, vào Cục Tình báo ngoài nước. Theo
thông lệ, Mitia lại giải thích với anh kia những đặc điểm công việc ở nước
ngoài, nhấn mạnh sự cấp thiết cần tính đến nền văn hóa và truyền thống của nước
sẽ đến, đặc biệt trong tâm lí sinh hoạt, trong cách hành xử của mình. Tất cả
các phòng của sứ quán bị tình báo kẻ thù nghe trộm, tìm những khả năng chiêu mộ
công dân Xô viết, vì thế cần chú trọng đặc biệt các vấn đề gia đình, nói khác
đi - không cãi nhau với vợ và lại càng không được đánh cô ta, bởi nếu biết được
sự bất hòa trong cuộc sống vợ chồng, người ta có thể ngay đó dúi một cô bạn quyến
rũ cho người cán bộ sứ quán. Ứng cử viên cho chức vụ mới nghe lơ đễnh và bằng
những lời của mình cho thấy rằng, những lời khuyên của tay cán bộ tổ chức chẳng
đáng một xu, rằng anh ta, ý là, đã giải quyết tuyệt vời công việc ở Moskva thì ở
nước ngoài cũng sẽ không sơ suất. Còn anh ta làm gì với vợ mình thì chẳng đụng
chạm gì đến ai cả.
Mitia hiểu rất rõ rằng, người trẻ tuổi này - chắc chắn là đã
có những lời đánh giá xuất sắc, nắm vững hai thứ tiếng - sẽ không hợp cho công
tác tình báo ngoài nước. Anh ta hẳn sẽ tốt ở đây, trong môi trường Xô viết quen
thuộc của thành phố thủ đô, còn ở nước ngoài anh ta sẽ thất bại. Thế nhưng cố gắng
của Mitia trình bày những lí lẽ của mình với phụ trách đơn vị mà ứng cử viên
kia sẽ tới, đã vấp phải sự thô lỗ công khai. Người ta cho gã hiểu không lấp lửng,
rằng gã chỉ là một thư lại, là “con tốt đen”, việc của gã - ghim giấy tờ và dán
ảnh, chứ không phải là dúi mũi vào công việc tác chiến, vấn đề đã được quyết, mọi
thứ đã được đồng ý, chỉ còn một tờ quyết định nữa thôi. Sự phản ứng như thế đã
làm chàng kiểm tra viên phòng tổ chức choáng váng.
Nỗi oán hận như một cái đinh gỉ ghim sâu trong lòng gã.
Sau mấy ngày, ứng cử viên cho công tác ở nước ngoài được chở
đến trạm cai nghiện trong trạng thái say mềm với chiếc cặp lèn cứng giấy tờ mật
và thiếu thẻ công vụ, những thứ mãi không sao tìm ra được. Anh ta lập tức bị đuổi
khỏi cơ quan và bị chuyển sang tòa án. Và không ai biết rằng sự bổ nhiệm vào Cục
tình báo ngoài nước bị cắt đứt bởi vì Mitia đã ngồi vài buổi tối với các sách
chỉ dẫn về y học và dược học. Còn sau đó tìm ra những người cần thiết và trả tiền
cho họ. Tay cán bộ tổ chức rất hài lòng, rằng sự bổ nhiệm mà tự gã cho là không
đúng, đã không thành. Gã thậm chí không hề nghĩ đến việc là đã bẻ gãy cuộc đời
của một người vốn không làm gì xấu đối với gã và gã cũng chẳng hề có ác cảm gì
với anh kia. Gã bất ngờ cảm thấy một khoái cảm sâu sắc từ việc là dù thế nào đi
nữa thì mọi thứ cũng đã thành đúng như gã muốn. Đó là kinh nghiệm điều khiển
con người đầu tiên, và kinh nghiệm rất thành công. Mitia hiểu ra, nói chung
không nhất thiết đi khẩn cầu hay nện nắm đấm xuống bàn nhằm chứng minh lẽ phải
của mình. Có thể hành động một cách khác khi lập nên những xảo thuật tinh vi, bố
trí các nước đi như trong một ván cờ, giật những sợi chỉ vô hình và thỏa mãn
dõi theo các sự kiện được phát triển theo kịch bản, dù tất cả những người tham
dự các sự kiện này chân thành cho rằng họ hành động độc lập và tự nguyện. Các nạn
nhân không có ý nghĩa... Những con tốt trong trò chơi của người lạ. Trong trò
chơi của gã.
* * *
Bà vợ góa của Coxar, người chết bi thảm ngày 25 tháng 10 dưới
bánh chiếc xe không dừng được, là một phụ nữ cân đối trẻ hơn tuổi với khuôn mặt
dễ mến và mái tóc diễm lệ màu hạt dẻ thẫm. Bà niềm nở đón người điều tra viên
hình sự, nhưng thấy rõ rằng bà cố kìm giữ hết sức và cuộc trò chuyện này là nặng
nề và khó chịu đối với bà.
- Lẽ nào điều này có liên quan tới cái chết của chồng tôi? -
bà hỏi ngạc nhiên khi được hỏi về các sự kiện giữa tháng 10.
- Không, không có. Chúng tôi không chuyên trách điều tra các
tình huống vụ xe chèn ông nhà.
- Tôi hiểu thế mà, - bà thở dài cay đắng. - Theo tôi, nói
chung chẳng ai chuyên trách những tình huống này... Chẳng có ai rỗi hơi với một
Coxar nào đó. Nếu như anh ấy là một bộ trưởng hay nghị sĩ, các vị đã không chỉ
chạy loạn lên chỉ có thế.
- Tôi hiểu tình cảm của bà, nhưng xin hãy tin tôi, bà không
đúng đâu. Phòng cảnh sát khu Tây Nam phụ trách vụ xe chèn, còn tôi làm việc tại
Petrovca, ở Cục truy lùng tội phạm Moskva, và chúng tôi đang cố phá một vụ tội
phạm hoàn toàn khác.
- Anh Coxar thì liên quan gì tới điều đó? Anh là người trung
thực nhất, cả đời chưa hề lấy một xu của người lạ, không làm phật ý một con ruồi...
Người đàn bà bật khóc và nhanh chóng tự trấn tĩnh.
- Thôi được, xin hỏi đi.
- Khoảng ngày 10 - 12 tháng 10 có một người là Cartasov nào
đó có nhờ chồng bà dẫn đi gặp bác sĩ tâm thần để được tư vấn. Chồng bà có nói với
bà điều đó không?
- Vâng, tôi nhớ cuộc trò chuyện đó. Anh ấy nói ngay là sẽ cố
gọi điện thoại cho Maxlenicov, còn nếu không gọi được cho ông ta thì sẽ gọi cho
Golubev, bác sĩ quen khác.
- Ông Coxar có nói với bà, Cartasov có vấn đề gì không?
- Có nói. Đâu như bạn gái của Cartasov có ý tưởng rằng người
ta tác động lên cô bằng radio. Không, hình như không như thế... Xin đợi cho...
À thế này! Cô ta quyết rằng có ai đó ăn cắp giấc mơ của cô ta và kể trên radio.
Thế sẽ chính xác hơn.
- Gì tiếp theo?
- Anh Coxar ngay đó gọi điện thoại cho Maxlenicov, thỏa thuận
với ông ta. Tôi còn nhớ, Maxlenicov nói rằng hai, ba ngày tới sẽ rất bận, vì thế
chỉ có thể tiếp người quen của chồng tôi vào thứ sáu.
- Thứ sáu à? Bà có cuốn lịch nào đây không?
- Nó đây.
Bà góa Coxar chìa ra một quyển lịch nhỏ bà rút ở trong sổ
ghi chép nằm trên bàn. Trên lịch ngày 15 tháng 10, thứ sáu được khoanh bằng bút
chì.
- Bà có nhớ thứ sáu nào không? 15 tháng 10 hay muộn hơn, vào
22 tháng 10?
- Chắc là ngày 15. Vâng, chính xác. - bà ngó vào lịch. - Anh
thấy ngày được khuyên bút chì chứ?
- Điều đó có nghĩa là gì?
- Đó là lịch của anh Coxar. Anh luôn dùng nó. Bằng một màu
khuyên những ngày sinh nhật và những ngày kỉ niệm, bằng màu khác - những cuộc
thăm viếng đã thỏa thuận... Còn bằng bút chì bình thường anh khoanh các ngày
không có quan hệ riêng đối với anh, nhưng cần nói về chúng với ai đó, như trong
trường hợp với Cartasov. Anh Coxar, anh thấy đấy, luôn luôn lo phụ lòng ai đó
hay nhầm lẫn gì đó.
Người đàn bà lại chực khóc, nhưng kìm được.
- Đó là sổ ghi chép của chồng bà?
- Vâng.
- Có thể mượn nó một thời gian được không? Tôi nhất định sẽ
trả lại.
- Hãy cứ lấy, nếu cần.
- Thêm câu hỏi nữa, nếu bà cho phép. Bà luôn biết rõ công việc
ông nhà chứ?
- Dĩ nhiên. Chúng tôi rất yêu nhau...
- Ông ấy có nhiều bạn không?
- Nghe này, đừng làm nẫu lòng tôi nữa. Chuyện đó giờ còn ý
nghĩa gì đâu? Anh không nghĩ là ai đó trong số bạn bè đã nghiến anh ấy đấy chứ?
Và nói chung, anh nói là không chuyên trách vụ chèn xe...
- Mặc dù vậy, xin hãy nói, ông ấy có những người bạn mà ông
chia sẻ hết mọi vấn đề của mình?
- Phải, anh ấy chia sẻ hết với tất cả mọi người. Anh là người
cởi mở, quảng giao lắm!
- Nghĩa là, ông ấy kể về Cartasov và và cô bạn ốm của anh ta
không chỉ với bà?
- Anh ấy nói về điều đó thực tế là với tất cả những ai hôm ấy
anh trò chuyện cùng. Thậm chí với cả bà mẹ. Anh gọi điện thoại cho bà để hỏi
thăm sức khoẻ, còn sau đó nói: “Mẹ tưởng tượng xem, có những thứ bệnh gì cơ chứ!
Hôm nay một người quen gọi cho con...”. Ấy cứ thế tiếp theo. Không hiểu sao câu
chuyện với cô gái của Cartasov lại gây cho anh ấn tượng mạnh thế, anh còn nhắc
lại mãi về chuyện đó.
- Ông Coxar không kể gì hơn về Cartasov à?
- Không.
- Bà nhớ tuyệt đối chính xác chứ?
- Anh có thể khẳng định được là trí nhớ tôi rất tốt. Tôi nhớ
rất rõ về những gì liên quan tới anh Coxar. Sau khi anh mất, tôi lật lại trong
trí những giờ, ngày, tháng cuối cứ như điều đó làm anh sống lại ấy. Tôi có cảm
giác rằng chỉ cần nhớ lại được tất cả đến chi tiết nhỏ nhất cuối cùng thì anh sẽ
trở về...
* * *
Chiếc Volga màu be quành từ xa lộ Kievxki và đi về phía
Matveevxki. Nó dừng lại cạnh nhà bảo trợ tòa hội dành cho những người tàn tật
và già cả, và một người đàn ông chững chạc với khuôn mặt hấp dẫn có những đường
nét quý phái bước ra khỏi xe.
Người đàn ông tự tin đi vào tiền sảnh, theo thang máy lên tầng
bốn, đi dọc theo hành lang, không gõ cửa và bước vào một căn phòng.
- Chào bố.
Từ chiếc gối, cặp mắt nhập nhèm đục mờ trong đó loáng lên gì
đó tựa cái cười, ngó ông ta. Cặp môi già nua giần giật.
- Con à... Đã lâu không đến.
- Xin lỗi bố. - Người đàn ông xích chiếc ghế lại gần giường
và ngồi xuống. - Công việc mà. Buộc phải đi xa cả tháng, đang tiến hành chiến dịch
bầu cử. Bố cũng biết, sau mấy ngày nữa là bầu cử Duma rồi. Bố cảm thấy thế nào?
- Tệ lắm, con trai ạ. Con thấy đấy, ta nằm hầu như không dậy
được nữa. Tốt nhất là con đưa ta đi khỏi đây, ta rất không muốn chết trên cái
giường công cộng.
- Con sẽ đón đi, bố ạ, nhất định đấy. Để cho qua bầu cử, hết
việc chạy nháo nhào và loạn thần kinh - lập tức con sẽ đưa bố về nhà.
- Mong nhanh nhanh lên. Ta không sống được đến ngày đó...
Ông lão khép mắt lại. Trên đôi má nhăn nheo chảy dài giọt lệ
rồi lẫn vào những nếp da nhăn.
- Bố ạ, bố vẫn nhớ năm 70 chứ?
- Năm 70? Đó là khi với con...
- Vâng, vâng, - người đàn ông sốt ruột cắt ngang. - Bố nhớ
chứ?
- Nhớ. Sao lại không nhớ chuyện như thế cơ chứ? Mà sao? Con
bị quấy nhiễu à? Cái ông bạn của con mà con...
- Chuyện đó thì rõ rồi, - người con lại cắt ngang. - Thế còn
ai nữa?
- Thậm chí bố cũng không biết. Batưrov chết đã lâu.
Xmeliacov chăng? Nó có thể nhớ, nhưng cũng chẳng biết là gì đâu. Ngoài bố ra,
có lẽ không ai biết. Mà con hỏi để làm gì?
- Ồ, hỏi vậy thôi, phòng bất trắc. Tự bố biết, nếu đảng của
con thu được số phiếu cần thiết và con vào được Duma, sẽ tìm ra những kẻ mong
muốn, những kẻ thích cào bới trong đống giẻ bẩn.
- Con có kẻ thù không?
- Thời này ai mà không có chứ?
- Bố sợ cho con, con ạ. Đừng chui vào lò lửa này, con sẽ bị
đốt cháy mất.
- Đừng sợ, bố ạ, chúng ta sẽ vượt qua. Thôi, con đi đây.
- Đừng bỏ bố, con trai, đến thăm nhiều hơn nhé, được không?
Trên đời này ta chẳng có ai, ngoài con. Mẹ con đã chết, vợ ta cũng vậy...
- Đừng bi thảm hóa, bố ạ. Ngoài con, bố còn một con gái và một
con trai. Chính bố có lỗi, đã nuôi chúng lớn lên thành thứ đểu cáng, những gì tốt
nhất bố đã cho chúng, thế mà chúng vứt bỏ bố lúc tuổi già.
- Không nên nói thế, con ạ, gì mà con... - Giọng của ông lão
thực khó nghe rõ. - Ta đã làm cho con không ít, con hãy nhớ lại.
- Con thì con nhớ, - người con trả lời gay gắt. - Vì thế mà
con đến với bố. Thôi nhé, bố hãy vững vàng lên, muộn nhất là sau một tháng nữa
con sẽ đưa bố ra khỏi đây.
- Vĩnh biệt, con trai.
Chương 6
Có thể lập một phương trình mà trong đó bao hàm, không mâu
thuẫn với nhau, những mong muốn thầm kín của Cartasov và Lena thoát khỏi
Victoria, khi xóa ghi âm cú điện thoại bí ẩn trên băng ghi tự động và vụ
Colobov bị đánh mà thoạt đầu anh ta không kể với ai, còn sau đó phủ nhận hoàn
toàn? Naxtia, Trernưsev, Morozov, thực tập viên Meserinov và Dosenco, những người
đang mò mẫm, đã làm mọi điều có thể, khi đã hỏi cả loạt nhiều người, nhưng vẫn
không nhận được chứng cứ về việc hoạ sĩ Cartasov và Lena, tình nhân của anh ta,
có dính líu đến sự mất tích của Victoria. Thực ra, cũng không có được các chứng
cứ về sự vô tội của họ. Xác định chứng cứ ngoại phạm của ai đó sau mấy tuần sự
kiện xảy ra là việc không đáng tin cậy, nhất là khi nó kéo dài cả một tuần liền.
Vậy cô ở đâu cả tuần lễ này, hở Victoria, trước khi cô bị xiết cổ? Và tại sao
trên người cô có những vết đánh bằng sợi dây thừng to? Cô bị tra tấn, hành hạ?
Hình như đúng là cô bị bệnh và rơi vào móng vuốt một tên đểu nào đó. Kẻ đã lợi
dụng trạng thái của cô, còn cuối cùng đã giết cô. Chỉ có điều không hiểu, cú điện
thoại kia là gì...
...Naxtia chìm vào những suy tư chậm rãi khi ngồi trong
khoang vắng dành cho người hút thuốc trên chiếc máy bay đang bay từ Moskva đến
Roma. Khi đăng kí, chị là người duy nhất trong cả phái đoàn đề nghị cho chị chỗ
trong khoang thứ tư dành cho “người hút thuốc”, và giờ chị mừng rằng đã làm
đúng: nơi đây ít khách, còn chị thoát khỏi việc giao tiếp với các đồng nghiệp
và có thể sử dụng ba giờ rưỡi bay để suy nghĩ.
Và thế, Colobov. Trong lần nói chuyện lại đã kiên quyết phủ
nhận việc anh ta bị đánh, lấy cớ bị ngã từ cầu thang khi say rượu. Thế nhưng vợ
anh ta cũng quả quyết không kém, khẳng định chồng cô bị đánh, sự tự tin của cô
là khi anh ta về nhà hôm ấy đã nằm lên giường, ép hai tay lên bụng, co quắp người
và lẩm bẩm: “Lũ đểu. Lũ súc sinh”. Tất cả, trừ Naxtia và thực tập viên, có ý định
tuần tự “đánh quỵ” gã Colobov ương bướng, nhưng điều đó không đem lại kết quả.
Gã ngã, và chỉ có thế. Chỉ mất thời gian mà thôi. Thế nhưng trong khi đó người
ta nhận thấy rằng, càng kiên trì phủ nhận bao nhiêu, anh ta càng bệnh hoạn bấy
nhiêu phản ứng lại bất kì sự gợi nhắc nào về Victoria, bạn gái của vợ anh ta.
Cuối cùng người ta quyết định kiểm tra gã bán thuốc lá nhập khẩu háu gái có
liên kết với Victoria bởi những trò tình ái hay không, điều mà không hề một ai
biết. Có thể là trong vụ này mọi sự vốn đơn giản hơn nhiều và động cơ giết người
là sự ghen tuông? Như một giả thuyết - hoàn toàn được. Và lúc đó cú chuông điện
thoại có thể là Victoria thông báo rằng cô đi đâu đó với Colobov. Xét theo mức
họ biết về tính cách của cô gái, chắc cô không ngại ngùng nói điều đó với
Cartasov. Sau vụ giết người, hoàn toàn có khả năng, do Colobov gây nên,
Cartasov và Lena quyết định không tố giác kẻ giết người. Thiếu gì những lí
do... Thêm nữa, với cái chết của Victoria tự nó đã giải quyết những vấn đề
riêng của họ, Cartasov bạc nhược không cần phải nghĩ thêm, làm cách nào xa rời
được Victoria, còn Lena nhận được cơ hội hiện thực có một cuộc sống gia đình
bình thường với họa sĩ. Hơn nữa, cả hai người rất muốn có con. Trong phương
trình này đoạn ghi âm bị xóa trong băng là có vị trí, nhưng Colobov bị đánh đập
thì có liên quan gì ở đây? Mà có thể, không dính líu gì chăng? Nó không hề liên
quan đến vụ án mạng, và không cần phải ngoắc “ngựa và con nai vàng ngơ ngác”
vào chung một cái ách.
- Trước đây chị chưa đến Roma à? - từ phía bên phải chị nghe
một giọng nói dễ chịu bằng tiếng Anh lơ lớ. Naxtia quay đầu về phía chàng trai
mặc áo len trắng ngồi cách lối qua lại. Anh ta mỉm cười nhìn quyển chỉ dẫn du lịch
Roma mà chị lục được ở nhà bố mẹ, đang nằm trên đầu gối chị. Quyển chỉ dẫn này
bà Nadejda mang về từ chuyến đi Italia đầu tiên đã nhiều năm về trước.
Theo giọng lơ lớ Naxtia đoán không hề nhầm lẫn chàng trai là
người Italia. Khó lắm chị mới thắng được sự cám dỗ trả lời anh ta bằng tiếng
Anh. “Không thể cứ kéo dài bất tận, - chị thầm nghĩ. - Dù sao vẫn cần sử dụng
tiếng Italia, vậy thì tốt nhất là bắt đầu từ bây giờ”. Chị cảm thấy tự tin về
tiếng Anh và tiếng Pháp, thường sử dụng chúng, dịch nhiều, đặc biệt trong thời
kì nghỉ phép để lấp những lỗ hổng trong ngân sách. Còn tiếng Italia mà chị biết
không tồi thời nhỏ như sự cương quyết của mẹ, nằm yên đã lâu, như chị tự diễn đạt,
trong ngăn bàn xa không được sử dụng tích cực, và Naxtia hơi sợ nói thứ tiếng
này. Nhưng rồi chị cũng đã quyết.
- Anh có thể nói tiếng Italia, - chị thốt ra, trong khi chống
chọi lại sự ngượng nghịu và thận trọng dõi theo cách phát âm. - Chỉ có điều đừng
nhanh.
Chàng trai cười vẻ hiểu biết và chuyển sang tiếng mẹ đẻ với
sự thích thú ra mặt. Họ tán đóc chừng hai chục phút, khi trưởng đoàn đại biểu
Iakimov với điếu thuốc lá bước vào khoang. Ông chiếm chỗ ngồi ngay phía trước
Naxtia, quẹt lửa, thả khói và quay về phía chị nghiêng nhẹ qua tay vịn ghế bành.
- Tách khỏi tập thể hả Naxtia? - ông nói đùa. - Và cũng đã
tìm được cho mình kẻ hâm mộ. Liệu đấy, đừng để có những điều dại dột.
Chị thấy thích Iakimov. Ông không có thói độc đoán và cái ưu
thế trịch thượng của một người đã nhiều lần ở ngoại quốc trước những đồng bào lần
đầu tiên ra nước ngoài, vốn thường không biết xử sự thế nào và nói gì. Ông hào
hứng chia sẻ kinh nghiệm, trả lời tỉ mỉ tất cả những câu hỏi và cho những lời
khuyên rất giá trị mà Naxtia, đã từng đến Thuỵ Điển thăm mẹ, thừa nhận là đúng
và kịp thời.
- Lịch trình của chúng ta thế nào ạ? - Chị hỏi Iakimov.
- Từ 10 giờ sáng đến 6 giờ chiều, các đồng nghiệp Italia sẽ
làm việc cùng chúng ta, sau 6 giờ - chúng ta tự mình vui vẻ. Thứ tư và thứ bảy
- ngày nghỉ, có thể chạy đi các cửa hàng, nếu muốn. Cô quan tâm cụ thể là điều
gì?
- Tôi muốn gặp mẹ. Bà hứa đến Roma vào thứ năm.
- Không thành vấn đề. Sau 6 giờ cô tự do, về phía tôi không
có phản đối gì cả. Để phòng xa, hãy lưu ý, có hai người trong đoàn ta đã đánh
hơi thấy là cô biết nhiều ngoại ngữ, và định dùng chức vụ cao hơn trói cô vào
những chuyện liên quan với các cửa hàng. Vậy nên, nếu muốn có tự do, hãy cho
tôi rõ - tôi sẽ cố kìm giữ họ lại.
Iakimov tắt thuốc lá và đi lên khoang trước nơi ông ngồi
cùng với các thành viên còn lại: hai vị tướng (một ở Bộ, người kia - ở Sở Nội vụ
Moskva), một trưởng phòng công an khu thuộc Moskva và hai cán bộ Tổng cục truy
tìm tội phạm.
- Không bao giờ tôi có thể nghĩ chị là người Nga. Tôi đã tin
chắc chị là người Anh, - giọng chàng thanh niên áo len trắng vang lên.
Naxtia thầm mỉm cười. Không thông thái gì việc anh ta xem chị
là người Anh: thân gầy, lông mày bệch bạc, xấu xí, với những đường nét thanh mảnh
của khuôn mặt thiếu linh hoạt và có lẽ lạnh lùng, đúng thực chị rất giống cô
gái già điển hình từ tiểu thuyết kinh điển Anh. Chí ít, vẻ ngoài của chị không
có gì chung với quan niệm khác xa về mĩ nhân người Nga.
- Anh muốn nói là tôi có vẻ ngoài đặc trưng của người Anh?
- Không, chị nói tiếng Italia với âm sắc Anh.
- Thực thế ư?! - Naxtia sửng sốt. - Hẳn chẳng bao giờ tôi
nghĩ thế.
Chị quyết định chăm chú hơn lắng nghe lời nói của người cùng
trò chuyện xởi lởi và cố nói giống như anh ta. Thính giác của chị vốn tuyệt vời,
mẹ dạy chị quen với các ngoại ngữ từ thơ ấu, vì thế cuộc chiến đấu với âm sắc
tiếng Anh đã kết thúc thành công chính đúng vào thời điểm máy bay hạ cánh.
Chàng Italia trẻ đánh giá đúng những nỗ lực về mặt ngôn ngữ của Naxtia và nói
lúc chia tay:
- Bây giờ chị nói như một cô gái Italia sống quá lâu ở Pháp.
Họ cùng vui vẻ cười toáng lên.
- Ở tôi lại xuất hiện âm sắc khác hả?
- Với âm sắc mọi chuyện đều ổn, nhưng chị bắt đầu nói những
câu như một cô gái Pháp vậy.
* * *
Họ được bố trí trong một khách sạn Kitô giáo nhỏ yên tĩnh nằm
trên một ngọn đồi cách không xa sứ quán Nga. Naxtia mừng rỡ khi biết rằng từ
khách sạn đến nhà thờ Thânh Pie có thể đi bộ chừng hai mươi phút.
Iakimov không đánh lừa. Lúc 6 giờ chiều người Italia kết
thúc ngày làm việc, và phái đoàn Nga được quyền tự do. Ở đây không có gì giống
với lòng hiếu khách của người Nga: qua sáu ngày - chỉ có một chuyến du lịch
trong thành phố và một cuộc chiêu đãi với các đại diện của Bộ. Họ làm quen với
công việc của các cơ quan và đơn vị cảnh sát, đặt câu hỏi, xem phim học tập.
Không hề có những hoạt động gì sau giờ làm việc.
Điều này hoàn toàn hợp ý Naxtia. Sau bữa ăn trong khách sạn
vào 7 giờ, chị thay quần áo, đổi váy bằng quần bò, còn giày cao gót - bằng giày
thể thao quen thuộc, khoác bludông da mà trong túi có quyển chỉ dẫn, và đi dạo.
Thứ tư, khi họ có ngày nghỉ, Naxtia rời khách sạn lập tức sau bữa sáng được dọn
ra lúc bảy giờ rưỡi. Trừ Iakimov, chị không nói với ai về các kế hoạch của mình
và cố lẻn đi không ai nhận thấy trước khi chưa có ai đề nghị chị giúp trong việc
mua bán, bởi vì ngoài chị và người phụ trách, không một ai biết tiếng Anh chứ
chưa nói chi tiếng Italia. Kế hoạch của chị khá đạt, và Naxtia đã suốt ngày
lang thang khắp thành phố, nghiêng ngó nhìn những ngôi nhà, các tác phẩm điêu
khắc, len lách trong dòng xe cộ bất tận và không ngừng kinh ngạc rằng các tài xế
đã có thái độ chăm chú và tôn trọng đến mức nào đối với người đi bộ. Mặt trời
tháng 12 còn rất ấm, nhưng bất kể nhiệt độ 17°c, nhiều phụ nữ đi trên phố với
áo lông mở cúc. Khắp nơi Naxtia bị săn đuổi bởi mùi cà phê tỏa ra từ vô số hiệu
cafe và quán bar nhỏ. Hai giờ đầu chị còn tìm đủ sức chống chọi, nhưng sau đó,
ngẫm nghĩ một cách tỉnh táo rằng, dù sao vẫn cần cho đôi chân nghỉ, còn với số
tiền chị có thì chẳng mua được gì nhiều, vì thế không đáng tiết kiệm, chị đã ngừng
khước từ cho bản thân sự khoan khoái và thích thú ngồi xuống bên một chiếc bàn
ngay trên đường phố.
Gần tối, bất kể có cuốn chỉ dẫn, chị vẫn lạc, đi mãi dọc bức
tường đá lặng câm và chỉ khi đến chỗ quen, chị hiểu ra, rất đơn giản là chị đã
dạo quanh Vatican.
Thứ năm, ngày 16 tháng 12, khi đi xuyên qua dãy cột quây
quanh nhà thờ Thánh Pie. Naxtia lập tức nhìn thấy mẹ mình trên quảng trường. Bà
Nadejda xinh đẹp, thanh thoát và trang nhã đến chóng mặt, đang đứng trò chuyện
sôi nổi với một người đàn ông dáng cao, tóc bạc và phút phút lại ngoái nhìn tứ
phía.
Hai mẹ con ôm hôn nhau.
- Hãy làm quen, - giáo sư Nadejda ngay đó chuyển sang tiếng
Anh. - Con gái Naxtia của tôi. Giáo sư Kiun đồng nghiệp của mẹ.
- Kiun, - ông kia giới thiệu khi bắt tay Naxtia.
“Ái chà mẹ yêu. - Naxtia thầm khâm phục. - Đã không sợ dẫn
theo tình nhân của mình. Vả lại, bà biết sợ ai đâu? Lẽ nào sợ ta? Buồn cười.
Thú vị thật, ai bố trí cuộc xem cho ai, ông ta cho mình, hay mình cho ông ta?
Nhưng dẫu sao thì mẹ cũng xinh đẹp làm sao! Tại sao mà mình sinh ra xấu xí thế
này nhỉ?”
Kiun có mái tóc bạc, khuôn mặt trẻ thơ và cặp mắt vàng xanh
vui vẻ. Ông nói được một ít tiếng Nga, Naxtia, dù rất khó khăn, nhưng có thể giải
thích bằng tiếng Thụy Điển, và cuộc trò chuyện của ba người tự nó là một mớ hổ
lốn ngôn ngữ thú vị.
Buổi tối đầu tiên họ ngồi đến tận khuya trong nhà hàng do vị
giáo sư dễ mến, vốn biết mọi ngóc ngách ở Roma dẫn họ đến. Naxtia không nhớ lại
nổi lần cuối chị đã cười nhiều đến thế là bao giờ. Chị cảm thấy nhẹ nhõm với mẹ
và bạn của bà, những e ngại của chị là không đúng, chị không cảm thấy một chút
căng thẳng nào. Vượt qua chướng ngại khó xử trong thời gian gặp bố dượng và người
tình của ông, chị đã trải qua hoàn cảnh tương tự với mẹ chẳng hề có khó khăn gì
về mặt tâm lí. Mẹ hạnh phúc. Kiun nhìn bà với sự đắm đuối, vui vẻ, và có gì tồi
trong mọi điều đó nếu tất cả đều sung sướng?
- Ngày mai chúng ta đi xem opera, - khi chia tay bà Nadejda
nói, - còn thứ bảy - thăm nhà thờ Sicstin. Đừng ngủ quá, nó chỉ mở cho người
xem đến 2 giờ chiều thôi.
- Tôi rất mừng là Nadejda có cô con gái tuyệt vời đến thế, -
Kiun mỉm cười quyến rũ.
Naxtia trở về khách sạn thỏa mãn và thanh thản. Những băn
khoăn về chuyện đổ vỡ gia đình đã khoan xoáy chị mấy tháng nay giờ đây bỗng trở
nên vô lí và thiếu cơ sở. Mọi người có toàn quyền được hạnh phúc, hơn nữa, khi
không hề có ai phải đau khổ. Nếu như Naxtia biết, cuộc sống của chị sẽ thay đổi
đột ngột như thế nào chỉ sau ba ngày, nếu như chị đoán ra nổi, “kì nghỉ ở Roma”
đối với chị sẽ là xa xăm và mờ ảo khó tin từ thẳm sâu của nỗi sợ và căng thẳng
thần kinh nhấn chị chìm sâu trong đó chỉ sau ba ngày nữa, chắc hẳn chị đã cố nhớ
kĩ hơn và củng cố chắc hơn cái cảm giác khoan khoái và tĩnh tâm đã bao bọc chị
trong thành phố Vĩnh cửu. Nhưng Naxtia cũng như tất cả những con người hạnh
phúc, quá tự tin cho rằng, giờ đây mãi mãi sẽ chỉ là thế.
Và chị đã lầm.
Thứ bảy, khi bước ra từ nhà thờ Sicstin, mẹ chị đề nghị đi tới
hội chợ sách.
- Mẹ cần xem mấy quyển sách cần cho mẹ và bạn bè. Chúng ta
cùng đi nhé, chắc con sẽ thích.
Họ tách nhau ở hội chợ. Mẹ và Kiun đi tìm những ấn bản cần
cho họ, còn Naxtia đã ở lại cạnh những giá sách mà phía trên được viết bằng chữ
to: “Sách châu Âu bán chạy”. Chị nhìn những bìa sách rực rỡ, đọc tóm lược, thầm
ghi nhận: “Chắc mình sẽ đọc cuốn này, nếu có thì giờ, cả cuốn này cũng thế, và
cuốn này... Còn loại văn chương này - không phải khẩu vị của mình”. Đi sang giá
sách tiếp theo, chị cảm thấy đất sụt dưới chân: Ngay trước chị có quyển sách “Bản
xônát cái chết”, tác giả Jean-Paul Brizac. Trên mặt bìa - năm sọc đỏ màu máu,
phỏng theo dãy nốt nhạc, và chiếc cần violon màu xanh sáng.
Trấn tĩnh khỏi cú sốc, Naxtia cầm cuốn sách và ghim mắt vào
tóm lược. “JeanPaul Brizac. - chị đọc. - một trong số những nhân vật bí ẩn nhất
của văn học châu Âu hiện đại. Chưa một nhà báo nào lấy được phỏng vấn ở tác giả
của hơn hai chục cuốn sách bán chạy. Mưu mô thâm hiểm, cuộc chiến của thiện và
ác, những mặt tối của bản chất con người - có tất cả thứ đó trong các cuốn sách
của con người ẩn dật bí ẩn, không cho phép chụp ảnh và tiếp xúc với thế giới
bên ngoài chỉ thông qua đại diện của mình”.
Chị chăm chú nhìn giá sách và tìm thêm được mấy cuốn sách nữa
của Brizac bằng tiếng Đức, Pháp và Italia. Trông thấy mẹ từ xa, Naxtia xuyên
qua đám đông đến chỗ bà.
- Mẹ ơi, có thể mua sách ở đây không?
- Tất nhiên. Con tìm được gì thú vị à? Đi, mẹ sẽ mua cho
con, dù sao con cũng không đủ tiền, ở đây mọi thứ đều rất đắt.
- Nhưng con cần nhiều... - Naxtia nói ngập ngừng.
- Nghĩa là chúng ta sẽ mua nhiều, - bà mẹ đáp với vẻ bình thản.
Naxtia không biết tiếng Đức, vì thế đã chọn sách của Brizac
bằng tiếng Pháp và tiếng Italia.
- Con cần thứ này làm gì? - Bà Nadejda khinh bỉ cong môi. -
Chả lẽ con đọc cái thứ vớ vẩn này?
- Ồ... Thú vị mà, - chị đáp vẻ né tránh. - Nhà văn ẩn dật,
những mặt tối của tâm hồn... Hiếu kì chứ.
Bà mẹ rõ ràng không khuyến khích sự say mê sách châu Âu bán
chạy của con gái và, khi trả đồ mua không hề rẻ, đã nhận xét:
- Có thể mua Brizac rẻ hơn nhiều ở bất kì kiốt nào ở nhà ga
hoặc sân bay. Và cũng có nhiều sự chọn lựa hơn.
Jean-Paul Brizac, theo lời bà Nadejda, là nhà văn nổi tiếng
nhưng không sâu sắc. Sách của ông ta được độc giả không tinh tế mua một cách hứng
thú để đọc lúc đi đường, vì thế được xuất bản chủ yếu với bìa mềm, khổ bỏtúi.
Nhưng Naxtia quan tâm một nhận xét của mẹ:
- Ông ta đang là mốt. Con biết đấy, những năm gần đây lớn vọt
mối quan tâm đối với nước Nga. Mà người di tản cũng nhiều hơn. Brizac có cả một
loạt sách trinh thám với chủ đề Nga, và con hãy tưởng tượng, chúng có nhu cầu rất
lớn trong số người xuất thân từ nước Nga. Mẹ có thể nói với con: dù con người ẩn
dật ấy là ai đi nữa, thì cũng không nghèo đâu. Số lượng in các sáng tác của ông
là khổng lồ, còn ông ta lại viết rất nhanh nữa.
- Mẹ đã đọc gì đó chưa? - Naxtia hỏi vẻ hi vọng.
- Mẹ có phải dân di tản đâu. Mà mẹ cũng không thích sách
trinh thám. Mẹ không hiểu ai đã khơi lên sở thích tồi như thế cho con.
- Nhưng nếu mẹ chưa đọc sách của ông ta, từ đâu mẹ biết là
chúng tồi? - Naxtia dường như phật ý thay cho nhà văn.
- Các nhận xét của những người mà mẹ tin, là đã đủ cho mẹ.
Và sau nữa, mẹ không khẳng định rằng chúng là tồi. Nhưng mẹ biết rằng, văn
chương đích thực được tạo nên qua nhiều năm tháng. Còn Brizac của con nặn ra
dăm tác phẩm bất tử của mình trong một năm, nếu không nói là nhiều hơn.
- Mẹ này, mẹ nghĩ sao, - Naxtia trầm ngâm hỏi, - Brizac này
có thể là người Nga di tản không?
- Khả năng hiếm hoi. - bà Nadejda phản đối kiên quyết trong
khi thẫn thờ lật trang của một trong số tiểu thuyết mà con gái đã mua. - Ông ta
dùng tiếng Pháp như một người Pháp. Chỉ cần đọc vài ba đoạn để tự khẳng định điều
ấy. Vả lại. - bà nói thêm, khi đã lướt mắt qua một trang giở hú họa, - ngôn ngữ
của ông ta hay, sắc sảo, đối thoại sinh động, so sánh thú vi... Có thể, thực sự
ông không phải là một nhà văn kém. Nhưng ông là một người Pháp đích thực, không
thể nghi ngờ gì nữa.
* * *
Ngày hôm sau Naxtia cùng phái đoàn bay về Moskva. Trên máy
bay chị đọc “Bản xônát cái chết”, hi vọng tìm trong đó dù là một sự mách bảo
nào đó, dù một ẩn ý nhỏ nhất cho sự giải đoán về sự trùng hợp khó tưởng tượng của
hình vẽ trên bìa sách và hình vẽ do Cartasov làm theo lời của Victoria quá cố.
Dù đấy có gì đi nữa, giờ đây Naxtia tin chắc một điều: Victoria không bị bệnh
tâm thần. Cô thực sự có thể nghe qua radio sự mô tả giấc mơ của mình: nhiều đài
phát thanh phương Tây truyền tin bằng tiếng Nga, vẫn đọc những đoạn trích từ
các tác phẩm văn học mới. Ý tưởng có sự tác động qua radio không phải là thành
quả của một sự tưởng tượng bệnh hoạn. Nhưng sao có thể xảy ra sự trùng hợp hai
bức vẽ? Trùng đến những chi tiết nhỏ, đến màu xanh sáng mà chiếc cần violon được
vẽ? Có, tất nhiên, sự lí giải đơn giản nhất mà nó nằm ngay trên bề mặt khi
Victoria nghe qua radio đoạn trích từ “Bản xônát cái chết”, Naxtia thậm chí biết
chính xác, cô ta đã nghe chính là đoạn nào. Sau đó kể lại một cách chi tiết với
Cartasov, người đã vẽ khi tưởng tượng theo những lời của cô. Nếu trước kia cô
có cơn ác mộng nào đó, nó có thể chỉ xa vời, mà có thể còn hoàn toàn không giống
với những gì được viết trong “Bản xônát cái chết” và trên bức vẽ của Cartasov.
Đơn giản trong đầu Victoria có gì đó đổ vỡ, và cô có cảm giác rằng... Nhưng lúc
đó buộc phải thừa nhận là cô ta bị bệnh. Không, lại không ổn, lại ngõ cụt...
Nếu mới hôm qua vụ án mạng Victoria thiếu thông tin, thì hôm
nay trong chớp mắt nó đã trở nên rối rắm vô kể.
------------
Còn tiếp.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét