Người đàn bà có con chó nhỏ
Tác giả: Anton Pavlovic Chekhov
Người dịch: Phan Hồng Giang
I
Mọi người kháo nhau rằng ở ngoài bãi biển có một người mới đến
nghỉ: người đàn bà có con chó nhỏ.
Đơmitri Đơmitríts Gurốp, một người đến Ianta từ hai tuần nay
và đã quen với cảnh sống ở đấy, cũng bắt đầu tò mò muốn biết những người mới tới.
Anh ngồi trong quán cà phê Vécne bốn phía trống trải và từ đó, anh nhìn thấy
trên bãi biển, một phụ nữ còn trẻ, người tầm thước, có bộ tóc hung hung vàng, đầu
đội mũ bêrê; đằng sau nàng, một con chó nhỏ lông trắng đang chạy theo.
Và rồi những ngày sau, hôm nào anh cũng thấy nàng vài lần,
khi thì ở trong công viên thành phố, khi thì ở cái vườn hoa nho nhỏ. Nàng dạo
chơi một mình, đầu vẫn đội chiếc bêrê ấy, con chó trắng vẫn chạy theo sau;
không ai biết nàng là ai và mọi người đều gọi nàng một cách giản tiện: người
đàn bà có con chó nhỏ.
“Nếu nàng ở đây một mình, không có chồng bên cạnh, không có
người quen, - Gurốp nghĩ, - thì việc bắt chuyện làm quen với nàng có lẽ không
phải là thừa”.
Gurốp tuổi chưa đầy bốn mươi, nhưng anh đã có một đứa con
gái mười hai tuổi và hai đứa con trai bé đã đi học ở trường. Gia đình cưới vợ
cho anh rất sớm, từ khi anh còn là sinh viên năm thứ hai, và bây giờ thì vợ anh
trông già hơn anh đến hàng chục tuổi. Vợ anh là một người đàn bà dong dỏng cao,
dáng người rất thẳng và đường hoàng, có đôi lông mày đen rậm. Nàng tự cho mình
là một người có đầu óc suy nghĩ. Nàng đọc rất nhiều sách, không bao giờ viết dấu
cứng đằng sau phụ âm và gọi tên chồng là Đimitri chứ không phải là Đơmitri. Còn
anh, anh thầm nghĩ rằng, nàng là một người hẹp hòi, thiển cận thô kệch; anh sợ
nàng và không thích ở nhà nhiều. Từ lâu, Gurốp đã ngoại tình, ngoại tình luôn
luôn; có lẽ vì vậy mà hầu như bao giờ anh cũng nói đến phụ nữ với một thái độ
thù ghét khinh bỉ. Khi có ai bàn đến phụ nữ trước mặt anh thì anh gọi thế này:
- Loại người hạ đẳng!
Anh ta có cảm tưởng rằng, anh có đủ kinh nghiệm cay đắng để
muốn gọi phụ nữ thế nào thì gọi; nhưng mặc dầu thế, không có “loại người hạ
đẳng” ấy, anh không sao sống quá được hai ngày. Giữa đám đàn ông, bao giờ
anh cũng cảm thấy tẻ nhạt, gượng gạo và trở nên lạnh lùng ít nói. Nhưng bên cạnh
phụ nữ thì anh lại cảm thấy thoải mái và biết phải nói gì, đối xử ra sao; ngay
cả những khi im lặng trước mặt họ, anh cũng cảm thấy mình nhẹ nhõm. Trong tính
tình, diện mạo của Gurốp cũng như trong cả cốt cách của anh, có một cái gì quyến
rũ rất khó nói, một cái gì thu hút những người đàn bà, hấp dẫn họ. Anh biết điều
đó, và chính bản thân anh cũng bị một sức mạnh vô hình cuốn về phía họ.
Từ lâu, kinh nghiệm cay đắng nhiều lần đã dạy anh rằng, những
cuộc gần gũi mới đầu có vẻ thú vị, làm cho đời thêm phần hoa lá, những cuộc
phiêu lưu êm ái, nhẹ nhàng, đối với những người đàn ông đứng đắn, nhất là những
người đàn ông Maxcơva chậm chập và thiếu cương quyết, cuối cùng bao giờ cũng trở
thành cả một bài toán cực kỳ nan giải, có kết cục thật là nặng nề. Nhưng rồi mỗi
lần gặp được một người đàn bà xinh đẹp hấp dẫn mới, cái kinh nghiệm ấy lại rơi
đi đâu mất và anh lại muốn sống, lại cảm thấy cuộc đời thật giản đơn và ngộ
nghĩnh.
Có lần, vào buổi chiều, khi đang ăn trong vườn, anh thấy người
đàn bà đội mũ bêrê ấy chậm rãi bước tới ngồi xuống bên chiếc bàn cạnh đó. Nhìn
nét mặt, dáng đi, kiểu tóc và xống áo nàng mặc, có thể đoán được rằng nàng thuộc
loại người khá giả, con nhà gia giáo, đã có chồng và lần đầu tiên đến Ianta; nàng
đi một mình và cảm thấy cuộc sống ở đây rất tẻ nhạt.
Trong những lời đồn đại về chuyện thiếu đạo đức ở vùng nghỉ
mát này, có nhiều điều không đúng sự thật, anh coi khinh những lời ấy và cho rằng
phần lớn là do một số người dựng lên, - những người sẵn sàng phạm phải những điều
thiếu đạo đức đó, nếu họ có khả năng làm được chuyện ấy. Nhưng đến khi người
đàn bà ngồi xuống bên chiếc bàn chỉ cách anh mấy bước, anh sực nhớ đến những
chuyện chinh phục dễ dàng, những buổi lên núi chơi và cái ý nghĩ đầy ma lực thu
hút về một cuộc chung đụng ngắn ngủi, chóng vánh, về mối tình với người đàn bà
xa lạ, không biết tên họ, bỗng xâm chiếm lòng anh.
Anh âu yếm vẫy gọi con chó bông trắng nhỏ đến bên mình, rồi
khi nó tới gần, anh giơ ngón tay ra dọa dẫm. Con chó khẽ gầm gừ. Anh lại giơ
ngón tay lên dọa.
Người đàn bà vội đưa mắt về phía anh và lại cúi xuống ngay.
- Nó không cắn đâu, - nàng nói và khuôn mặt nàng ửng đỏ.
- Có thể cho nó ăn xương được không? - Gurốp nói và khi thấy
nàng gật đầu, anh lại hồ hởi hỏi tiếp: - Chị đến Ianta đã lâu chưa?
- Dăm ngày rồi.
- Còn tôi thì đã gắng gượng ở đây đến tuần thứ hai.
Cả hai cùng lặng yên một lát.
- Thời gian trôi qua thật nhanh chóng mà ở đây thì thật là
buồn tẻ! - Nàng nói, mắt không nhìn về phía anh.
- Đó chỉ là điều người ta mặc nhiên quen nói với nhau rằng ở
đây buồn tẻ. Một người tầm thường sống trong nhà mình ở Bêlép hay ở Giưđơrơ thì chẳng thấy buồn chán, thế mà vừa đặt chân
đến đây đã vội kêu lên: “Ôi, buồn tẻ quá! Toàn bụi là bụi!”. Cứ như thể anh ta
từ Grênađa tới không bằng.
[Tên những thành phố nhỏ, hẻo lánh của nước Nga]
Nàng khẽ bật cười. Và sau đó, cả hai lại lặng lẽ tiếp tục
ăn, như những người không quen biết.
Nhưng, ăn xong, thì họ đã đi bên nhau; một cuộc nói chuyện
nhẹ nhàng đùa giỡn bắt đầu, - một cuộc nói chuyện giữa những người sống thoải
mái, khoan khoái tự do, những người đi đâu cũng được, nói chuyện gì cũng được.
Họ dạo chơi và nói với nhau rằng ánh sáng trên biển kỳ lạ biết bao, mặt nước
tim tím màu hoa xiren thật mềm mại và ấm áp; trăng rọi chiếu thành từng dải ánh
vàng rực. Họ nói với nhau rằng sau một ngày nắng gắt trời trở nên oi bức ghê gớm.
Gurốp kể rằng anh là người Maxcơva, tốt nghiệp khoa ngữ văn nhưng lại làm việc ở
nhà băng, đã có lúc định hát cho một gánh hát tư nhưng sau lại bỏ, anh có hai
ngôi nhà ở Maxcơva... Nghe nàng kể, Gurốp biết được rằng nàng lớn lên ở
Pêtérbua, nhưng sau đó thì đi lấy chồng ở X. Nàng đã sống hai năm ở đấy Nàng sẽ
ở lại Ianta độ khoảng một tháng và có lẽ sắp tới chồng nàng cũng đến đây nghỉ.
Nàng không thể nói được là chồng nàng làm việc ở đâu, - ở Hội đồng hành chính tỉnh
hay là ở Hội đồng hương chính, - điều ấy làm nàng tự cảm thấy buồn cười. Gurốp
còn biết thêm rằng nàng tên là Anna Xérghêépna.
Sau đó, trong căn phòng của mình, Gurốp nghĩ đến nàng, nghĩ
rằng chắc chắn ngày mai nàng sẽ gặp anh.
Chắc chắn là như thế. Khi lên giường ngủ, Gurốp nhớ rằng, mới
cách đây không lâu nàng còn đi học như đứa con gái anh, nhớ đến những nét rụt
rè ngượng ngập trong tiếng cười, trong cách nói chuyện của nàng với một người lạ,
- chắc đó là lần đầu tiên nàng sống một mình trong môi trường như thế, nơi mọi
người đều đi theo nàng, ngắm nhìn nàng, nói chuyện với nàng để nhằm một mục
đích bí hiểm mà nàng không thể không đoán ra được. Anh nhớ đến cái cổ, thanh
thanh yếu ớt, đôi mắt màu xám rất đẹp của nàng.
“Ở nàng vẫn có một cái gì tội nghiệp đáng thương”, - anh
nghĩ vậy rồi ngủ thiếp đi.
II
Một tuần đã qua kể từ khi họ quen nhau. Đó là một ngày chủ
nhật. Trong các căn phòng đều oi bức, và ngoài trời thì gió cuốn bụi bay mù, hất
mũ xuống đất. Suốt ngày khát nước, Gurốp chốc chốc lại ghé sang quán giải khát
và mời Anna Xérghêépna khi thì uống nước sirô, khi thì ăn kem. Chẳng còn biết
đi đâu Buổi chiều, khi mà gió đã ngớt đi nhiều, họ cùng nhau đi ra bờ biển xem
tàu thủy đến. Trên bến, nhiều người đang dạo chơi, nhiều người tay ôm hoa chờ
đón ai. Đám người nghỉ mát sang trọng ở Ianta, có hai điều đặc biệt dễ làm mọi
người chú ý: đó là những bà đứng tuổi ăn vận như thiếu nữ và nhiều ngài sĩ quan
cấp tướng.
Vì biển động, tàu thủy đến muộn, khi mặt trời khuất bóng,
con tàu lượn vòng rất lâu rồi mới cập bến. Anna Xérghêépna giơ cặp kính nhòm
nhìn lên tàu lên những hành khách như thể kiếm tìm người quen và khi nàng quay
lại phía anh, đôi mắt nàng sáng lên. Nàng nói nhiều, những câu hỏi nàng đặt ra
vội vàng hấp tấp, nói xong lại quên ngay những điều mới hỏi, sau đó, đánh rơi mất
cặp kính giữa đám đông người.
Đám người sang trọng lúc nãy đã tản đi hết, không còn nom rõ
mặt người, gió đã lặng hẳn, nhưng Gurốp và Anna Xérghêépna vẫn đứng lại như cố
chờ xem còn ai trên tàu xuống bến nữa không. Anna Xérghêépna không nói nữa,
nàng khẽ hôn những bông hoa, mắt không nhìn Gurốp.
- Buổi tối trời dễ chịu hơn đấy, - anh nói. - Bây giờ thì
chúng ta đi đâu? Hay là chúng ta lên xe đi đâu xa một lúc?
Nàng lặng yên không trả lời.
Lúc ấy Gurốp đăm đăm nhìn nàng, rồi bất ngờ anh ôm lấy nàng
và hôn lên môi, anh cảm thấy bên mình mùi hương của những bông hoa ướt át. Ngay
lúc đó, Gurốp sợ sệt nhìn quanh: có ai nhìn thấy không?
- Về nhà cô đi... - anh nói nhỏ.
Và hai người rảo bước quay lại.
Căn phòng của nàng rất bí, tỏa mùi nước hoa mà nàng đã mua ở
một cửa hiệu Nhật Bản. Vừa nhìn nàng, Gurốp vừa nghĩ “Không biết trong đời mình
còn thiếu những cuộc gặp gỡ nào nữa?”. Quá khứ để lại trong anh những kỷ niệm về
những người đàn bà vô tư, tốt bụng; vui sướng vì tình yêu, cảm ơn anh vì niềm hạnh
phúc, cho dù là rất ngắn ngủi thôi mà anh đã mang lại. Anh nhớ đến những người
đàn bà, như vợ anh chẳng hạn, không thành thật yêu anh, nhiều lời và lắm cách
bày vẽ, hay dằn vặt với cái vẻ muốn tỏ rằng đây không phải tình yêu, không phải
lòng say mê mà là một cái gì còn lớn hơn thế nữa. Anh nhớ đến một vài người đàn
bà khác, rất xinh đẹp, lạnh lùng, ở họ có khi tự nhiên lộ ra vẻ hung dữ, mong ước
ngang bướng muốn lấy, muốn đạt ở cuộc đời nhiều hơn khả năng cho phép của nó.
Những người này không còn trẻ trung nữa, họ đỏng đảnh, không biết suy đoán, ít
thông minh, cảm thấy mình đầy quyền lực, và khi Gurốp trở nên lạnh lùng với họ,
vẻ đẹp của những người đàn bà ấy gây cho anh một sự căm ghét, và những viền
đăng ten trên áo của họ chỉ làm anh nghĩ đến những đám vẩy loang lổ.
Nhưng ở nàng vẫn giữ nguyên được vẻ rụt rè, ngượng ngập chưa
từng trải của tuổi trẻ, vẻ bối rối khi có ai thình lình gõ cửa nhà mình. Anna
Xérghêépna, người đàn bà có con chó nhỏ ấy, đối với sự việc vừa xảy ra có một
thái độ khác thường, rất thận trọng - tưởng như đó là sự sa ngã của nàng - có
thể cảm thấy như thế, và điều này có chút gì lạ lùng và lạc lõng. Nét mặt nàng
mỏi mệt, những món tóc dài của nàng buồn bã xõa xuống hai bên mặt. Nàng lặng lẽ
suy nghĩ, dáng trông rầu rĩ như người đàn bà có tội trong bức tranh cổ.
- Không tốt đâu, - nàng nói. - Như vậy anh đã là người đầu
tiên không tôn trọng tôi.
Trên bàn trong phòng có một quả dưa hấu. Gurốp cắt cho mình
một miếng và chậm rãi nhai. Ít ra là nửa giờ đã trôi qua trong im lặng.
Anna Xérghêépna ra chiều xúc động, ở nàng toát ra một cái gì
đó trong trắng, thơ ngây của một người đàn bà chưa từng trải; trên bàn, cây nến
đơn độc đang cháy dở nhẹ hắt những tia sáng mờ mờ lên gương mặt nàng, tuy thế vẫn
có thể thấy rõ lòng nàng đang nặng trĩu.
- Làm sao mà anh có thể thôi không tôn trọng em nữa? - Gurốp
hỏi. - Chính em cũng không biết em đang nói gì.
- Ôi, trời hãy tha tội cho tôi! - nàng nói, và mắt nàng đẫm
lệ. - Điều ấy thật khủng khiếp.
- Em đang cố tự bào chữa cho mình đấy.
- Bào chữa thế nào được? Tôi xấu hổ, tôi là một người phụ nữ
thấp hèn, tôi tự khinh mình và không mong đợi gì bào chữa cả. Không phải tôi lừa
chồng mà là tự lừa dối mình. Từ lâu rồi chứ không phải bây giờ mới lừa đâu. Chồng
tôi có lẽ là một người tốt, một người trung thực, nhưng anh ấy là một người nô
bộc! Tôi không biết anh ấy làm gì, làm việc thế nào, chỉ biết anh ấy là người
chuyên hầu hạ kẻ khác. Khi lấy chồng, tôi hai mươi tuổi, một nỗi khát khao mới
dày vò tôi, tôi muốn có được một cái gì tốt đẹp hơn, tôi tự nhủ: có chứ, có một
cuộc sống khác chứ. Tôi muốn sống! Sống và sống... Lòng hiếu kỳ thiêu đốt
tôi... anh không hiểu được điều đó, nhưng, có trời chứng giám, tôi đã không thể
tự làm chủ được mình nữa, có một cái gì đã đến với tôi không sao ngăn mình lại
được nữa; tôi nói với chồng rằng tôi ốm và thế là tôi đến đây. Và ở đây, lúc
nào tôi cũng lang thang ngơ ngác như người mất hồn... thế rồi tôi trở thành một
người đàn bà tầm thường, rẻ tiền mà ai cũng có thể khinh bỉ được.
Gurốp cảm thấy tẻ nhạt khi nghe những lời đó; cái giọng thơ
ngây, cái bất ngờ tự thú không đúng lúc ấy như chọc tức anh; nếu không nhìn thấy
mắt nàng đẫm lệ thì đã có thể tưởng rằng nàng đang đùa hay đang đóng kịch.
- Anh không hiểu, - Gurốp nói nhỏ, - em muốn gì?
Nàng gục đầu vào ngực anh và nép chặt vào anh.
- Hãy tin tôi, hãy tin tôi đi, tôi van anh... - nàng nói. -
Tôi yêu một cuộc sống trong sạch, trung thực, tôi ghê tởm những điều tội lỗi,
chính tôi cũng không biết tôi đang làm điều gì. Những người dân thường nói: bị
ma quỷ lấy mất hồn. Giờ đây cũng có thể nói về mình rằng tôi đã bị ma quỷ lấy mất
hồn rồi.
- Đủ rồi, đủ rồi... - Gurốp lầm bầm nói.
Anh nhìn vào đôi mắt sợ hãi, không động đậy của nàng, nói những
lời âu yếm nhỏ nhẹ, và nàng thấy yên tâm đôi chút, niềm vui trở lại với nàng; cả
hai người cùng bật cười.
Sau đó, khi họ bước ra khỏi nhà, ngoài bãi biển không còn một
ai, thành phố với những bóng cây tùng lặng yên như chết, nhưng sóng biển vẫn ào
ào vỗ vào bãi cát. Một chiếc thuyền phao rập rình trên sóng, chiếc đèn hiệu nhỏ
trên đó tỏa một ánh sáng lờ mờ, ngái ngủ.
Họ tìm được một người đánh xe, cùng nhau đi đến Ôrêanđa.
- Lúc nãy, ở dưới chỗ ra vào, anh mới biết họ của em: trên tấm
bảng có đề Fôn Điđêrít, - Gurốp nói. - Chồng em là người Đức à?
- Không, hình như ông của anh ấy mới là người Đức, còn chính
anh ấy thì là người theo dòng đạo Vizanchi.
[Dòng đạo chính thống của các nước Xlavơ phương Đông cơ bản
hình thành tại Vizanchi, thành phố cổ trên eo biển Bôxpho, khoảng thế kỷ IX-XI
(ND)]
Ở Ôrêanda, họ ngồi lặng yên trên ghế đá cách nhà thờ không
xa, đưa mắt nhìn xuống biển. Ianta mờ mờ hiện ra sau màn sương sáng, những đám
mây trắng lững lờ bao phủ quanh những đỉnh núi cao. Lùm cây lắng yên không xào
xạc, chỉ có tiếng ve kêu ra rả, và tiếng sóng biển rì rào đơn điệu vọng lên từ
phía dưới ấy gợi cho chúng ta một sự yên tĩnh, một giấc ngàn thu đang đợi mỗi
chúng ta. âm thanh ấy có từ khi chưa có Ianta, chưa có ôrêanđa, giờ đây vẫn tiếp
tục vọng lên và sẽ rì rào một cách khô khan lãnh đạm như thế, khi mà chúng ta
không còn nữa. Trong cái đơn điệu, trong cái lãnh đạm hoàn toàn đối với cuộc sống
và cái chết của mỗi chúng ta có lẽ đã ẩn giấu cội nguồn cứu cánh vĩnh viễn của
chúng ta, quá trình vận động không ngừng của cuộc sống trên trái đất, sự hoàn
thiện không ngừng. Ngồi bên một người đàn bà trẻ tuổi, mà sớm mai đến lại càng
trở nên xinh đẹp, lòng cảm thấy yên tĩnh và mê say cái cảnh thần tiên của biển
trời, mây núi... Gurốp nghĩ rằng, thực ra, nếu suy nghĩ cho thật kỹ, thì sẽ thấy
trên thế giới này vạn vật, trừ những cái mà chúng ta tự suy tưởng và làm ra, đều
đẹp đẽ, khi mà chúng ta quên hết những mục đích cao siêu của cuộc sống, quên hết
cái gọi là phẩm chất của con người mình.
Có ai - chắc là một người tuần canh - đi dần tới phía họ,
nhìn tận mặt họ rồi lại bỏ đi. Cả điều ấy nữa cũng trở nên bí ẩn và cũng thành
đẹp đẽ. Đã có thể nhìn rõ tàu thủy đang từ Phêôđôxia tới, đèn trên đó đã tắt và
con tàu rạng rỡ trong nắng mai.
- Sương đọng trên cỏ đấy, - Anna Xérghêépna nói sau một hồi
im lặng.
- Ờ, có sương. Đến lúc phải về thôi.
Và họ cùng nhau trở về thành phố.
Những ngày sau, vào buổi trưa, họ lại gặp nhau trên bờ biển.
Cùng ăn sáng, ăn trưa với nhau, cùng dạo chơi say sưa ngắm nhìn biển cả. Nàng
than phiền rằng nàng khó ngủ, rằng trái tim nàng đầy xao xuyến, lo âu. Nàng cứ
hỏi đi hỏi lại một số câu. Tâm trí nàng không lúc nào yên, lúc thì nàng ghen,
lúc thì sợ hãi rằng Gurốp không tôn trọng nàng đúng mức.
Nhiều lần, trong công viên hay trong vườn, khi xung quanh
không có ai, Gurốp thường kéo nàng lại gần mình và hôn nàng say đắm. Cảnh nhàn
hạ hoàn toàn, những cái hôn giữa ban ngày với vẻ e dè sợ sệt người chung quanh
nhìn thấy; cái nóng, cái mùi vị của biển và quang cảnh những người no nê sang
trọng chốc chốc lại đi qua trước mắt, những điều ấy như làm Gurốp sống lại; anh
nói với Anna Xérghêépna rằng nàng đẹp, nàng hấp dẫn biết bao, anh tỏ ra nôn
nóng, đắm say và không rời nàng nửa bước; còn nàng thì trầm ngâm và thường bắt
anh tự thú rằng anh chưa tôn trọng nàng, chưa yêu nàng một tý nào, mà chỉ thấy
nàng là một người đàn bà tầm thường, rẻ rúng.
Gần như tối nào, chừng khuya khuya họ cũng đi chơi đâu ra
ngoài thành phố, đi Ôrêanđa hay là lên thác nước; và lần nào cũng vậy, những buổi
dạo chơi ấy đều để lại những ấn tượng đẹp đẽ, diệu kỳ.
Họ chờ xem bao giờ thì Fôn Điđêrít đến. Nhưng rồi nàng nhận
được thư chồng báo rằng mắt anh ta bị đau nặng và xin nàng về nhà càng sớm càng
tốt.
Anna Xérghêépna ra chiều vội vã.
- Tôi đi khỏi nơi này là rất tốt, - nàng nói với Gurốp. - Đó
là ý muốn của số mệnh.
Nàng lên xe ngựa đi và Gurốp theo tiễn nàng. Họ đi suốt một
ngày. Khi nàng đã ngồi vào trong toa tàu tốc hành và khi hồi chuông thứ hai đã
réo lên, nàng bỗng nói:
- Cho tôi nhìn anh... nhìn anh một lần nữa. Thế… - Nàng
không khóc nhưng buồn rười rượi, trông như người ốm, gương mặt nàng run run.
- Tôi sẽ nghĩ đến anh... nhớ đến anh, - nàng nói. - Trời sẽ
phù hộ anh, anh ở lại đây nhé. Đừng nghĩ xấu về tôi. Chúng ta chia tay nhau
vĩnh viễn, điều ấy là cần thiết, bởi vì chúng ta hoàn toàn không nên gặp nhau nữa.
Trời sẽ phù hộ anh…
Con tàu vội vã rời khỏi ga, lát sau ánh đèn trên đó đã khuất,
liền đó, chỉ một lát sau tiếng động của đoàn tàu không còn nghe thấy nữa, mọi
việc xảy ra đều như cố tình mau chóng chấm dứt cái điên rồ, say đắm, ngọt ngào ấy.
Một mình đứng lại trên sân ga, đưa mắt nhìn về khoảng trời mù mịt phía xa, Gurốp
lắng nghe tiếng dế kêu, tiếng gió reo qua dây điện thoại với cảm giác như vừa mới
tỉnh ngủ. Anh nghĩ rằng, đấy, trong đời anh lại có thêm một cuộc phiêu lưu và
cuộc phiêu lưu ấy cũng đã kết thúc và bây giờ chỉ còn những kỷ niệm… Lòng anh
tràn ngập một nỗi buồn, một niềm xúc động. Anh cảm thấy đôi chút hối hận, bởi
vì anh nghĩ, người đàn bà trẻ trung ấy, người mà anh không bao giờ gặp nữa, sống
bên anh không chút hạnh phúc. Anh đối xử với nàng rất vội vã và chân thành,
nhưng trong cách đối xử ấy, trong cách âu yếm nàng vẫn có cái gì cười cợt ám ảnh,
vẫn phần nào có cái trịch thượng thô thiển ở một người đàn ông luôn được hưởng
sung sướng, thêm nữa anh lại nhiều tuổi hơn nàng gần đến hai lần. Lúc nào nàng
cũng gọi anh là người nhân hậu, người cao thượng, phi thường... chắc là nàng tưởng
tượng anh là một người khác, không như thực chất của anh, và thế có nghĩa là
anh đã lừa dối nàng...
Ngoài ga, hương vị của mùa thu đã đến, gió thổi mát lạnh. “Cả
mình cũng đến lúc trở về phương Bắc thôi, Gurốp vừa đi khỏi nhà ga vừa nghĩ. -
Đi thôi”.
III
Maxcơva đã là mùa đông, lò sưởi đã làm việc.
Sáng sáng, trước khi trẻ con đi học và uống nước chè, trời
hãy còn tối và người bảo mẫu phải thắp đèn lên một lúc. Trời đã lạnh lắm. Và
khi những bông tuyết đầu tiên rơi xuống, ngày đầu tiên ngồi trên xe trượt, người
ta sẽ khoan khoái nhìn mặt đất trắng xóa, nhìn những mái nhà phủ tuyết, hơi thở
sẽ nhẹ nhàng, đều đặn, và lúc ấy chắc mọi người đều nhớ lại những tháng năm thời
thơ ấu. Ở những cây bồ đề, những cây bạch dương trắng xóa vì sương giá có vẻ gì
như chào mời săn đón, dễ gần hơn những cây tùng, cây cọ, - bên cạnh những thứ
cây ấy, người ta không còn muốn nhớ đến biển, đến núi nữa.
Gurốp là người Maxcơva. Anh trở về đấy vào một hôm trời lạnh,
rất đẹp, và khi anh khoác tấm bành tô lông lên mình, xỏ tay vào đôi găng ấm áp
rồi đi dọc phố Pêtơrốpca, khi vào chiều thứ bảy anh lại nghe tiếng chuông nhà
thờ, thì chuyến đi xa vừa qua cùng những nơi anh đã đến bỗng trở nên mất hết vẻ
kỳ thú với anh.
Dần dần anh lại lao vào cuộc sống Maxcơva, anh đã bắt đầu ngấu
nghiến đọc ba tờ báo mỗi ngày và nói rằng vì giữ nguyên tắc nên không đọc báo
Maxcơva.
Những khách sạn, câu lạc bộ đã bắt đầu thu hút anh.
Anh lại muốn dự những bữa tiệc liên hoan, kỷ niệm.
Anh cảm thấy hởi lòng hởi dạ khi những luật sư, nghệ sĩ nổi
tiếng đến chơi nhà anh hoặc anh đã từng đánh bài với một giáo sư ở Câu lạc bộ
bác sĩ. Anh đã có thể ăn hết một liễn xúp to tướng.
Anh tưởng rằng chỉ độ một tháng sau, hình ảnh Anna
Xérghêépna sẽ phai mờ trong tâm trí anh, thỉnh thoảng anh sẽ chỉ còn nằm mơ thấy
nụ cười đầy xúc động của nàng, như đã nằm mơ thấy bao người khác. Nhưng hơn một
tháng đã qua, những ngày đông rét mướt nhất đã tới mà mọi điều trong tâm trí
anh còn rõ rệt, tưởng như anh mới chia tay với Anna Xérghêépna hôm qua. Những hồi
ức ấy ngày càng thêm rõ nét. Những lúc tiếng trẻ con học bài vẳng sang phòng
anh, những lúc nghe thấy tiếng đại phong cầm đàn bản tình ca vang lên trong
khách sạn, những lúc gió tuyết cuốn vào trong chiếc lò sưởi lớn...
Những lúc ấy tự nhiên trong ký ức anh bỗng sống lại tất cả:
từ những chuyện xảy ra trên bến tàu, ngoài bờ biển, đến những buổi sáng sớm mây
mù trên núi cao, những con tàu từ Phêôđôxia, những cái hôn... Anh đi đi lại lại
rất lâu trong phòng mình, hồi tưởng lại và tự mỉm cười. Dần dần những hồi ức ấy
chuyển thành mơ ước, và trong tưởng tượng quá khứ dần hòa nhập lại với những gì
sẽ xảy ra trong tương lai. Anh không phải nằm mơ thấy Anna Xérghêépna, mà là thấy
nàng đi bên anh, theo anh khắp mọi nơi như một cái bóng. Nhắm mắt lại, anh như
thấy nàng trước mặt, còn xinh đẹp hơn, trẻ hơn, dịu dàng hơn ngày trước và
chính bản thân anh cũng cảm thấy mình tốt hơn so với hồi ở Ianta. Tối tối nàng
như ngắm nhìn anh từ chiếc tủ đứng đựng sách, từ phía lò sưởi, từ góc phòng;
anh nghe thấy hơi thở nàng, tiếng xống áo nàng sột soạt nhẹ nhàng, âu yếm. Đi
ngoài phố, anh đưa mắt tìm kiếm xem có ai giống nàng không.
Một nhu cầu muốn giãi bày, muốn chia sẻ những kỷ niệm ấy dày
vò anh. Nhưng ở nhà thì không thể nói đến mối tình của mình được mà ở ngoài thì
lại không có ai để tâm sự, không thể thổ lộ với hàng xóm cũng không thể nói ở
nhà băng. Mà nói điều gì mới được chứ? Chẳng lẽ lúc ấy anh đã yêu nàng sao? Chẳng
lẽ đã có một cái gì đẹp đẽ thơ mộng, bổ ích cho anh hay đơn thuần là một cái gì
thú vị trong quan hệ của anh với Anna Xérghêépna sao? Và thế là anh phải nói
mông lung, mơ hồ về chuyện phụ nữ, chuyện tình yêu. Những lúc đó không ai đoán
được có cái gì xảy ra; chỉ có vợ Gurốp là cau đôi lông mày đen rậm và nói:
- Đimitri, vai một người kênh kiệu, rỗng tuếch không hợp với
anh đâu.
Có lần vào một đêm khuya, khi anh cùng bạn chơi bài, một
quan chức, bước ra khỏi Câu lạc bộ bác sĩ, anh không nén được nữa và thốt lên:
- Ồ, nếu ông bạn biết được mình đã làm quen với một người phụ
nữ đáng yêu như thế nào ở Ianta!
Viên quan chức ngồi vào chiếc xe trượt và xe đã bắt đầu chạy
đi; nhưng bỗng y quay lại và gọi to:
- Đơmitri Đơmitrits?
- Cái gì vậy?
- Lúc nãy thế mà anh đúng đấy: thứ cá chiên ấy có mùi rồi!
Những câu nói thường nghe ấy, không hiểu sao, lại tự nhiên
làm anh bực bội; anh cảm thấy những tiếng ấy thật bẩn thỉu, hạ thấp phẩm giá
con người. Những thứ đạo đức, những con người kỳ quặc, man rợ biết bao? Những
cuộc đánh bài điên loạn, ăn uống lỗ mãng, say rượu, những cuộc nói chuyện quanh
đi quẩn lại một đề tài! Những việc làm vô tích sự, những cuộc nói chuyện lặp đi
lặp lại ấy cướp đi một phần thời giờ tốt nhất, phần sinh lực quý nhất và kết cục
là để lại một cuộc sống tầm thường, tẻ ngắt, một cái gì ngu độn, vậy mà không
làm sao đi khỏi, chạy thoát được, hệt như đang sống trong một nhà thương điên
hay giữa một trại tù nào.
Suốt đêm hôm ấy Gurốp không ngủ được, lòng tràn đầy bực tức,
và ngày hôm sau anh bị nhức đầu.
Những đêm tiếp theo anh vẫn khó ngủ, khi thì ngồi trên thường
nghĩ ngợi, khi thì đi đi lại lại trong phòng. Anh chán bọn trẻ con, chán nhà
băng và chẳng buồn đi đâu hết, chẳng buồn nói gì hết. Vào những ngày nghỉ lễ
tháng 12, anh sửa soạn đi và nói với vợ rằng anh cần tới Pêterbua để chạy việc
cho một anh bạn trẻ. Nhưng rồi anh lại đi X. Để làm gì? Anh cũng không tự mình
biết rõ được. Anh muốn gặp Anna Xérghêépna, nói chuyện với nàng và hẹn hò gặp
nhau, nếu có thể được.
Gurốp đến X. vào một buổi sáng và thuê căn phòng sang trọng
nhất trong khách sạn. Trong căn phòng ấy, toàn bộ sàn nhà trải một lớp dạ lính
màu xám, trên bàn đặt một bình mực cũng màu xám vì bụi kèm tượng người kỵ sĩ cưỡi
ngựa tay cầm mũ giơ lên, nhưng đầu đã gãy cụt. Người hầu phòng cho anh biết mấy
tin tức cần thiết: Fôn Điđêrít ở phố Cựu Gôntrarơnaia, tại nhà riêng của ông
ta, cách khách sạn không xa lắm. Fôn Điđêrít sống sung túc, ung dung, có xe ngựa
riêng và cả thành phố đều biết ông.
Người hầu phòng gọi nhầm họ ông ta là Đơrưđưrít.
Gurốp chậm rãi đi về phía phố Cựu Gôntrarơnaia và kiếm tìm
ngôi nhà ấy. Một bức rào sắt nhọn màu xám chạy dài phía trước ngôi nhà.
“Nhìn thấy bức rào ấy chắc ai cũng phải bỏ chạy”, - Gurốp
nghĩ vậy và đưa mắt nhìn lên cửa sổ, nhìn lên bờ rào.
Anh suy tính: hôm nay là ngày nghỉ và thế có nghĩa là chắc
chắn chồng nàng sẽ có nhà. Đằng nào vào ngôi nhà ấy bây giờ cũng bất tiện và
làm phiền người khác. Còn nếu viết giấy để lại thì mảnh giấy ấy có thể rơi vào
tay người chồng và lúc đó mọi việc sẽ hỏng hết. Tốt nhất là chờ đợi dịp may.
Gurốp đi qua đi lại trên đường phố ấy, bên cạnh bờ rào và chờ dịp may đó. Anh
nhìn thấy một người ăn mày bước vào cổng nhà và một đàn chó liền chạy bổ tới. Một
giờ sau anh nghe thấy tiếng đàn dương cầm yếu ớt không rõ rệt vọng ra. Chắc là
Anna Xérghêépna đang đánh đàn. Cánh cổng đồ sộ bỗng thình lình mở rộng ra và
Gurốp thấy một bà lão bước ra, theo sau là con chó bông trắng quen thuộc dạo
nào. Gurốp muốn gọi con chó lại gần nhưng tim anh bỗng đập liên hồi, và vì quá
xúc động anh không còn nhớ tên con chó con ấy nữa.
Gurốp vẫn đi, mỗi lúc thêm căm tức bức rào sắt xám xịt, anh
đã bắt đầu bực bội nghĩ rằng Anna Xérghêépna đã quên anh, và có lẽ đã say sưa với
một người nào khác, điều đó là hoàn toàn tự nhiên đối với một người đàn bà trẻ
từ sáng sớm đến tối mịt phải nhìn thấy cái bức rào đáng nguyền rủa này. Anh trở
về khách sạn và ngồi rất lâu trên đi văng, không biết phải làm gì, sau đó, anh
đi ăn cơm rồi nằm ngủ rất lâu. “Toàn là chuyện ngu xuẩn và rắc rối. - Gurốp
nghĩ thế, khi đã tỉnh dậy và đưa mắt nhìn phía cửa sổ tối sẫm: trời đã tối rồi.
- Chẳng hiểu sao lại ngủ đẫy giấc thế. Biết làm gì đêm nay đây”.
Anh ngồi lặng trên chiếc giường trải một tấm chăn xám rẻ tiền
hệt như trong các bệnh viện và tự trách móc, giận dỗi mình:
“Đấy người đàn bà có con chó nhỏ của anh đấy... cuộc phiêu
lưu của anh đấy... Bây giờ thì cứ ngồi thế nhé!”
Sáng hôm nay, khi còn ở ngoài ga, một tấm quảng cáo với dòng
chữ to tướng đã đập vào mắt anh: “Công diễn lần đầu vở Gêisa”. Anh sực nhớ lại
điều ấy và đi đến rạp hát.
“Rất có thể nàng sẽ xem những cuộc công diễn lần đầu”, - anh
nghĩ.
Rạp hát chật ních người. Như ở mọi rạp hát tỉnh lẻ khác, rạp
này cũng có một làn khói mờ mờ như sương phía trên chùm đèn, dải bao lơn ồn ào
trên tầng hai.
Trước khi mở màn, ở hàng trên cùng, những người sang trọng ở
địa phương đứng chắp tay ra đằng sau, trên lô dành riêng cho quan tỉnh trưởng, ở
hàng trước con gái ông ta đang ngồi, vai quàng một chiếc khăn lông rất to, còn
chính tỉnh trưởng thì khiêm nhường ngồi phía đằng sau, chỉ nhìn thấy được hai
tay ông mà thôi. Tấm màn che động đậy, các nhạc công thi nhau lên dây đàn. Khi
khán giả còn đang lục tục vào tìm chỗ ngồi, Gurốp chăm chú đưa mắt tìm bốn
phía. Đến lượt Anna Xérghêépna bước vào. Nàng ngồi xuống hàng ghế thứ ba và khi
Gurốp nhìn nàng, trái tim anh bỗng thắt lại, anh chợt hiểu rằng, giờ đây, trên
thế giới này, đối với anh không còn ai gần gũi hơn, thân quý hơn, quan thiết
hơn người phụ nữ này.
Mất lẫn vào giữa đám người tỉnh lẻ này, tay cầm cập kính thô
thiển, người đàn bà nhỏ nhắn không có gì nổi bật ấy giờ đây đã choán hết cả cuộc
đời anh, đã là niềm vui, nỗi khổ của anh, là hạnh phúc duy nhất mà anh hằng
mong ước bấy lâu. Trong cái âm thanh ngán ngẩm của một dàn nhạc tồi, của những
cây đàn viôlông xấu xí rẻ tiền, anh để cho tâm trí mình nghĩ đến nàng, nghĩ rằng
nàng thật xinh đẹp biết bao. Anh nghĩ ngợi và mơ ước.
Cùng với Anna Xérghêépna và sau đó, ngồi xuống bên cạnh
nàng, là một người còn trẻ, râu quai nón thanh, dáng người rất cao và hơi gù gù.
Mỗi bước đi, anh ta lại gật đầu xuống, có cảm tưởng rằng anh ta luôn luôn cúi đầu
chào. Chắc đó là chồng nàng, người mà trong những phút cay đắng ở Ianta, Anna
Xérghêépna đã gọi là một người nô bộc. Thực ra, trong cái dáng người dài ngoẵng,
bộ râu quai nón và cái trán hơi bị hói cũng có vẻ ngoan ngoãn, nhún nhường. Anh
ta cười ngọt ngào, bên dưới cổ áo, chiếc huy hiệu chứng nhận bằng cấp nào đó lấp
lánh trông hệt như mảnh số đeo của người hầu phòng.
Hết màn thứ nhất, người chồng trở ra hành lang hút thuốc lá,
nàng ngồi lại trên chiếc ghế bành.
Gurốp cũng ngồi ở dưới nhà. Anh bước gần đến bên nàng và nói
giọng run run, miệng cười gắng gượng:
- Chào chị.
Nàng đưa mắt nhìn anh và gương mặt nhợt nhạt tái hẳn đi.
Nàng lại hoảng sợ nhìn lại anh lần nữa như không tin vào chính mắt mình, bàn
tay nàng nắm chặt lấy chiếc quạt và cặp kính nhòm: chắc nàng đang phải tự gắng
sức lắm để khỏi phải ngã ngất đi.
Cả hai đều im lặng. Nàng vẫn ngồi, còn anh thì vẫn đứng; vẻ
lúng túng, bối rối của nàng vừa rồi làm anh sợ hãi, anh không dám ngồi xuống
bên cạnh. Đàn sáo lại nổi lên. Gurốp bỗng cảm thấy ghê rợn khi nghĩ rằng có lẽ
mọi người ở khắp các lô xung quanh đang chăm chú nhìn anh. Nhưng rồi nàng bỗng
đứng dậy và đi ra phía cửa; anh cũng đi theo nàng. Cả hai người cứ đi một cách
kỳ dị như thế. Họ đi theo hành lang lên cầu thang gác, lúc lên lúc xuống, loáng
thoáng qua trước mặt họ là những người ăn vận quần áo quan tòa, giáo học, quan
lại, ai cũng đeo huy hiệu, loáng thoáng bóng các bà, áo bành tô treo trên giá.
Gió lùa qua lại, mang theo mùi thuốc lá đang cháy dở. Trái
tim anh đập rộn ràng, anh nghĩ: “Trời, có những người này, dàn nhạc này để làm
gì!...”.
Trong giây lát ấy, Gurốp bỗng nhớ lại cái buổi chiều tối trên
sân ga, sau khi tiễn Anna Xérghêépna đi rồi, anh tự nhủ, sự việc thế là kết
thúc và họ không bao giờ gặp lại nhau nữa. Nhưng thực ra cái điểm kết thúc ấy
còn xa vời biết bao!
Đến một cầu thang nhỏ hẹp, tôi tối, nơi có treo biến đề: “Lối
vào ămphitêat, [một khu vực trong rạp hát, ở phía sau chỗ ngồi chính (ND)],
Anna Xérghêépna dừng lại.
- Anh làm tôi sợ quá! - nàng vừa nói, vừa thở rất nặng nhọc,
nét mặt nàng còn nguyên vẻ nhợt nhạt, sửng sốt. - Ôi, anh làm tôi sợ quá! Tôi
thật dở sống dở chết. Anh đến đây làm gì? Làm gì?
- Anna, cô hãy hiểu cho tôi, hãy hiểu tôi... - Gurốp nói vội
vàng, giọng nhỏ nhẹ. - Tôi van cô, xin cô hiểu tôi.
Nàng sợ hãi nhìn anh, ánh mắt nàng như cầu khẩn, nhưng chan
chứa yêu thương. Nàng đăm đăm nhìn anh như để cố khắc sâu vào tâm khảm những đường
nét trên gương mặt anh.
- Ôi, tôi thật khổ! - Nàng không nghe anh, nói tiếp. - Lúc
nào tôi cũng nghĩ đến anh, sống bằng những hồi tưởng về anh. Tôi muốn quên đi,
quên hết đi, nhưng làm sao, làm sao anh lại đến đây?
Phía trên cao, có hai cậu học trò đang hút thuốc và đưa mắt
nhìn xuống dưới. Nhưng mặc họ, Gurốp vẫn kéo nàng lại gần mình rồi hôn lên má,
lên mặt, lên tay nàng.
- Anh làm gì vậy, làm gì vậy! - .Nàng vừa sợ hãi nói, vừa đẩy
anh ra. - Chúng ta đều mất trí cả rồi. Anh hãy đi khỏi nơi này ngay hôm nay, đi
ngay bây giờ thôi... Trước các vị thần linh, tôi van anh, tôi xin anh đừng...
Người ta đang đi lại phía này đấy! Có người nào đang đi lên thang gác.
- Anh phải đi khỏi nơi này... - Anna Xérghêépna nói tiếp, giọng
thì thầm. - Anh nghe không? Anh Đơmitri Đơmitríts? Tôi sẽ đến Maxcơva với anh.
Chưa bao giờ tôi được sống hạnh phúc, cả bây giờ cũng đang bất hạnh và sẽ không
bao giờ, không bao giờ được sống hạnh phúc, không bao giờ! Vậy thì hãy bắt tôi
phải khổ sở thêm nữa! Thề với anh rằng, tôi sẽ đến Maxcơva. Bây giờ thì chia
tay thôi! Anh thân yêu, anh quý mến, anh rất tốt với em, giờ thì chúng ta tạm
xa nhau anh ạ!
Nàng nắm chặt tay anh rồi vội vã bước xuống cầu thang, đầu
ngoái nhìn lại anh hoài; nhìn đôi mắt nàng, cũng biết được rằng, trong cuộc đời,
nàng đúng là một người không hạnh phúc... Gurốp đứng lại một lúc, lắng tai nghe
ngóng, cho đến khi chung quanh đã yên lặng, anh mới đi tìm giá áo của mình và rời
khỏi nhà hát.
Từ dạo ấy, Anna Xérghêépna bắt đầu đến Maxcơva với anh. Cứ độ
khoảng hai ba tháng nàng lại rời khỏi X. Nàng nói với chồng nàng rằng nàng cần
đi Maxcơva để gặp một giáo sư chuyên chữa bệnh phụ nữ nào đó của nàng - chồng
nàng thì nửa tin nửa ngờ.
Đến Maxcơva, Anna Xérghêépna nghỉ tại khách sạn “Chợ Xlavơ”
và cho ngay một người đội mũ đỏ đến báo với Gurốp. Gurốp đến với nàng, ở Maxcơva
không hề có ai biết việc đó.
Có một lần vào một buổi sáng mùa đông, Gurốp đi đến gặp nàng
bằng cách như thế (người đến báo tin từ tối hôm trước lại không gặp được anh ở
nhà), đi bên anh là đứa con gái lớn mà Gurốp muốn đưa đến trường vì đi cùng đường.
Tuyết rơi từng bông rất to và ướt át - Bây giờ là 3 độ trên 0, thế mà tuyết vẫn
rơi, - Gurốp nói với con gái. - Nhưng cái ấm áp đó chỉ có ở trên mặt đất thôi,
còn ở trên tầng cao khí quyển thì nhiệt độ lại hoàn toàn khác.
- Ba ơi, tại sao mùa đông lại không có sấm hở ba?
Anh lại giải thích điều đó. Anh vừa nói vừa nghĩ rằng, đó
anh đang đi đến chỗ hẹn hò, mà không có một ai biết điều ấy, và chắc sẽ chẳng
bao giờ có ai biết đến. Trong anh đồng thời có hai cuộc sống: một cuộc sống lộ
ra bên ngoài mà ai cũng thấy, cũng biết, một cuộc sống đầy những sự thật ước lệ,
những lừa dối ước lệ giống hệt như cuộc sống của bạn bè và người quen anh; còn
một cuộc sống nữa thì lại càng lặng lẽ, kín đáo trôi qua. Và, vì một sự sắp xếp
kỳ quặc nào đó những sự kiện có thể là tình cờ, mà tất cả những gì hệ trọng, cần
thiết, thích thú với anh, những gì mà anh chân thành yêu, anh không lừa dối
mình, những gì tạo nên cốt lõi của cuộc đời anh, thì lại bí mật trôi qua dưới mắt
người đời; và tất cả những gì dối trá lừa đảo, là cái vỏ bề ngoài mà anh nấp
vào để che đậy sự thật chẳng hạn như việc làm trong nhà băng, những cuộc tranh
cãi ở câu lạc bộ, cái câu cửa miệng: “Loại người hạ đẳng”, những buổi cùng vợ
đi dự tiệc... Tất thảy đều phơi bày ra ngoài hết. Anh tự ngẫm mình mà suy ra những
người khác. Anh không tin những gì mình thấy, và bao giờ cũng cho rằng ở mỗi
người, đằng sau tấm màn bí mật, như đằng sau màn đêm tối, có một cuộc đời thực,
cuộc đời thú vị nhất, đang ẩn náu. Mỗi cuộc đời riêng đều tồn tại trong bí mật
và có lẽ một phần vì thế mà những người có văn hóa đều thiết tha mong muốn sao
cho bí mật riêng tư của mỗi người đều được tôn trọng.
Đưa con gái đến trường xong, Gurốp rẽ vào khách sạn “Chợ
Xlavơ”. Anh cởi bỏ áo bành tô ở tầng dưới, bước lên cầu thang và khẽ gõ cửa
phòng. Anna Xérghêépna vận chiếc váy áo màu xám mà anh rất thích. Trông nàng mệt
mỏi vì đi đường và vì phải chờ đợi. Suốt từ tối hôm qua đến nay nàng đã phải chờ.
Gương mặt nàng nhợt nhạt. Nàng nhìn anh, không mỉm cười, và
khi anh vừa vào trong buồng, nàng gục đầu lên ngực anh. Họ hôn nhau rất lâu tưởng
chừng như đã hai năm không gặp nhau.
- Thế nào, em sống ở đấy ra sao? - Gurốp hỏi. - Có gì mới
không?
- Anh đợi một tí, em kể ngay bây giờ cho anh nghe... Em
không thể...
Nàng không nói nữa và khóc nức lên. Nàng quay sang bên và
đưa khăn lau nước mắt.
“Thôi, cứ để nàng khóc, còn mình thì ngồi một lúc vậy”, -
Gurốp nghĩ và ngả mình vào chiếc ghế bành.
Sau đó anh giật chuông gọi người đưa nước trà đến và sau khi
anh uống trà, nàng đứng quay mặt về phía cửa sổ… Nàng khóc vì xúc động, vì ý
nghĩ buồn tủi rằng cuộc đời của cả hai người sao mà bất hạnh đến thế, họ chỉ có
thể gặp nhau giấu giếm, lẩn tránh mọi người như những tên trộm? Chẳng lẽ cuộc đời
của họ chưa tan nát rồi sao?
- Thôi, đừng khóc nữa em? - Anh nói.
Anh cảm thấy rất rõ rằng đối với anh còn rất lâu, không biết
đến bao giờ mối tình này mới chấm dứt.
Càng ngày Anna Xérghêépna càng gắn bó với anh hơn, ngưỡng mộ
anh hơn, và thật là vô nghĩa nếu nói với nàng rằng tất cả những điều xảy ra một
lúc nào đó đều phải kết thúc; mà nếu có nói như vậy, chắc nàng cũng không tin.
Anh bước đến bên nàng và ôm lấy đôi vai nàng, để âu yếm,
trêu đùa với nàng. Cùng lúc ấy, anh nhìn thấy bóng mình trong gương. Mái tóc
anh đã bắt đầu điểm bạc. Anh cảm thấy lạ lùng rằng những năm gần đây anh già
đi, tàn tạ đi chóng quá. Đôi vai mà anh đang đặt tay lên khẽ rung rung và nóng
hổi. Lòng anh tràn ngập một niềm thương cảm cuộc đời này, một cuộc đời còn ấm
áp và xinh đẹp, nhưng có lẽ đã đến lúc gần trở nên héo mòn, héo hắt như cuộc đời
anh. Vì lẽ gì mà nàng yêu anh như vậy? Đối với những người phụ nữ, bao giờ anh
cũng để lại ấn tượng một con người khác, không giống con người anh trong thực tại,
và không phải họ yêu chính anh mà là yêu con người tưởng tượng của họ, yêu con
người suốt đời họ đi tìm kiếm. Sau này, khi nhận thấy nhầm lẫn của mình rồi, họ
vẫn còn yêu. Và không một ai trong bọn họ cảm thấy mình hạnh phúc bên anh. Thời
gian trôi đi, anh làm quen với phụ nữ, gần gũi họ, rồi lại rời xa, nhưng chưa
bao giờ yêu; có tất cả mọi điều, duy chỉ có tình yêu là chưa đến.
Chỉ đến bây giờ, khi trên đầu anh tóc đã bắt đầu điểm bạc,
anh mới yêu, yêu thực sự chân thành - lần đầu tiên trong cả đời mình.
Nàng và anh yêu nhau tha thiết như những người rất gần gũi,
gắn bó với nhau, như vợ chồng, như những người bạn âu yếm. Họ có cảm tưởng rằng
chính số mệnh đã tạo họ ra cho nhau, và không thể hiểu rằng làm sao mà anh lại
có vợ và nàng lại có chồng. Họ như hai con chim trời cùng đàn, một con trống, một
con mái, cùng bị bắt và nhốt vào hai cái lồng khác nhau. Họ tha thứ cho nhau tất
cả những gì trong quá khứ mà họ cảm thấy ngượng ngùng, tha thứ tất cả những gì
trong hiện tại và cảm thấy rằng mối tình này đã làm thay đổi hẳn cả hai người.
Ngày trước, trong những phút buồn rầu, Gurốp tự an ủi mình bằng
đủ mọi điều suy xét, bất cứ điều nào đến với đầu óc anh. Bây giờ anh không còn
tâm trí đâu để mà suy xét nữa, lòng anh chỉ còn tràn ngập một niềm thương cảm lớn,
anh muốn trở nên chân thành, dịu dàng.
- Đừng khóc nữa, em thân yêu của anh, - Gurốp nói. - Em đã
khóc rồi, rồi lại... Thôi chúng ta nói chuyện với nhau một lát, thử nghĩ xem có
cách gì không.
Sau đó họ bàn với nhau rất lâu, nói với nhau rằng, làm sao
thoát khỏi cảnh phải lẩn tránh lừa dối mọi người, phải sống ở những thành phố
khác nhau, rất lâu mới được gặp nhau. Làm sao mà thoát khỏi những ràng buộc tai
ác này?
- Làm sao? Làm sao? - Gurốp đưa tay nắm tóc mình và hỏi. -
Làm sao bây giờ?
Có cảm giác chỉ ít lúc nữa thôi là lối thoát sẽ được tìm ra,
và lúc ấy, một cuộc đời hoàn toàn mới, thật đẹp đẽ sẽ đến; nhưng cả hai người đều
thấy rõ rằng còn xa lắm, xa lắm mới đến ngày kết cục, và những gì rắc rối nhất,
khó khăn nhất chỉ vừa mới bắt đầu.
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét