Cormac Mccarthy
Cha Và Con
(Nguyên tác: The Road)
Dịch giả : Thanh Nhã
Nhà Xuất Bản Văn Hóa - Thông Tin
Chương 18
Trong phòng ngủ thứ hai, anh tìm
thấy mấy cái ngăn kéo nằm dưới gầm giường không hề bị suy chuyển tí nào. Anh dốc
nó ra. Toàn giấy tờ và sách bằng tiếng Tây Ban Nha. Vài bánh xà phòng. Một cái
vali màu đen cũng toàn giấy tờ đã mốc meo. Anh cho mấy bánh xà phòng vào túi rồi
đứng dậy. Trên giường là những quyển sách bằng tiếng Tây Ban Nha phồng lên và
đang mủn ra. Trên cái giá dựa vào tường còn độc một quyển.
Sau khi tìm thấy một cái túi vải bạt
tráng cao su, anh đảo qua khắp phần còn lại của con tầu, đẩy tay vào tường để
tránh bị nghiêng theo thuyền. Cái quần vàng anh mặc bay lật phật vì gió lạnh.
Anh nhét vào túi đủ thứ. Một đôi giày vải của phụ nữ anh nghĩ sẽ vừa với con. Một
con dao gập chuôi gỗ. Một cái kính râm. Có một cái gì đó cố hữu trong cách tìm
đồ của anh. Giống như là anh thường tìm cái anh cần nhất ở những chỗ ít có khả
năng nhất trước. Lục lọi xong ở các khoang, anh mới quay trở lại khoang bếp.
Anh bật thử cái lò sưởi rồi lại tắt đi. Anh kéo chốt cửa hầm xuống buồng máy.
Trong ấy có nước ngập đến nửa người và tối om om. Không có mùi của xăng dầu gì
cả. Anh sập nắp hầm lại. Trong buồng lái có mấy cái ngăn được xây dưới chiếc
bàn dài dùng để chứa nệm, vải buồm, đồ câu. Trong cái ngăn dưới bệ lái, anh tìm
thấy vài cuộn dây thừng bằng ni-lông, vài cái bình ga bằng thép và một cái hộp
để đồ làm bằng sợi thủy tinh. Gỉ nhưng vẫn xài được. Trong đó có kìm, tua vít
và cờ lê. Anh đóng cái hộp rồi quay ra boong xem con thế nào. Thằng bé co ro
trên nền cát rúc đầu vào đống quần áo ngủ ngon lành.
Anh mang cái hộp đồ và một cái
bình ga vào trong khoang bếp rồi đi một vòng cuối qua các phòng ngủ. Sau đó anh
bắt đầu rà soát lại tất cả những ngăn tủ trong phòng khách lớn, xem qua giấy tờ
trong những hộp nhựa và thử tìm nhật ký tầu. Anh tìm thấy một bộ đồ sứ được bọc
cẩn thận trong một thùng gỗ lớn giữa đống vỏ bào. Hầu như đã vỡ hết. Tám bộ đồ
ăn, cái nào cũng khắc tên con tàu. Chắc là đồ biếu - anh nghĩ. Anh nhấc một
chén trà lên xoay xoay trong lòng bàn tay rồi lại đặt nó xuống. Thứ cuối cùng
mà anh tìm thấy là một hộp gỗ sồi hình vuông được lắp mộng đuôi én và một cái
đĩa đồng trên nắp. Anh đoán có lẽ là hộp đựng xì gà nhưng hình dáng thì không
phải. Anh nhấc nó lên, dựa vào trọng lượng của cái vật bên trong mà anh biết nó
là cái gì. Anh bật cái lẫy đánh tách một cái và mở nó ra. Trong đó là một kính
lục phân định vị tàu biển bằng đồng, dễ phải đến một trăm năm rồi. Anh nhấc nó
ra khỏi cái hộp cực kỳ vừa vặn và giữ nó trên tay. Sững sờ vì vẻ đẹp của nó. Lớp
đồng hơi xỉn, trên thân có những miếng màu xanh được đặt lên cho vừa tay chủ
nhân của nó. Anh cạo cạo lớp gỉ đồng trên mặt hộp: Hezzaninth, London. Anh đưa
nó lên mắt và xoay thử. Đây là vật đầu tiên làm cho anh thấy hứng thú trong nhiều
năm nay. Anh cầm nó trên tay một lúc, sau đó anh đặt nó trở lại vào lớp vải mịn
lót bên trong rồi khóa nắp xuống và để vào chỗ cũ.
Khi quay lại boong tầu, anh sợ đứng
cả tim khi không thấy con đâu. Một nỗi hoảng sợ xâm chiếm lấy anh nhưng rồi anh
lại nhìn thấy thằng bé đang đi dọc bãi biển với khẩu súng trong tay, đầu cúi xuống.
Đứng trên khoang, anh có thể cảm nhận con tầu đang dập dình và trượt đi. Rất nhẹ.
Thủy triều lên. Sóng táp ì oạp vào mấy con đê chắn sóng. Anh quay trở lại vào
khoang.
Anh lấy hai cuộn thừng, dùng gang
tay đo xem chúng dài khoảng bao nhiêu và đếm xem có bao nhiêu cuộn. Có khoảng
hai chục mét dây tất cả. Anh treo chúng vào cầu tầu trên boong và quay vào
trong. Anh lượm lặt tất cả mọi thứ, đặt chúng lên bàn. Còn một vài bình nước
trong khoang bếp nhưng chỉ một cái là còn nước. Anh nhặt một trong những cái
bình rỗng lên và nhận ra rằng vỏ của nó bị nứt nên nước đã chảy ra và đã bị đóng
băng ở đâu đó trong cuộc hành trình phiêu dạt của con tầu này. Có khi còn là
vài lần. Anh đặt một cái bình còn đầy một nửa lên bàn, mở nắp và nâng bình lên,
hớp một ngụm nhỏ rồi anh tu một hơi dài.
Những hộp bột trong khoang bếp chẳng
có vẻ gì là còn tận dụng được. Những vết gỉ khắp nơi. Tất cả các nhãn đã bị
bong ra, những chữ được viết trên hộp thì bằng tiếng Tây Ban Nha. Anh không
rành thứ tiếng này lắm. Anh xem qua tất cả một lần, lắc thử và bóp mạnh trong
tay. Sau anh xếp chúng lên trên tủ lạnh. Anh nghĩ tầu này phải dự trữ thức ăn
đâu đó nhưng anh cũng không tin vào điều tốt đẹp ấy lắm. Nhưng dù thế nào thì họ
cũng chỉ có thể chất được lên xe một số lượng có hạn. Một ý nghĩ lóe lên trong
đầu anh rằng anh sẽ mang theo cái kho từ trên trời rơi xuống kia. Nhưng rồi anh
vẫn nghĩ may mắn có thể chẳng là cái gì cả. Có những đêm nằm trong bóng tối,
anh thấy không ghen tị với những kẻ đã chết.
Anh còn tìm được cả những hộp sữa,
một hộp chè kim loại gỉ sét, một hộp dầu ô liu cùng một số hộp thức ăn mà anh
chịu, không nhận ra đó là món gì. Một nửa hộp cà phê. Anh xem xét một cách kĩ
lưỡng mấy cái giá trong các ngăn tủ, cân nhắc xem cái gì nên mang đi. Khi anh
đã chất đống tất cả các thứ trong phòng khách lớn, rồi anh quay trở lại bếp với
hộp đồ và tháo cái tạo nhiệt ở cái máy sưởi ra. Anh cắt dây nối, tháo miếng
nhôm từ cái tạo nhiệt ra và đút một cái vào túi áo. Anh lấy cờ lê vặn con ốc bằng
đồng rồi tháo cái tạo nhiệt, sau đó anh tách chúng ra nối một đầu vào bình ga.
Anh dồn cả sang phòng khách lớn. Cuối cùng anh cho tất cả đồ ăn mà anh tìm được
vào một cái bạt và túm nó lại. Anh trút quần áo để chúng vào chung với đống đồ
anh vừa thu nhặt. Sau đó anh lên boong tầu trườn xuống cái tay vịn với túi vải
bạt, thả mình xuống làn nước xám và buốt giá.
Anh lên bờ trong ánh sáng cuối
cùng của ngày, quẳng túi bạt qua một bên, lấy tay vuốt nước khắp cơ thể rồi mặc
quần áo vào. Thằng bé bám lấy cha. Nó cứ hỏi liên tục về vết tím trên vai anh,
chỗ mà anh đã dùng để tông vào cửa.
- Không sao đâu con, nó không đau
đâu. Cha lấy được nhiều đồ lắm, lát nữa cha sẽ cho con xem.
Hai người hối hả quay về chỗ ngồi
nghỉ.
- Nếu con tàu ấy bị cuốn thì sao hở
cha?
- Nó sẽ không bị cuốn đi đâu.
- Có chứ ạ!
- Không đâu. Nào, con có đói
không?
- Có ạ!
- Tối nay hai cha con mình sẽ ăn
ngon một chút, nhưng chúng ta phải nhanh chân lên.
- Con đang đi nhanh đây.
- Trời có thể sắp mưa.
- Sao cha biết?
- Cha có thể cảm nhận được.
- Thế cha thấy gì?
- Cha ngửi thấy mùi tro bụi ẩm.
Nhanh lên nào. - Anh bỗng khựng lại. - Khẩu súng đâu rồi.
Thằng bé cứng cả người. Hoảng hốt.
- Lạy chúa!
Anh quay lại nhìn bờ biển. Họ đã
hoàn toàn khuất bóng con tàu. Anh nhìn con. Thằng bé ôm đầu mếu máo.
- Cha ơi, con xin lỗi, con rất xin
lỗi cha.
Anh đặt cái túi bạt xuống.
- Chúng ta phải quay lại.
- Con xin lỗi.
- Không sao cả, chắc chắn nó vẫn
còn ở đó.
Thằng bé đứng đó, đôi vai nhỏ bé
run lên. Nó bắt đầu nức nở. Anh quỳ xuống ôm chặt lấy con.
- Nào, không sao cả đâu con trai.
Cha là người phải giữ súng nhưng cha quên mất.
- Con xin lỗi cha ơi.
- Thôi, đi nào. Không vấn đề gì cả.
Không sao cả.
Khẩu súng vẫn ở đó. Anh lượm nó
lên lắc lắc rồi anh ngồi xuống tháo chốt ổ đạn ra và đưa cho con.
- Con cầm hộ cha.
- Nó vẫn bình thường chứ ạ?
- Tất nhiên là thế rồi.
Anh tháo ổ đạn ra thổi cho hết cát
và đưa cho thằng bé. Anh thổi cả nòng và vỏ ngoài rồi lắp súng lại như cũ. Anh
lên cò súng, kéo cò rồi lại lên cò súng một lần nữa. Anh lắp đạn vào ổ đạn.
- Tất cả đều ổn, đi nào con.
- Trời sắp tối rồi phải không ạ?
- Cha không rõ.
- Chắc là sắp!
- Nhanh lên nào, chúng ta phải
nhanh lên.
Bóng tối bao trùm lấy họ. Khi hai
cha con lên được đường mòn thì trời đã tối quá, không còn nhìn thấy gì nữa. Họ
đứng trong gió giữa những đám cỏ xào xạc. Thằng bé nắm chặt tay anh.
- Chúng ta phải đi tiếp con ạ.
- Con chẳng thấy gì cả.
- Cha biết, chúng ta chỉ cần bước
từng bước một.
- Vâng.
- Cố lên con.
- Dạ!
- Không vấn đề gì đâu.
- Vâng, không vấn đề gì.
Hai cha con tiếp tục đi trong bóng
tối dầy đặc, mò mẫm như những người khiếm thị. Anh đưa tay ra đằng trước quờ quạng.
Trên mũi đất này, anh chẳng thể đâm vào cái gì khác ngoài những mô đất đầy cỏ dại.
Tiếng sóng ngày càng xa hơn. Anh vẫn phải chống chọi cả với những cơn gió. Sau
một tiếng dò dẫm, hai cha con đã ra khỏi đám cỏ dại và ra đến bờ biển. Dưới
chân hai cha con là cát khô của phần trên bãi biển. Gió lạnh hơn. Anh đưa con
nép sang bên khuất gió của mình. Thình lình bãi biển sáng lòa lên rồi lại biến
mất.
- Cha ơi cái gì thế?
- Không có gì đâu. Chớp ấy mà. Đi
tiếp nào.
Anh vắt cái bạt lên vai nắm chặt lấy
tay con, nhấc chân như những chú ngựa đang diễu hành. Cố gắng tránh dẫm lên gỗ
dạt hoặc tảo biển. Ánh lại chớp lóa lên một lần nữa. Tiếng sấm xuyên qua màn
đêm ầm ì vọng lại từ xa.
- Cha nghĩ là cha nhìn thấy chỗ
nghĩ của hai cha con mình rồi.
- Vậy là chúng ta đi đúng đường phải
không ạ?
- Ừ.
- Con lạnh quá cha ạ!
- Cha biết. Cầu Chúa cho chớp nữa.
Họ lại đi tiếp. Khi ánh sáng chớp
lên, anh nhìn thấy con đang lẩm bẩm cầu nguyện. Anh cố tìm chỗ nghĩ của hai cha
con nhưng không thấy gì cả. Gió ngày một dữ dội, anh chờ đợi những hạt mưa đầu
tiên. Nếu hai cha con mắc kẹt trên bãi biển suốt đêm với cơn bão này thì chết mất.
Hai cha con quay lưng lại để tránh bị gió táp vào mặt, tay giữ chặt lấy mũ áo.
Cát quất ràn rạt vào chân hai cha con. Chúng đuổi bắt nhau trong bóng đêm.
Tiếng sấm nổ ra tận ngoài khơi.
Mưa sập xuống nhanh chóng. Tới tấp vào mặt. Anh áp chặt con vào mình.
Hai cha con đứng dưới trời mưa như
trút nước. Họ đã đi được bao xa rồi. Anh chờ những tia chớp nữa nhưng nó cứ
ngày một yếu đi. Khi những tia chớp tiếp theo ánh lên, anh biết anh chẳng thể
nhận ra được đường đi nữa trong cơn bão này. Họ lê từng bước vất vả trên cát.
Hi vọng là sẽ nhìn thấy đống gỗ mà hai cha con đã nghỉ ở đấy. Chẳng còn tia chớp
nào cả. Rồi qua màn mưa, anh chợt nghe thấy tiếng lộp độp vẳng lại từ xa. Anh đứng
lại.
- Nghe này con, - anh nói.
- Gì vậy cha?
- Con nghe đi, thấy không?
- Con chẳng nghe thấy gì cả.
- Đi nào.
- Gì vậy cha?
- Tấm bạt con ạ. Cha nghe thấy tiếng
mưa trên tấm bạt.
Hai cha con tiến bước, loạng choạng
trên cát và vấp vào những rác rưởi mà thủy triều đã dâng lên bờ. Hai cha con về
được đến chỗ tấm bạt.
Anh mò tìm những tảng đá anh đặt
lên để chặn giữ tấm bạt, phủ lên người hai cha con rồi lại lấy mấy tảng đá chèn
lên mép trong. Anh cởi áo ướt cho con và lấy chăn ra đắp lên. Anh cởi áo khoác
của mình, ôm con chặt hơn và hai cha con thiếp đi.
Đến đêm thì mưa tạnh. Anh thức giấc
và lắng nghe. Gió lặng rồi, còn biển thì đang gầm gừ. Khi ánh sáng nhợt nhạt đầu
tiên của ngày xuất hiện, anh đứng dậy và bước xuống bãi biển để xem sóng có
đánh dạt lên bờ thứ gì dùng được không. Trận bão đã quăng quật mọi thứ và ném bừa
bãi trên bãi biển. Trong chỗ nước cạn của đê chắn sóng, giữa đống củi dạt, anh
nhìn thấy xác một người già bị dạt vào, lúc nâng lên lúc hạ xuống theo nhịp của
sóng. Anh ước giá anh có thể giấu đi để con anh khỏi nhìn thấy. Nhưng con anh
nói đúng. Anh giấu để làm gì? Khi anh quay lại thì thằng bé đã ngồi dậy trên
cát và nhìn anh đi lại từ xa. Anh cuốn chăn và phơi áo khoác của hai cha con
lên những bụi cỏ khô. Thằng bé đến cạnh anh và ngồi xuống. Hai cha con cứ ngồi
như vậy nhìn những con sóng đen nhịp nhàng lên xuống đằng xa. Hai cha con đã mất
cả buổi sáng để chuyển đồ từ con tầu sang. Anh nhóm lửa sẵn trên bờ. Khi anh vừa
run cầm cập vừa đi lên từ bờ biển lạnh, anh đưa sợi dây cho thằng bé ì ạch kéo
cái túi từ dưới biển lên còn anh thì ra đống lửa sưởi. Hai cha con dốc hết đồ từ
trong túi ra và trải nó lên bãi biển cho khô. Trên tầu còn nhiều thứ khác mà
hai cha con không thể mang theo hết. Anh nghĩ là hai cha con nên ở lại vài ngày
trên bờ biển ăn uống thỏa thuê nhưng như thế thì rất nguy hiểm. Đêm đó, hai cha
con nhóm lửa ngủ lại trên bờ biển với đống đồ đạc lỉnh kỉnh xung quanh. Anh thức
dậy và ho. Anh uống chút nước và chất thêm củi vào đống lửa, những tia lửa đỏ
không ngừng bắn ra. Thứ gỗ đã ngấm muối này cháy tỏa ra ngọn lửa màu cam và
xanh. Anh ngồi nhìn chúng trong một lúc lâu. Sau đó anh đi ngược lên trên bờ biển.
Cái bóng của anh đổ dài trên nền cát ngay trước mặt anh. Nó cũng lay động theo
ngọn lửa, như một ngọn lửa bập bùng trong gió. Anh ho không dứt. Anh quỳ xuống
nắm chặt đầu gối, cảm nhận được vị mặn của máu trong miệng. Những con sóng trườn
lên bờ cát rồi rút lui vào trong bóng tối. Anh nghĩ lại về cuộc đời nhưng còn
cuộc đời nữa đâu để nghĩ. Sau một hồi anh quay lại. Anh lấy một lon quả ra khỏi
túi, ăn chậm rãi. Thằng bé vẫn đang ngủ. Mỗi làn gió thổi, ngọn lửa bùng lên
làm những tàn lửa thi nhau chạy theo gió ra ngoài biển. Anh để cái hộp rỗng giữa
hai chân. “Mỗi ngày là một sự dối trá. Nhưng ta đang chết dần chết mòn. Đấy
không phải là một điều dối trá”.
Hai cha con xếp những đồ đạc mới
trên tấm bạt hoặc trên những tấm chăn trên bờ biển. Sau đó đóng tất cả lên xe.
Thằng bé đã cố gắng mang quá nhiều và hai cha con phải dừng lại để nghỉ. Anh dỡ
bớt một phần đồ đạc bên con chuyển sang bên mình. Sau cơn bão, con tầu đã di
chuyển một chút. Anh đứng nhìn nó. Còn thằng bé chăm chú nhìn anh.
- Cha lại định ra đó ạ? - Nó hỏi.
- Ừ. Một lần cuối.
- Con thấy sợ lắm cha à.
- Không sao đâu. Con để ý xung
quanh một chút.
- Chúng ta đã có quá nhiều thứ để
mang đi rồi.
- Cha biết, chỉ là cha muốn xem lại
một chút.
- Vâng!
Anh xem xét con tầu từ đầu đến cuối
một lần nữa. Khoan đã nào. Để xem lại xem. Anh ngồi trên sàn của phòng khách lớn,
chân đặt lên cái bệ. Trời đang tối dần. Anh cố gắng nhớ lại mọi chi tiết của
con tầu. Anh đứng dậy bước ra boong tầu một lần nữa. Thằng bé đang ngồi cạnh đống
lửa. Anh bước xuống khoang lái ngồi tựa vào tường, chân gác lên bàn, gần ngang
tầm mắt. Anh mặc một cái áo len và khoác thêm một cái áo gió bên ngoài nữa
nhưng chúng chẳng đủ ấm khiến anh cứ run lên cầm cập. Anh đang định đứng dậy
thì anh nhận ra cái mà anh cứ nhìn chăm chăm từ nãy đến giờ ở bên vách bên kia
là bốn cái chốt. Tất cả làm bằng i-nốc. Ngày trước, những băng ghế này được bọc
đệm. Bây giờ, anh có thể thấy dấu vết của những miếng đệm đã rị rách toang ở
các góc. Phía trên băng một chút, một sợi dây ni-lông lộ ra, đoạn cuối của nó
được gấp lên và khâu chéo lại. Anh xem xét mấy cái chốt. Chúng có tay quay. Anh
quỳ lên băng ghế rồi lấy ngón tay trỏ vặn mấy cái chốt sang bên trái. Chúng đều
là chốt lò xo. Khi anh tháo chúng ra anh nắm lấy sợi dây ni-lông và giật ra, một
tấm bảng trượt xuống sàn. Trong cái ngăn đó có vài tấm vải buồm và có lẽ hai
cái xuồng cao su đã được cuộn tròn trong một cái dây. Một đôi mái chèo nhựa nhỏ.
Một hộp pháo sáng. Trong cùng là một hộp đồ nghề. Quấn quanh nắp khóa là một sợi
dây điện. Anh tháo sợi dây ấy ra, mở được nắp hộp. Trong hộp có một cái đèn pin
màu vàng, một cái đèn hiệu nhấp nháy chạy bằng pin khô, một túi cứu thương và một
cái đèn phát sáng tín hiệu cấp cứu màu vàng, một cái bao màu đen bằng nhựa to bằng
cuốn sách. Anh kéo khóa bao ra. Cái bao đựng vừa vặn một khẩu súng bắn pháo
sáng bằng đồng, dài 37 mm. Anh khẽ nâng khẩu súng ra khỏi túi bằng cả hai tay.
Xem xét rồi đẩy cái chốt và ngó vào bên trong. Không có viên pháo sáng nào
trong nòng súng cả, nhưng trong bao còn tám viên to tròn, ngắn và có vẻ mới.
Anh đặt khẩu súng vào lại trong bao, và đóng nắp hộp lại.
-------------
Còn tiếp...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét