Thứ Hai, 17 tháng 4, 2017

Cha Và Con - Cormac Mccarthy (Chương 17)

Cormac Mccarthy

Cha Và Con

(Nguyên tác: The Road)

Dịch giả : Thanh Nhã

Nhà Xuất Bản Văn Hóa - Thông Tin


Chương 17

Hai cha con ở đó được bốn ngày chỉ ăn uống và nghỉ ngơi. Anh tìm được thêm nhiều chăn trên tầng. Hai cha con đi lấy rất nhiều củi về chất đống ở cạnh lò sưởi cho khô. Anh tìm được một cái cưa có vẻ như rất lâu đời rồi và định dùng nó để xẻ cây thành từng khúc. Nhưng lưỡi cưa đã gỉ. Anh ngồi trước lò sưởi dùng cái giũa mài lại lưỡi cưa nhưng không hiệu quả lắm. Ở cách ngôi nhà không xa là một con suối. Anh băng qua bờ ruộng trơn và lầy lội xách hàng xô nước về đun để hai cha con tắm gội ở trong cái bồn đằng sau phòng tắm ở tầng trệt. Anh cắt tóc cho con và cũng tự cắt tóc, cạo râu cho mình. Hai cha con mặc quần áo mới và lấy chăn gối mới trên tầng hai. Anh phải cắt bớt ống quần đi thì mới vừa với thằng bé. Anh cũng làm lại một cái ổ mới để hai cha con ngủ ở nền lò sưởi. Anh lấy thêm một cái tủ cao trước đây đựng quần áo quây lấy chỗ ngủ cho ấm. Anh lấy xô hứng nước mưa dưới cái máng ở mái nhà. Đêm đêm, hai cha con có thể nghe thấy tiếng mưa đổ rào rào trên những nếp gợn của mái nhà bằng kim loại và âm thanh của nước dột tí tách.
Họ lục lọi cả nhà trong nhà ngoài xem có cái gì hai cha con có thể tận dụng được. Anh tìm thấy một cái xe cút kít. Anh lật ngửa nó ra, xoay chầm chậm cái bánh xe để kiểm tra lốp. Cái lốp lép kẹp và rạn nứt nhưng anh nghĩ nó vẫn có thể chứa được hơi nên anh lục tung trong một đống hổ lốn những đồ linh tinh và tìm thấy một cái bơm xe đạp. Anh ấn ống bơm vào van nhưng hơi lại xì ra. Anh phải bảo con giữ chặt lại cho đến khi nào được thì thôi. Anh lộn cái xe lại bình thường và thử đẩy đi đẩy lại. Xe còn tốt. Anh đem nó ra ngoài trời mưa và cọ rửa. Hai ngày sau trời trở nên quang đãng. Hai cha con lên đường mang theo đống chăn, quần áo và đồ ăn mới chất trên cái xe cút kít. Anh cũng tìm thêm được một đôi giày lao động và thằng bé thì đeo một đôi giày tenis rộng đến nỗi anh phải nhét thêm giẻ và bọc tất cả các đầu ngón chân của con lại. Hai cha con đeo những cái mặt nạ mới. Khi lên đến đường nhựa, hai người phải quay lại khoảng gần nửa dặm để tìm lại cái xe kéo. Thằng bé thì đẩy xe cút kít. Nó quay sang nói với anh:
- Cha con mình thật may mắn cha nhỉ?
- Ừ, chúng ta thật may mắn.
Họ ăn uống khá đầy đủ nhưng vẫn còn xa lắm mới đến được bờ biển. Anh biết anh đang đặt hi vọng vào một điều bấp bênh. Anh ước mọi việc sẽ trở nên xán lạn hơn trong khi trái đất này đang ngày càng tăm tối. Anh đã từng nhặt được thiết bị đo ánh sáng trong một cửa hàng camera, anh mong mỏi sẽ tìm được pin cho nó chạy và khi đó anh sẽ có được những số liệu, nhưng chẳng bao giờ anh tìm được pin cả.
Đêm đến, anh lại rơi vào những cơn ho không dứt. Anh ngồi đó, hai tay ghì chặt lấy đầu cố giấu đi sự tuyệt vọng. Anh chẳng khác gì một người thấy mình tỉnh dậy trong hầm mộ. Chẳng khác gì những xác chết mà hồi còn bé anh đã chứng kiến được khai quật lên để xây dựng một đường cao tốc. Xác của những người đã chết trong đợt dịch tả. Họ được mai táng một cách vội vã tạm bợ trong những cái hộp bằng gỗ. Thứ gỗ đã mục nát và thậm chí còn không có nắp đậy. Họ đào những thây ma co quắp ấy lên. Những tròng mắt xỉn màu thối rữa lòi ra khỏi hố mắt nhầy nhụa, rớt xuống mặt dưới của áo quan.
Hai cha con đứng trước cửa hàng rau quả tại một thị trấn nhỏ. Trên tường ngoài của cửa hàng có đính một cái đầu hươu. Thằng bé đứng ngắm nó một lúc lâu. Trên bậc thềm vương vãi những mảnh kính vỡ. Anh bảo con đợi ngoài cửa còn anh vào trong, nhưng bên trong chẳng có gì ngoài rác rưởi. Bên ngoài có hai cái máy bơm xăng. Hai cha con ngồi xuống bậc thềm bằng bê tông, buộc dây vào một hộp thiếc, dòng nó xuống bể chứa ngầm dưới đất và kéo lên được khoảng một cốc đầy xăng. Anh rót nó vào một bình nhựa rồi lại tiếp tục thả cái hộp xuống. Được một lúc, anh thay sợi dây bằng một đoạn ống cứng hơn vào cái hộp. Hai cha con bò rạp phía trên bể như những con đười ươi đang dùng một cái que moi kiến từ trong tổ kiến ra. Khoảng một tiếng sau thì bình đầy. Anh vặn nắp lại, cất nó xuống đáy xe và hai cha con tiếp tục lên đường.
Những ngày dài đằng đẵng, những miền quê hoang tàn nối tiếp nhau trong những cơn lốc tro bụi. Thằng bé ngồi bên ngọn lửa với những mảnh rời của tấm bản đồ trên đùi. Nó học thuộc lòng những cái tên thành phố, các dòng sông và tính toán xem mỗi ngày hai cha con đi được bao xa.
Khẩu phần ăn của hai cha con ngày một ít ỏi hơn. Số lương thực dự trữ sắp hết. Thằng bé đứng trên đường, hai tay nắm chặt tấm bản đồ. Hai cha con lắng nghe nhưng chẳng thấy gì. Tuy nhiên, anh cũng thấy được một sự đổi khác: Càng đi về phía Bắc thì không khí càng thoáng đãng hơn. Và một ngày nọ khi hai cha con rẽ qua một khúc ngoặt trên đường thì một làn gió biển mang vị mằn mặn của muối táp vào mặt và thổi tung tóc họ. Hai người đứng lại lật mũ trùm áo khoác ra để cảm nhận làn gió. Phía xa xa là bờ biển xám xịt, ầm ì với những con sóng, trông như những chiếc lược bọt lầm lũi trườn vào bờ.
Trông nó điêu tàn đến mức khó lòng nhận ra. Anh tưởng như mình đang gặp một vật đến từ một thế giới chưa từng được biết đến. Phía ngoài thềm thủy triều là một con tàu bị lật nghiêng. Xa hơn nữa, nước biển màu tro sóng sánh nặng nề như một vạt xỉ lò khổng lồ. Anh đọc thấy sự thất vọng trên mặt con.
- Con trai, ta rất tiếc, nó không còn màu xanh nữa.
- Không sao đâu cha à. - thằng bé đáp.
Một giờ sau, hai cha con ngồi trên bãi biển, gót chân chôn trong cát, nhìn đăm đăm vào màn khói mờ dâng lên phía chân trời. Từng đợt sóng cứ liếm mãi vào chân họ. Lạnh lẽo. Tiêu điều. Không một bóng chim. Anh giấu xe trong một bụi dương xỉ diều hâu bên kia những đụn cát. Hai cha con tìm một nơi kín gió dưới những đống củi to và ngồi ở đó rất lâu, người quấn chặt trong chăn. Dọc theo bờ vịnh trước mặt, những mảnh xương nằm rải rác với đám tảo biển. Xuống biển một chút, bộ sườn trắng ở có lẽ là của một con gia súc lộ ra trên bãi. Các hòn đá được phủ bởi một lớp muối màu tro. Gió cuốn những quả ké chạy lông nhông trên bờ biển.
- Cha có nghĩ là ngoài kia có tàu không?
- Cha nghĩ là không.
- Nếu xa quá thì không thể thấy được đúng không ạ?
- Ừ.
- Thế phía bên kia biển thì có gì hở cha?
- Chẳng có gì con ạ.
- Phải có cái gì đó chứ.
- Có thể bên kia biển có một ông bố và một cậu con trai đang ngồi cùng nhau trên bãi biển.
- Cũng có thể.
- Ừ, biết đâu đấy.
- Và hai người đó cũng có một đống lửa nữa.
- Ừ, có lẽ thế.
- Nhưng chúng ta không biết chắc được.
- Ừ.
- Nên chúng ta phải cảnh giác.
- Thế hai cha con mình sẽ ở đây trong bao lâu ạ?
- Cha không biết nữa. Chúng ta sắp hết thức ăn rồi.
- Con biết.
- Con thích ở đây đúng không?
- Vâng.
- Cha cũng thế!
- Thế con có được bơi không hở cha?
- Bơi ư?
- Vâng.
- Nó sẽ làm con đóng băng đấy. Lạnh hơn con nghĩ nhiều.
- Không sao đâu ạ.
- Cha không muốn xuống đấy cùng con đâu.
- Con nghĩ là không cần mà.
- Ừ, con cứ đi đi.
- Nhưng cha nghĩ là con không nên ạ?
- Không đâu. Con nên chứ.
- Thật ạ.
- Ừ, thật.
- Hay quá!
Thằng bé đứng dậy, trút tấm chăn xuống cát và cởi hết quần áo, giày dép ra. Đến khi trần như nhộng thì nó ôm lấy người, nhảy tưng tưng lên cho khỏi lạnh rồi chạy thẳng xuống biển. Người thằng bé trắng xanh, trơ xương. Những cục xương vai gồ lên như muốn xuyên thủng lớp da tái nhợt. Nó chạy tồng ngồng trên bãi, nhảy lên những con sóng và hò hét.
Khi quay trở lại bờ, anh đã thấy con tím tái, thở hổn hển, răng va vào nhau lập cập. Anh lấy chăn bọc lấy con, ôm và xoa cho đến khi thằng bé trở lại bình thường. Nhưng khi anh nhìn vào mặt con thì thấy thằng bé đang khóc.
- Sao thế con? - Anh hỏi.
- Không có gì ạ.
- Nào, con nói cho cha nghe nào!
- Không có gì đâu, không có gì cha ạ.
Tối đến, hai cha con nhóm một đống củi ở bên cạnh đống gỗ, ăn mướp tây, đậu xanh và một ít khoai tây còn sót lại. Đồ ăn sắp hết. Họ uống trà, ngồi với nhau bên ngọn lửa, cùng lắng nghe những con sóng rầm rì trên vịnh rồi vùi mình vào cát ngủ. Đêm, anh đứng dậy cuốn chăn vào người và bước ra trước biển. Tối đen như mực. Anh có thể cảm nhận vị mặn của muối trên môi. Chờ đợi và chờ đợi. Một tiếng ầm vang nổ ra trên biển. Sự xáo động của bầu trời rền rĩ một lúc trên biển rồi từ từ lặn mất. Anh nghĩ ngoài khơi có thể có những con tàu chết lênh đênh với những mảnh buồm rách mướp. Còn sự sống dưới đáy biển. Biết đâu những con mực khổng lồ mắt to như cái đĩa vẫn đang trườn đi dưới đáy biển lạnh giá. Và biết đâu bên kia những con sóng bạc đầu là một người đàn ông khác với một đứa trẻ khác đang lang thang trên bãi cát màu xám tro. Họ có thể đang ngủ trên một bãi biển khác giữa đống tro tàn hay đang mặc những bộ quần áo rách rưới trong một thế giới đã biến mất do không có ánh sáng mặt trời.
Anh nhớ anh cũng đã từng đi dạo thế này. “Dạo ấy anh tỉnh dậy vì tiếng lách cách của mấy con cua trong cái nồi mà anh đã để xương bò từ đêm trước. Những tàn lửa li ti vờn nhau trên bãi. Anh nằm dưới một bầu trời đầy sao. Xa xa là vệt biển đen thẫm. Anh đứng dậy và đi chân trần ra bờ cát, ngắm nhìn những con sóng nổi lên, cuộn vào đến bờ rồi lại lăn ra xa, chìm lỉm trở lại vào biển đêm. Được một lúc anh quay lại đống lửa, quỳ xuống bên cạnh và vuốt ve mái tóc của nàng. Nàng đang say ngủ. Anh thầm thì: Nếu anh là Chúa, anh sẽ giữ cho trái đất này mãi mãi như thế, không bao giờ đổi khác”.
Khi anh quay lại thì thằng bé đã tỉnh dậy và đang sợ chết khiếp. Nó đã gọi to nhưng anh không nghe thấy tiếng con. Anh ôm con vào lòng.
- Sóng to quá cha không nghe thấy tiếng con, - anh nói.
Anh chất thêm củi rồi quạt cho lửa cháy lại rồi hai cha con nằm xuống và thiếp đi.
Sáng hôm sau, anh dậy nhóm lửa. Hai cha con vừa ăn sáng vừa nhìn ra biển. Sự ủ dột và lạnh lẽo của biển trong màn mưa làm nó trông giống một bức họa vùng biển Bắc. Chẳng có hải âu, cũng chẳng loài chim nào hết. Những đồ vật cháy xém rải rác dọc bờ biển thỉnh thoảng bị sóng cuốn lăn lăn trên bờ cát. Sau đó, họ lại đi xuống bờ biển.
- Hai cha con mình là những người nhặt rác trên bãi biển.
- Họ là những ai hở cha?
- Là những người đi dọc bờ biển và tìm kiếm những đồ giá trị bị dạt lên bờ.
- Những thứ như thế nào ạ?
- Tất cả mọi thứ, miễn là còn sử dụng được.
- Cha có nghĩ là chúng sẽ tìm được cái gì đó không?
- Cha không biết. Chúng ta phải xem mới biết được.
- Thế thì cha con mình đi xem thôi.
Hai cha con đi trên đê chắn sóng nhìn về phía Nam. Những cuộn sóng lừ lừ xô lên kè đá bao quanh vịnh. Bờ biển chạy dài uốn thành đường cong ở phía xa. Cát thẫm như màu đá nham thạch. Gió từ biển phảng phất mùi i-ốt. Chỉ có vậy. Không còn mùi gì gần gũi với biển hơn. Trên những tảng đá vẫn còn vương lại những mảng rêu biển đen xì. Họ bước qua và đi tiếp. Phía cuối bờ cát là một mũi đấy nhô ra biển. Hai cha con bỏ lại bờ biển phía sau, leo lên mũi đất. Con đường mòn ngoằn ngoèo qua các đụn đất đất đầy những xác thực vật biển. Phần đất phía dưới họ bị bao phủ trong bóng tối, gió lao từ trên mũi đất xuống phía bờ biển. Ở phía xa có con tầu ngập một nửa mình trong nước. Hai cha con nằm sụp xuống búi cỏ khô và theo dõi con tàu.
- Cha ơi, chúng ta làm gì bây giờ? - Thằng bé hỏi.
- Chúng ta theo dõi nó một lát con ạ.
- Nhưng con lạnh lắm!
- Cha biết. Cha con mình lùi lại xuống lối mòn một chút vậy. Như thế sẽ tránh được gió.
Anh ôm con vào lòng. Những vạt cỏ chết khô rạp xuống, lẩy bẩy trước những cơn gió. Quang cảnh xung quanh thật hoang vu. Những cơn run rẩy bất tận của biển.
- Chúng ta phải ngồi đây đến bao giờ hở cha?
- Không lâu đâu con ạ.
- Cha có nghĩ là có người trên cái tàu ấy không?
- Cha nghĩ là không.
- Có thể là họ núp đi rồi.
- Ừ, có thể thế, con có nhìn thấy gì khác thường ở đấy không?
- Không ạ.
- Chúng ta hãy đợi thêm một lát nhé.
- Con lạnh lắm!
Hai cha con lần mò quay lại bờ biển. Gió thổi phần phật. Những mảnh kính lập lờ ở viền nước. Những bộ xương của những con hải âu. Tại mép thủy triều hàng triệu bộ xương cá, cỏ dại phơi ra trên bờ cát trải dài ngút tầm mắt. Trống rỗng. Những ngôi mộ khoét trong muối. Vô nghĩa. Vô nghĩa.
Từ mũi đất đến con thuyền đó độ khoảng hơn một trăm mét. Toàn nước. Hai cha con chăm chú nhìn con thuyền. Thân nó dài gần hai chục mét, có boong tầu, phần chìm trong nước khoảng hai ba mét. Trông nó có vẻ như đã được trang bị rất kĩ nhưng cột buồm đã gãy và đổ vào boong tầu. Tất cả những gì còn lại của cột buồm là một cái cọc lởm chởm với những đai bằng đồng còn boong tầu thì chỉ còn lại một vài cái tay vịn của hàng lan can trước đây. Anh quay người nhìn khắp bờ biển và đụn cát hồi lâu rồi đưa cho con khẩu súng. Anh bắt đầu tháo giầy.
- Cha định làm gì vậy?
- Cha sẽ ra đó xem xét con thuyền.
- Con đi với cha được không?
- Không, cha muốn con ở lại đây.
- Nhưng con muốn đi với cha cơ.
- Con phải đứng canh con trai à, hơn nữa nước rất sâu.
- Thế con có nhìn thấy cha không?
- Có chứ. Cha sẽ ra hiệu cho con để chắc chắn rằng mọi thứ đều ổn.
- Con muốn đi cùng cha, cha à.
Anh ngừng lại và nói:
- Không thể được, quần áo cha để đây sẽ bay mất, con phải đứng trông.
Anh cuộn quần áo thành một đống.
- Lạy Chúa, trời lạnh quá.
Anh cúi xuống hôn lên trán con.
- Con đừng lo. Nhớ phải nhìn quanh đấy!
Anh lội xuống nước té nước cho ướt hết người rồi chuồi người xuống, bắt đầu lặn.
Anh ngụp lặn, hổn hển trong làn nước lạnh buốt. Đến giữa thân tàu, một cái tay vịn chĩa thẳng xuống mặt nước. Anh đu người lên cái cửa sổ thép. Thép bị muối ăn mòn và chuyển sang màu xám nhưng anh vẫn nhìn được chữ trên thân tàu: Pájaro de Esperanza. Tenerife. Hai cái cần trục trước đây để đỡ thuyền cứu hộ bây giờ thì trống không. Anh bám vào cái tay vịn, leo lên boong và nằm bẹp ở đấy, tai áp xuống sàn run lập cập. Một vài đoạn dây cáp đập vào các đinh ốc lách cách. Những cái lỗ nham nhở trên sàn gỗ. Có lẽ trước đây ở đó là những cái đinh bị bật ra. Một sức mạnh khủng khiếp đã quét mọi thứ ra khỏi boong tàu. Anh vẫy con nhưng thằng bé không vẫy tay lại.
Khoang tàu thấp với cái mái hình vòm và những ô cửa sổ dọc hai bên. Anh nằm rạp xuống lau lớp muối phủ trên kính và nhìn vào trong nhưng chẳng thấy gì cả. Anh cố gắng đẩy cánh cửa bằng gỗ tếch nhưng nó đã bị khóa.
Anh thử húc cái vai trơ xương vào nó. Nhưng cũng không được. Anh nhìn quanh xem có cái gì có thể nạy được cái khóa hay không. Anh cứ run lên cầm cập. Anh nghĩ đến việc lấy chân đạp cửa nhưng đó không phải là ý hay. Anh thử lấy khuỷu tay thúc vào cánh cửa. Hình như nó có hiệu quả. Tuy không rõ lắm. Anh thử làm thế vài lần. Khung cửa bị bửa, anh giật nó ra và bước xuống bậc thang để đi vào trong khoang.
Sàn khoang ngập những nước. Dọc theo những vách ngăn thấm nước là giấy tờ và rác rưởi. Mọi thứ đều có mùi chua chua. Ẩm ướt và nhớp nháp. Anh nghĩ là thể nào con thuyền này cũng bị lục soát rất kĩ rồi nhưng chẳng có gì ngoài nước biển đã tràn vào và xâm chiếm mọi ngóc ngách. Anh đi vào các buồng và khoang bếp. Trên sàn, những hộp thức ăn, bột và cà phê đã bị móp và gỉ. Một cái nhà vệ sinh với bồn cầu và bồn rửa bằng i-nốc. Ánh sáng yếu ớt lọt qua các cửa sổ ở hai bên tường. Quần áo bừa ra khắp nơi.
Anh cứ thấp thỏm sẽ có chuyện gì đó kinh khủng trên tàu nhưng không có gì xảy ra cả. Những tấm đệm lót trong các buồng đã bị đổ xuống sàn. Giường và quần áo dồn thành đống rác vào các chân tường. Mọi thứ đều ướt nhẹp. Cửa kho hàng ở phía mũi tàu mở nhưng bên trong tối quá không nhìn thấy gì cả. Anh cúi xuống bước qua cửa. Những thùng rượu. Những thiết bị tàu lăn lóc trên sàn. Anh bắt đầu kéo mọi thứ đặt lên một chiếc giường bị nghiêng. Những cái chăn và quần áo rét. Anh tìm thấy một cái áo len ẩm, tròng nó vào người. Anh cũng tìm thấy một đôi ủng cao su và một cái áo gió. Anh mặc tất cả vào cùng với một cái quần màu vàng từ đống đồ bằng vải dầu không thấm nước. Anh vắt cái dây nịt quần qua vai và đi ủng vào. Sau đó anh leo trở lại lên boong tầu. Thằng bé vẫn ở nguyên chỗ cũ nhìn chăm chăm vào con tàu. Khi anh xuất hiện trên boong, thằng bé giật nảy người bật dậy. Anh quên mất là anh vừa mặc quần áo. Anh vội vẫy tay con và gọi to: “Cha đây!”, rồi quay trở xuống.
-------------
Còn tiếp...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét