Thứ Hai, 10 tháng 4, 2017

Cha Và Con - Cormac Mccarthy (Chương 10)

Cormac Mccarthy

Cha Và Con

(Nguyên tác: The Road)

Dịch giả : Thanh Nhã

Nhà Xuất Bản Văn Hóa - Thông Tin


Chương 10

Anh nhặt được vài mẩu đá lửa trong một cái rãnh và thử đánh lửa. Nhưng sau cùng thì dùng kìm cào cào vào một hòn đá, bên cạnh đặt một dúm bùi nhùi tẩm xăng lại là việc dễ dàng hơn. Lại thêm hai ngày trôi qua. Rồi ba ngày. Hai cha con thực sự chết đói. Chỗ nào cũng bị cướp bóc, lục soát, tàn phá hết rồi. Từng mảnh vụn cũng bị vơ vét sạch. Màn đêm thấu buốt và đen xì và thời khắc ngày đến thì cứ dài dằng dặc bao trùm một sự im lặng đáng sợ lên màn đêm u tối, tựa như bình minh trước một trận chiến. Da thằng bé tái như sáp. Và đôi mắt nó mở to trừng trừng với cái nhìn của một sinh vật ngoài hành tinh.
Anh bắt đầu nghĩ rằng cái chết đang gần sát bên hai cha con rồi và họ nên tìm một nơi nào đó để chết mà không sợ bị ai tìm thấy. Đã nhiều lần ngồi trông con ngủ, không kiềm chế nổi anh đã khóc nức nở, nhưng không phải vì cái chết đang đến gần. Anh không biết mình khóc vì lẽ gì nhưng anh đoán nó là vì những điều tốt đẹp. Những thứ mà đã lâu lắm rồi anh không được nghĩ đến. Hai cha con ngồi xổm trong một khu rừng, uống thứ nước bẩn vắt ra từ một tấm giẻ. Anh đã mơ thấy con nằm trên một tấm ván lạnh lẽo và choàng tỉnh trong nỗi kinh hoàng. Những điều anh phải chống chịu trong lúc tỉnh thì anh không thể chống chọi trong lúc ngủ. Và anh cứ ngồi đó, mắt mở chong chong vì nỗi lo sợ giấc mơ dữ sẽ quay lại.
Họ sục sạo trong đống tro tàn đổ nát của những ngôi nhà mà trước đây chưa từng đặt chân tới. Một xác chết đang trôi nổi trong làn nước đen ngòm của một cái hầm, giữa rác rưởi và rỉ. Anh đứng trong phòng khách đã cháy rụi một phần, để lộ ra khoảng không nhìn lên bầu trời. Những tấm ván ngập nước đang trôi ra ngoài sân. Những cuốn sách trên giá sũng nước. Anh lấy một quyển, lật mở rồi lại đặt nó vào chỗ cũ. Mọi thứ đều ướt rượt, mục nát. Trong một ngăn kéo tủ, anh tìm được một cây nến. Chẳng có cách nào để thắp nến lên cả. Anh bỏ cây nến vào túi. Anh quay ra, bước trở lại vào ánh sáng xám xịt và đứng đó, chỉ một khoảnh khắc, Nhìn lại sự thật trần trụi về cái thế giới này. Cái rét buốt tàn nhẫn đang bủa vây thế giới chết chóc này. Chỉ có bóng tối ngự trị, không gì ngoài bóng tối. Những con chó mù lòa đang chạy. Đâu đó hai con thú bị săn đuổi đang run rẩy như hai con cáo đang trốn trong hang. Đến tận cùng một thị trấn nhỏ, hai cha con ngồi nghỉ trong cabin của một chiếc xe tải, trông ra ngoài qua tấm kính đã được cơn mưa rửa sạch, trong veo. Ánh sáng vẩn đục vì tro bụi. Kiệt sức lắm rồi. Bên ngoài kia phía con đường lại có một tấm biển cảnh báo về cái chết. Chữ trên đó đã bị mờ đi vì năm tháng. Anh hơi mỉm cười.
- Con có đọc được chữ gì không? - Anh hỏi.
- Có ạ!
- Đừng để ý. Ở đây chẳng có ai đâu.
- Họ chết hết rồi hả cha?
- Cha nghĩ vậy.
- Con ước gì đứa bé đó ở đây với con.
- Đi thôi con, - anh nói.
Những giấc mơ đẹp giờ đây là những điều anh ghê sợ. Anh thức để khỏi phải mơ thấy chúng, mơ thấy những thứ không còn tồn tại trên cõi đời này. Cái rét thôi thúc anh nhóm lửa. Ký ức về hình ảnh người vợ chợt ùa về. Nàng đi trên thảm cỏ xanh mượt bên nhà buổi sớm, thướt tha trong tấm áo choàng có bông hồng nhỏ xinh ôm sát hai bầu ngực. Anh nghĩ mỗi một ký ức khi được gọi lại sẽ không còn đúng với lúc ban đầu nữa. Giống như một trò chơi trong buổi tiệc vậy. Một từ được truyền từ người này sang người khác. Chỉ đơn giản vậy thôi nhưng đến cuối trò chơi bạn có thể sẽ nghe được một từ khác chứ không phải từ ban đầu nữa.
Họ đi qua những con phố trải đầy những tấm chăn dơ dáy bẩn thỉu. Một tay anh giữ con, tay kia không rời khỏi khẩu súng cài bên thắt lưng.
Đến tận cùng một nơi rất xa của thị trấn, hai cha con bắt gặp một căn nhà nằm giữa đồng không mông quạnh. Họ bước tới, đi vào nhà, qua hết các căn phòng. Có hai người một lớn, một bé xuất hiện. Anh rút súng ra.
- Là mình mà cha. Đó là một tấm gương. - Thằng bé khẽ nói.
Anh lại phía cửa sau, đứng đó trông ra những cánh đồng và con đường phía xa. Và bên kia con đường, anh nhìn thấy vùng đất trống trải lạnh lẽo. Ở ngoài hiên có một cái thùng to làm từ một cái trống hơn trăm lít được đặt trong một cái khung sắt hàn. Trong sân còn một vài thân cây chết. Có một hàng rào, một kho dụng cụ kim loại. Anh giũ tấm chăn và choàng qua người con.
- Cha muốn con chờ ở đây.
- Con muốn đi với cha.
- Cha chỉ ra kia xem một chút thôi. Ngồi đây, chờ cha. Cha sẽ không đi khỏi tầm nhìn của con. Cha hứa đấy!
Anh băng qua sân, đẩy cửa mở, trong tay vẫn khư khư khẩu súng. Có vẻ như đây là một nhà vườn. Mặt sàn phủ bụi. Có nhiều giá đỡ bằng kim loại và một vài chậu hoa bằng nhựa. Tất cả phủ bụi đen xì. Ở góc nhà có dụng cụ làm vườn và một cái máy cắt cỏ. Bên dưới cửa sổ, cạnh một cái tủ kim loại là một cái ghế dài. Anh mở tủ, bên trong có nhiều cuốn catalog cũ, một vài túi hạt giống. Có hạt hoa thu hải đường, hạt hoa bìm bịp. Anh bỏ tất cả vào túi mặc dù chả biết để làm gì. Phía trên nóc giá đỡ, anh thấy hai can dầu động cơ. Nhét súng vào thắt lưng, anh với tay lấy hai can dầu xuống, đặt lên mặt ghế. Trông chúng cũ lắm rồi, làm bằng bìa cứng với nắp đậy kim loại. Dầu đã thấm qua cả lớp bìa nhưng có vẻ vẫn đầy trong can. Anh lùi lại, nhìn qua cửa. Thằng bé đang ngồi trên bậc thềm sau nhà, quấn mình trong chăn theo dõi anh. Anh quay lại tiếp tục tìm kiếm thì lại thấy can xăng nằm trong góc phía sau cửa. Anh đoán trong can không còn tí xăng nào nhưng khi lấy chân nghiêng cái can đi rồi thả nó về vị trí cũ anh nghe có tiếng lõm bõm. Anh nhấc cái can lên, mang nó lại phía cái ghế dài và ra sức mở nắp nhưng không mở được. Lúc này cái kìm lại có ích. Anh lôi nó ra, kẹp chặt nút can và vặn. Đặt cái can lên ghế, anh dí mũi ngửi bên trong can. Mùi hôi sộc lên. Chắc chắn là để lâu lắm rồi. Nhưng nó là xăng, có thể dùng để đốt được. Anh đậy nút can và cất cái kìm lại trong túi áo. Anh nhìn quanh xem còn cái hộp, hay chai lọ, can bình nhỏ nào không nhưng không có. Đáng ra anh không nên quẳng cái chai đi. Thử kiểm tra căn nhà xem sao.
Lúc đi qua bãi cỏ, anh choáng váng suýt ngất, có lẽ là do mùi xăng sộc lên mạnh quá. Thằng bé vẫn không dời mắt khỏi anh. Còn bao nhiêu ngày nữa thì cái chết sẽ đến bên hai cha con nhỉ? Mười ngày? Không thể qua nổi mười ngày đâu. Anh không thể nghĩ được gì nữa. Sao anh lại dừng lại? Anh quay lại, nhìn xuống bãi cỏ. Lùi lại vài bước nữa, dừng chân giẫm giẫm kiểm tra mặt cỏ. Rồi anh ngừng lại, quay trở vào xưởng và trở ra với một cái thuổng. Anh chọc cái thuổng xuống đất. Khi đất ngập sâu đến nửa thuổng thì anh nghe thấy tiếng chạm vào gỗ. Anh bắt đầu đào hết đất lên.
Công việc tiến triển rất chậm chạp. Anh mệt mỏi rã rời, đứng dựa vào cái thuổng, ngẩng lên nhìn con. Nó vẫn ngồi đó. Anh quay lại tiếp tục đào. Cứ được một xẻng đầy anh lại nghỉ một lát. Sau cùng anh cũng đào tới một tấm gỗ dán. Anh đào dọc theo các mép xung quanh. Một cánh cửa. Có lẽ có một căn hầm. Có một ổ khóa bên ngoài bọc nilông. Anh nắm chặt cán thuổng, nghỉ một chút, đầu tựa vào tay. Lúc ngẩng lên thì thằng bé đã đứng trong sân chỉ cách anh vài mét. Trông nó rất sợ hãi.
- Đừng mở nó cha ơi. - Nó kêu lên.
- Không sao đâu con.
- Con xin cha đấy!
- Không có gì đâu.
- Không đâu.
Hai tay thằng bé ôm chặt lấy ngực nó nhảy chồm chồm lên một cách sợ hãi. Anh bỏ cái xẻng xuống, vòng tay ôm lấy con.
- Ngoan nào con. Mình ngồi lại ghế nghỉ một chút nhé!
- Xong rồi mình đi cha nhé!
- Ngồi xuống đây nghỉ cái đã.
- Vâng ạ.
Hai cha con lại quấn mình trong chăn ngồi nhìn ra sân. Họ ngồi rất lâu. Anh cố gắng giải thích cho con rằng không có ai bị chôn dưới cái hầm đó cả nhưng thằng bé chực khóc. Lúc sau anh thậm chí đã nghĩ thằng bé có thể đúng.
- Mình ngồi đây thôi, không nói gì nữa.
- Được ạ!
Họ lại quay trở vào trong nhà. Anh tìm thấy một chai bia và một mảnh rèm cũ. Anh xe một mảnh rèm, nhồi nó vào trong chai bằng một cái móc áo.
- Đây là ngọn đèn mới của hai cha con mình, anh nói.
- Làm sao để thắp sáng nó hả cha?
- Cha tìm được một ít xăng trong kho dụng cụ. Cả ít dầu nữa. Để cha làm cho con xem nhé!
- Vâng ạ.
- Đi nào. Không sao đâu con. Cha hứa là như vậy.
Nhưng khi anh cúi xuống nhìn con thì gương mặt thằng bé lộ rõ vẻ sợ hãi như thể nó sợ sẽ mất đi một điều gì đó mà không sao có thể lấy lại được. Họ ra ngoài, đi qua sân vào kho dụng cụ. Anh đặt chai bia lên ghế, lấy tuốc-nơ-vít chọc thủng một can dầu rồi lại chọc một lỗ nhỏ hơn để giúp dầu chảy ra. Anh rút cái bấc nút chai ra và đổ dầu đầy nửa chai. Dầu để lâu quá rồi đã bị quánh lại. Vì lạnh nên phải khá lâu anh mới đổ xong. Anh tháo nắp can xăng và làm một cái phễu giấy từ bao của gói hạt giống. Rồi anh trút xăng vào chai, giữ ngón cái trên miệng chai và xóc. Anh trút một ít ra cái đĩa đất nung rồi dùng tuốc-nơ-vít nhét miếng giẻ trở lại trong chai. Anh lấy một mảnh đá lửa và kìm ở trong túi ra, chà sát đá vào răng cưa của cái kìm. Anh làm vài lần như thế rồi lại ngừng để trút thêm xăng vào đĩa.
- Nó có thể cháy đấy con ạ, - anh nói.
Thằng bé gật đầu.
Anh lại chà miếng đá vào cái kìm rồi nghiêng cho các tia lửa bắn chạm vào lòng đĩa. Một ngọn lửa bung lên. Anh với tay lấy cái chai, nghiêng nó đi để lôi miếng giẻ ra châm lửa. Xong đâu đó, anh thổi tắt ngọn lửa ở cái đĩa và đưa chai cho thằng bé.
- Đây. Con cầm lấy.
- Mình sẽ làm gì hả cha?
- Con che tay trước ngọn lửa đừng để nó tắt nhé!
Anh đứng lên, rút khẩu súng ra. Cánh cửa này trông cũng như những cánh cửa khác nhưng không phải vậy.
- Cha biết con sẽ sợ nhưng sẽ không sao đâu. Cha nghĩ bên dưới có cái gì đó và mình phải xuống đó xem con ạ. Chẳng còn nơi nào khác mà đi nữa. Phải xuống đó. Cha muốn con giúp cha nhé. Nếu con không muốn giữ đèn thì con sẽ phải cầm súng.
- Con sẽ cầm đèn ạ.
- Được rồi. Đây là việc mà những người tốt làm. Không ngừng cố gắng và không bỏ cuộc.
- Vâng ạ!
Anh dắt con ra sân. Khói từ cây đèn bốc lên đen xì. Nhét khẩu súng vào thắt lưng, anh lại cầm thuổng lên và bắt đầu chọc cho bản lề bung khỏi tấm gỗ. Anh lách lưỡi thuổng xuống dưới bản lề và bửa nó lên. Khi bửa được rồi, anh quỳ xuống cầm vào ổ khóa xoay cho nó lỏng ra rồi nhấc lên ném trên mặt cỏ. xong anh lại lách lưỡi thuổng xuống dưới khe cửa bẩy nhẹ nó lên đủ để thò tay xuống nâng cả cánh cửa lên. Đất cát rơi khỏi tấm ván lộp bộp. Anh nhìn thằng bé.
- Con ổn chứ? - Anh hỏi.
Nó gật đầu im lặng, tay giữ chắc cây đèn. Anh lôi cả cánh cửa lên quẳng trên mặt cỏ. Dẫn xuống hầm là những bậc thang gồ ghề thô ráp. Anh với lấy ngọn đèn từ tay thằng bé và bắt đầu lần xuống từng bậc thang. Được vài bước, anh quay lại ngả đầu vào con và hôn lên trán nó.
Tường hầm làm bằng những khối bê tông. Sàn nhà lát gạch. Có một vài cái giường nhỏ bằng sắt dựa vào tường. Những tấm nệm được gấp theo kiểu quân đội đặt dưới chân giường. Anh quay lại nhìn thằng bé đang nheo mắt vì khói đen đứng lúi cúi ngay sau lưng cha rồi lại tiếp tục đi xuống, rọi đèn ra trước.
- Ôi Chúa ơi, ôi Chúa ơi. - Anh khẽ thốt lên.
- Cái gì thế hả cha.
- Xuống đây. Chúa ơi. Xuống đây con.
Bên dưới có rất nhiều thùng gỗ chồng trên nhau. Toàn là đồ hộp. Nào thì cà chua, đào, đậu và mơ. Nào thì dăm bông, thịt bò muối. Hàng trăm lít nước đựng trong vại bia bằng nhựa. Khăn giấy, giấy vệ sinh, lại cả đĩa giấy nữa. Rồi lại có cả chăn được nhét trong túi nilông thùng rác. Anh ôm lấy trán reo lên.
- Ôi Chúa ơi. Xuống đây con, không sao đâu.
- Cha ơi?
- Xuống đây, xuống đây nhìn này.
Anh đặt ngọn đèn lên bậc cầu thang mà leo lên bế con xuống.
- Xuống đây con, không sao đâu.
- Cha thấy gì vậy cha?
- Mọi thứ. Mọi thứ con ạ. Rồi con sẽ thấy!
Anh dẫn con xuống những bậc thang, cầm cái chai và giơ ngọn lửa lên cao.
- Con thấy không. Có nhìn thấy không con?
- Những thứ này là gì thế hả cha?
- Thức ăn đấy. Con nhìn chữ này!
- Lê! Trên này viết là quả lê.
- Đúng rồi. Đúng rồi. Là lê đấy con ạ.
Chỉ đủ chỗ cho anh đứng. Anh cúi đầu dưới một ngọn đèn có chụp màu xanh treo trên một cái móc. Anh ôm lấy thằng bé, hai cha con đi dọc các dãy hộp các-tông. Có thịt bò phi lê, ngũ cốc, món hầm, súp và cả nước sốt mỳ. Đây là nơi giàu có nhất giữa cái thế giới đã biến mất này.
- Sao những thứ này lại ở đây hả cha? Chúng có phải đồ thật không ạ? - Thằng bé hỏi.
- Tất nhiên rồi con. Toàn đồ thật đấy.
Anh lôi một cái hộp xuống, bật nắp lên và lấy ra một hộp đào.
- Chúng ở đây vì ai đó đã nghĩ rằng sẽ có lúc cần đến chúng.
- Nhưng họ đã không dùng chúng.
- Không con ạ. Họ không dùng.
- Họ chết rồi ư?
- Ừ.
- Thế mình lấy chúng được chứ ạ?
- Ừ. Họ cũng sẽ muốn chúng ta dùng những thứ đồ này. Cũng như cha con mình muốn họ có thể dùng chúng vậy.
- Họ là những người tốt phải không cha?
- Phải con ạ!
- Họ cũng giống cha con mình đúng không ạ?
- Ừ, giống cha con mình.
- Thế nên mình lấy chúng được không ạ.
- Ừ, lấy được con ạ.
Trong một cái hộp nhựa, hai cha con còn tìm thấy cả dao, đồ dùng bằng nhựa và cả đồ dùng trong bếp. Còn có cả một cái khui hộp. Có mấy cái đèn pin nhưng đều không sáng. Anh cũng tìm thấy một hộp ắc quy và pin khô. Anh xem xét rất cẩn thận, phần lớn chúng đều đã mòn và gỉ axít, nhưng có một vài cục pin có thể dùng được. Cuối cùng thì anh cũng có được một cái đèn pin. Anh đặt đèn lên bàn, thổi tắt ngọn lửa đang bốc khói mù mịt trong chai. Anh xé một miếng bìa từ cái hộp để quạt cho khói tản đi.
- Con muốn ăn gì cho bữa đêm nào? - Anh hỏi.
- Lê ạ!
- Hay lắm. Mình ăn lê.
Anh lấy hai cái bát giấy từ chồng bát trong túi nilông và đặt lên bàn rồi trải nệm lên giường để hai cha con ngồi. Xong anh mở thùng đựng lê hộp. Anh nhìn con. Thằng bé đang ngồi im lặng trên giường, vẫn quấn chăn, theo dõi từng động tác của anh. Anh nghĩ có lẽ thằng bé chưa hoàn toàn tin vào những gì nó thấy.
- Bây giờ con có thể thức cả đêm trong rừng rồi nhé! Đây sẽ là những trái lê ngon nhất mà con từng nếm. Ngon nhất đấy. Con cứ chờ xem.
Hai cha con ngồi sát bên nhau ăn hết hộp lê. Xong lại ăn thêm một hộp đào. Họ liếm sạch cái thìa và nghiêng bát để vét sạch nước xi-rô còn sót lại. Làm việc đó xong, hai cha con nhìn nhau.
- Một hộp nữa đi cha.
- Cha không muốn con bị ốm đâu!
- Con sẽ không ốm đâu.
- Nhưng lâu lắm rồi con không ăn gì cả. Con sẽ ốm.
- Con biết rồi ạ!
- Được rồi.
Anh đặt con vào giường, vuốt ve nhẹ nhàng mái tóc bên bết của thằng bé và kéo chăn cho nó ngủ. Khi anh leo lên nhấc tấm gỗ ra thì trời đã nhá nhem tối. Anh đi về phía gara lấy balô rồi trở lại. Trước khi bước xuống hầm, anh nhìn lại xung quanh một lượt, rồi đi xuống, đóng cửa hầm lại, không quên cài một bên tay cầm của cái kìm vào qua bản lề để chốt cửa lại. Cái đèn pin bắt đầu yếu đi. Anh nhìn khắp căn hầm cho đến khi thấy những cái can đựng xăng trắng. Anh xách một can, đặt lên bàn, vặn nắp và chọc thủng miếng kim loại niêm phong miệng can bằng cái tuốc-nơ-vít và trút đầy xăng vào chiếc đèn tự tạo. Anh cũng tìm được một hộp và dùng nó để đốt đèn. Xong đâu đó, anh vặn nhỏ đèn, treo nó lên tường và ngồi lên giường.
Trong lúc thằng bé ngủ, anh đi quanh xem xét thật kĩ tầng hầm. Dưới này còn có cả quần áo, áo len và tất. Có một chậu bằng thép không rỉ và xà phòng, bọt biển. Rồi lại cả kem đánh răng và bàn chải nữa. Tận đáy một cái lọ nhựa đựng bulông, ốc vít và mấy thứ linh tinh, anh thấy một tấm vải, bên trong bọc tiền vàng Nam Phi. Anh đổ chúng ra đất mân mê rồi lại bỏ vào chỗ cũ cùng những thứ khác và đặt cái lọ trở lại giá.
Anh lục lọi mọi thứ, di chuyển thùng và hộp từ bên này sang bên kia và phát hiện ra một cánh cửa nhỏ dẫn sang một căn phòng khác nơi có những chai xăng. Ở góc phòng này có một cái nhà vệ sinh. Có ống thông bọc lưới và ống thoát nước trên sàn. Ở đây mỗi lúc một nóng nên anh phải cởi bớt áo khoác. Anh bắt đầu xem xét hết mọi thứ. Một hộp đạn ACP loại 45 li và ba hộp đạn dành cho súng nòng xoắn loại 30-30 li. Nhưng anh lại không tìm thấy súng ở đâu cả. Anh cầm đèn pin đi về phía tường căn phòng để kiểm tra xem liệu có gian phòng bí mật nào không. Sau một hồi không thấy gì, anh ngồi lên giường nghỉ và ăn một thanh sôcôla. Đang và sẽ không có súng.
-------------
Còn tiếp...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét