Quà của Chúa
Tác giả: Dorota Terakowska
Dịch giả: Lê Bá Thự
Nhà xuất bản Phụ nữ - tháng 4-2009
Chương 7
Ngày Thứ Năm - Sự Sống
Giá sách trong văn phòng của Adam chật ních
sách mới. Ngày càng nhiều những cuốn sách mà trước kia anh không bao giờ mua.
Chắc Adam sẽ ngạc nhiên nếu phát hiện ra rằng
cả anh, cả Ewa, có nhiều đầu sách như nhau, các tác phẩm y học, các cuốn cẩm
nang cho các bậc phụ huynh có con khuyết tật, thậm chí cả danh mục các cơ quan
chăm sóc đặc biệt mà con họ là đối tượng.
Chính những cuốn sách đó đã đưa họ tới những
kết luận khác nhau. Đối với Ewa, thông tin về việc có thêm nhiễm sắc thể thứ
hai mươi mốt là đủ rồi (“Bingo! Cậu có mắt, Ewa...), còn Adam thì đinh ninh rằng
Down là bệnh di truyền, cho nên một người trong hai vợ chồng phải chịu trách
nhiệm. Khi đã vậy thì làm sao họ có cơ hội, để đưa con thứ hai - nếu đứa con thứ
hai sẽ chào đời - sẽ là đứa con lành lặn? Đứa con sẽ ra chào đời mà lại tật
nguyền thì thật là mạo hiểm biết nhường nào.
Adam rất thèm có con. Mục đích của chuyện học
hành, làm việc, kiếm tiền là nhằm có người nối dõi tông đường, người anh sẽ
trao cho tất cả những gì anh có được trong đời. Một công ty phát triển mạnh mẽ,
số vốn dồn góp được, cổ phiếu và tiền gửi ngân hàng, ngôi nhà có vườn tược - tất
cả đều dành cho con. Và toàn bộ kinh nghiệm của Adam nữa. Hàng loạt lời khuyên
có giá trị anh muốn truyền cho con để con tiến xa hơn mình. “Có điều không phải
đứa con như thế này”, Adam nghĩ.
Việc Myszka ra đời thoạt tiên tước mất của
Adam ý nghĩa của cuộc sống. Tuy vậy, sau một thời gian ngắn bị sốc, anh quyết định
không đầu hàng. Giống như ở công ty, anh đã lên kế hoạch làm ăn, việc lên kế hoạch
làm ăn đường đời anh cho là chuyện đương nhiên. Mà trong kế hoạch làm ăn đường
đời thì đứa con trở thành một điểm quan trọng, nếu không muốn nói là điểm mấu
chốt. Đương nhiên khi Myszka không phải là một đứa con như vậy thì phải sinh đứa
thứ hai. Nhưng Adam muốn biết trước liệu Ewa có thể là mẹ của một đứa con bình
thường hay không, còn anh là người cha của đứa con này, anh phải tìm cho bằng
được câu trả lời, lỗi tại ai.
Anh gọi đó là lỗi. Bệnh mất trí nhớ của bà
Ewa, bệnh mất trí nhớ thường dẫn đến hậu quả sinh ra “những đứa trẻ bị bệnh
Down”, điều anh đã đọc được ở trong sách, khẳng định niềm tin rằng, có sự liên
quan giữa các gien của Ewa và Myszka. Như vậy là anh trong sạch. Từ “trong sạch”
khiến Adam ái ngại trong giây lát, nhưng liền sau đó anh cho là đúng đắn.
Adam đã biết, di truyền học là một ngành
khoa học đang phát triển rất nhanh. Báo chí thường xuyên viết về đề tài này. Thế
kỷ hai mươi mốt sẽ là kỷ nguyên thành công của các nhà di truyền học. Kỷ nguyên
gene. Kỷ nguyên giải mã, cái gì đang
nằm sâu bên trong con người. Anh đọc trên internet và anh phát hiện một số lượng
ngày càng lớn những trang sách viết và chú thích về đề tài này. Đó là những tài
liệu khoa học thông báo rằng, đã phát hiện ra gene mất trí nhớ, gene bại liệt
não, gene các bệnh tim, loét dạ dày, lão hóa, bệnh xương, thậm chí cả gene trí
tuệ. Các nhà khoa học đã tiến xa hơn một bước trong việc phát hiện toàn bộ hệ gene
của con người mà như anh đã đọc được, dài một mét rưỡi và ba tỉ “chữ cái nhỏ”
hoặc như các nhà khoa học khác thích gọi, ba tỉ “viên gạch nhỏ”. Hàng tỉ viên gạch
nhỏ này tạo thành chuỗi DNA. Chính gene quyết định tất cả, kể cả diện mạo của
con người sẽ ra sao, hình dáng hộp sọ của con người, cấu tạo thân người, thậm
chí mắt, mũi, hay cằm của con người.
“Biết hệ gene của con người và chim chóc,
chúng ta có thể gây giống người có cánh”, hai nhà di truyền học nổi tiếng nhất
thế giới, Daniel Cohen và Craig Venter đã tự hào viết như vậy.
“Giá như Myszka có đôi cánh...”, lúc đó
Adam thoáng nghĩ.
Gene sẽ cách tân nhân loại thế kỷ thứ hai
mươi mốt, thế kỷ Adam sống và đứa con nhẽ ra phải có của anh sống. Tất nhiên
không phải đứa con này. Chẳng cái gì có thể giúp được đứa trẻ này nữa rồi,
không một phát minh nào dù chỉ là một đôi cánh.
“Nhờ có hệ gene, một ngày nào đó chúng ta sẽ
tạo ra được những con người hoàn hảo”, Adam nghĩ, anh buồn rầu phải thêm vào đó
cụm từ “một ngày nào đó”. Tại sao Myszka lại phải sinh ra quá sớm như vậy? Chỉ
vài năm nữa thôi, những gene hỏng trong gia đình Ewa có thể được đổi thành tốt
hơn. Ewa khả dĩ sinh được một đứa con lý tưởng. Hai vợ chồng có thể cùng nhau
quyết định, IQ của con sẽ phải cao là bao nhiêu, trai hay gái, màu mắt và tóc...
Anh cảm thấy tiếc vô cùng, khi anh không được
một trăm năm sau hẵng sống, khi trên khắp địa cầu không còn một người nào bị bệnh
Down, bại liệt não, đầu to, xương thủy tinh bẩm sinh, thoái hóa chân tay do
Thalidomid. Sẽ không có người gù, người mù và người điếc.
“Chúng ta đang học thứ ngôn ngữ, trong đó
Chúa Trời tạo ra sự sống”, tổng thống Hoa Kỳ tuyên bố (như sau đó gọi là thứ
ngôn ngữ, trong đó Chúa trời tạo ra Myszka?), Adam chợt nghĩ, Adam nghi ngờ
chuyện có Chúa Trời, thế nhưng một nghịch lý anh nghi ngờ, còn hơn thế, khả
năng hiểu biết được ngôn ngữ của Ngài. “Ngoài hệ gene, trong con người còn cái
gì đó mà sẽ không bao giờ chúng ta biết được, không hiểu được, cái không một
khoa học nào nắm bắt được”. Adam nghĩ, thế nhưng ý nghĩ này biến mất rất nhanh,
nhanh như khi nó đến vậy. “Một xã hội trong sạch, khỏe mạnh và lý tưởng”, anh
thét to, đĩnh đạc.
Trước mắt Adam lại hiện hình một ngày đẹp
trời tại làng ven hồ Mazury và đứa con tật nguyền đáng sợ đầu to trên cái cổ mảnh
mai, u bướu trên tấm lưng gầy và chân tay khuyết tật. Đương nhiên chỗ của bé là
ở trại đặc biệt, chứ không phải trong chuồng ngựa bẩn thỉu. Tuy vậy sau mười hoặc
hai mươi năm, nhờ có việc thay gene theo dự tính, các ông bố và bà mẹ sẽ sinh
ra toàn những đứa con khỏe mạnh và lý tưởng. Những đứa trẻ tật nguyền sẽ không
sinh ra trên thế giới này. Tiếc thay, vẫn chưa có chuyện khai mào một xã hội khỏe
mạnh, trong sạch...
Dòng suy nghĩ của Adam thình lình đứt đoạn.
Trước mắt anh đang lướt nhanh, tựa trên phim ảnh, một ngăn nhỏ trí nhớ có liên
quan tới những sự kiện trong thế kỷ vừa qua. Anh không phải là người chứng kiến
các sự kiện này, lúc đó làm gì đã có Adam trên đời. Anh chỉ xem những sự kiện
đó qua các phim tài liệu cũ phát trên tivi, hoặc học được ở nhà trường và đọc
trong sách vở. Ngăn trí nhớ nho nhỏ này thoạt tiên lấp loáng trước mắt anh như
một tấm ảnh rất cũ màu nâu thẫm, rồi sau đó tách thành nhiều cảnh, nhanh, mạnh
và tàn bạo rồi phình to ra trong nhịp khúc quân hành. Đâu đó trong não bộ vang
lên những cái tên lịch sử, một tên, hai tên, ba tên...
Lúc đó anh sực nhớ trong lịch sử đã có
không chỉ một người chủ trương xây dựng một xã hội hoàn hảo, lý tưởng. Một xã hội
trong sạch. Đúng, người ta đã sử dụng thuật ngữ này, “xã hội trong sạch...”,
“nòi giống trong sạch”. Hễ một người nào đó nắm quyền là người này tìm cách biến
ước mơ đó thành hành động. Người này đưa những người tật nguyền trẻ em, đàn bà,
đàn ông, người già, vào các trại đặc biệt và không bao giờ họ quay về nữa. Hoặc
từ những trại đó họ đi thẳng tới các trại tập trung chết người. Người này vượt
thời đại, sử dụng các bác sĩ để làm các thí nghiệm gây giống người thượng đẳng
có các gene lý tưởng, cho dù người này thậm chí có khi còn không biết từ “gene”.
Bằng mệnh lệnh chính trị từ trên đổ xuống, người này cho ghép các đôi nam nữ lại
với nhau, những đôi đảm bảo con cái của họ sau này sẽ hoàn hảo.
Đúng, đã có người như vậy. Người đã kiếm tìm
thứ ngôn ngữ, trong đó Chúa Trời tạo ra sự sống và từ số lượng lớn các ngôn ngữ
bởi không thể chỉ có một ngôn ngữ, người này chỉ chọn ngôn ngữ phù hợp với các
mục tiêu của mình mà thôi. Đã có người như vậy...
Bỗng nhiên Adam hiểu, anh đang sai lầm, song
anh không biết mình phạm sai lầm ở chỗ nào. Anh cảm thấy mình có lý khi mơ về
con người hoàn thiện. Cuối năm 2000 đầy ý nghĩa, ước mơ đó đã bùng nổ với sức sống
mới. Việc giải mã bộ gene của con người đã chắp cánh cho anh (có phải đó chính
là những chiếc cánh mà Cohen và Venter muốn chắp vào con người?). Vậy thì tại
sao nửa thế kỷ trước đó một ước mơ tương tự đã dẫn tới việc “những kẻ hoàn hảo
hơn” đã giết theo ý họ những người ít hoàn hảo hơn?
“Một xã hội trong tương lai hoàn toàn không
còn người khuyết tật sẽ là một xã hội như thế nào?”, anh suy ngẫm. “Thế giới chỉ
toàn những con người hoàn hảo sinh sống sẽ là một thế giới như thế nào?”
Adam không quen với những ý nghĩ như vậy.
Anh không biết đặt các câu hỏi loại như thế này, và cũng không biết trả lời. Những
cuốn sách mà anh sưu tầm được không giải thích những thắc mắc này. Anh vẫn bị
thiếu một yếu tố nào đó để xử lý chúng. Đó là yếu tố gì thì anh đâu có biết. Bản
thân các nhà bác học, mặc dù đã thành công trong việc “giải mã ngôn ngữ của
Chúa”, vẫn thiếu tự tin với phát hiện của mình và có phần lo ngại hậu quả của
nó giống như Einstein và Oppenheimer sợ khả năng lạm dụng năng lượng hạt nhân.
“Thế nhưng mình là một người bình thường và
mình chỉ muốn có một đứa con bình thường. Mình có quyền muốn được như vậy”,
Adam nghĩ.
Adam mở hé cánh cửa văn phòng và nhìn ra
ngoài tiền sảnh. Myszka ngồi trên nền nhà, chơi với mấy con búp bê bố mua. Bé cố
đặt chúng cạnh nhau, làu bàu gì đó trong miệng... không, đó không phải là âm
thanh làu bàu thông thường.
“Con gái đang hát!”, Adam ngạc nhiên.
Trong tiếng làu bàu khó hiểu và khó nghe của
Myszka thình lình anh nhận biết được những âm thanh của giai điệu quen thuộc.
“Đó chính là nhạc Mahler chứ còn gì”, anh
nhận ra sau giây lát và anh giật mình với phát hiện của mình. “Con gái đang hát
một giai điệu trong bản giao hưởng mà mình thường nghe! Nó chỉ nghe giai điệu
này sau cánh cửa của mình, thế mà nó nhớ...”.
Myszka đã đặt được hai con búp bê đứng thẳng
gần nhau, và bây giờ búp bê Barbie, vẻ gò bó, đứng bên cạnh búp bê Ken, chìa
tay cho anh chàng này, nom như thể hai anh chị sắp cùng nhau đi vũ hội. Myszka
bật ra tiếng cười khàn khàn, thô kệch, mãn nguyện. Bé vỗ tay, nụ cười lạ và tự
tin này, nụ cười mà Adam quan sát từ đàng sau cánh cửa hé mở và nó đã biến mất
ngay lập tức khi bố tiến lại gần con gái, đã làm tươi hẳn đôi môi tròn xoe của
bé (liếc mắt nhìn con gái, Adam cố bước chân thật nhanh). Bé lại cười, vỗ tay,
rồi đứng dậy và vung hai tay lên cao. Từ miệng bé lại phát ra tiếng hát làu
bàu, dị thường. Myszka vẫn hát giai điệu của Mahler, giai điệu đã vô tình lọt
vào tai bé.
- Nha...a...a! - Bé thét lên, to và thô. - Nha
a a!
Và bé cười rộng miệng hơn, vẫy tay, rồi sau
đó vỗ tay theo nhịp phách. Adam hiểu ra rồi, bé muốn hai con búp bê nhảy cùng
nhau. Và bé mường tượng, chúng sẽ làm như vậy. Tiếng cười khàn khàn và thô kệch
của bé lại vang lên.
- Con gái sung sướng... - Adam ngạc nhiên.
Adam nghe thấy tiếng chân trần của Ewa đang
vội lao ra khỏi nhà tắm để gọi con gái (“như con chó Pawlowa”, anh chồng nghĩ một
cách mỉa mai), Adam bèn lùi vào sâu bên trong phòng mình, đóng cửa không một tiếng
động.
“Phải chăng thế giới phải là thế giới của
những người hoàn hảo về gene, tức những người hạnh phúc? Phải chăng các gene
hoàn hảo sẽ mang lại hạnh phúc cho con người?”, Adam trầm ngâm suy nghĩ. Anh sợ
mình đặt ra những câu hỏi mà không có câu trả lời. Phải chăng việc giải quyết
những vấn đề của anh không nằm trong khoa học, mà ở đâu đó. Ở đâu?
- Myszka, có chuyện gì vậy con? - Ewa hỏi
ngoài tiền sảnh.
- Buuu beee nha aaa... - qua cánh cửa Adam
nghe bé trả lời mẹ.
- Con gái đặt hai con búp bê! Đứng được! Đẹp
quá! Myszka thông minh... Myszka giỏi... - Ewa nhắc lại, còn Adam thình lình rởn
tóc gáy, cố kìm lại nỗi bực mình vô cớ.
“Ewa coi con gái như một con thú nhỏ ngu dốt.
Trong khi bên trong con bé đang ẩn náu một sinh linh có cảm xúc và ý nghĩ riêng
của mình, có thế giới riêng của mình, có ngôn ngữ riêng của mình, và biết đâu
ngôn ngữ này là ngôn ngữ của Chúa...”.
Sau chốc lát anh trấn tĩnh lại. Adam cảm thấy
buồn cười và đồng thời cũng thấy ngượng trước phản ứng của mình. Anh cũng chẳng
biết tại sao anh lại phản ứng như vậy. Chắc tại cái ông Mahler này, và tại ý
nghĩ cho rằng những người nhạy cảm với âm nhạc thì cũng nhạy cảm nói chung.
Myszka cùng lắm là một ngoại lệ khẳng định quy tắc này. Ewa biết mình đang làm
gì khi xem con gái như một con thú nhỏ.
“Mình sẽ không can thiệp vào chuyện này,
mình phải trước sau như một”, Adam nghĩ, cho dù anh vẫn cảm thấy có một cái dằm
ác cảm nhỏ và nhọn châm vào Ewa và toàn thế giới đã xem những sinh linh như con
gái anh là như vậy. Và châm vào cả chính anh nữa vì anh đã chấp nhận điều này.
Adam ngồi trên ghế salon, quay lưng ra phía
cửa, mà phía sau là một ngôi nhà được xây dựng cách đây mười năm cho vợ và con.
Anh quẳng xuống đất những cuốn sách viết về gene và khả năng tạo ra những con
người hoàn hảo, về xã hội trong tương lai, trong đó không một ai thiếu và cũng
không một ai thừa một nhiễm sắc thể nào. Tất cả sẽ là lý tưởng.
Mấy cuốn sách rơi bịch xuống nền nhà, còn
anh vào trong Internet để liên lạc với công ty của mình.
“Những con số, chỉ những con số là chắc chắn
mà thôi. Ngôn ngữ của Chúa là ngôn ngữ toán học”, anh nghĩ với niềm tin trong
lòng.
Myszka ngồi xổm trong phòng áp mái, đầu lắc
lư nhè nhẹ, bé đang hát. Myszka khám phá ra sức mạnh của âm nhạc, cái có thể biểu
đạt mọi cảm xúc, là do bé nghe nhạc ngoài tiền sảnh, lúc bố mở băng và đĩa của
bố. Mẹ không thích những băng đĩa đó. Mẹ thích những giai điệu nhịp nhàng trong
radio cơ. Bố luôn luôn mở to những đĩa compac bố mến mộ, âm nhạc lọt qua cánh cửa
văn phòng của bố, nhỏ nhẹ, nhưng đẹp và gây xúc động. Myszka nghe nhạc, miệng
hát.
Bây giờ trên phòng áp mái, nhìn những tấm
màn đen được mở ra, Myszka hát nhạc Wagner. Những tấm màn này nắm bắt giai điệu
và sau chốc lát ngâm nga cùng bé rất nhẹ nhàng, rung động và nổi sóng của
Wagner không hợp. Thế nhưng Myszka đã biết, một lát nữa thôi là trước mắt bé sẽ
mở ra một không gian hùng vĩ, vô cùng tận, với đất và nước, với ngày và đêm, với
các vì sao, với mặt trăng và mặt trời và chỗ này Wagner như là một nhân tố đang
bị thiếu. Hình ảnh, sự chuyển động, âm thanh.
Myszka không ngạc nhiên khi nước nắm bắt
giai điệu đẹp nhất và tung lên cao những tia vui của mình. Tia thứ nhất, thứ
hai, thứ ba... hàng chục tia... hàng trăm tia... Sau đó từ phía sau những tia nước
rơi giọng du dương bắt đầu hiện lên những thân hình khổng lồ, mềm mại thâm đen.
Và những thân hình này cùng hát với Myszka nhảy múa trên những con sóng đang bồng
bềnh.
- Những con cá voi! - Bé thét to. - Ngài tạo
ra những con cá voi và không hề bị nhầm lẫn chút nào! Những con cá giống hệt
như trên tivi!
Cách đây mấy hôm Myszka xem phim về cá voi.
Máy quay cho thấy toàn bộ sự sống dưới đáy biển, ẩn khuất đối với mắt con người.
Ngay lập tức bé hiểu rằng ở đó cũng vậy, trên cao, nước bừng tỉnh, làm nơi sinh
sống cho không chỉ cá voi, mà cả cho hàng triệu sinh linh, cá nhỏ và cá lớn, bạch
tuộc lắm vòi, rắn biển bơi ngoằn ngoèo, hải cẩu lông xồm và hải mã dài râu mép.
“Và lần này Ngài đã không nhầm lẫn, vì tất
cả Ngài đều lấy ra từ cái đầu của Myszka”, Myszka thầm nghĩ.
- Cái
này tốt! - Ngài tuyên bố. Giọng không chút phân vân và do dự. Myszka tin rằng
bé khỏi phải gật đầu tán thành với Ngài. Ngài biết rồi mà.
Myszka đinh ninh trong bụng, vẫn chưa hết
đâu. Mới bắt đầu thôi mà. Hôm nay Ngài có một đêm vĩ đại vì Ngài thích làm công
việc sáng tạo. Myszka giơ đôi tay bé bỏng lên thật cao và tự tin chờ đợi. Một
cái gì đó phải trôi xuống từ trên cao. Từ bầu trời. Và cái đó đã trôi xuống. Mà
không, không phải trôi, mà là sà xuống. Một đàn chim. Hàng trăm con. Hàng ngàn
con. Những đôi cánh bay của chúng đang hát. Lông của chúng đang hát. Myszka
đang hát. Tất cả đều hát nhạc của Wagner, còn công việc sáng tạo vẫn tiếp diễn
và tiếp diễn.
- Nha a a a! - Myszka thét lên, vỗ tay, và
thế là cả đàn chim liền nhảy múa trên bầu trời.
Hàng ngàn đôi cánh kích cỡ khác nhau đang
trình tấu trong không gian cùng một giai điệu. Và chúng nhảy múa. Myszka muốn
nhập bọn với chim trời, nhưng nền phòng áp mái cứ níu giữ bé lại và cả thân người
của bé nữa cũng níu bé lại. Và cả mẹ mà Myszka không được rời bỏ. Và cả bố, mà
một ngày nào đó bố sẽ dừng lại và chả biết chừng lúc đó bố sẽ không còn có ai để
mà đứng bên cạnh nữa. Nếu không vì những chuyện đó thì bé có thể bay vù lên cao
cùng với đàn chim. Biết đâu có khi Ngài sẽ cho phép bé làm như vậy.
Chim trời bay lượn trên cao, giữa bầu trời
và mặt đất. Còn giọng nói âm vang cất lên không chút do dự:
- Cái
này tốt.
Lần này đất kiên trì chờ đợi. Bầu trời và
nước đã nhận được sự sống, còn mặt đất vẫn khô cằn. Myszka sợ Ngài quên mặt đất.
- Đâ.â... - bé lẩm nhẩm trong miệng, thế
nhưng Ngài cho cảm giác Ngài đang do dự. Ngài sợ làm cho mặt đất quá đông người
chăng? Ngài đã nhầm lẫn khá nhiều rồi chăng? Trong vũ trụ có những thế giới
đang xoay tròn mà Ngài đã ban sự sống và bây giờ đang làm Ngài sợ hay sao?
- Đâ.â.a... - Myszka lẩm nhẩm một lần nữa,
gần như cầu xin, thế nhưng chỉ có tiếng vỗ cánh của chim trời đáp lại bé mà
thôi.
Myszka thầm nghĩ, có lẽ Ngài đã đi đâu đó rồi.
Phải chăng Ngài đang ngắm nhìn đáy đại dương và đáy biển, Ngài đang kiểm tra
xem, Ngài có sáng tạo đúng ý định hay không, hay là Ngài bay lên với những chú
chim xa gần, bao bọc chúng bằng hơi thở của mình và chia chúng thành các loài?
Ngài phân chia cho chúng các màu lông các giọng hót khác nhau và khả năng bay
lượn? Đường nào thì bé cũng muốn biết, lần này Ngài sẽ tạo ra sự sống như thế
nào trên trái đất...
Myszka biết là bé không chờ nổi. Bé cảm thấy
mệt và buồn. Bỗng bé đứng phắt dậy, bật đèn điện và trong một tích tắc bốn bức
tường phòng áp mái là ranh giới của khoảng không gian bao la, và cùng tận vừa rồi.
Bụi mềm đang bám trên bộ bàn ghế của bà. Và còn gì đó nữa...
Myszka bước lại chỗ chiếc tủ đựng thức ăn
cũ. Trên mặt tủ có cái gì đó hồng hồng. Bé chìa tay ấn mạnh.
- Myszka, sao con cứ ngồi lì ở đây và ngồi...
Còn ngồi như thế bao lâu... xuống dưới nhà đi con, hai mẹ con sẽ xem cái gì đó
trong tivi. - mẹ nói phía sau lưng Myszka.
Myszka ngồi im thin thít đang xem vật vừa
tìm thấy được.
- Lông chim! - Mẹ nói không tỏ vẻ ngạc
nhiên, đoạn ngẩng đầu nhìn lên mái nhà. Cửa sổ không kín hoặc lông chim rơi vào
khi mình làm thoáng phòng. Hoặc đã có từ trước. Ewa nói tiếp sau suy ngẫm, rồi
người mẹ chìa tay ra.
- Đưa mẹ xem nào!
Myszka nắm chặt tay thành quả đấm.
- Con không muốn cho mẹ xem chứ gì? - Mẹ ngạc
nhiên. - Mẹ có định lấy mất của con đâu, mẹ sẽ trả lại con thôi...
Cô bé từ từ, chậm rãi mở bàn tay ra. Bây giờ
cả hai mẹ con cúi xuống nhìn chiếc lông chim.
- Màu hồng? - Người mẹ lấy làm ngạc nhiên. -
Lông chim hạc? Thế nhưng từ đâu ra?
- Cooo... - Myszka nói.
- Đương nhiên là của con rồi!
Mẹ nhất trí và cả hai mẹ con đi xuống dưới
nhà.
Dưới nhà mẹ quên mất chiếc lông hạc hồng,
chiếc lông không biết từ đâu rơi vào phòng áp mái. Myszka nghĩ bụng mẹ vẫn thường
hay quên, thế nhưng quên những chuyện ít quan trọng hơn. Đôi khi mẹ cũng quên
những việc rất quan trọng như thế này.
Trong tivi Ewa muốn xem tập tiếp theo của bộ
phim truyền hình nhiều tập, thế nhưng Myszka cứ nấn ná mãi, đợi cho đến khi Ewa
tìm thấy kênh có chương trình Địa lý phổ thông.
Các loài động vật khác nhau đi dạo, đi rón
rén hoặc chạy thình thịch khắp lục địa châu Phi bao la. Myszka chăm chú nhìn
lên màn hình khi hai mắt bé vẫn còn chưa mỏi đến độ chúng tự động nhắm nghiền lại.
Trước khi thiếp ngủ bé nghĩ, bây giờ bé phải xem nhiều, thật nhiều các vật khác
nhau. Bằng không bé sẽ không biết giúp đỡ Ngài. Cả hai sẽ cùng nhầm lẫn và khi
Ngài hỏi bé sẽ không biết trả lời. Thực ra Ngài chẳng hỏi ai, nhưng Ngài lại
nghe tất cả.
“Voi, hươu cao cổ, sơn dương, thỏ, chuột
nhũi, chồn?”, bé nghĩ và ngủ thiếp luôn. “Bò, ngựa, chó, mèo, chó sói. Chó sói?
Và sư tử? Hổ? Báo?”
Bé lo ngại. Bé thích Ngài tạo ra một thế giới
riêng biệt và xa cách cho các loài thú chuyên ăn thịt các loài thú khác, nhưng
bé không dám chắc, liệu có làm được như vậy hay không.
Myszka thiếp ngủ. Bé nằm chiêm bao thấy những
con vật bé xem trong các chương trình truyền hình, trong các cuốn sách có minh
họa bằng hình ảnh và trong vườn bách thú. Chúng đùa giỡn với nhau vui vẻ, chúng
chơi với nhau trong thuận hòa và thân thiện. Chúng ăn củ cà rốt, chuối và cỏ.
Không giết một ai.
Và buổi
tối đã đến, ngày thứ năm.
------------
Còn
tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét