Quà của Chúa
Tác giả: Dorota Terakowska
Dịch giả: Lê Bá Thự
Nhà xuất bản Phụ nữ - tháng 4-2009
Chương 17
Ngày Thứ Tám
Myszka ngủ và ngủ hoài. Giờ ăn sáng đã trôi
qua từ lâu và sắp đến giờ ăn trưa. Thoạt tiên Ewa thích buổi ban mai tĩnh mịch
này. Nhất là như thường ngày, Adam đã biến khỏi nhà trước khi vợ mở mắt.
Khoản “lương tuần” của hai mẹ con đã được đặt
trên bàn nhà bếp, cứ vào thứ hai hàng tuần Adam đặt sẵn một khoản tiền đủ cho
hai mẹ con chi tiêu cả tuần. Nhưng hôm nay là chủ nhật. Adam chưa bao giờ bị nhầm
lẫn. Vậy thì Adam đã dự tính thứ hai anh sẽ vắng nhà.
“Adam lại đi đó đâu chăng?”, Ewa nghĩ.
Khoảng một giờ chiều, Ewa đánh thức Myszka.
Con gái mở mắt, mơ màng nhìn mẹ.
- Myszka... - mẹ gọi nhẹ nhàng.
Myszka vẫn nhìn mẹ, nhưng Ewa dám chắc con
gái không biết nó đang nhìn cái gì.
“Chắc nó đang nằm mơ thấy cái gì đó... hình
như nó đang ngơ ngác, đây là ở đâu thế này”, Ewa nghĩ, tay đập mạnh vào vai
con, gọi tiếp:
- Tỉnh dậy đi, Myszka!
Nhẽ ra bây giờ Myszka phải nháy mắt, duỗi
thẳng người, quăng chăn, (Ewa vẫn không thoát khỏi ý nghĩ bực mình là con gái
béo ịch và dị dạng, rằng nó là con gái vậy mà không thể mặc tất cả các bộ thời
trang tuyệt đẹp trưng bày tại các cửa hàng), rồi sau đó nó cười toe toét, tự
tin, nụ cười mà mỗi lần xuất hiện cho cảm giác mẹ đã tha thứ cho con chuyện con
đã làm mẹ thất vọng khi chào đời.
Tuy nhiên, nụ cười này không xuất hiện.
Trái lại, Myszka bặm chặt môi, như khi đang tập trung cao độ.
- Myszka... - Ewa lo lắng nhắc lại, đặt
lòng bàn tay vào trán con gái. Trán lạnh. Nhưng hai mắt con vẫn nhìn không phải
vào mẹ, mà xuyên thấu qua mẹ, tựa hồ Ewa trong suốt vậy.
Ewa cầm lấy tay con gái, cố nhấc bổng con
lên, bắt con phải dậy. Nhưng tay con gái nặng trịch, không nhúc nhích. Ewa thả
ra thì nó rơi bịch xuống chăn.
- Con bị ốm rồi! - Người mẹ thốt lên, chộp
lấy điện thoại.
- Cháu không nói năng gì hả? Nhưng không sốt
chứ? - Bác sĩ hỏi. - Nó có ho không? Có bị sổ mũi không? Không... khó thở?
Không... tất nhiên tôi sẽ đến, nhưng không có gì phải vội đâu. Qua mô tả của chị
tôi thấy không có vấn đề gì. Hầu như cháu chẳng bao giờ nói năng, đúng không?
Ewa muốn thét lên: “Ông nói cái gì mà vô lý
như vậy hả? Đây là đứa trẻ nói nhiều nhất trên trần đời! Chỉ có kẻ ngu mới
không biết trò chuyện với nó!”.
Thế nhưng thay vì nói vậy chị nhắc lại, nhấn
mạnh rằng theo chị, Myszka nom rất khác thường.
- Nếu không phải là ốm thì là gì nào?
- Trẻ em tật nguyền thường hay trở chứng.
Trường hợp con gái của chị, ngoài bệnh Down lại còn bị một vết đen trong não nữa.
Cho nên cháu thất thường là phải. - Bác sĩ đáp để người mẹ yên tâm, ông nói
thêm. - Độ hai hoặc ba giờ nữa tôi sẽ đến. Hôm nay tôi có ba cuộc thăm bệnh khẩn
tại gia, và ba người khách đang đợi. Cho tới lúc đó sẽ không có chuyện gì xấu xảy
ra đâu, chị yên tâm đi. Tạm biệt.
“Não bị một vết đen nhỏ”, Ewa nhớ lại. Có
thể là u não, là phồng động mạch, hoặc gì đó nữa chăng? Nếu là phồng động mạch
não thì chỗ phồng đó bị vỡ chăng? nếu vậy thì bé phải bị ngất chứ? Ewa thấy yên
tâm, khi lục lại trong đầu những kiến thức cẩm nang của mình. Lúc này Myszka đã
bất tỉnh, nhưng khác, “con gái thông minh khác, khéo léo khác, thậm chí bất tỉnh
khác”, Ewa cay đắng nghĩ.
Myszka nhìn nhưng không thấy. Hoặc nhìn thấy
cái gì đó khác, chứ không phải Ewa cho dù người mẹ đang cúi xuống mặt con, nhìn
chằm chằm vào đôi mắt bị hai mí dày che khuất và nếu có ai đó đứng bên thì chắc
người này sẽ nghĩ rằng con đang đáp lại cái nhìn của mẹ. Thế nhưng Myszka không
cử động và không hiện diện nữa rồi.
Ewa chẳng còn biết làm gì ngoài việc chờ
bác sĩ.
* * *
Tay cầm mảnh giấy có ghi địa chỉ, Adam
loanh quanh trong khu phố thời thơ ấu của mình. Ra đi từ lúc bình minh, khoảng
tám giờ sáng anh đã tới nơi này.
“Mình chẳng còn nhớ gì cả”, anh lo ngại,
quan sát chung quanh, “Tại sao mình lại không nhớ những con phố ấy, những con hẻm
ấy, những mảnh sân ấy, nơi mình đã cùng bạn bè chơi bóng hoặc trốn tìm?”.
Adam không mang theo bản đồ, vì tin vào trí
nhớ của mình. Còn bây giờ, tại thành phố chôn rau cắt rốn của mình, anh đang đi
theo sự chỉ dẫn của những người đi đường tình cờ anh gặp và phải sau một giờ đồng
hồ Adam mới tìm thấy ngôi nhà gạch tiêu điều, xây từ hồi trước chiến tranh. Khi
leo lên các bậc cầu thang, Adam có cảm giác anh đang nhận ra ngôi nhà này, cho
dù không dễ dàng, làm sao Adam có thể phát hiện ra ngôi nhà xinh đẹp thời thơ ấu
của mình trong ngôi nhà mục nát và hoen ố này? Anh có cảm giác mọi thứ đều nhỏ
hơn và xấu xí hơn xưa.
“Chỗ này... nhất định chỗ này... chỗ cầu
thang này... mình đã cùng mấy thằng bạn chơi trò nắp chai. Có điều hồi đó cầu
thang không kêu cọt kẹt như thế này và trải thảm đỏ. Con chó lúc nào cũng đi
theo sau mình. Con chó của mình. Lông nâu, lực lưỡng. Mềm mại và ấm áp. Mình rất
quý nó. Còn bà mình hay sang ngồi lê bên nhà bà bạn gái của bà”. Adam dần dần,
song kiên định, nhớ lại.
Adam nhận ra cánh cửa, cánh cửa thứ hai,
phía đối diện, có tấm biển kim loại như xưa, tuy mờ đục song vẫn sang trọng.
Trên cánh cửa căn hộ nhà Adam nổi bật hai cái tên lạ. Chẳng có gì phải ngạc
nhiên. Đó là một căn hộ rộng. Cánh cửa mà Adam nhằm tới đã ở bên cạnh. Tấm biển
với hàng chữ đục nghiêng, ghi họ tên, nét chữ đầu và chữ cuối cong tớn, không
thay đổi sau mấy chục năm. Vẫn những con chữ ấy, vẫn những đường cong ấy, vẫn họ
tên ấy.
Adam ấn chuông. Một hồi lâu im lặng, anh đã
định bỏ đi, đang thất vọng và bực mình thì nghe tiếng chân người, âm thanh đặc
trưng này cho phép Adam nhận ra những bước đi của một đôi chân già nua. Trong mắt
thần xuất hiện bóng đen, chắc là mắt của bà già. Ổ khóa hai lần kêu lẻng xẻng,
xích sắt chạm vào nhau loảng xoảng khi bà già mở hé cửa để nhìn. Hai chiếc chìa
khóa không hợp thời và dây xích buộc cửa là những thứ điển hình cho người già.
Họ tin vào độ an toàn của chúng, họ đâu có biết đối với kẻ trộm thì chỉ cần một
khe hở nho nhỏ là đủ. Với niềm tin như vậy, qua mắt thần, bà già quan sát người
đàn ông lạ mặt, bộ dạng lịch thiệp.
- Anh hỏi ai? - Bà già lên tiếng, thò đầu
ra giữa dây xích và cánh cửa, còn Adam dẫu khó khăn song đã nhận ra trong bà
già này người phụ nữ trung niên sung sức và luôn luôn chau chuốt thuở nào. Đang
nhìn anh bây giờ là một bà già mắt mờ, mặc chiếc áo len rách, rộng thùng thình.
- Cháu đến gặp bà! - Adam trả lời với thái
độ lãnh đạm và lễ phép theo thói quen.
Sau đó anh chợt nhớ, hồi trước mình đã rất
quý bà ta cơ mà. Rất quý nữa là đằng khác.
Trước khi gia đình Adam chuyển đi, chính người
đàn bà này thường hay xoa dịu những đòi hỏi khắt khe của bà Adam, khi anh đang
còn là một đứa trẻ và sau đó là một chàng trai. Người đàn bà này đã nhiều lần
xin cho Adam được đi xem chiếu bóng, được ra sân chơi với lũ con trai, cho dù
phải chịu hình phạt học bài. Một thời gian khá lâu, Adam luôn liên tưởng học
bài là một hình phạt. Sau này, khi học đại học, đầy rẫy khó khăn, Adam mới hiểu
ra rằng những gì anh làm là làm cho chính mình. Không phải cho người mẹ hoặc
người bố mà bây giờ anh chỉ còn nhớ mang máng, cũng chẳng phải cho bà, người mà
anh không chịu vâng lời. Cháu học là học
cho mình đấy. Hồi đó, bà già này đã cố thuyết phục Adam như vậy, nhưng cậu
chàng đâu có tin.
- Bà Ola ơi, cháu đây, Adam đây! - Adam nói
dịu dàng.
- Adam? - Bà già nhắc lại, không tin.
Adam thấy lo, thời gian đã làm lu mờ trí nhớ
của bà già, tuy vậy đôi mắt đục của bà đã nhận ra anh.
- Janek... Jasio Adasio. - Bà già mỉm cười
và trong nụ cười này Adam nhận ra bà lần thứ hai.
Adam không nhớ cái tên lóng này: Jasio Adasio. Và Janek là ai mà vừa mới
nhìn bà già đã nhầm Adam với người này. Phải chăng đó là một cậu bé khác bên
sân nhà bà mà có lẽ bà đã trông nom, bởi cũng như đa phần những người cô đơn,
bà yêu quý con cái của người khác. Hay là bà nhầm anh với bố anh? Vậy thì bà
già này cũng bị loạn trí như bà mình chăng? Và anh lại chẳng khai thác được gì...
- Vâng, cháu đây, Adas đây! - Adam công nhận,
(cái tên “Adas” anh chỉ biết hồi còn bé, đã từ lâu tên gọi của anh chỉ là
Adam). Lúc này bà già loay hoay với dây xích sắt. Bà tránh sang một bên để Adam
bước vào dãy hàng lang dài và hẹp.
- Rốt cuộc anh về thăm bà ấy hả? - Bà già hỏi
không một lời khai nào, còn Adam, không cần hỏi bà già nói về ai, trả lời luôn.
- Không, cháu không thăm bà, vì... - anh
đang tìm trong đầu một câu nói dối nhẹ nhàng nào đó. Vả lại bà có nhận ra ai
đâu. Ai đến thăm bà thì bà cũng thờ ơ vậy thôi.
Bà già cười to, nhưng Adam có cảm giác
trong nụ cười này chẳng có gì vui. Bà già cười rất lạ, khiến Adam nghĩ bà đang
khóc. Bà đẩy chiếc ghế đẩu ra, không đợi cho khách ngồi vào ghế, bà quay lưng
lôi ngăn kéo của chiếc tủ cũ. Hai bó thư dày cộp lấy từ ngăn kéo được đặt lên
bàn, một bó buộc bằng băng vải, còn bó thứ hai bằng dây chun.
- Thư của bà ấy đấy, tôi không xem nên chẳng
biết bà ấy viết gì. - Bỗng bà già nói giọng khô khốc, thiếu thiện cảm. Nụ cười
biến mất trên gương mặt bà già. Bây giờ bà nhìn Adam, cái nhìn lãnh đạm và trách
móc.
- Anh đã bỏ mặc bà ấy, và chỉ có thế. - Bà
già nói tiếp. - Không bao giờ anh quý bà anh, anh không thấy hết được những gì
bà đã làm cho anh. Chính nhờ có bà thì anh mới có nổi mảnh bằng tốt nghiệp phổ
thông trung học, bằng không anh cũng trượt vỏ chuối như lũ bạn của anh mà thôi.
Tôi biết anh đã có bằng tốt nghiệp đại học, anh lập công ty riêng, anh đã xây
nhà. Và có vợ. Có con. Bà ấy viết như vậy. Bà ấy rất hãnh diện về anh đấy.
- Hãnh diện? - Adam nhắc lại theo phản xạ để
trì hoãn thời gian.
- Hãnh diện. Và bà ấy đã tha thứ cho anh, kẻ
đã bỏ mặc bà mình. Đó là một người đàn bà cương nghị. Cho nên bà ấy đã cắt đứt
quan hệ với anh. Anh thấy không? - Bà già chỉ vào chồng thư. - Bà ấy viết cho
tôi, nhưng cho anh thì không. Với tôi thì bà ấy nhớ, còn với anh thì không, bà ấy
làm như vậy là tiện cho anh chứ gì?
- Bà không đóng bếp ga. Quên đủ thứ. Bà bị
đãng trí. - Adam nói thế nhưng bà già chỉ cười.
- Tôi cũng bị đãng trí. Thoạt tiên tôi gọi
anh là Jan...
- Bà nhầm cháu với người khác. Chuyện thường
tình. - Adam nối lời.
- Tôi đã nhầm, nhẽ ra tôi không nên nhầm
như vậy! - Đôi mắt mờ của bà già hết đục, tỉnh táo nhìn Adam. - Còn anh không
biết một Jan nào hay sao?
- Cháu có biết vài người. Cho dù bố cháu...
Bà định nói là bà cháu giả vờ hay sao? Giả vờ là bà không biết cháu, khi cách
đây mấy ngày cháu vừa đến thăm bà chăng? - Adam hỏi một cách bình thản và lạnh
lùng, cho dù tự dưng anh cảm nhận trong lòng mình là một cậu bé tí hon bị quở
trách.
- Tôi chẳng biết, tôi có mặt ở đó đâu mà biết!
- Bà già ngắt lời khô khốc. - Chúng tôi thường xuyên thư từ với nhau, chỉ có điều
không thăm viếng nhau được. Nơi đó đối với tôi là quá xa, tôi quá già, không đủ
sức để đi tới đó. Bà ấy thì quá yếu, không đủ sức để đi tới đây. Lần cuối cùng
chúng tôi gặp nhau cách đây đã mười lăm năm. Thế nhưng thư của bà ấy tôi nhận
cách đây mới năm ngày.
- Cháu đã đến bệnh viện ấy! - Adam nói,
chuyển đề tài khi không biết phải xử sự ra sao. Anh rất muốn khóc òa như hồi
trước, cách đây ba mươi năm, khi bà cấm đoán chuyện gì đó, cậu bé bèn dùng tiếng
khóc để gọi bà Aleksandra sang bênh vực.
- Anh bị ốm hay sao? - Bà già hỏi.
- Không! Cháu đã đến bệnh viện “đó”...
Bà già nhìn Adam ra chiều thông cảm.
- Vâng, ở đó... nơi bố mẹ cháu qua đời... -
Adam nói tiếp. - Nơi người ta đã chở bố mẹ cháu đến sau vụ tai nạn. Thế nhưng ở
đó chỉ có một bà nhân viên cũ đã nghỉ hưu còn làm việc. Bà ấy chẳng còn nhớ gì
nữa cả.
- Nhưng bà ta phải nhớ cái gì vậy? - Bà già
hỏi.
- Cháu chẳng biết! - Adam trả lời thiếu
trung thực. Anh không muốn thú nhận với bà già này rằng anh đã tìm kiếm trong hồ
sơ của bệnh viện những đoạn có ghi về bệnh di truyền do gene của bố mẹ bị khiếm
khuyết. Chính anh cũng chẳng biết đó là gì. Những dấu vết. Những vết tích của
loại nhiễm sắc thể của mình. - Bà nhân viên này chỉ nhớ được một điều, sau vụ
tai nạn người ta đã chở đến bệnh viện ba người. Bố mẹ và... một nạn nhân tình cờ
của vụ tai nạn. Liệu có khả năng như vậy hay không? Hình như đó là một đứa bé?
Bà cháu có nói điều này với bà hay không? Có phải đứa bé này tự ngã vào xe, có
phải bố mẹ cũng... - Adam ngừng giây lát, đoạn nói tiếp. - Có phải đứa bé chết
là tại lỗi của bố mẹ cháu?
Đôi mắt nâu lại nhìn cảnh giác, không còn mờ
đục như lúc nãy nữa. Bà già hít thở mạnh:
- Sao lại là “một đứa trẻ nào đó”. Có lẽ
anh không muốn bảo rằng...
Bà già ngừng rồi nhìn Adam như là người lần
đầu tiên bà gặp. Bỗng nhiên nét mặt bà giãn ra, mềm mại và bà hỏi dịu dàng:
- Bà của anh không nói với anh chuyện đó
hay sao? Chưa bao giờ hả? Ngay cả khi anh đã là một người lớn?
- Chuyện gì cơ? - Adam hỏi lí nhí trong họng,
cảm thấy anh sắp được nghe điều mà lẽ ra anh đã phải biết từ lâu, mà không, điều
mà anh luôn luôn biết, có điều không thích ghi nhớ.
“Mình phải rời khỏi nơi này, trước khi bà
già sẽ nói điều gì đó làm mình sợ”. Adam sốt ruột nghĩ, thế nhưng anh lại đứng
im, căng thẳng.
- Người anh ruột của anh... - Anh không nhớ
anh mình hay sao? Thế mà tôi cứ tưởng, anh rất yêu anh mình! - Bà già nói.
Căn phòng yên lặng.
Một thứ yên lặng cho cảm giác thời gian ngừng
trôi và không định trôi tiếp nữa.
Adam nhắm hai mắt rồi lại mở mắt ra, quan
sát quanh nhà, nơi biết bao lần anh đã sang chơi một mình hoặc đi cùng bà, mà
chẳng phải chỉ đi cùng với bà...
“Còn một người nữa cùng đi với mình. Luôn
luôn như vậy. Lúc nào cũng có người này”.
Adam lại nhắm mắt, và bỗng trong đầu anh hiện
lên hình ảnh rõ mồn một: Bố mẹ đi ra khỏi nhà, để đi chuyến đi cuối cùng. Cùng
đi với bố mẹ có con chó lông nâu lực lưỡng...
“Không phải. Không phải con chó...”. Đó là
đầu óc của anh biến tạo vật này thành con chó. “Làm vậy để dễ quên...”, con chó
nâu lông xù, con chó đáng yêu. “Lông nâu, xoăn và chiếc áo khoác nâu lông tơ...
con gấu con... đáng yêu...”.
- Adas... Anh còn nhớ, đúng không nào? - Bà
già nhắc, nhưng Adam đã biết, đó là người anh tám tuổi của mình, là Adas.
“Người
anh yêu thường được mệnh danh là con gấu con. Anh ta cùng với mình thường hay
sang chơi nhà này, mình luôn luôn nắm chặt tay anh... Anh mình muốn vậy, còn
mình thích...”. Adas lớn hơn ba tuổi, có điều Adam, tức Janek, dù mới lên
năm, nhưng là người em khôn ngoan hơn anh và luôn chăm sóc anh mình. Adas có
đôi mắt xếch tật nguyền, nụ cười mềm yếu, thiếu tự tin. Chính Adam đã dạy Adas
cách buông tay ra khi đặt ly sữa lên bàn, làm thế nào để nói trọn một câu, tự mặc
áo lông và buộc quai giày, xếp hình và làm bánh ga tô bằng cát. Vì yêu quý anh
Adas mà Adam đã đánh thằng bạn dám gọi trêu anh mình là “thằng đần”, và cắn vào
chân chị láng giềng khi chị này vì bênh đứa con trai độc nhất của mình mà bảo rằng:
“người đần là người tật nguyền, cho nên thằng bé không biết nghĩ xấu đâu”.
- Adas không tật nguyền, chính cô mới là
người đần! - Lúc đó Adam dậm chân, thét to, còn bố tóm lấy con trai ngoài cầu
thang, lôi xềnh xệch về nhà.
- Con bình tĩnh lại đi! - Bố dỗ cậu con
trai. - Bố mẹ biết Adas thông minh, tình cảm và tốt bụng. Bố mẹ biết như vậy,
thế là đủ rồi.
Bỗng nhiên trong tai Adam vang lên những lời
đối thoại lúc nô đùa với anh mà bây giờ sau bao năm tháng, ngân vang với đầy đủ
mọi thanh âm. Đây là khúc giao hưởng song tấu của anh em nhà Adam: Giọng của
người anh yêu quý, Adas, yếu mềm, lúng búng, nhưng luôn dễ hiểu (đối với Adam)
và giọng của chính Adam.
- Aaasio... lại đây, lại đây...
- Chúng mình chơi trò được không, Adas?
- Lại đây, lại đây... aasio...
Chính Cây Sồi Góa Bụa đã nói với Adam bằng
hai thứ giọng như thế, thế nhưng anh, Jasio Adasio, không muốn ghi nhớ những giọng
nói đó, ngay cả nghe cũng vậy. Một Adas thật, đang sống trong Adam, cho dù đã
chết bi thảm, đã nhập hoàn toàn vào Adam đến tận ranh giới của sự hủy diệt, đã
là của anh tới độ bị ném ra khỏi trí não. Và không phải tại tật nguyền cảm xúc
và tổn thương trí tuệ, mà là vì đau khổ.
Một lần nữa Adam nhìn thấy trước mắt mình cảnh
ấy. Cả ba người cùng ra đi. Từ cửa sổ hé mở của nhà mình, anh nhìn theo họ.
Adas có mái tóc đen, dày, mặc chiếc áo khoác lông gấu màu nâu. Adam vẫy tay,
chào người anh được mẹ dắt. Mẹ mỉm cười trìu mến với Adam, còn bố gọi to:
“Janek, con nhớ chăm sóc bà nhé! Tối mai bố mẹ và anh sẽ về thôi!”.
Cả ba không bao giờ trở về nữa.
Bỗng Adam nhớ lại bố mẹ và anh mình đến đó
để làm gì. Tháng nào họ lại chẳng đến đó! Tại bệnh viện tỉnh lẻ bé nhỏ này có một
bác sĩ nhi khoa rất chịu thương chịu khó, đã luống tuổi. Ông có một đứa con
trai bị bệnh Down, chính ông đã tìm ra được một số phương pháp hữu hiệu dạy cho
trẻ em bị Down thích nghi với cuộc sống bình thường. Bố mẹ cùng Adas đi gặp ông
ta, hỏi ý kiến của bác sĩ về những tiến bộ đã đạt được và học tiếp những bài tập
nhọc nhằn.
Bỗng nhiên trong đầu Adam vang lên cuộc trò
chuyện của bố mẹ mình. Cuộc trò chuyện mà anh nghe trộm được ngay trước chuyến
đi bi thảm. Cuộc trò chuyện mà anh đột nhiên nhảy vào với cái tính trẻ con:
- Mai kia, khi không có chúng ta thì Adas sẽ
sao đây? - Bố hỏi.
- Em cũng chẳng biết nữa. Em thường không chợp
mắt nổi mỗi khi nghĩ tới chuyện đó. Nhiều đêm em thấy chiêm bao về chuyện này! -
Giọng buồn, du dương của mẹ nói vậy.
Adam chạy vào phòng của bố mẹ, hét to:
“Không, không! Không bao giờ không có bố mẹ! Lúc nào cũng có bố mẹ! Lúc nào
cũng có!”.
Nhưng sau đó, chấp nhận điều không tránh khỏi,
Adam nói giọng chắc như đinh đóng cột của một đứa trẻ:
- Không bao giờ con bỏ rơi anh Adas. Anh
Adas sẽ ở với con.
Bây giờ từ viễn cảnh bốn mươi năm, Adam đã
hiểu rằng bố mẹ tin mình, rằng anh đã giải thoát cho bố mẹ khỏi nỗi lo lớn nhất,
kinh khủng nhất. Rằng bố mẹ hoàn toàn tin tưởng vào anh, đứa con trai lên năm
tuổi, đứa con trai đã tự hứa sẽ chăm sóc anh mình, không rời bỏ anh cho đến chết,
hứa xóa bỏ hình ảnh tang thương của trại đặc biệt và sự cô đơn đau khổ của người
anh trai.
- Jasio... Adasio... lại đây, lại đây... Chúng
mình chơi với nhau...
Adam thốt lên nho nhỏ với chính mình, gọi về
tuổi thơ ấu của mình. Đó là tuổi thơ đẹp và sung sướng. Cũng nhờ có Adas.
Trước lúc lên đường, Adas đã nói gì với em
mình?
- Aaasio, anh sẽ... về...
Và anh đã về.
Lần đầu tiên bà gọi Adam là “Adas” là khi
nào? Phải chăng ngày hôm sau khi từ bệnh viện xa xôi này trở về, nơi bà đã phải
nhận dạng thi thể của ba người? Hay là nhiều ngày sau đó? Anh không nhớ. Anh chỉ
nhớ anh tiếp nhận điều này không một lời cự nự. Khi lại nghe cái tên này, Adam
có cảm giác Adas vẫn còn đang sống trong anh. Cho nên anh không phản đối.
- Tại sao bà lại làm như vậy? - Adam hỏi,
nhìn bà già đang ngồi bên chiếc bàn.
Bà già mỉm cười:
- Tại sao bà của anh lại gọi anh là “Adas”?
Tại sao bà lại tước mất của anh cái tên thật, còn bệnh viện kia bà đã nói dối?
Phải chăng trong Adas đã qua đời bà nhận ra anh, và bà tuyên bố rằng Janek đã
chết rồi? Tại sao bà lại làm như vậy... Không bao giờ bà tiết lộ cho tôi biết
tôi chỉ có thể ước đoán mà thôi. Những người phụ nữ mạnh mẽ, có tính cách, có
nhân phẩm... còn bà anh thế này... những người phụ nữ như vậy rất yêu những con
vịt con xấu xí từ những con thiên nga mà ra. Họ yêu nhiệt thành những con chim
non què quặt, những cô gái phận hèn. - Bà già kiêu hãnh nói. - Cho nên anh chớ
lấy làm lạ, bà anh đã yêu Adas hơn anh rất nhiều. Đừng nghĩ xấu về bà trong
chuyện này.
- Vâng! - Adam trả lời và nhìn thấy hình ảnh
xưa: Một cậu bé béo ục ịch, dị dạng, tóc nâu, xoăn, mặc chiếc áo lông màu nâu.
Người anh nhỏ yêu quý của anh. Adam lại nhớ tới cái nhìn cuối cùng dưới đôi mi
dày dị tật và nụ cười e lệ.
“Con gấu của cả nhà, con gấu Misa lông tơ của
cả nhà”, như mẹ vẫn thường nói, cho dù Adas chậm chạp, nặng nề và tự tin như gấu
Misa trong truyện tranh và cũng như Adas, chú gấu này được “tất cả các thú vật
trong rừng” yêu quý.
- Bà muốn cứu vớt sự tồn tại của Adas. - Bà
già nói. - Cho nên bà gắn hai anh em thành một. Gắn cho anh cái tên Adas, bà
đinh ninh rằng làm vậy là bà đã ban cho Adas một thân hình lực lưỡng, khỏe mạnh,
đầu óc thanh thoát, lưu giữ tâm hồn và sự nhạy bén của cháu mình. Từ hai anh em
nhà anh, bà đã tạo ra một người. Và bà yêu anh ấy gấp đôi.
Bà
già im bặt. Adam cũng im lặng, anh chỉ đau lòng bởi ý nghĩ “Adas hứa sẽ trở về.
Anh đã về. Thế mà mình lại ruồng bỏ anh”.
- Cháu xin lỗi... Cháu đang vội. - Adam bất
thình lình nói, bật khỏi chiếc ghế làm nó đổ lăn quay.
Anh vội vàng đặt chiếc ghế trở lại một cách
vụng về. Bà già chăm chú nhin Adam.
- Cháu không có thời gian. - Anh nói vội,
nói với chính mình hơn là với bà già. - Cháu sẽ đến thăm bà ngay... tức là bà
cháu... cháu sẽ đưa bà cháu về nhà... cháu sẽ đưa bà cháu đến thăm bà, được
không? Thú thật là cháu không có thời gian... xin bà đừng giận cháu...
Bà già với vẻ thông cảm nhìn Adam. Không một
lời nào, bà già đóng sầm cánh cửa sau lưng anh, tai nghe thấy tiếng nện chân
trên các bậc cầu thang. Adam chạy rất nhanh và nện gót rất mạnh, như có thời
chú bé Janek đã chạy trên cầu thang này. Trong giây lát bà già có cảm giác vẫn
còn nghe dư âm của những bước chân khác. Những bước chân chậm rãi, thận trọng của
chú bé Adas. Một chân từ từ thả xuống bậc dưới của cầu thang, rồi chân thứ hai,
lê theo một cách chậm chạp và e ngại. “Túp túp... túp túp... túp túp...”.
Bà thích thứ âm thanh này.
* * *
Bác sĩ trì hoãn việc chẩn đoán.
- Phổi sạch... không sốt! Hay là não có vấn
đề? - Bác sĩ do dự nói. - Chúng ta hẵng đợi một hai ngày cho đến khi rõ bệnh
tình. Không thể kê đơn thuốc cho căn bệnh mà chúng ta chưa biết.
- Còn nếu như nguyên nhân là vết đen nhỏ ấy
thì sao? Nếu như nguyên do là... chẳng hạn... phồng động mạch não thì sao? - Ewa
ái ngại hỏi.
- Một quả bom hẹn giờ trong đầu... - Bác sĩ
đăm chiêu. - Chỉ có điều con bé không bị hôn mê. Vẫn tỉnh táo, chỉ không nói mà
thôi. Cháu nó cứ nhìn hoài, nó đang nhìn thấy cái gì đó, nhưng không phải chúng
ta. Chúng ta không biết đó là cái gì. Mà có khi chẳng là cái gì cả.
- Chúng ta có thể làm gì được bây giờ, thưa
bác sĩ? - Ewa sốt ruột hỏi.
- Đợi! - Bác sĩ đáp. - Với trẻ em tật nguyền
chẳng biết thế nào mà lần.
“Bác sĩ nói vậy chẳng qua là để gây cho
mình hy vọng”, Ewa nghĩ bụng.
Bác sĩ ra về, Ewa còn lại một mình. Chị chẳng
biết mình còn đợi gì nữa.
“Nếu mình cứ đợi cho đến khi con bé chết?...”,
Ewa nghĩ và lo sợ. Đó là nỗi sợ trước lúc Myszka ra đi, đồng thời cũng là nỗi sợ
trước chính mình. Trong góc tối tăm nhất, sâu thẳm nhất trong trí não của Ewa
đang ẩn náu niềm hy vọng, bắt đầu mọi thứ lại từ đầu. Và ở đó không có chỗ cho
Myszka.
Ewa ngồi trên giường con, hai tay ôm đầu,
chị gật đầu về phía trước rồi lại hất đầu ra phía sau. Và chờ đợi. Chờ đợi điều
sẽ xảy ra, và chờ đợi phản ứng của chính mình, phản ứng mà chị cũng chẳng biết,
đó sẽ là phản ứng như thế nào.
Myszka cũng đợi. Sự bất động đã xâm chiếm
toàn thân cô bé, khi lúc gần trưa cô bé mở to hai mắt và ra bộ cảm nhận như
bình thường. Bằng cách như vậy thân xác của bé muốn vĩnh biệt ngôi nhà mà lâu
nay bé sinh sống. Cô bé chỉ còn đụng chạm ngôi nhà bằng trí não. Bé nhìn và bé
nghe mẹ, bé hiểu những lời mẹ nói với bác sĩ. Nhưng bé cũng đang nghe ngóng khi
nào mình được gọi đi.
Đợi được gọi đi, cô bé cảm nhận, không có bố ở nhà. Bé luôn luôn biết,
khi nào có bố, khi nào không, ngay cả khi bố khóa trái cửa ở trong phòng một
mình và làm ra vẻ bố không hiện diện ở đó. Còn bây giờ, đích thực không có bố ở
trong phòng. Myszka sợ bố không còn kịp chạy đến với mình và dừng lại.
Rồi sau đó bé linh cảm rằng bố sắp đến rồi.
Không còn xa nữa. Bố đang chạy.
Adam đậu xe trên bãi cỏ, lao vào nhà. Ngôi
nhà chìm trong bóng đêm. Anh lạch cạch mở cửa, chạy qua tiền sảnh. Lần đầu tiên
Adam có cảm giác sao hôm nay tiền sảnh lại rộng và dài đến thế. Cả ngôi nhà như
to hơn, dài ra, như định ngăn cản anh đi đến đích.
Tại cửa phòng ngủ, anh va mạnh vào người
Ewa. Adam nghĩ một cách vô lý là Ewa chặn đường anh, thế nhưng người vợ nói.
- Myszka đang ốm...
- Không. Không phải. Không phải bây giờ,
không thể như vậy được. - Adam nói vội vàng. - Chúng ta gọi bác sĩ... những bác
sĩ giỏi nhất...
- Con đang hấp hối... - Ewa thốt lên nho nhỏ,
với sự thụ động lạ lùng. - Em đã biết như vậy rồi. Anh hãy im lặng, cho con ra
đi...
Adam mạnh tay gạt vợ sang một bên, đến nỗi
Ewa bị hất văng vào tường, đứng bất động tựa lưng vào đó, còn Adam lao thẳng
vào chiếc giường đại. Anh chợt nhớ cái ngày chính anh đã chọn mẫu giường này trong
catalog: Rộng khổ, đầu giường cao, chạm trổ công phu. Bây giờ chiếc giường rộng
đến nỗi “cái gì mình cũng chọn quá cỡ” anh nghĩ, thoạt tiên Adam có cảm giác là
giường trống không. Sau đó anh nhìn thấy một dáng nhỏ trong chăn, tóc xoăn,
đen, bết mồ hôi. Đôi mắt xếch không nhìn thấy gì của Myszka đang nhìn Adam.
Anh ngồi lên mép giường, sợ chạm tay vào
Myszka. Ewa lặng lẽ đứng đàng sau.
- Anh phải làm gì bây giờ hả em? - Adam hỏi,
bất lực.
- Chẳng làm gì cả. - Ewa đáp.
“Bây
giờ thì chẳng thể làm gì được nữa rồi”, chị nghĩ.
- Bác sĩ nói thế nào? Ông ta phải nói gì chứ?
- Bác sĩ bảo rằng những đứa trẻ như nó ra
đi trước khi! - Ewa trả lời.
- Trước khi thế nào? - Adam hét lên.
“Trước
khi anh kịp yêu con”, Ewa nghĩ thầm, không nói năng gì chỉ chăm chú nhìn
Adam.
- Con gái sẽ khỏi bệnh, và phải khỏi bệnh,
khi đó chúng mình sẽ sửa chữa tất cả. Một lần nữa chúng ta làm lại từ đầu.
“Để
có đầu thì trước đó phải có cuối”, Ewa nghĩ, hai mắt vẫn nhìn Adam. Chị đồng
cảm với chồng.
- Việc sửa chữa chỉ có độc một hướng. - Ewa
nói nhỏ.
- Em biết không... Anh đã có một người anh
tật nguyền, bị bệnh Down... - Adam nói nhỏ, đứt quãng.
“Chính
anh bị tật nguyền, chứ không phải anh của anh. Anh, chứ không phải Myszka”,
Ewa nghĩ.
- Khi con gái chào đời, anh đã bị thất vọng,
nhưng... - Adam bắt đầu và lại bị đứt quãng.
“Nhưng
rốt cuộc chính con gái đã thất vọng vì anh”, Ewa tiếp tục nói thầm.
Myszka hấp hối suốt một ngày dài. Thoạt
tiên bé không nhìn được nữa. Lần đầu tiên bé cảm nhận được gần bố. Bây giờ bố
không còn vội vàng đi đâu nữa cả, bố không còn trốn chạy, mà đang ngồi trên giường
của con gái, có điều con gái không thể nhìn thấy bố được nữa rồi.
Sau đó Myszka không thể nghe được nữa.
Không thể nghe được giọng mẹ, giọng bố ngay cả những tiếng sột soạt trong phòng
cũng không. Cái im lặng nơi bé đang nằm sao mà ghê rợn. Tuy nhiên khi nỗi sợ
lên đến đỉnh điểm, bé nghe thấy giọng nói. Vẫn là giọng nói hàm chứa nỗi cô đơn
vô bờ bến. Giọng nói trước đó đã hỏi, không đợi trả lời, còn tiếng vang của sự
nghi ngờ của Ngài vọng lại bất lực từ thân cây trong vườn. Giọng nói hàm chứa sự
nghiêm khắc của một người đàn ông chín chắn, sự dịu dàng du dương của một người
đàn bà, tiếng phì phì đa nghĩa của Rắn, tiếng thở sâu, ấm áp của gió trời.
- Lại đây với ta, Myszka.
- Con đi đây! - Myszka ngoan ngoãn đáp,
không mở miệng. - Thế nhưng nơi Ngài định mang con tới sẽ không có bố và mẹ
con.
- Tình yêu chẳng cần mang tên. - Giọng nói
ngân vang và nồng ấm đáp.
- Thế nơi con đến với Ngài có gì nào? - Myszka
hỏi.
- Phòng áp mái, sau đó là vườn. - Giọng nói
trả lời nghiêm túc và hết mực chuẩn xác.
- Có thật không? - Myszka hỏi lại cho chắc
chắn, vì bé không sợ phòng áp mái, còn Vườn thì đẹp, dù hơi nhỏ bé.
- Đúng, ở đó sẽ có Phòng Áp Mái với màn đêm
tăm tối của nó và tất thảy mọi nỗi sợ hãi của thế giới này! - Giọng nói trả lời
nghiêm khắc.
Myszka hoảng hốt, nét lo ngại hiện rõ trên
gương mặt của bé.
- Hình như con gái đang sợ cái gì đấy! - Adam
đau khổ nói.
“Sự
ra đi luôn luôn kèm theo nỗi sợ”, Ewa thì thầm.
- Ở đó sẽ có phòng áp mái với tất thảy mọi
bí ẩn, ước mơ và sự tuyệt diệu của thế giới này. Ở đó sẽ có mọi câu trả lời và
những câu hỏi hoàn toàn mới. - Giọng du dương, nồng ấm nói.
- Con mà nêu ra tất thảy mọi câu hỏi, thì
liệu con có nhận được mọi câu trả lời. - Myszka lo ngại hỏi.
- Ha! ha! ha! Con cứ thử xem... không làm vậy
được đâu. Các câu hỏi và những câu trả lời không có đầu và cuối, chúng chỉ có
khúc giữa. - Giọng nói cười một tràng dài.
- Con mà đi vào mọi ngóc ngách của Phòng Áp
Mái và toàn bộ ngôi vườn thì sao? - Myszka hỏi.
- Các phòng áp mái không có cuối giống như
những điều bí ẩn và những điều mơ ước là vô cùng tận, nỗi sợ hãi là vô cùng tận.
- Giọng nói kéo dài đáp.
- Con không muốn sợ nữa đâu! - Myszka thỏ
thẻ.
- Đừng sợ Myszka, sẽ có lần con tìm thấy một
Phòng Áp Mái, nơi không có gì khác ngoài tình yêu. - Giọng nói du dương an ủi
cô bé.
- Thế còn vườn...? - Bé nói tỏ ý lo ngại. -
Vườn nhỏ như thế và chỉ có khúc đầu.
- Bây giờ ta cho con xem toàn bộ khu vườn,
chứ không phải chỉ có một mảnh tạo ra dành riêng cho con. Ta sẽ cho con thấy rất
nhiều khúc đầu và toàn bộ khúc giữa. - Giọng nói lại đáp dịu dàng.
- Thế còn khúc cuối? - Myszka hỏi.
- Vườn của ta không có khúc cuối. - Giọng
nghiêm nghị không chút phân vân.
- Thế thì hay lắm! - Myszka vui mừng.
- Em ơi, con gái cười kìa! - Adam khẽ thốt
lên.
- Phải chăng chỉ có chúng ta cảm thấy sự ra
đi là khủng khiếp? Phải chăng những gì còn ở lại làm anh tột cùng đau khổ? - Ewa
nói.
Adam áp bàn tay to lớn của mình vào bàn tay
mảnh mai của vợ. Ewa nắm chặt tay chồng. Hai vợ chồng ngồi bên mép chiếc giường
cưới của mình, cả hai cùng sợ chạm vào người con gái, cứ như cái đụng chạm này
giục con đi nhanh, thay vì giữ con nán lại cõi trần.
“Mình
đụng vào con và hóa ra là chưa bao giờ có nó”, Ewa thầm nghĩ.
“Mình
đụng vào con, nó sẽ chạy thật xa, nó sợ mình ở bên nó, điều nó chưa được hưởng
bao giờ”, Adam nghĩ, không dám cầm lấy bàn tay con gái.
- Ta cho con xem cái này!
Giọng nói bất thình lình cất lên, không có
cái dịu dàng của đàn bà và sự nghiêm khắc của đàn ông. Bây giờ giọng là giọng của
mọi tiếng nói, giọng của tất thảy mọi thứ.
- Xin Ngài cho con xem, Ngài tạo ra thế giới
như thế nào? - Myszka hỏi với niềm hy vọng.
- Không thể cho xem việc này được đâu! - Ngài
đáp.
- Thế thì cái Ngài đã cho con xem và cái
Ngài vẫn tiếp tục cho con xem là gì nếu không phải là tạo dựng? - Myszka ngạc
nhiên.
- Cái đó...! - Giọng nói do dự. - Cái đó
khác. Là cái chỉ dành cho con, cái ta ban cho các con bé nhỏ của ta, để chúng
không cảm thấy cô đơn. Còn bây giờ con hãy bước vào vườn đi, Myszka...
Như mọi khi, Myszka sung sướng bước vào vườn,
nhưng bé có cảm giác bé sẽ ở lại đây mãi mãi.
- Con nhìn kìa...! - Giọng nói quen thuộc đối
với cô bé ngân vang.
Myszka quan sát chung quanh. Đây không phải
là ngôi vườn, nơi mẹ có thể thay đổi hình ảnh bằng điều khiển từ xa của tivi.
Không còn có thể làm cho màu sắc của vườn sáng thêm hoặc tối bớt, không thể sắp
đặt ngôi vườn, như những câu đố, từ những mảnh hình mà bé được xem ở dưới nhà,
và tình cờ nhớ lại. Đã không thể tác động vào các gam ánh sáng của vườn và sắc
màu của cỏ cây. Đây đã là ngôi vườn của Đức Chúa Trời mà không một từ ngữ nào
khả dĩ miêu tả nổi.
Trong ngôi vườn này không có những cây táo,
cũng như bất kỳ loại cây nào khác. Ngài chính là cây. Không có quả màu nhiệm tạo
nên những biến hóa diệu kỳ. Bản thân Ngài là sự biến hóa diệu kỳ. Không có con
suối nhỏ khi Ngài chính là nước. Không có Adam và Ewa khi Ngài đồng thời là tất
cả mọi người và là sự phủ định họ. Ngài tạo ra con người giống mình, khi Ngài
không giống bất kỳ thứ gì. Trong vườn không có ánh sáng, cũng không có bóng,
khi chính Ngài là ánh sáng và là bóng.
- Lại đây Myszka, ta cho xem cái này! - Ngài
nói.
Myszka tự tin bước theo sau Ngài vào sâu
trong vườn. Đàng xa xuất hiện cái gì đó mờ mờ ảo ảo, lúc hiện, lúc ẩn trước mắt
cô bé. Không, không phải cái gì đó... mà là người nào đó.
Vô vàn những sinh linh. Đang nhảy múa.
- Quà của Chúa! - Rắn nói, giọng ngân vang.
- Đúng, đó là “Quà” của ta. - Giọng đàn bà
du dương đầy thương yêu khẳng định.
- Tại sao Ngài lại gọi chúng là “Quà”? - Myszka
lấy làm lạ. - Đó là những đứa trẻ bình thường đấy chứ...
- Không bình thường đâu. - Rắn phì phì.
- Chúng là “Quà”, khi người được ban có thể
nhận hoặc từ chối. - Giọng nói nghiêm trang đáp.
Myszka bước lại chỗ đám trẻ em đang nhảy
múa và ngắm nhìn. Trong đám đông thấy một cô gái thay vì hai chân chỉ có hai
đùi cụt lủn, thế mà cô bé vẫn nhảy đẹp chẳng kém gì các vũ nữ chân dài. Một cậu
bé đầu to đùng, một cái bướu nhô lên ở giữa lưng, di chuyển bằng đôi chân mảnh
mai của chú lùn. Một cô bé, thay vì cái mũi, có một lỗ sâu ở giữa mặt, đầu
phình to lên trên như quả bóng bay, môi vẩu, đang cười. Trẻ em khuyết tay, khuyết
chân, trẻ em không cơ quan sinh dục, hoặc bìu to, trẻ em câm, điếc, không tự đi
lại được. Trẻ em bị quẳng ra khỏi hang đá thời cổ đại, chỉ thấy loáng thoáng
thân thể dị dạng của chúng sau khi ra đời. Trẻ sơ sinh thời trung cổ, gọi là
con của ác quỷ và bị thiêu sống. Trẻ em bị các bà mẹ dìm chết như dìm mèo con
khi mẹ chúng nghĩ chúng là quỷ sứ, bóng ma phù thủy và trẻ em tật nguyền, lang
thang như những con quái vật tại các chợ của các thành phố và thị trấn trên
toàn thế giới. Những đứa trẻ mặc dù dị dạng song gặp vận may khi được đóng các
vai kề bên những người to cao hơn mình rất nhiều. Những toán trẻ em mà trên cơ
thể của chúng người ta đã tiến hành các thí nghiệm, nghiên cứu sự biến dạng
hình thành như thế nào và cần tránh điều gì khi tạo ra con người hoàn hảo. Trẻ
em bị nhốt trong chuồng ngựa, tầng hầm, buồng kín để che mắt thiên hạ, chúng sống
trong bóng tối triền miên và bị cô lập với thế giới bên ngoài. Trẻ em suốt đời
sống trong các khu trại kín cổng cao tường, không được gặp bố mẹ. Hàng chục,
hàng trăm, hàng ngàn con nhộng mãi mãi giam hãm trong mình những chú bướm với
những đôi cánh kép, muôn màu.
Tại đây, trong vườn, tất cả các đứa trẻ này
đều nhảy, những cảm xúc của chúng lọt qua lớp áo giáp vô hình của cơ thể bay
vòng vèo lên cao, nhẹ hơn hơi thở.
Myszka cảm nhận hoàn toàn những xúc cảm đó,
bé nghe được và hiểu được.
- Cậu là ai? - Myszka hỏi một sinh linh
đang nhảy múa gần đó.
- Nói chung chẳng có tớ đâu, chưa bao giờ tớ
ra chào đời cả đâu. Mẹ tớ nhìn thấy khi tớ bé xíu bằng bàn tay mẹ và mẹ đã chặn
đường không cho tớ làm người, - một chú bé có các ngón tay và ngón chân dính liền
nhau, dị dạng, trả lời. - Mình ghen với các cậu đó, vì các cậu đã được thấy trần
gian. Tớ rất thèm được ở đó cho dù trong chốc lát và đau khổ...
- Đau khổ, đúng, ở đó đau khổ! - Một cô bé
khẳng định, vỗ những mẩu tứ chi như chim vỗ cánh. - Thế nhưng ở đó có rất nhiều
cái để xem và vô vàn tình yêu. Tớ đã được yêu thương ở đó! - Bất thình lình cô
bé hát vang khắp vườn... - tớ được yêu thương! Được yêu thương!
- Tớ thì bố mẹ không thích! - Chú bé chân
lùn, đầu to, nói. - Bố mẹ tớ mang tớ lại một trại đặc biệt và tớ đã ở đó suốt đời.
Thế nhưng sự đã được ngắm nhìn thế giới qua cửa sổ, ngắm những con người khác tớ,
ngắm bầu trời, không xanh như bầu trời ở đây, nhưng ngày nào cũng đổi khác. Và
bây giờ tớ nhớ những cảnh vật đó, cho nên tớ đã biết thế nào là nỗi nhớ. Vì nhớ
mà tớ rất muốn xuống thăm trần giới.
- Người ta đã nhốt bọn mình trong cũi sắt,
chở đi hết thành phố này đến thành phố khác và thu tiền của người xem. Thiên hạ
cười và hoảng sợ, bù lại bọn tớ được thăm thú rất nhiều nơi và thấy rất nhiều
hiện tượng rất ngạc nhiên. Trái đất đẹp. - Cặp chị em song sinh dính liền nhau,
dị dạng, đầu to quá cỡ, nghiêng về hai phía, đồng thanh nói.
- Tớ muốn được sống, cho dù đó là cuộc sống
kinh khủng, vậy mà người ta vẫn không cho. Tớ sinh ra trong thời kỳ khi người
ta chỉ cho những đứa trẻ lành lặn được sống mà thôi. Tớ ghen với cậu đấy Myszka
ạ. Cậu được ở dưới trần tám năm ròng! - Một chú bé không có cổ, đầu nhỏ xíu, mọc
thẳng từ cái gáy to đùng nói.
- Bọn tớ ghen với cậu đó, Myszka... Cậu được
chiêm ngưỡng bao nhiêu là thứ... Cậu từng trải nhiều... Cậu được yêu thương... -
những đứa trẻ là “Quà” của Chúa sống rất ngắn ngủi dưới trần hoặc không hề được
nhìn thấy mặt đất, cùng hát.
- Mỗi giây dưới trần giới đáng nhớ hàng triệu
năm!
Những đứa trẻ khác ngân nga, nhớ lại thời mặc
dù đau khổ nhưng là bằng chứng chúng đã từng được sống.
Những món “Quà” của Chúa nhảy múa, mừng cuộc
đời ngắn ngủi chúng đã có dưới trần, những cảm xúc, tuy ngắn nhưng thật, những
cảm xúc chúng đã nếm trải, tình yêu, căm giận, chấp nhận hoặc chối bỏ, cô lập
hoặc cô đơn, bị vây bọc bởi những cái nhìn, sự hiếu kỳ một cách lạnh lùng hoặc
sự xót thương thái quá, đôi khi dẫu rất hiếm, chúng thờ ơ chấp nhận sự khác biệt
của mình. Con bướm náu mình trong con nhộng của cơ thể chúng bất lực khi muốn vỗ
đôi cánh vô hình đối với con người, đôi khi có ai đó vuốt ve đôi cánh cụp vĩnh
viễn của con bướm này, và đó là khoảnh khắc những món “Quà” của Chúa nhớ lâu nhất.
Một số trẻ em khác nhảy múa để biểu lộ sự tiếc nuối món quà sự sống mà chúng
không bao giờ được tận hưởng, tiếc nuối cõi trần mà chúng không được biết, tiếc
nuối những cảm xúc tuy chẳng tốt lành, nhưng là những cảm xúc thực, những cảm
xúc chỉ có thể có nơi trần giới.
Bỗng nhiên trong đám trẻ đang nhảy múa,
Myszka bắt gặp một cậu bé có đôi mắt giống hệt mắt mình, miệng tròn xoe, dị dạng
và có nụ cười gần gũi đến lạ lùng.
- Hình như mình quen cậu chăng? - Myszka hỏi,
cầm lấy tay cậu bé.
- Đúng thế đó! - Cậu bé trả lời. - Cháu từng
luôn luôn cảm nhận bác trong người của bố cháu!
Cậu bé lại cười, không bạo dạn, song tự
tin.
- Đúng rồi! - Myszka nói to. - Đúng rồi! Và
cháu biết, bác là ai rồi! Bác là một phần nhỏ nhoi của bố cháu đi tìm cháu!
- Đúng thế! Myszka. Hồi còn ở dưới trần bác
đã rất sung sướng khi ai cũng yêu quý bác.
- Cả bố cháu cũng vậy hay sao? - Myszka hỏi
với niềm hy vọng.
- Bố cháu vô cùng yêu bác.
- Và bố cháu không bỏ chạy hay sao? - Myszka
lại hỏi, nín thở.
- Lúc nào bố cháu cũng cầm tay bác. Bố cháu
yêu bác như bây giờ đang yêu cháu vậy.
- Yêu cháu? - Myszka thốt lên.
- Lúc nào bố cháu cũng yêu cháu, nhưng mãi
tận bây giờ bố cháu mới hay điều này! Lắm khi con người ta biết được một điều
gì đó khi đã quá muộn mằn. - Cậu bé nói.
Thế nhưng những đứa trẻ là “Quà” của Chúa
chạy ùa lại chỗ hai người và cậu bé biến mất tăm ngay trước mắt Myszka.
“Mình sẽ tìm được bác mình, mình tin là như
vậy”, Myszka nghĩ, mừng trong bụng. “Trên thiên đàng có thể tìm thấy mọi thứ bị
mất ở dưới trần”.
- Myszka à, đời đẹp lắm! Nhưng cậu đừng có
tiếc là đã hết đời. Mọi cái đều phải kết thúc, không chỉ mừng vui mà cả khổ đau
nữa. Ở trên này cậu sẽ sung sướng vì không có khổ đau.
Cô bé đầu to, mặt có lỗ thủng thay vì cái
mũi, động viên Myszka.
Lũ trẻ là “Quà” của Chúa nhảy múa.
Myszka muốn nhập bọn với chúng, thì bé lại
nghe giọng nói nghiêm minh:
- Ta cho phép con được xuống dưới trần lần
cuối. Xuống một lát thôi...
- Một lát! - Myszka nhún nhường nhắc lại và
mở to hai mắt.
Myszka nằm trên giường, chiếc chăn nặng trịch
khiến bé không cử động được, người đẫm mô hôi, qua màn sương do mồ hôi chảy vào
mắt Myszka có cảm giác bé đang nhìn thấy bên trên mình không chỉ có mẹ mà cả bố.
- Bố hả? Ô... - Myszka thì thầm, chẳng ai
nghe nổi, khi lời thì thầm giống tiếng thở dài hơn là lời nói.
- Bé đang cười hay sao? Cười với ta chăng? -
Bố hỏi (hoặc Ngài, lúc này Myszka không phân biệt được bố hay Ngài nữa rồi).
- Đưa tay đây nào, Myszka. - Bố hoặc Ngài
nói.
- Đưa tay đây nào. Chúng mình đi về thôi.
Con phải dọn chỗ cho em gái con...
- Cho Em gái? - Myszka mừng, nhưng ngay sau
đó bé buồn thiu. - Phải chăng không bao giờ con được gặp em gái của con?
- Không bao giờ. Em con rồi sẽ ra chào đời
và sẽ không giống như con đâu mà bình thường. Thế nhưng con đừng lo, trong vườn
con có rất nhiều anh chị em. Đi thôi, Myszka, đưa tay đây nào! - Giọng du
dương, dịu dàng ngân vang.
Myszka tự tin chìa tay ra, bé cảm nhận cái
nắm tay mạnh mẽ ấm áp.
“Bố mà cùng đi dạo chơi với mình nắm tay bố
chắc là cũng y như thế này đây”, Myszka nghĩ.
Lần đầu tiên Adam ôm chặt bàn tay bé nhỏ của
con gái.
“Bàn tay Adas”, bỗng nhiên Adam nhớ lại. “Vẫn
bàn tay dị dạng, các ngón tay ngắn ngủn, bàn tay mềm yếu, đẫm mồ hôi của Adas”,
trong khoảnh khắc anh cảm nhận những ngón tay ngắn ngủn đang nắm chặt bàn tay
to lớn của anh.
“Liệu đây có phải là Adas, hay Myszka, hai
trong một, người này trong người kia?”, Adam nghĩ thầm.
- Myszka ... - Adam thì thầm.
- Myszka. Chúng ta đi thôi! - Giọng nói
vang lên một cách kiên quyết.
- Chúng mình đi thôi! - Cô bé thì thầm,
không lời suy nghĩ, bàn tay ai mà to lớn, mà thương yêu mà an toàn làm vậy.
- Ngài đang ở đâu vậy? - Myszka hỏi.
- Ta ở mọi nơi! - Giọng nói đáp.
- Con không nhìn thấy Ngài. - Myszka lo ngại.
- Con nhìn thấy đấy chứ... Con nhìn kìa...
Con nhìn thấy ta trong ánh sáng, bóng của vườn này và của mọi ngôi vườn khác.
Con nghe thấy ta trong tiếng ca của gió, con cảm nhận ta trong sương ẩm, trong
nước mềm... Ta hiện diện dưới hạ giới, ta hiện diện trên thượng giới, ta đang ở
đầu, ở cuối và ở giữa...
- Con đang nhìn thấy, con đang nghe thấy,
con đang cảm thấy! - Myszka vui mừng, nhưng ngay lập tức cô bé hỏi ngay, khi
nghĩ về bố mẹ mà bé để lại dưới trần gian. - Chẳng biết bố mẹ con có buồn khi vắng
con?
- Bố mẹ con đã sinh em bé khác rồi! - Giọng
nói dịu dàng thông báo.
- Và em con sẽ thanh thoát chứ? Sẽ nhanh nhẹn
chứ? Nó sẽ nhảy múa mỗi khi nghe tiếng nhạc chứ?
- Đúng.
- Thế bố của con thì sao? Con muốn bố con
yêu con, cho dù không còn có con...
- Bố con yêu con.
- Như? - Myszka hỏi.
- Như yêu chính mình.
- Đó có phải là một tình yêu vĩ đại?
- Là tình yêu vĩ đại nhất mà con người có
thể có được! - Giọng nói trả lời chắc như đinh đóng cột.
Myszka thở phào, suy nghĩ, xem còn cần phải
hỏi Ngài gì nữa. Sau chót bé thỏ thẻ:
- Vậy còn Ngài, Ngài có yêu con không?
- Myszka này, ta rất yêu mi. - Rắn phì phì.
- Thế còn Đức Chúa Trời?
- Myszka này, sao mi đỏng đảnh thế! - Rắn
nói nhưng Đức Chúa Trời đã trả lời bằng giọng của bố cô bé:
- Ta yêu con. Ta rất yêu con.
Và thế là Myszka ngã vào lòng Đức Chúa Trời.
Bé đắm chìm trong đó, quay tròn trên các đầu ngón chân, trong vũ điệu không bao
giờ kết thúc. Myszka quay mạnh đến nỗi cô bé bắt đầu biến thành một vệt màu, nhòe,
lấp lánh, mỗi lúc một mờ đi. Nhảy múa trong đôi cánh tay khổng lồ, vô tận của
Ngài, Myszka càng lúc càng nhẹ tênh, đến nỗi rốt cuộc Myszka nhẹ như thể chưa
bao giờ có bé cả.
------------
Còn
tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét