Thứ Sáu, 6 tháng 10, 2023

Tên Anh Chưa Có Trong Danh Sách - Chương 5

Tên Anh Chưa Có Trong Danh Sách
(В списках не значился)

Tác giả: Boris Vasilyev
Dịch giả: Đức Thuần - Xuân Du
Nhà xuất bản Cầu vồng (Moskva) - 1985

Chương 5

Mỗi người có một kiểu chết riêng, ngày hôm sau, người đầu tiên biết được điều này là anh chiến sĩ trọc đầu, vui tính, bị thương nhẹ vào tay. Do bị mất nhiều máu, anh rất buồn ngủ, và để khỏi bị quấy rầy, anh tìm một chỗ khuất nẻo trong lối xuống tầng hầm. Những loạt pháo nổ dồn dập vào lúc rạng sáng. Mặt đất lại chao đảo, tường hầm lại rung lên, vôi vữa, gạch ngói lại văng tung tóe. Trung sĩ kéo khẩu súng máy ra đặt dưới mái vòm, mọi người đều nấp sau các bức tường.
Trận pháo kích chưa kết thúc thì máy bay ném bom đã lại xuất hiện trên khu pháo đài. Tiếng bom rú rít cuốn bụi lên mù mịt, đặc sệt, những tiếng nổ làm khu nhà thờ chao đảo. Plugiơnhikốp nằm nép dưới hốc cửa sổ, hai tay ôm ghì lấy tai. Bụi đất nóng bỏng bay xộc vào mồm. Anh không phân biệt và nghe rõ được gì cả mà chỉ cảm thấy có tiếng quát tháo chung quanh. Những tiếng quát thất thanh như không phải tiếng người, bị ngắt giữa quãng giữa tiếng rú rít, ầm ầm. Anh đảo mắt nhìn và nghe thấy anh chiến sĩ đầu trọc kêu to:
- Bọn Đức!...
Tiếng quát bị ngắt quãng, bị nhấn chìm giữa những loạt súng máy ngắn đang rộ vang dưới mái vòm sập. Trông thấy anh chiến sĩ đang chạy bị ngã sấp xuống đống gạch, và những đống lửa tóe lên trong khói bụi. Plugiơnhikốp cũng hét lên:
- Bọn Đức!...
Những tên xạ thủ tiểu liên Đức, từ trong khói bụi mù mịt vẫn lì lợm bắn vào các chiến sĩ đã ngã xuống. Đứa thì kêu thét, đứa thì lao thẳng đến cửa hầm và đứa thì xả súng bắn vào khu nhà thờ sâu thẳm sau khi đã nhìn rõ những viên đạn tiểu liên xoáy vào tường, lăn lóc trên nền nhà hoặc rú rít trên đầu các chiến sĩ. Và Plugiơnhikốp, hai tay ôm tai, vẫn nép sát trong góc tường, toàn thân tì lên khẩu tiểu liên.
- Chạy đi thôi!...
Một người nào đó - hình như là Xannhikốp - thúc vào vai anh.
- Chạy đi, đồng chí trung úy!
Theo bóng Xannhikốp, Plugiơnhikốp nhảy phốc qua cửa sổ, anh quỵ ngã, rồi bò lồm cồm qua một hố bom, mồm dính đầy đất cát. Máy bay sà thấp trên khu pháo đài bắn liên hồi vào những con người đang sống. Từ trong nhà thờ rộ lên tiếng súng máy, tiếng kêu thét, tiếng lựu đạn nổ.
- Xuống hầm! - Xannhikốp quát lên. - Xuống hầm!...
Plugiơnhikốp băn khoăn rằng không nên chạy ra khỏi nhà thờ dưới làn hỏa lực địch, nhưng nỗi lo sợ bọn xạ thủ tiểu liên Đức có thể tiêu diệt hết các chiến sĩ của anh, đến nỗi làm anh phải bật dậy, chạy theo anh chàng Xannhikốp linh lợi kia. Anh vấp ngã, người trườn trên cát, mồm sặc sụa vì bụi đất, vì mùi hôi thối, và mùi khói chưa tan hết dưới các hố bom, rồi lại bật dậy chạy tiếp.
Anh không nhớ rõ mình đã lao tới cái hốc tối đen và đã lách sâu vào phía trong như thế nào. Khi tỉnh lại, anh đã thấy mình đang ngồi trên nền nhà: hai chiến sĩ quần áo rách bươm, đang lay lay vai anh :
- Chỉ huy đến rồi, đồng chí có nghe thấy không? Đồng chí trung úy.
Trước mắt anh là một thượng úy, mái tóc nâu sẫm, tấm huân chương nổi rõ trên ngực chiếc áo quân phục nhuộm đầy bụi đất. Plugiơnhikốp mệt mỏi đứng dậy báo cáo rõ anh là ai và đến đây để làm gì.
- Thế tức là bọn Đức đã chiếm câu lạc bộ?
- Chúng từ phía sau đánh vào, đồng chí thượng úy ạ. Chúng nấp dưới các đường hầm, biết làm sao được. Chúng ném bom rất đúng lúc...
- Tại sao lại không xem xét các ngách hầm từ hôm qua? Liên lạc viên của anh. - thượng úy hất đầu chỉ Xannhikốp đang đứng im lặng ở cạnh tường. - báo cáo rằng các anh cố thủ ở nhà thờ.
Plugiơnhikốp im lặng, giai đoạn lo sợ theo bản năng đã qua, giờ đây anh biết mình đã vi phạm chức trách, và trong lúc kinh hoàng, anh đã bỏ rơi chiến sĩ, hèn nhát bỏ chạy khỏi vị trí anh được lệnh phải giữ trong bất kỳ tình huống nào và người anh như đang lên cơn sốt. Anh không còn nghe thấy thượng úy nói gì nữa.
- Tôi có lỗi.
- Đây không còn là lỗi lầm nữa mà là tội ác. - thượng úy bỗng gằn giọng một cách tàn nhẫn. - phải xử bắn anh, nhưng tôi còn ít đạn quá.
- Tôi sẽ chuộc tội. - Plugiơnhikốp muốn nói thật to nhưng hơi thở bị nghẹn lại, anh chỉ thì thầm. - tôi xin chuộc tội.
Tất cả bỗng ngừng bặt: tiếng ầm ầm, tiếng đạn rú rít, tiếng tằng tằng của súng máy. Chỉ còn vọng lại tiếng súng trường lẻ loi ở đâu đó và tiếng lửa nổ lép bép trên tầng nhà cao, song trận đánh thì đã ngừng hẳn, cảnh vật yên tĩnh đến đáng sợ và khó hiểu.
- Quân ta đến chăng? - một chiến sĩ ngập ngừng hỏi. - Hay là xem như đi đứt rồi?
- Đồ láu cá, bọn chó đểu. - thượng úy bỗng nói bật ra mồm. - Hãy tăng cường quan sát!
Một chiến sĩ chạy đi. Mọi người im lặng, và trong cảnh yên lặng ấy. Plugiơnhikốp nghe rõ tiếng trẻ con khóc, tiếng ru dịu dàng của các bà mẹ ở sâu trong hầm.
- Tôi sẽ chuộc tội, đồng chí thượng úy ạ. - anh nôn nóng nhắc lại. - ngay bây giờ, tôi sẽ...
Tiếng loa phóng thanh ồm ồm, khô khốc át mất tiếng anh. Một giọng lơ lớ, không phải giọng Nga, cố nói rành rọt từng chữ, vang lên đâu đó ở bên ngoài, trên các đống đổ nát mù mịt khói, nhưng lại có sức vang xa trong không khí đặc sệt, và mọi người trong hầm ngầm, trong doanh trại đều có thể nghe thấy.
- Bộ chỉ huy Đức đề nghị chấm dứt sự kháng cự vô nghĩa hiện nay. Pháo đài đã bị bao vây, Hồng quân đã bị đánh tan, các đơn vị quân Đức đang dũng cảm tấn công thành phố Minks, thủ đô Belarus. Sự kháng cự của các người đã mất hết ý nghĩa chiến lược. Chúng tôi sẽ cho các người một giờ để suy nghĩ. Nếu từ chối, các người sẽ bị tiêu diệt hết và pháo đài sẽ bị san bằng.
Những lời kêu gọi ấy được một cái giọng ồm ồm nhắc đi nhắc lại rành rọt từng lời, từng chữ một cách rõ ràng, mọi người trong căn hầm lặng ngắt đều hồi hộp lắng nghe và cùng thở phào một cách nhẹ nhõm khi cái giọng lơ lớ ấy chấm dứt và khi các loa phóng thanh chỉ còn khe khẽ vang lên nhịp quả lắc đồng hồ.
- Đi lấy nước. - thượng úy bảo một chiến sĩ rất trẻ, trông như một chú bé còn măng sữa từ nãy đến giờ vẫn im lặng đứng cạnh chằm chằm nhìn Plugiơnhikốp. - Phải coi chừng đấy, Piốt.
- Tôi sẽ hết sức thận trọng.
- Xin phép để tôi đi. - Plugiơnhikốp đề nghị, vẻ cầu khẩn. - Đồng chí thượng úy, hãy cho tôi đi. Tôi sẽ mang nước về. Bao nhiêu cũng được.
- Nhiệm vụ của đồng chí là chiếm lại câu lạc bộ. - thượng úy cất giọng khô khan. - Theo những gì thấy được thì chỉ sau một giờ nữa thôi, bọn Đức sẽ lại bắn phá, đồng chỉ phải trở lại câu lạc bộ vào lúc ấy, và bằng mọi giá, phải đẩy được chúng ra khỏi đấy. Bằng mọi giá, rõ chưa!
Nói xong câu cuối cùng, thượng úy quay đi không nghe những lời hứa ấp úng và không cần thiết. Plugiơnhikốp thở dài, vẻ hối lỗi và nhìn quanh: Xannhikốp và anh chiến sĩ bị thương nhẹ đang ngồi im lặng dưới mái vòm tầng hầm cạnh cửa thông gió, khó khăn lắm anh mới nhớ đựơc họ anh ta là: Prigiơnhiúc.
- Hãy tập hợp người của ta lại. - anh nói và ngồi xuống lòng cảm thấy mệt mỏi, đầu gối như khuỵu xuống.
Xannhikốp và Prigiơnhiúc tìm thêm được bốn người nữa. Mọi người cùng ngồi trong ngách hầm thì thầm trao đổi với nhau. Đâu đó phía sâu trong hầm vẫn văng vẳng tiếng trẻ con khóc, và đối với Plugiơnhikốp, tiếng khóc rên rỉ, đều đều ấy còn đáng sợ hơn bất cứ cuộc tra tấn nào.
Anh ngồi bệt trên sàn, không nhúc nhích, lòng buồn rầu, nghĩ đến điều đáng sợ nhất là anh đã phản bội các đồng chí của mình. Anh không tìm cách thanh minh. Không tiếc gì bản thân, anh khao khát muốn hiểu tại sao anh đã làm điều đó.
“Không, hiện giờ mình không hèn nhát - anh nghĩ thầm - Trong trận đánh hôm qua thì mình hèn nhát. Sau trận đánh mình hoang mang, mất tinh thần, từ bỏ quyền chỉ huy. Mình nghĩ rằng mình sẽ kể gì. Lúc đõ mình chỉ nghĩ là mình sẽ kể gì mà không nghĩ là sẽ chiến đấu như thế nào về điều gì đó...”.
Thêm hai chiến sĩ biên phòng nữa đi tới với khẩu trung liên trên tay.
- Chúng tôi được lệnh yểm hộ anh.
Plugiơnhikốp im lặng gật đầu. Hai anh lính biên phòng loay hoay kiểm tra các băng đạn tròn của khẩu trung liên, còn anh thì rầu rĩ nghĩ thầm: với sáu chiến sĩ, anh không thể đánh bật bọn Đức ra khỏi nhà thờ, còn xin thêm cứu viện thì anh lại không thích.
“Tốt nhất là mình được chết - anh thầm nói với mình - tốt nhất là mình được chết”.
Chẳng hiểu sao anh cố tránh hai tiếng “bị giết” mà chỉ chọn hai chữ “được chết”, tựa hồ như anh hy vọng được chết do cảm gió đột ngột.
- Lựu đạn chỉ còn độc hai quả. - Prigiơnhiúc nói bâng quơ, không hướng vào ai cả.
- Rồi họ sẽ mang tới. - một anh lính biên phòng nói. - họ sẽ không bỏ rơi chúng mình đâu, anh em mình cả mà.
Lát sau, lại có thêm khoảng mười lăm người nữa tới. Anh thượng sĩ tóc hung, đeo quân hiệu pháo binh, báo cáo là họ được cử đến để tăng viện. Plugiơnhikốp và thượng sĩ bố trí các chiến sĩ chạy dọc sau cửa sổ các phòng.
Mọi người đã sẵn sàng, còn tiếng quả lắc đồng hồ vẫn thong thả điểm từng giây. Im lặng lắng nghe tiếng đếm đều đều đó, Plugiơnhikốp cố quên nó đi để tập trung tâm trí vào cuộc tấn công, nhưng nó vẫn cứ quái ác dội vào tai anh.
Lát sau, thượng úy lại đến. Anh kiểm tra sự chuẩn bị, tự bố trí lại các chiến sĩ. Anh không để ý đến Plugiơnhikốp mặc dầu anh vẫn tìm cách đi quanh quẩn bên cạnh. Lát sau, bỗng nhiên thượng úy nói:
- Không thể tấn công ban ngày được. Anh đồng ý thế chứ, trung úy?
Plugiơnhikốp do dự không biết nên trả lời thế nào và chỉ gật đầu, vẻ phân vân
- Chính bọn Đức cũng nghĩ không thể như vậy được và chúng chờ đợi cuộc tấn công vào ban đêm. Chính vì vậy chúng ta sẽ tấn công vào ban ngày. Điều mấu chốt là không được nằm chờ, dù hỏa lực địch có mạnh đến đâu chăng nữa. Anh có nhận thấy bọn chúng đang bắn loạn xạ không?
- Có nhận thấy.
- Tôi tạo cho anh khả năng để chuộc lỗi đấy.
Plugiơnhikốp muốn khẳng định với người thượng úy mệt mỏi này rằng anh sẽ hy sinh, nhưng không biết nói thế nào, nên chỉ lặng lẽ gật đầu.
- Tôi biết anh định nói gì và tôi tin anh. - Khuôn mặt mệt mỏi, bơ phờ của thượng úy lần đầu tiên thoáng hiện một nét cười. - Chúng ta đến với các chiến sĩ đi.
Thượng úy đi qua tất cả các phòng đang sẵn sàng tấn công và nhắc đi nhắc lại những điều đã nói với Plugiơnhikốp: bọn xạ thủ tiểu liên Đức bắn rất hỗn loạn, bọn chúng không hề nghĩ và chờ cuộc tấn công ban ngày, cái chính là đừng nằm chờ mà phải chạy thẳng tới nhà thờ, chạy thẳng tới chân những bức tường.
- Còn năm phút nữa để suy nghĩ! - cái giọng khàn khàn của tên Đức lại vang lên.
- Như vậy là các anh còn bốn phút nữa. - thượng úy nhìn vào chiếc đồng hồ quả quýt và nói. - Tấn công theo lệnh tôi và chưa được bắn vội. Im lặng và bất ngờ, đó là vũ khí của chúng ta.
Anh liếc nhìn Plugiơnhikốp, và hiểu được cái nhìn đó Plugiơnhikốp bước đến chỗ cửa sổ nhà vòm. Khung cửa sổ đã cao lại dốc nên trèo qua được rất khó khăn. Nhưng các chiến sĩ Hồng quân chuyển gạch đến làm bậc thang. Plugiơnhikốp trườn qua bậc cửa, gạt chốt an toàn súng sang nấc sẵn sàng chiến đấu, có người nào đó đưa cho anh hai quả lựu đạn, anh đút xuôi cán vào thắt lưng.
- Tiến lên! - thượng úy hô lớn.
Plugiơnhikốp bật dậy, gạch vỡ dưới chân anh rơi lả tả, nhưng anh vẫn nhảy ra khỏi cửa sổ, và không hề ngoái lại, anh phóng thẳng tới chân tường nhà thờ, mà lúc này anh cảm thấy sao nó xa vậy.
Anh im lặng và hình như cảm thấy mình hoàn toàn đơn độc. Tim anh đập thình thình trong lồng ngực, đến nỗi anh không còn nghe thấy tiếng chân chạy lạo xạo phía sau và cũng không còn thì giờ ngoái lại.
“Đừng bắn. Không được đâu. Đừng bắn!...” - anh thầm hét với mình.
Plugiơnhikốp không biết tiếng quả lắc đồng hồ đập nhịp hay bọn Đức chuẩn bị bắn đuổi vào các hầm, nhưng khi anh chạy trên khu sân ngổn ngang hố đạn thì đúng là anh không nghe thấy ai bắn cả. Chỉ có luồng gió nồng nặc mùi khói, mùi thuốc súng và mùi tanh của máu phả vào mặt anh.
Từ dưới hố đạn trước mặt, thấp thoáng một bóng người, và mặc dù suýt ngã, anh cũng nhận ra anh chiến sĩ biên phòng: người cứu anh đêm qua khi đã giết chết tên xạ thủ tiểu liên Đức bị thương. Rõ ràng anh lính biên phòng đã thoát khỏi khu nhà thờ, nhưng do chạy không kịp đến hầm được nên phải nằm lại chỗ hố đạn và giờ đây đang chạy trước hàng quân. Plugiơnhikốp vừa kịp định thần để bộc lộ nỗi mừng trước sự sống sót của anh ta thì không gian im lặng bỗng vỡ tung ra bởi hàng tràng súng máy bắn ríu ríu trên đầu: quân Đức đã nổ súng.
Có tiếng ai kêu ở phía sau, Plugiơnhikốp chỉ chực ngã, có lẽ anh định nằm xuống, nhưng thấy anh lính biên phòng chạy phía trước vẫn phóng những bước dài mà không việc gì. Anh thầm nghĩ có lẽ những viên đạn kia không bắn vào anh, nên anh không nằm xuống, mà lại vươn cổ lên, hét lớn:
- U - ra - a!...
Và cứ vậy, anh vừa kéo dài tiếng “a - a...” đơn độc, vừa chạy một mạch tới chân tường nhà thờ, nép vào mảng tường giữa hai cửa sổ và quay lại nhìn phía sau.
Chỉ có ba chiến sĩ ngã, một nằm bất động, còn hai đang giẫy giụa trườn giữa đám bụi mờ mờ. Những người khác đã vượt qua được quãng không gian chết chóc, anh lính biên phòng cũng đã đến được mảng tường cạnh đấy và đang hét lớn:
- Lựu đạn! Tung lựu đạn vào!...
Plugiơnhikốp rút lựu đạn ra khỏi thắt lưng, vung tay ném qua cửa sổ vào thẳng chỗ có những đốm lửa của một khẩu tiểu liên đang sằng sặc nhả đạn. Một tiếng nổ bùng lên và anh lao ngay vào gian phòng câu lạc bộ đang rền vang tiếng lựu đạn. Mắt cá chân bị vấp vào khoang cửa sổ lởm chởm vết đạn, anh ngã lăn xuống nền nhà, nhưng vẫn kịp ngồi dậy và thấy anh lính biên phòng đã thở hổn hển bên cạnh. Xung quanh âm vang tiếng nổ, những ánh lửa lóe lên trong khói bụi và mảnh đạn văng tung tóe vào tường. Ngồi trên nền nhà, anh bắn những loạt đạn ngắn vào chỗ có chớp lửa.
- Chúng nó lên ban đồng ca rồi! Bắn thẳng vào đấy! Cao lên! Cao nữa lên! - anh lính biên phòng hét lớn.
Bọn Đức đã dồn lên chỗ ban đồng ca, từ đấy bọn xạ thủ tiểu liên xối xả bắn xuống, Plugiơnhikốp hếch cao nòng súng lên lia một loạt dài, một đốm lửa vụt tắt ngấm như bị nhận chìm và chiếc cơ bẩm súng bị bật tung ra sau:
- Đánh mạnh vào, trung úy! Đánh mạnh nữa vào!
Plugiơnhikốp cuống quýt lục tìm trong các túi quần áo chẳng thấy chiếc băng đạn đâu cả. Anh liền rút quả lựu đạn cuối cùng và lao thẳng tới chỗ có mấy miệng súng đang nhả đạn giữa bóng tối dày đặc. Đạn rơi xung quanh, gạch ngói vỡ văng vào ủng anh đau nhói. Plugiơnhikốp vung tay ném lựu đạn và nằm thụp xuống đúng như khi tập. Một tiếng nổ khô khốc vang lên:
- Hay lắm, trung úy ơi. - anh lính biên phòng vừa nói vừa đỡ Plugiơnhikốp dậy. - Anh em đã ào lên ban đồng ca rồi. Họ sẽ giết nốt bọn nó không cần đến chúng ta. Bọn Đức có chạy đằng trời.
Tiếng kêu thét, tiếng chửi rủa, tiếng sắt thép va nhau. tiếng đấm đá huỳnh huỵch từ phía trên dội xuống, bọn Đức bị dồn vào cuộc đánh giáp lá cà. Plugiơnhikốp nhìn quanh giữa bóng tối mờ mờ khói bụi, thấp thoáng bóng các chiến sĩ Hồng quân đang chạy, những xác chết nằm trên nền nhà và vũ khí vương vãi.
- Kiểm soát kỹ tầng hầm và bố trí người gác lối ra vào. - Plugiơnhikốp hạ lệnh, và ngạc nhiên thấy mình sao lại có thể ra lệnh một cách tự nhiên, dễ dàng như vậy, vì vừa mới hôm qua thôi, anh chưa thể nói với cái giọng vậy được.
Anh lính biên phòng đi ra. Plugiơnhikốp nhặt khẩu tiểu liên dưới nền nhà, lật xác một tên lính Đức, tháo chiếc túi đựng băng đạn của nó và bước ra cửa.
Anh dừng lại: ngay cạnh lối ra vào vẫn còn khẩu đại liên của họ và xác anh trung sĩ nằm sấp đang ôm ghì lấy tấm lá chắn. Sáu vệt máu bầm đen loang lổ trên tấm lưng gù vì co giật trước khi chết.
- Anh ấy không bỏ chạy. - Xannhikốp vừa đi tới, lên tiếng.
- Không đầu hàng chứ. - Plugiơnhikốp thở dài. - Khác mình và cậu.
- Anh biết không, nếu tôi bỗng nhiên thấy sợ thì rồi cũng sẽ như vậy thôi. Còn nếu không bỗng nhiên sợ thì sẽ chẳng sao cả. Sẽ đâu vào đấy thôi.
- Xannhikốp, cần phải chôn cất cậu ấy.
- Biết chôn ở đâu? Gạch vụn ở đây dày đến ba mét
- Chôn ở ngoài sân chỗ hố bom ấy.
Những âm thanh rền rĩ, nặng nề mỗi lúc một rõ hơn đang lan dần về phía họ, át hết mọi âm thanh khác. Không nói gì nữa, cả hai người cùng nhảy ào qua cửa sổ, chạy xuống dưới bức tường đu đưa và tiếp theo là những loạt tiếng nổ nặng nề rền vang bên ngoài.
- Pháo kích xong chúng sẽ tấn công đấy! - Plugiơnhikốp hét to, không nghe rõ ngay cả tiếng mình. - Tôi chặn lối vào. Còn cậu chặn cửa sổ! Cửa sổ, Xannhkốp, cửa sổ!
Một tiếng nổ chói tai vang lên ngay bên cạnh, tường nhà đổ, gạch ngói bay lả tả. Sức ép quật đổ khẩu đại liên, hất ngã xác anh trung sĩ. Mọi vật tối sầm lại giữa khói bụi mù mịt làm họ tắc thở. Sặc sụa và ngột ngạt, Plugiơnhikốp lao tới chỗ khẩu đại liên và lồm cồm kéo lê nó vào chân tường.
- Cửa sổ!
Bức tường bên cạnh lại rung lên, gạch ngói từ ngoài cửa bay ùa vào. Một tiếng nổ, rồi lại một tiếng nổ khác, tiếp theo là mấy tiếng nổ nữa, đến nỗi Plugiơnhikốp bị vùi giữa đống gạch ngói, không sao đếm được nữa, vì mọi vật xung quanh anh đã hóa thành một âm thanh ầm ào rung chuyển.
Không ai nhớ được cuộc pháo kích đã kéo dài mấy giờ. Khi dứt tiếng pháo và mọi người vừa từ các đống gạch vụn chui ra thì trên đầu lại réo lên những tiếng rú rít rất thấp và sau đó là những tiếng rú chói tai, không chịu nổi, vang dội ngay trên pháo đài. Máy bay ném bom đang lao xuống. Họ lại nép vào góc tường, lại bị vùi trong đất và mặt đất lại rền rĩ, gạch lại đổ xuống, và nhà thờ xây đã ba trăm năm chao đảo muốn sụp đổ. Nằm giữa đống khói bụi khét lẹt sặc sụa mùi hôi thối, mọi người không ai thở được và họ đã kiệt sức từ lâu. Mọi cảm giác chỉ còn là những điều mơ hồ và cơ thể họ cũng chỉ còn là một khối thịt tê dại, không biết đau đớn khi bị va vấp hay bị gạch ngói văng phải.
“Còn sống - Plugiơnhikốp nghĩ một cách mơ màng trong bầu không khí vắng lặng tiếng súng vì tai anh đã điếc đặc - Mình còn sống”.
Anh không muốn động đậy tay chân mặc dù vẫn cảm thấy đất đá, gạch ngói đang đè nặng xuống tấm lưng đau nhừ. Đầu anh nhức không chịu nổi, toàn thân anh ê ẩm, mỗi đốt xương hình như cũng biết kêu rên. Lưỡi anh đắng và như nở to ra, choán hết cả mồm.
- Bọn Đức!
Tiếng quát vẳng đến từ một nơi rất xa, tựa như từ trong khoảng không gian sâu lặng xung quanh. Nhưng anh vẫn hiểu được ý nghĩa của tiếng quát đó và cố đứng dậy, gạch ngói lăn rào rào, anh cố trườn ra và cố mở đôi mắt dính đầy đất cát.
Anh lính biên phòng vội vã đặt lại khẩu đại liên đã bị bong vỏ chắn và cong thước ngắm, một chiến sĩ khác, Plugiơnhikốp chưa biết mặt, đang nằm phục trên đống gạch đá ngổn ngang và đang loay hoay giở mấy băng đạn. Plugiơnhikốp đứng dậy, tuy chân còn lảo đảo nhưng vẫn lê được mấy bước, rồi ngã khuỵu xuống cạnh khẩu súng máy.
- Đi đi, để nó cho tôi.
- Bọn Đức đến kìa!
Một vệt máu loang trên khuôn mặt chảy xước của anh lính biên phòng, Plugiơnhikốp khẽ đẩy anh ta ra và nhắc lại:
- Để tôi. Cậu ra chỗ cửa sổ đi.
Anh nằm sau khẩu đại liên, mấy ngón tay yếu ớt ghì chặt báng súng. Anh lính biên phòng không còn ở đây nữa - cạnh anh là một chiến sĩ lạ mặt đang loay hoay lắp băng đạn vào ổ súng. Plugiơnhikốp mở nắp cơ bẩm đút băng đạn vào, và ngay lúc ây, anh nhìn thấy bọn Đức đang chạy thẳng tới anh qua làn khói bụi mù mịt.
- Bắn! - anh chiến sĩ giục. - bắn đi kìa!
- Được rồi! - Plugiơnhikốp lầu bầu, cố đưa những cái bóng đang chạy vào rãnh ngắm. - Mình bắn ngay đây. Chẳng còn mấy sức lực.
Anh sợ không đủ sức siết cò súng - mấy ngón tay anh run lên như sắp long ra nhưng cò súng vẫn nhích dần từng nấc và khẩu súng rung lên trong hai cánh tay anh, trước khu nhà thờ cuộn lên một mảng bụi khá lớn. Plugiơnhikốp nhích cao nòng súng và quật một băng dài vào thẳng những cái bóng mờ mờ đang chạy trước mặt.
Không còn thì giờ để trở tay, những cái bóng mờ mờ từ trong màn khói đã lao ra và Plugiơnhikốp cứ xiết cò súng chừng nào chúng chưa chịu biến đi. Giữa khoảng khắc ngừng bắn ngắn ngủi, anh bới tung đống gạch vỡ, nhặt từng viên đạn lên và bằng những ngón tay xây xước rớm máu, anh cuống cuồng nạp chúng vào băng rồi cứ thế bắn vào đám xạ thủ tiểu liên Đức đang ào ào xông lên như sóng.
Bọn Đức quần đảo suốt ngày không cho họ nghỉ. Những cuộc tấn công vừa ngừng thì tiếp đến những cuộc pháo kích rồi những trận ném bom, và cứ như vậy tiếp diễn suốt ngày. Plugiơnhikốp kéo khẩu đại liên giấu vào góc tường và khi ngớt bom, anh lại lôi ra chỗ cũ và lại bắn. Tai điếc đặc, mắt mờ lòa, anh không còn thấy gì xung quanh nữa. Anh chiến sĩ tiếp đạn đã hy sinh dưới vòm cửa sau một hồi kêu la khiếp đảm, nhưng Plugiơnhikốp không thể ngừng bắn được vì bọn Đức đang tấn công. Cái vỏ chắn hoặc bị bong mối hàn, hoặc bị mảnh vụn làm thủng, hơi nóng từ nòng súng tỏa ra hầm hập như từ một cái ấm xamôva. Tay bị bỏng, Plugiơnhikốp liền kéo khẩu súng từ chỗ đống gạch vào sát tường tồi quay nòng ra mải miết bắn, anh chỉ lo hết đạn. Anh không biết còn bao nhiêu chiến sĩ trong khu nhà thờ và chỉ ngừng bắn khi đã hết sạch đạn. Sực nhớ tới khẩu tiểu liên, anh vội vớ lấy, vừa bắn từng loạt ngắn vừa rút sâu vào trong nhà thờ tối om, chân luôn vấp phải gạch đá và xác chết.
Anh chưa kịp chạy sâu vào hầm thì ở ngoài đã rộ lên tiếng súng nổ hỗn loạn cùng tiếng “Ura!” khàn khàn vẳng lại. Plugiơnhikốp biết quân ta đã đến, anh quay chạy ra cửa, tay kéo lê khẩu tiểu liên, có ai va phải anh và nói gì đó, nhưng khó khăn lắm anh mới thốt ra khỏi cổ họng khô bỏng một tiếng: “Nước...” - rồi ngã lăn ra, không còn nghe thấy gì nữa.
Anh tỉnh lại được là nhờ có nước. Mở mắt ra anh thấy ngay chiếc bi đông ở trước mặt, anh hớp từng ngụm nước và mãi sau mới nhận ra Xannhikốp đang cho anh uống nước: trong bóng tối mờ mờ thấp thoáng tấm băng trắng quấn trên đầu anh ta.
- Còn sống à, Xannhikốp?
- Còn sống. - anh chiến sĩ gật đầu vẻ nghiêm trang. - chính tôi chuyển băng đạn cho anh khi cậu kia hy sinh. Thế mà anh cứ bắt tôi phải ra chỗ cửa sổ.
Plugiơnhikốp nhớ lại những bóng lính Đức mờ mờ trong màn khói bụi đặc sệt, cùng những tiếng đổ vỡ ầm ầm và tiếng kêu thét đáng sợ của anh chiến sĩ tiếp đạn số hai. Anh nhớ lại khẩu đại liên làm bỏng rẫy tay anh. Và không thể nhớ thêm được gì nữa, anh liền hỏi:
- Giải tỏa được nhà thờ rồi chứ?
- Cảm ơn, các cậu ấy đã kịp đến. Họ đánh thẳng vào sườn quân Đức.
- Thế còn nước? Nước lấy ở đâu thế?
- Chính anh đòi nước nên tôi phải đi lấy, khủng khiếp thật, sáng như ban ngày ấy. Ở đấy tôi có bị sây sước đôi chút nhưng cũng kiếm được bảy bi đông đầy.
- Không nên uống nhiều. - Plugiơnhikốp tự hạ lệnh cho mình và vặn nắp bi đông lại. - chúng ta còn bao nhiêu người?
- Prigiơnhiúc đang ở ngoài cửa hầm, tôi, anh và cậu lính biên phòng.
- Cậu ta không làm sao chứ? - bỗng cười khan. - nghĩa là còn nguyên vẹn chứ? Còn nguyên vẹn phải không?
- Bị mảnh gạch cứa rách lông mày, thế thì không phải là bị thương, chỉ sầy da thôi. Cậu ấy vẫn sục sạo tìm những người còn sống sót để lấy vũ khí. Này, ở ngoài sân còn nhiều lính Đức lắm.
Plugiơnhikốp lảo đảo đi ra cửa, nơi khẩu súng đại liên đã hỏng của anh nằm lăn lóc. Ngoài sân, tuy đã là ban tối, nhưng vẫn còn mờ mờ sáng - có ánh lửa từ các đám cháy và từ hàng trăm quả pháo sáng hắt tới. Pháo đài chìm đắm trong thứ ánh sáng chập chờn, chết chóc ấy. Thỉnh thoảng bọn Đức lại cho nổ mìn: tiếng mìn vang lên đanh gọn.
- Chôn trung sĩ ở rồi chứ?
- Cậu ấy bị đất đá vùi mất rồi, chỉ còn lòi một bàn chân ra thôi.
Từ dưới đống gạch đã lổn nhồn lòi ra một chiếc giày mòn gót. Plugiơnhikốp sực nhớ trung sĩ đi ủng, vậy nghĩa là người chiến sĩ ấy đang nằm dưới đống gạch đổ của cả một mái vòm, nhưng anh chỉ còn biết lặng thinh. Anh ngồi thụp xuống và sực nhớ suốt hai ngày nay mình chưa được ăn tí gì, anh nói với Xannhikốp. Xannhikốp đưa cho anh mấy miếng bánh mì khô của Đức và cả hai vừa nhẩn nha nhai vừa im lặng nhìn ra khu sân pháo đài nhấp nhoáng sáng.
- Dầu sao hôm nay chúng ta đã không đầu hàng. - Plugiơnhikốp nói. - Thế tức là chúng ta cũng có thể không đầu hàng, phải không Xannhikốp?
- Dĩ nhiên. - Xannhikốp quả quyết.
Anh lính biên phòng từ bên ngoài đi vào, kéo theo nhiều ổ đạn tiểu liên. Anh bỗng nói:
- Trung úy, hãy nhớ lấy địa chỉ của tôi: Gômen, phố Các Mác, nhà số một trăm mười hai, phòng chín. Vôlôđia Đênhisích
- Còn tôi: người Xmôlenxkơ. - Xannhikốp cũng nói theo. - gần khu Đukhốpsina.
- Chúng ta phải đi khỏi đây thôi. - anh lính biên phòng giục sau khi ba người đã trao đổi xong địa chỉ cho nhau. - Chỉ có bốn người thì chẳng làm được gì đâu.
- Tôi không đi đâu cả. - Plugiơnhikốp nói
- Anh ngốc lắm, trung úy ạ.
- Tôi không đi. - Plugiơnhikốp nhắc lại và thở dài. - Chưa nhận được lệnh rút thì tôi không đi đâu cả.
Anh muốn nói đến trách nhiệm, quyền hạn sáng nay anh không làm tròn, nói đến anh trung sĩ dù chết vẫn không chịu để mất súng, nói đến Tổ quốc - nơi mà, lẽ dĩ nhiên! - đang tìm mọi cách cứu họ. Anh muốn nói, nhưng không nói được gì vì lời lẽ lúc này đều quá nhỏ bé và vô nghĩa trong đêm thứ hai của cuộc chiến tranh này.
- Bọn Đức đã nói láo là đã chiếm được Minxcơ, phải không? - Xannhikốp nói. - Người ta không chịu để cho chúng tiến xa như vậy. Chúng sẽ bị đánh tan, nhất định như vậy.
- Chúng sẽ bị đánh tan. - anh lính biên phòng đồng tình. - Có điều ta chả hiểu thêm được gì về mặt trận ở đây.
Họ chăm chú lắng nghe, nhưng ngoài tiếng súng máy và tiếng mìn rời rạc, họ không nghe được gì hơn. Hình như hơi thở nặng nề của mặt trận đã tiến xa về phía đông.
- Như vậy là chỉ có chúng mình ở đây. - anh lính biên phòng khẽ nói. - Thế mà anh lại nói: “Tôi không đi đâu cả”. Ở đây chúng ta cần súng đại liên.
Chính Plugiơnhikốp cũng hiểu rõ, không có súng máy, họ không thể đánh tan được cuộc tấn công sắp tới. Nhưng họ không có súng máy, mà rút khỏi đây thì anh lại không muốn. Anh nhớ tới ánh mắt sắc lạnh của người thượng úy tóc đen có huân chương trên ngực, nhớ tới tiếng khóc thảm thiết của trẻ con, đàn bà dưới hầm, và anh không thể trở lại đấy khi chưa có lệnh. Anh cũng không cho ai rút khỏi đây, vì vậy anh liền nói:
- Tất cả đi ngủ. Tôi sẽ gác.
Xannhikốp liền nằm cuộn tròn và ngủ, còn anh lính biên phòng thì từ chối sau khi giải thích anh đã ngủ dưới hố bom. Anh ta đi sau vào phía trong nhà thờ, một lúc lâu (Plugiơnhikốp bắt đầu lo lo) rồi quay ra với Prigiơnhiúc và ba người nữa, thượng sĩ pháo binh tóc hung đã bị thương ở đầu. Anh lắc lắc cái đầu và lắng nghe.
- Cứ như có nước trong tai ấy.
- Mấy ông láng giềng bốc mùi ghê quá. - anh lính biên phòng nói.
Plugiơnhikốp chợt hiểu là anh ta nói tới những xác chết vẫn nằm rải rác trong khu nhà thờ. Anh hạ lệnh cho đi chôn cất. Các chiến sĩ đi ra, chỉ còn lại anh thượng sĩ pháo binh. Anh ta ngồi xuống nền nhà, người dựa vào tường, lắc lắc cái đầu bị thương, đờ đẫn nhìn vào một điểm nào đó.
Anh nói:
- Mình còn vợ, tháng Tám này cô ấy đến ngày sinh nở.
- Chị ấy ở đây à? - Plugiơnhikốp sực nhớ tới những phụ nữ dưới hầm.
- Không, cô ấy ở với mẹ tại vùng Vônga. - Anh im lặng. - Anh nghĩ thế nào, quân ta sẽ đến chứ?
- Nhất định sẽ đến. Họ không thể không đến được. Họ sẽ không quên chúng ta đâu, anh đừng lo.
- Sức mạnh thuộc về chúng nó. - anh thượng sĩ pháo binh thở dài. - Hôm nay chúng điên cuồng tấn công, khủng khiếp thật.
- Chúng ta cũng có sức mạnh.
Thượng sĩ im lặng, anh ta lại thở dài, lắc lắc đầu.
- Ta nên vào hầm chăng?
- Anh nói là ta không có súng đại liên, có thể họ sẽ mang tới.
- Hỏa lực của chúng không dày đặc lắm đâu. - anh thượng sĩ pháo binh nói và bỏ đi.
Bọn Đức vẫn bắn pháo sáng không ngớt. Những quả pháo sáng lập lòe từ từ rơi theo những chiếc dù nhỏ, chiếu sáng cả khu pháo đài câm lặng. Thỉnh thoảng tiếng mìn lại vang lên và từ phía bờ sông rộ lên từng loạt súng máy. Cố cưỡng lại cơn buồn ngủ, Plugiơnhikốp ngồi thiêm thiếp dưới mái vòm. Cạnh anh, Xannhikốp đang bình thản trong giấc ngủ mê mệt.
“Dầu sao mình vẫn hạnh phúc - tự nhiên Plugiơnhikốp thầm nghĩ - Cho đến giờ mình vẫn chưa bị dính đạn”.
Nghĩ vậy, anh bỗng thấy sợ hãi trước nỗi bất hạnh có thể gặp phải, nên vội tự trấn an rằng dù không may mắn, nhưng trong thâm tâm, anh vẫn tin là anh trung úy Plugiơnhikốp không thể chết một cách vô lý và anh vẫn mạnh hơn bất cứ phù phép nào. Anh mới ở vào cái tuổi mười chín già hai tháng và anh vững tin ở sự bất tử của mình.
Anh lính biên phòng cùng mấy chiến sĩ khác đã trở về báo cáo rằng các xác chết đã được đưa ra khỏi nhà thờ. Plugiơnhikốp im lặng gật đầu, anh không còn đủ sức nói năng gì nữa.
- Anh nằm nghỉ đi, trung úy!
Plugiơnhikốp lắc đầu định từ chối. Anh nằm xuống đống gạch vụn dọc chân tường và lịm đi ngay, tay gối dưới chiếc má mềm mài như má trẻ con.
Anh đang trôi bồng bềnh trên một con thuyền, sóng vỗ rì rào mạn và uống thỏa thuê thứ nước mát lạnh, ngon lành. Valia mặc váy áo trắng đang ngồi đầu mũi thuyền và đang cười với anh. Anh cũng mỉm cười lại trong giấc mơ.
- Trung úy!
Plugiơnhikốp mở mắt và nhìn thấy người chiến sĩ biên phòng Đenhisích, cả Prigiơnhiúc, Xannhikốp và mấy chiến sĩ nữa. Anh ngồi dậy.
- Chúng ta được lệnh rút xuống hầm ngầm.
- Tại sao? Tại sao lại rút xuống hầm ngầm?
- Có người tới thay. Không có gì phải bàn cãi nữa đâu.
Bên cạnh lối ra vào, một trung úy trẻ mới đến đang thu xếp công việc. Các chiến sĩ đã dựng khẩu súng đại liên lên và lấy gạch làm công sự nổi. Trung úy trẻ tự giới thiệu và truyền đạt mệnh lệnh:
- Đồng chí sẽ nhận mệnh lệnh từ Pôtapốp. Các đường hầm dưới nhà thờ đã được kiểm tra chưa?
- Không có thời gian để kiểm tra gì hết. Phải cử một người gác có mang lựu đạn. Bậc lên xuống hẹp lắm đấy. Phải để mắt đến các cửa sổ.
- Được rồi, đi may mắn nhé!
- Tôi cũng chúc đồng chí như thế. Tôi sẽ mang theo anh em của tôi, chỉ có ba người thôi. Chúng tôi đã kết thân với nhau.
- Đồng chí tưởng ở đây sẽ dễ dàng hơn à? Chúng vừa nghĩ ra một quỷ kế. Lẳng lặng bò đến chỗ cửa sổ và quăng lựu đạn vào. À, mà cần nhớ rõ một điều: lựu đạn của chúng sau ba giây mới nổ. Nếu nó đến gần, đồng chí vẫn đủ thời gian ném trả lại. Chúng tôi vẫn làm như thế.
- Cảm ơn, tôi nhớ.
- Ở đây đồng chí mang nước không?
- Xannhikốp, chúng ta còn nước đấy chứ?
- Năm bi đông. - Xannhikốp miễn cưỡng đáp. - Ở đây các anh sẽ không có thì giờ uống nước đâu.
- Chúng tôi không uống mà dành cho súng máy.
- Đồng chí cầm lấy đi. - Plugiơnhikốp giục Xannhikốp. - Đưa cho đồng chí ấy năm bi đông và đi thôi.
Bốn người thận trọng lọt ra khỏi nhà thờ, dẫn đầu là Đênhisích. Trời đã bắt đầu rạng và thỉnh thoảng vẫn còn tiếng súng cối.
- Trong một giờ hoặc một giờ rưỡi nữa, mưa đạn lại tuôn thôi. - Xannhikốp nói và ngáp thoải mái. - Cứ một lát chúng để ta nghỉ một lần thế là tốt rồi.
- Chúng sợ bóng tối. - Plugiơnhikốp mỉm cười.
- Chúng chẳng sợ gì hết. - anh chiến sĩ biên phòng cáu kỉnh nói, không nhìn ai cả. - chúng chiến đấu thoải mái, bọn chó đẻ giữ chế độ tám giờ một ngày.
- Bọn Đức mà lại giữ chế độ tám giờ một ngày à? - Plugiơnhikốp không tin. - chúng theo chủ nghĩa phát xít.
- Đúng, chủ nghĩa phát xít.
- Tại sao mình lại đi bộ đội vào hồi này nhỉ? - Prigiơnhiúc bất chợt hỏi. - Cấp trên bảo mình: cậu có thể nhập ngũ ngay bây giờ nếu cậu muốn, hoặc vào mùa thu cũng được. Mình trả lời: đi ngay bây giờ...
Một loạt súng rất đanh xé tan buổi bình minh yên tĩnh. Họ nhảy ào xuống hố đạn, nhưng không còn tiếng nổ nào thêm nữa.
- Có lẽ quân ta chắc? - Prigiơnhiúc thì thầm. - Chắc quân ta đang di chuyển?
- Chúng bắn vào chỗ có tiếng người. - Đênhisích thầm thào gần như không thành tiếng. - làm quái gì có quân ta ở đấy!...
Anh ta ngừng lời và họ lại giỏng tai nghe ngóng. Plugiơnhikốp có cảm tưởng vừa nghe thấy một tiếng động rất nhỏ ở nơi nào đó rất gần. Anh kéo khuỷu tay anh chiến sĩ biên phòng:
- Anh nghe thấy chứ?
Đênhisích đặt mũ sắt ngay ngắn lên nòng súng và giơ lên. Không có ai bắn cả và anh ta lại hạ mũ xuống :
- Mình lên xem sao nhé. Các anh cứ ở dưới này đã.
Anh ta lặng lẽ bò ra khỏi hố đạn và mất hút. Xannhikốp đến gần Plugiơnhikốp và thì thào vào tai anh:
- Tám giờ làm việc của anh đấy. Đáng lẽ chúng ta không được cho nước đi mới phải, trung úy ạ. Họ phải tự kiếm lấy chứ...
- Đúng, đó là đồng đội của chúng ta! - Prigiơnhiúc kiên quyết nhắc lại. - Chắc họ đi lấy vũ khí.
Có vật gì rơi xuống mép hố bom, lăn trên cát, rồi rơi độp xuống mũ sắt. Plugiơnhikốp quay lại nhìn: thì ra một quả lựu đạn cán dài đang nằm lăn lóc trước mặt anh.
Trong khoảnh khắc đó, anh nghe thấy nó như đang xì khói. Anh kịp nghĩ rằng thế là hết, và cảm thấy đau nhói trong tim mình. Anh nhớ đến những gì vô cùng thân thiết - mẹ anh, hoặc Vêra, em gái anh - nhưng tất cả những ý nghĩ ấy chỉ thoáng qua chưa đầy một giây. Và, trước khi cái giây ngắn ngủi ấy trôi qua, anh đã kịp chộp lấy quả lựu đạn nóng bỏng và ném vào bóng đêm. Một tiếng nổ vang lên, đất cát rơi rào rào cùng với tiếng la loạn xạ của Đênhisích:
- Chạy! Chạy các cậu ơi, bọn Đức!...
Cảnh rạng đông yên tĩnh bị xé toang bởi những tràng súng máy nổ ran từ mọi phía. Những ngả đường đến nhà thờ và hầm ngầm của trung đoàn 333 bị cắt đứt.
- Đi lối này! - anh chiến sĩ biên phòng gọi to.
Plugiơnhikốp đã kịp nhận ra hướng tiếng gọi, anh liền cúi mình lao về phía Đênhisích. Từng loạt tiểu liên rộ lên chung quanh. Plugiơnhikốp lao xuống một hố đạn, từ đó Đênhisích đang bắn từng loạt ngắn yểm hộ cho họ. Xannhikốp nhẩy sát theo anh, ngã dúi dụi.
- Prigiơnhiúc đâu rồi?
- Hy sinh rồi! - Xannhikốp đau xót gào lên và nổ súng.
Hỏa lực của bọn Đức vây chặt xung quanh và ghìm đầu họ xuống.
- Lao sang hố đạn bên cạnh. - Đênhisích hét. - và yểm hộ cho tôi! Nhanh lên, trung úy! Nhanh lên!...
Tiếng súng rộ lên dữ dội. Khẩu súng máy trong nhà thờ nhằm vào những ánh chớp, từng luồng đạn từ phía hầm trung đoàn 333 và từ những khu vực đổ nát phía bên phải giội tới.
Plugiơnhikốp chạy sang hố đạn bên cạnh, lăn xuống đấy và khẩn trương nổ súng, cố không để đạn bắn vào bóng Đênhisích đang lao về phía mình. Súng của Xannhikốp bị tắc đạn.
Họ yểm trợ cho nhau và chạy - nằm - chạy, tiến đến được một khu vực bị tàn phá tan hoang, sau vài tiếng súng rời rạc đang lặng hẳn trong bóng sáng mờ của buổi rạng đông, bọn Đức thôi không bắn nữa. Lúc này, họ có thể nghỉ một chút lấy sức.
- Đấy, chạm trán nhé. - Đênhisích nói, ngồi lên đống đổ nát, thở dài nặng nề. - hôm nay tớ chạy một trăm mét còn hơn cả vô địch thế giới.
- May! - Xannhikốp thình lình phá lên cười - Lại may!
- Im đi! - Plugiơnhikốp ngắt lời. - tốt hơn là cậu hãy tháo súng ra sửa, để lần sau khỏi hóc nữa.
Bực, im lặng, Xannhikốp tháo súng ra. Plugiơnhikốp cảm thấy không tiện về tiếng quát ấy song anh sợ là mừng vội để kéo theo xúi quẩy. Ngoài ra anh rất lo là giờ đây họ bị cắt khỏi đồng đội.
- Hãy xem xét căn hầm. - anh nói. - Tôi ra quan sát một lát.
Tiếng súng đã dứt, chỉ dọc theo hai bên bờ vẳng lại vài loạt đạn thưa thớt. Trong đống đổ nát còn xa lạ bốc mùi tro xỉ, mùi xăng và một mùi gì hắc lợm mà Plugiơnhikốp không xác định được. Cơn gió nhẹ trước lúc bình minh đưa mùi các xác chết đang thối rữa. Mùi này làm anh kinh kinh.
“Phải rời khỏi đây thôi. - anh nghĩ. - Nhưng mà đi đâu bây giờ?”.
- Nhà xe. - Đenhisích trở lại, nói. - Ở nhà bên mấy cậu bị cháy, trông kinh quá. Còn tầng hầm thì không có.
- Không tầng hầm, không nước. - Xannhikốp thở dài. - Thế mà cậu bảo là tám giờ. Chà, người lính gác của Tổ quốc!
- Tụi Đức có gần không?
- Chắc là ở bờ bên kia sông Mukhavét. Phía bên phải có mấy cái trại lính gì đó. Hay là ta chạy qua, còn yên mà?
Khi họ vượt qua được phía bên kia khu đổ nát thì trời sáng. Những sức phá thẳng góc đã hất các ngôi nhà ra khỏi mặt bằng: gạch đổ dồn thành đống. Phía sau, có thể thấy con sông và những bụi cây sâm sẫm ở bờ bên kia.
- Kia là tụi Đức. - Đênhisích nói. - Cái vòng vây chúng ta chặt, trung úy ạ. Hay là nhảy khỏi đây trong đêm tới đi!
- Thế mệnh lệnh đâu? Có lệnh rời bỏ pháo đài không?
- Đây không còn là pháo đài nữa mà là cái túi. Chỉ còn thắt miệng túi là ta hết đường ra.
- Tôi được lệnh cầm cự. Không ai ra lệnh chạy cả. Cậu cũng thế.
- Còn độc lập suy nghĩ, chắc cậu đã mất khả năng đó sau khi bị thương?
- Trong quân đội là phải chấp hành mệnh lệnh chứ không phải suy nghĩ tìm cách chuồn.
- Thế cậu giảng cho tớ cái lệnh ấy xem! Tớ không phải là con tốt đen, tớ phải hiểu, tớ phải bò trên đống gạch ở đây là để phục vụ cho chiến lược nào. Ai cần? Mặt trận thì biệt tăm ở đâu. Quân ta bây giờ ở mãi đâu, cậu biết không?
- Tớ biết. - Plugiơnhikốp nói. - Ở nơi nó phải ở.
- Chà, những con tốt đen! Đấy, do đâu mà chúng mình bị đánh. Trung úy ơi, chúng còn đánh nữa, khi còn...
- Ta đánh thì có! - Plugiơnhikốp thình lình quát lên. - đây là ta đánh chúng, hiểu không? Chúng bò trên đống gạch thì có! Còn ta... Quân ta... đây là gạch của ta, của ta! Những người lính xô viết đang nằm dưới những đống gạch này. Đồng đội của ta nằm dưới này, mà cậu... Cậu là kẻ gây hoang mang!
- Này trung úy, cẩn thận nhé! Vì lời đó tớ có thể quại cho cậu vỡ mặt bất kể cấp bậc của cậu đấy...
- Quân ta! - Xannhikốp ngạc nhiên một cách hào hứng.
Cạnh bức tường còn nguyên của doanh trại, khoảng bảy tám người đang vội vã làm việc. Plugiơnhikốp muốn nhảy tới nhưng anh lính biên phòng giữ anh lại:
- Họ đi ủng
- Thì đã sao?
- Ủng Đức, cậu không thấy à: ống ngắn
- Tớ cũng đi ủng Đức. - Xannhikốp nói. - Bàn chân gò bó thế nào ấy
- Công binh ta toàn quấn xà cạp. - Đênhisích nói. - Thế mà những người này đều đi ủng. Vậy cho nên hẵng khoan vội.
- Cậu sợ cái gì? - Xannhikốp bực bội. - Quân phục ta...
Cúi gập người, Đênhisích chạy tới chỗ bức tường còn lại, khéo léo trèo lên, chỗ ô cửa sổ đã bị phá gẫy.
- Quân ta mà, rõ ràng. - Xannhikốp không hài lòng càu nhàu. - Họ có thể có nước uống: Mukhavét bên cạnh mà.
- Nào, nhìn đi. - Đênhisích dịch ra nhường chỗ.
Từ phía trên nhìn rõ bờ đối diện sông Mukhavét, cứ điểm trên chiến lũy, lính Đức lô nhô trong các bụi cây ngay cạnh sông.
- Thế mà chúng lại không bắn toán công binh. - anh lính biên phòng nói khẽ. - Tại sao?
- Tụt xuống đi, chúng thấy đấy. - Plugiơnhikốp thở phào nói.
Họ quay lại với Xannhikốp. Anh ta nằm như được ra lệnh nhưng vẫn cố vươn cổ hết sức để nhìn được xa hơn.
- Nào nhìn gì mà kỹ thế?
- Tụi Đức đấy
- Cóc phải! - Xannhikốp không tin. - Thế quân phục thì sao?
- Cậu đừng tin hình thức, phải tin nội dung cơ. - anh lính biên phòng cười mỉa. - Chúng, quân khốn nạn đang đút chất nổ xuống chân tường. Có lẽ ta phải xua chúng đi, trung úy ạ? Quân ta ở phía sau tường đấy.
- Có lẽ phải xua chúng đi. - Plugiơnhikốp trầm ngâm nói. - Chúng mình còn đi đâu được nữa?
- Vậy là ai định chạy: cậu hay tớ?
- Chúng đánh mìn ta dễ không. Đây làm gì có mái che. - Plugiơnhikốp nói.
- Cậu hiểu đấy. - anh lính biên phòng tán thành nói.
Plugiơnhikốp ngoái lại nhìn. Trong các đống gạch đổ chẳng có chỗ nào để tránh mìn cả, còn mấy bức tường bị sót lại thì sẵn sàng đổ sụp xuống trong trận ném bom đầu tiên. Chấp nhận trận đánh không có lối tháo lui đồng nghĩa với tự sát: tụi Đức đổ cả một trận bão lửa lên bất cứ ổ chống cự nào. Điều đó Plugiơnhikốp biết theo kinh nghiệm riêng.
- Thế nếu như tiến lên? - Xannhikốp giả thuyết. - Trong doanh trại là quân ta. Thử vào với họ xem?
- Tiến lên! - anh lính biên phòng mỉa mai trêu. - Hừ, lại thêm một nhà chiến lược.
- Có khi thế mà được đấy, tiến lên? - Plugiơnhikốp nói. - Bò, ném lựu đạn và phốc vào doanh trại. Ở đấy có tầng hầm.
Anh lính biên phòng miễn cưỡng tán thành: anh ta sợ một cuộc tấn công diễn ra trong tầm mắt đối phương. Ở đây đòi hỏi thận trọng đặc biệt, cho nên họ bò lâu. Họ chuyển dịch từng người theo thứ tự: khi một người trườn ở giữa gạch vôi đổ, hai người kia quan sát tụi Đức, sẵn sàng yểm trợ bằng hỏa lực.
Bọn công binh Đức đang bận bỏ bộc phá xuống chân tường doanh trại, không nhìn các phía. Phần nghĩ là ở đây ngoài chúng chẳng còn ai, phần lại tin tưởng vào đồng bọn đứng quan sát từ bờ bên kia sông Mukhavét. Chúng đã chôn xong chất nổ và gọn gàng đặt ngòi nổ thì từ phía hố bom gần nhất, ba quả lựu đạn đồng thời bay lên.
Mấy thằng sống sót bị tiểu liên giết nốt. Toàn bộ sự việc diễn ra nhanh và bất ngờ đến mức từ bờ bên kia không một tiếng súng nào kịp nổ.
- Thuốc nổ! - Plugiơnhikốp thét lên, cuống quýt cắt dây ngòi. - Hãy moi thuốc nổ ra.
Đênhisích và Xannhikốp kịp lôi các gói bộc phá ra trước khi tụi Đức sực tỉnh và dội trận bão lửa sang. Đạn cắm chi chít rào rào vào gạch vụn. Họ chạy ra sau góc tường nhưng ở đây mìn đã nổ với những tiếng rít. Tai ù, mắt lóa họ lăn vào lỗ hầm. Vào cái hố đen ngòm của hầm ngầm.
- Sống lại rồi! - Xannhikốp cười phấn khởi. - Tớ đã nói! Tớ đã nói rồi mà!...
- Chân. - Plugiơnhikốp sờ vào ống ủng: tay ướt máu. - Có băng không?
- Sâu không? - Đenhisích lo lắng hỏi
- Hình như không. Mảnh đạn sượt qua thôi
Anh lính biên phòng xé toạc một mảnh gấu áo lót đã đẫm mồ hôi :
- Cố siết chặt đi.
Plugiơnhikốp kéo chiếc ủng ra, vén ống quần lên. Từ vết thương hở tóac, máu chảy ròng ròng. Anh lót chiếc chiếc khăn mu soa bẩn xuống dưới mảnh vải áo rồi quấn chặt. Chỗ băng liền sưng vù lên nhưng máu không chảy nữa.
- Sẽ lành thôi. - Đênhisích nói.
Xannhikốp đến gần, lúng túng nói:
- Ở đây không có lối thoát. Chỉ có một cái khoang này thôi.
- Không thể thế được.
- Đúng thế. Tớ kiểm tra tất cả các bức tường rồi.
- Bộc phá nổ thì khéo lắm. - Đênhisích không vui, cười mỉa. - Sẽ thành một nấm mồ chung vừa vặn cho ba người.
Một lần nữa họ lại đi khắp khoang hầm, cố sờ soạng tìm hiểu mỗi mét của nó. Phía bức tường đối diện gạch nằm chất đống hẳn là đổ từ mái vòm xuống. Họ bắt đầu vội vàng thu dọn. Từ phía trên vọng xuống tiếng gầm rú của máy bay oanh tạc đang bổ nhào: tụi Đức bắt đầu trận ném bom buổi sáng. Chúng ầm ầm ngay trên đỉnh đầu, tường rung lên nhưng chúng vẫn tiếp tục quăng gạch rào rào: trong cái túi bằng đá này chẳng có lối thoát nào khác.
Hy vọng thật mỏng manh và lần này cũng không dành cho họ một tia nào: thu dọn hết các mảnh đổ, họ phát hiện ra một nền gạch dày - khoang hầm này không hề có lối thoát thứ hai. Không thể nán lại đây được: quân Đức đã đến gần, đông hơn và nếu chúng phát hiện ra họ thì chỉ cần quẳng vào đây hai quả lựu đạn là quá đủ. Phải rời khỏi chỗ này ngay lập tức.
- Phải lợi dụng lúc ném bom! - anh lính biên phòng nói. - Khỏi có tụi Đức.
Tiếng ầm ầm át cả lời nói. Bom nổ dồn bụi vào ô cửa sổ, nung nóng không khí lên, mùi xác người thối quện với mùi khét thuốc súng nặng nề bốc lên. Mồ hôi nhòa cả mắt chảy thành dòng khắp người. Khát không thể chịu được.
Trận ném bom kết thúc, nghe rõ tiếng động cơ máy bay và tiếng súng liên hồi. Ném bom hết, máy bay tiếp tục lượn trên pháo đài, bắn pháo và súng máy xuống.
- Đi thôi! - Đênhisích hét, đứng cạnh cửa hầm. - Chúng đang vây đấy. Đi đi các cậu, khi chúng còn chưa kịp cắt đứt!
Anh lao ra cửa hầm, ngó ra rồi lại né vào ngay, suýtt nữa thì húc phải Plugiơnhikốp.
- Bọn Đức.
Họ nép sát tường. Tiếng máy bay gào rú đã ngớt, tiếng súng tay nghe đã rõ hơn. Tuy nhiên họ cũng bắt được tiếng bước chân và tiếng người xa lạ giữa những tiếng súng inh tai. Họ đã học được cách lọc ra được những âm thanh đe dọa họ khỏi những tiếng súng.
Một thân hình sâm sẫm che lấp miệng hầm. Một kẻ nào đó thận trọng ngó vào cái túi bằng đá và lập tức né tránh. Plugiơnhikốp lập tức tháo chốt an toàn khẩu tiểu liên không một tiếng động khẽ. Trống ngực anh đập mạnh đến mức anh sợ bọn Đức nghe thấy.
Ngay bên cạnh lại vang lên tiếng nói. Một quả lựu đạn bay vào miệng hầm, chạm vào bức tường xa của tầng hầm, nhưng họ kịp nằm xuống sàn và một tiếng nổ vang lên. Trong khoang hầm hẹp, tiếng nổ đặc biệt đinh tai váng óc. Mảnh đập vào tường, khói nồng nặc của cú nổ quá gần làm họ sém mặt.
Plugiơnhikốp không kịp sợ, không kịp mừng là mảnh đạn bay cao hơn. Tụi Đức ngay cạnh, cách hai bước nên anh không dám hỏi đồng đội xem có ai bị thương không. Phải nằm, nằm bất động, chờ đợi một cách nhẫn nhục những quả lựu đạn tiếp theo.
Nhưng tụi Đức không ném tiếp lựu đạn nữa. Nó xì xồ rồi đi xa hơn, đến ngăn hầm tiếp theo. Tiếng bước chân xa dần. Tiếng lựu đạn nổ vọng lại inh tai.
- Nguyên lành cả chứ? - Plugiơnhikốp hỏi, khó khăn lắm mới nghe nổi.
- Nguyên. - Đênhisích trả lời. - thôi chứ trung úy.
Suốt ngày nằm trong tần hầm. Suốt ngày cho đến tối, sợ cựa quậy, không dám thở mạnh vì tụi Đức đi ngay bên cạnh: với thính giác nhạy bén họ bắt được những tiếng nói không hiểu của chúng. Sự căng thẳng thường xuyên làm các bắp thịt đau đớn tê cứng lại.
Họ không biết cái gì diễn ra phía trên. Tiếng súng nổ nghe thật rõ ràng, hai lần kẻ địch đề nghị bỏ vũ khí, tạm ngừng bắn hàng giờ nhưng họ không thể lợi dụng được vì bọn Đức đã chiếm khu vực này của doanh trại.
Họ đã mạo hiểm bò đi lúc đêm xuống mặc dù đêm này bất an hơn đêm trước. Tụi Đức vây chặt bờ sông, chiếu sáng pháo đài bằng những loạt tên lửa và không ngừng nã cối. Lại còn những tiếng nổ chối tai: tụi công binh Đức dùng bộc phá rất có bài bản phá tường, trần, nắp bê tông, dọn sạch đường cho các nhóm xung kích.
Đênhisích được cử đi trinh sát. Khá lâu không thấy quay lại. Xannhikốp đã càu nhàu là phải chạy ngay khỏi chỗ này. Không nghe tiếng súng gần và Plugiơnhikốp không tin là người lính biên phòng lại có thể đầu hàng không kháng cự, nên vẫn cứ đợi.
Cuối cùng anh đã nghe tiếng bước chân và ở cửa hầm xuất hiện một cái đầu:
- Bò đi! Thật khẽ: tụi Đức ngay cạnh.
Bên ngoài ngột ngạt, mùi xác chết nặng nề tỏa khắp và cổ họng khô rát luôn kéo theo những cơn co giật nôn mửa. Plugiơnhikốp cố gắng thở bằng mồm.
Khắp nơi vang lên tiếng nói Đức, tiếng xà beng và cuốc chim: tụi công binh đào lỗ chân tường để đặt bộc phá. Họ phải bò trên các đống đổ nát, mỗi lần có tên lửa bắn ra là phải dừng lại.
Cuối cùng họ rơi vào một cái hố sâu có mấy xác chết nát bét vì bom nằm dưới trời nóng ba ngày bốc mùi thối hoăng không thể nào chịu nổi. Song ở đây có thể xả hơi một chút, chấn chỉnh lại và bàn bạc phải làm gì tiếp theo.
- Phải quay vào nhà thờ. - Xannhikốp sôi nổi thuyết phục. - Ở đấy tường rắn phải biết! Tôi sẽ lấy được nước. Bò ngay dưới mũi quân địch nhưng tôi sẽ lấy được.
- Nhà thờ là cái bẫy đấy. - anh lính biên phòng bướng bỉnh nói. - Đêm đêm tụi Đức tụ tập ở bờ tường: chúng vây một vố là đi tong. Phải vào tầng ngầm: dưới đó có đông người hơn.
- Nhưng lại ít nước hơn! Cậu nằm suốt ngày ở hố bom, thì tớ ngồi đàng kia ấy à, thương binh được phát nước bằng thìa như uống thuốc. Những người khỏe mạnh thì ngồi mà chết khát. Còn tớ thì không thể nhịn...
Nghe cuộc tranh cãi đó, Plugiơnhikốp nghĩ về việc khác. Cả ngày họ nằm cách tụi Đức có hai bước và anh thấy bằng cặp mắt của mình là kẻ thù đang thực sự thay đổi chiến thuật. Tụi công binh vẫn kiên trì đục tường, nhét bộc phá, giật đổ vòm trần. Tụi Đức cứ gặm nhấm dần phòng thủ của đối phương như chuột, phải báo cáo điều đó kịp thời. Anh tâm sự ngay những suy nghĩ đó với các chiến sĩ. Xannhikốp buồn chán ngay:
- Việc đó không liên quan đến tôi.
- Cứ như là quân ta không bắn. - Đênhisích lo lắng nói. - Trong bóng tối khéo lại húc đầu vào bọn Đức đấy. Cứ gào lên là Đức nỏ bỏ mìn đấy.
- Phải vượt qua doanh trại. - Plugiơnhikốp nói. - Các hầm ngầm không thể bị cách ly hết đâu.
- Bò hết hơi mới đến được đây, bây giờ lại quay lại. - Xannhikốp không bằng lòng càu nhàu. - Tốt hơn hết là vào nhà thờ, đồng chí trung úy ạ.
- Ngày mai vào nhà thờ. - Plugiơnhikốp nói. - Trước hết phải cho bọn công binh hết vía cái đã.
- Ý hay đấy trung úy. - anh lính biên phòng ủng hộ. - dọa tụi Đức một vố rồi quay về với quân ta.
Nhưng ý đồ dọa quân Đức không thành. Dưới chân anh gạch vụn chất đống và khi anh vùng dậy: chân bị thương của anh đã phản lại anh. Anh ngã xuống và lập tức một loạt đạn súng máy đã nhằm tới ngoáy vào đống gạch vụn quanh đầu anh.
Thế là không gặp được trung đoàn, nhưng dầu sao họ cũng đã đến được khu doanh trại liên hoàn trên bờ sông Mukhavét. Khu vực này hình như đã chết hẳn, trong cửa sổ không có một dấu hiệu nào chứng tỏ có ta hoặc có địch. Nhưng không có thì giờ để nghĩ ngợi gì nữa, họ vội tụt xuống cái hốc đen ngòm gần nhất để vào hầm và ép sát người vào tường: có tiếng giày của bọn Đức dội xuống đầu.
- Suy nghĩ lâu quá đấy. - Đênhisích nói khi mọi vật đã trở lại yên lặng.
Chưa ai kịp trả lời thì trong bóng tối có tiếng khóa súng tách một cái và một giọng khàn khàn vang lên:
- Ai ngoài đấy? Tôi bắn đấy!
- Người mình! - Plugiơnhikốp nói to. - Ai trong ấy thế?
- Người mình? - Giọng nói có vẻ mệt mỏi. Người ấy dừng lại giây lát rồi hỏi tiếp trong tiếng thở nặng nề. - Ở đâu đến.
- Từ ngoài hầm vào. - Đênhisích khẽ nói. - Này, hãy lựa lúc mà hỏi chứ. Bọn Đức đang ở trên đầu. Anh ở chỗ nào đấy?
- Không được đến gần, nếu không tôi bắn đấy. Các anh có bao nhiêu người?
- Đồ ngốc! - Xannhikốp bực bội. - Ba, chúng tôi có ba. Các anh có tất cả bao nhiêu người?
- Một anh đến đây, số còn lại đứng yên tại chỗ.
- Tôi đi một mình. - Plugiơnhikốp nói. - Đừng bắn!
Tay giơ ra phía trước, anh mò mẫm để khỏi va vào tường và bước sâu vào căn hầm tối như bưng.
- Bụng mình lép kẹp. - Xannhikốp thầm thì thú nhận. - Giá lúc này có được đĩa xúp nhỉ!
Đênhisích lôi ra một thanh sôcôla và bẻ ra một phần tư miếng:
- Này, cầm lấy!
- Cậu xoay ở đâu thế?
- Vay đấy. - anh chiến sĩ biên phòng cười mỉm.
- Nó không được ngọt lắm cậu ạ.
Plugiơnhikốp quay về.
- Đồng chí chính trị viên ở trung đoàn 455 đấy mà. Chân đồng chí ấy bị gãy nát và đã ở trong ấy hơn một ngày đêm.
- Một mình à?
- Có một cậu đi cùng nhưng hy sinh hôm qua rồi. Đồng chí ấy nói trên đầu có một lỗ hổng để lên tầng một và từ đấy chúng ta có thể tìm đến chỗ quân ta. Nhưng phải đợi đến lúc trời sáng đã. Trong ấy tối như bưng ấy.
- Chúng ta sẽ đợi. Ăn đi, trung úy.
- Sôcôla phải không? Thế còn đồng chí chính trị viên trong kia?
- Có phần đồng chí ấy đây rồi.
- Vào đi. Này Xannhikốp, anh đứng ngoài này quan sát nhé.
Chính trị viên nằm sát tường đối diện: và họ tìm thấy nhờ tiếng thở hổn hển của ông ta và mùi máu tanh tanh. Họ ngồi xuống bên cạnh. Plugiơnhikốp nói cho ông rõ bọn anh đã chiến đấu trong nhà thờ như thế nào, đã rút lui ra sao, chạm trán với bọn Đức ở đâu, và sau cùng đã vào căn hầm đá bằng cách yểm trợ cho nhau như thế nào.
- Yểm trợ để rút lui à? Tốt lắm! Người ta thì chiến đấu còn các anh thì tháo thân.
Chính trị viên nói rất khó khăn, nhịp thở ngắn và gấp như không đủ sức hít thở cho phổi mình căng lên.
- Suýt nữa thì chúng tôi bị diệt hết ở đây. Chỉ một xíu nữa quả lựu đạn ấy nổ và thế là hết. - Plugiơnhikốp nói.
- Sợ lựu đạn hả?
- Chúng tôi không muốn hy sinh vô ích.
- Vô ích? Nếu anh giết được một tên chó đẻ thì cái chết của anh có ích. Chúng ta có hai trăm triệu người. Hai trăm triệu! Khi anh không giết được tên nào thì mới có nghĩa là chết vô ích.
- Nhưng vị trí của chúng tôi ngoài ấy không thuận lợi lắm.
- Vị trí... Chúng ta chỉ có một vị trí là bám chắc kẻ thù, không để chúng được yên. Không thể để chúng nó có thể nhắm bắn từng viên gạch một. Các đồng chí có biết chúng đang gọi loa ra rả trên đầu chúng ta như thế nào không?
- Chúng tôi có nghe thấy.
- Có nghe, nhưng không chịu phân tích. Lúc đầu, chúng đề nghị chúng ta ra hàng. Rồi chúng đe dọa: sẽ quét sạch chúng ta khỏi mặt đất. Sau đó, chúng lại kêu gọi: “Hãy bắn vào chính trị viên, vào đảng viên cộng sản và chạy ra với chúng tôi”. Nhưng tối qua, chúng đã lại chuyển qua một làn điệu mới: “Hỡi những chiến sĩ dũng cảm bảo vệ pháo đài”. Chúng hứa dành một cuộc đời sung sướng cho bất cứ ai ra đầu hàng, kể cả các chính trị viên lẫn những đảng viên cộng sản. Tại sao chúng lại đổi giọng một trăm tám mươi độ nhanh như vậy? Vì chúng ta đang nổ súng. Nổ súng, chứ không phải chạy tìm nơi ẩn nấp.
- Vâng, chúng tôi có định đầu hàng đâu. - Đênhisich nói.
- Tôi tin, tôi tin các đồng chí, vì thế tôi mới nói như vậy. Chúng ta chỉ có một nhiệm vụ là tiêu diệt sinh lực địch, chỉ đơn giản thế thôi.
Chính trị viên còn nói những gì nữa, nhưng Plugiơnhikốp lại một lần nữa thấy mình lênh đênh trên con thuyền bị sóng đánh bên mạn. Anh lại gục đầu uống những ngụm nước mát ngọt, nhưng không sao hết khát. Và anh lại thấy Valia ngồi đầu thuyền, nghiêm nghị trong chiếc áo dài màu sáng, làm nước mắt anh đầm đìa, và có lẽ vì thế, anh đã không mỉm cười trong mơ...
Đồng đội đánh thức anh ngay khi trời vừa hửng sáng và anh trông thấy chính trị viên gầy đến mức không tin được, mặt mũi lởm chởm những râu và đôi môi bị cắn đến đỏ bầm, đang mấp máy. Trên bộ mặt hốc hác, dính đầy bụi bặm và tàn gio, chỉ có đôi mắt vẫn ngời sáng, sắc sảo và đang nhìn xoáy vào anh không chớp.
- Ngủ chán rồi chứ?
Không thể đoán nổi tuổi của chính trị viên.
Ba người khiêng ông qua lỗ hổng để lên tầng một của khu doanh trại tan hoang. Những chiếc giường hai tầng chỉ còn trơ ván, những chiến sĩ bảo vệ pháo đài đã mang theo nệm và khăn trải giường. Nền nhà bừa bộn những vỏ đạn, gạch vỡ, những mảnh áo quần bị co rúm hoặc cứng quèo vì dính máu đã khô. Tường nhà bị nẻ toác và bị đập vỡ.
Họ đặt chính trị viên lên giường, định thay băng cho ông, nhưng không dám làm vì sợ rách thêm cuộn băng đã khô máu. Những vết thương xông lên mùi khăn khẳn.
- Các đồng chí đi đi. - chính trị viên giục. - để lại cho tôi một quả lựu đạn và đi đi.
- Còn đồng chí? - anh chiến sĩ biên phòng hỏi lại.
- Tôi đợi bọn Đức tới. Với quả lựu đạn và sáu viên đạn súng lục, tôi sẽ đón tiếp chúng xứng đáng.
Một loạt đạn pháo rung lên đột ngột tựa như một nhát dao chém vào không khí. Tiếp đó là giọng nói quen thuộc vang lên qua loa phóng thanh.
- Hỡi những người dũng cảm bảo vệ pháo đài! Bộ chỉ huy Đức kêu gọi các anh hãy chấm dứt hành động chống cự vô ích. Hồng quân đã bị đánh tan.
- Chúng mày là một lũ dối trá, bẩn thỉu! - Đênhisich gầm lên. - Câm đi, bọn phát xít hôi thối.
- Chửi rủa không chấm dứt được chiến tranh đâu. - Chính trị viên khẽ mỉm cười. - Chiến tranh ưa tiếng súng chứ không thích kêu gào. Đừng nổi nóng làm gì.
Luồng hơi nóng và khô bao trùm pháo đài và trong luồng hơi nóng đó, các tử thi trương lên. Làn khói nặng nề hòa trong bụi bậm và hơi thuốc súng theo khói ùa vào trong hầm ngầm.
Những trẻ em nấp dưới các căn hầm không khóc được nữa, vì mắt chúng đã ráo hoảnh không còn nước mắt.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét