Alexandre Puskin
Người con gái viên đại úy
Dịch giả: Cao Xuân Hạo
Chương II
Người dẫn đường
Miền đâu vắng ngắt xa vời
Miền này khác lạ, quê người mênh mông,
Chân ta tự bước trên đồng,
Hay vó ngựa hồng dẫn lối ta đi?
Đưa ta đến tận chốn này,
Là dòng máu nóng những ngày trẻ trung.
Giục ta rong ruổi cánh đồng,
Là men rượu nồng ngôi quán viễn phương.
Dân ca cổ.
Alexandre Puskin
Người con gái viên đại úy
Dịch giả: Cao Xuân Hạo
Chương II
Người dẫn đường
Miền đâu vắng ngắt xa vời
Miền này khác lạ, quê người mênh mông,
Chân ta tự bước trên đồng,
Hay vó ngựa hồng dẫn lối ta đi?
Đưa ta đến tận chốn này,
Là dòng máu nóng những ngày trẻ trung.
Giục ta rong ruổi cánh đồng,
Là men rượu nồng ngôi quán viễn phương.
Miền này khác lạ, quê người mênh mông,
Chân ta tự bước trên đồng,
Hay vó ngựa hồng dẫn lối ta đi?
Đưa ta đến tận chốn này,
Là dòng máu nóng những ngày trẻ trung.
Giục ta rong ruổi cánh đồng,
Là men rượu nồng ngôi quán viễn phương.
Dân ca cổ.
(Đề từ chương II này, cũng như của các chương V, VI, VII
trích từ “Tập các bài dân ca khác nhau” (1770-1774) của M.Đ. Tsuncốp)
Những
ý nghĩ miên man của tôi trong lúc đi đường không lấy gì làm vui vẻ cho lắm. Cứ
theo giá cả hồi bấy giờ thì số tiền tôi thua bạc không phải nhỏ. Tôi không thể
không thầm thú nhận rằng việc tôi làm trong quán trọ ở Ximbiếcxcơ thật là ngu
xuẩn và cảm thấy mình có lỗi với Xavêlích. Tất cả những điều đó khiến tôi áy
náy khổ tâm. Ông già Xavêlích ngồi ở thành xe phía trước, quay lưng lại phía
tôi và lặng thinh, thỉnh thoảng chỉ khẽ ho lên mấy tiếng bực dọc. Tôi quyết làm
lành với bác ta, nhưng mãi không biết nên mở đầu thế nào. Cuối cùng tôi nói với
bác:
-
Thôi, thôi, bác Xavêlích ạ. Thế là được rồi, ta giảng hòa đi, tôi xin lỗi, hôm
qua thật hư hỏng quá, tôi đã làm phiền lòng bác một cách vô lý. Tôi hứa với bác
là từ nay sẽ ăn ở khôn ngoan hơn và nghe lời bác. Thôi đừng giận nữa nhé. Nào
ta làm lành với nhau đi, bác Xavêlích!
Xavêlích
thở dài não ruột đáp:
-
Chao ôi, cậu Piốt Anđrêêvích ạ, đấy là tôi giận cái thân tôi đấy thôi; cơ sự
chung quy là tại tôi cả chứ ai. Làm sao tôi lại có thể để cậu một mình ở trong
cái quán ấy kia chứ? Biết làm thế nào được! Nghiệp chướng ở đâu ấy, tôi tự
nhiên nảy ra ý đến thăm mụ vợ lão thầy trợ lễ là bạn đỡ đầu (Người làm cha
hay mẹ đỡ đầu cho con mình, nói rộng ra là tiếng chỉ những người bạn thân thiết
lâu năm) của tôi ngày trước. Thế đấy: đến nhà bạn đỡ đầu mà hóa ra
chui đầu vào ngục. Thật là tai hại hết chỗ nói. Tôi làm thế nào mà dám vác mặt
về nhà hai cụ bây giờ? Nếu hai cụ biết là cậu đã rượu chè cờ bạc thế này, thì
tôi còn biết ăn nói ra sao nữa?
Để
an ủi bác Xavêlích tội nghiệp, tôi quả quyết hứa với bác là từ rày trở đi sẽ
không tiêu lấy một xu nhỏ nào mà lại không xin phép bác. Bác dần dần yên tâm, mặc
dầu thỉnh thoảng vẫn còn lắc đầu lẩm bẩm: “Chà, một trăm rúp, chứ có phải ít
đâu!”.
Xe
tôi đi đã gần đến nơi đóng quân. Chung quanh tôi là những cánh đồng trống không
bát ngát, buồn bã, ngổn ngang những mỏm gò và những khe, hố. Khắp nơi tuyết phủ
trắng xóa. Mặt trời đã lặn. Chiếc xe đi theo một con đường nhỏ hẹp, hay nói cho
đúng hơn là theo một cái vệt lờ mờ do những chiếc xe trượt tuyết của nông dân để
lại. Bỗng nhiên người đánh xe nhìn sang bên cạnh, rồi quay về phía tôi, cất mũ
nói:
-
Thưa ngài, ngài có ra lệnh cho xe quay trở lại không ạ?
- Tại
sao thế?
- Trời
này rồi không biết thế nào. Gió đã thổi mạnh lên ít nhiều rồi đấy. Kìa, ngài
xem: lớp tuyết ở trên gió đang quét bay lất phất kia kìa.
- Thế
thì đã sao?
- Thế
ngài có thấy cái gì không? (Người đánh xe cầm roi ngựa chỉ về hướng đông).
- Ta
chả thấy gì cả, chỉ thấy thảo nguyên trắng xóa và trời quang, thế thôi.
-
Nhưng phía kia kìa - đấy, cái đám mây con con ấy.
Quả
nhiên tôi thấy ở về phía chân trời có một đám mây nhỏ màu trắng, mà thoạt mới
trông tôi cứ tưởng là một ngọn đồi. Người đánh xe giảng giải cho tôi biết hễ có
đám mây như thế là sắp có bão tuyết đến nơi rồi.
Tôi
đã từng nghe nói đến những trận bão tuyết ở vùng này và biết rằng nó có thể vùi
lấp cả những đoàn xe thồ. Xavêlích đồng ý với người đánh xe và khuyên là nên
quay trở lại. Nhưng tôi thấy gió thổi không lấy gì làm mạnh lắm, tôi hy vọng có
thể đến kịp ngôi trạm sau và bảo đánh ngựa chạy nhanh lên.
Người
đánh xe ngựa phi nước đại, nhưng mắt thỉnh thoảng vẫn nhìn về hướng đông. Mấy
con ngựa chạy rất đều chân. Trong khi đó, gió thổi mỗi lúc một thêm mạnh. Đám
mây con con bây giờ đã thành một đám mây trắng rất lớn, nặng nề ùn lên cao, to
dần lên mãi và dần dần che kín cả bầu trời. Tuyết bắt đầu rơi từng bông nhỏ, rồi
bỗng nhiên đổ xuống từng mảng lớn. Gió rít lên từng hồi. Trận bão tuyết đã đến.
Chỉ trong khoảnh khắc bầu trời tối mịt đã hòa lẫn với bể tuyết cuồn cuộn. Mọi vật
đều chìm trong bóng tối.
Người
xà ích nói:
-
Ngài đã thấy chưa? Khốn to rồi: bão tuyết đấy…
Tôi
nhìn ra ngoài xe: chung quanh chỉ thấy bóng tối dày đặc và những đám tuyết xoáy
cuồn cuộn. Gió rít lên một cách kinh khủng nghe như một con vật khổng lồ đang
hú; tuyết trùm lấy tôi và Xavêlích; ngựa đi bước một, rồi dừng hẳn lại.
Tôi
sốt ruột hỏi người đánh xe:
-
Sao không cho xe đi đi hả?
- Đi
làm sao được? - y vừa đáp vừa rời thành xe leo xuống, - bây giờ chả biết lối
nào mà đi nữa, đường
thì không có, xung quanh thì tối mịt.
Tôi
đã toan mắng, nhưng Xêvalích lên tiếng bênh người đánh xe. Bác ta bực bội nói:
-
Không chịu nghe ông ta có phải là… Nếu không thì bây giờ đã về đến trạm, uống
chén nước trà, rồi đánh một giấc đến sáng, khi bão ngớt rồi đi có phải hơn
không? Đi đâu mà vội nào? Nào có phải đi cưới vợ cho cam!…
Xavêlích
nói đúng. Bây giờ thì chả biết làm thế nào nữa. Tuyết cứ đổ từng trận. Chung
quanh xe đã ùn lên một đống tướng. Ngựa vẫn đứng yên, đầu cúi gằm xuống và chốc
chốc lại rùng mình. Người đánh xe xắng xở quanh mấy con ngựa, anh ta không biết
làm gì nữa, nên cứ sửa đi sửa lại mãi mấy sợi dây thắng. Xavêlích ngồi càu
nhàu; tôi nhìn ra bốn phía, mong trông thấy một dấu hiệu gì tỏ ra quanh đây có
nhà ở hay có lối đi gì chăng, nhưng chẳng nom thấy gì hết ngoài những đám tuyết
xoáy cuồn cuộn…
Bỗng
tôi thấy một vật gì đen đen. Tôi gọi:
- Ê!
Anh đánh xe! Anh trông kia kìa, anh có thấy cái gì đen đen kia không?
Người
đánh xe nhìn một lúc, rồi vừa ngồi vào chỗ vừa nói:
-
Thưa ngài, có trời biết được: xe cũng chẳng phải xe, cây cũng chẳng phải cây,
hình như nó nhúc nhích ấy, có lẽ là một con sói hay một người nào cũng nên.
Tôi
bảo cho xe đến gần vật lạ lúc đó cũng đang đi về phía chúng tôi. Hai phút sau một
người lạ mặt đã đứng ngang tầm xe. Người đánh xe nói to:
-
Này, ông kia, ông có biết đường đi ở phía nào không?
Người
đi đường đáp:
- Đường
thì đây rồi; tôi đang đứng trên mặt đường đất rắn đây. Mà sao kia hả?
Tôi
nói với người lạ mặt:
-
Nghe đây, bác mu-gích, bác có quen vùng này không? Bác có thể đưa chúng tôi đến
chỗ nào nghỉ lại đêm được không?
Người
đi đường đáp:
-
Vùng này thì tôi quen, nhờ trời tôi đã đi ngang về dọc khắp miền rồi. Nhưng trời
thế này mà đi thì lạc mất. Tốt hơn là hẵng đứng đây đã, rồi đợi khi nào bão ngớt
trời quang hãy trông sao mà tìm đường.
Giọng
nói bình tĩnh của người lạ mặt làm tôi yên lòng. Tôi quyết định phó mặc ý trời,
ngủ lại một đêm giữa thảo nguyên, thì người lạ mặt bỗng nhanh nhẹn ngồi lên
thành xe và nói với người xà ích:
-
Chà, may quá, gần đây có nhà ở, anh quay sang phải, đi đi!
Người
đánh xe có vẻ không bằng lòng, y hỏi:
- Tại
sao lại đi sang phải mới được chứ? Đâu, anh thấy lối đi ở đâu nào? Thế ra ngựa
của người khác, cương thắng cũng chẳng phải của mình, cứ tha hồ đánh cho chạy bạt
mạng đấy phỏng?
Tôi
thấy người đánh xe nói phải. Tôi bảo:
- Mà
thật, tại sao bác lại biết là gần đây có nhà ở hả?
Người
lạ đáp:
-
Gió từ phía ấy thổi lại, tôi ngửi thấy có mùi khói; như vậy tức là gần đây có
làng mạc.
Trí
thông minh và cái khứu giác phi thường của người lạ mặt khiến tôi rất đỗi kinh
ngạc. Tôi ra lệnh cho đánh xe đi. Mấy con ngựa nặng nề bước trên lớp tuyết dày.
Chiếc xe tiến chầm chậm, khi thì leo lên một gò đất, khi thì tụt xuống một chỗ
lõm, nghiêng sang bên này, lắc sang bên kia; cứ như ngồi trên một chiếc thuyền
đi giữa biển động vậy. Xavêlích chốc chốc lại kêu ái chà một tiếng khi xe
nghiêng làm cho người bác thúc vào cạnh sườn tôi. Tôi buông tấm diềm phủ ngoài
xuống, kéo áo khoác trùm cho thật kín và bắt đầu thiu thiu. Tiếng réo của trận
bão và nhịp lắc lư của chiếc xe đi chầm chậm như ru tôi ngủ.
Và
tôi mơ thấy một chuyện mà về sau không bao giờ tôi có thể quên được, và cho đến
nay tôi vẫn còn thấy trong giấc mơ đó có một cái gì linh ứng lạ thường khi tôi
đối chiếu lại những sự việc kỳ lạ đã xảy ra trong đời tôi. Độc giả sẽ lượng thứ
cho tôi, vì có lẽ qua kinh nghiệm độc giả cũng biết rằng con người nào cũng rất
dễ tin nhảm, mặc dầu người ta hết sức khinh miệt lối mê tín như vậy.
Tôi
đang ở trong cái trạng thái mà sự thật dần dần nhường bước cho cõi mộng và pha
lẫn với nó thành những hình ảnh mơ hồ khi ta bắt đầu thiêm thiếp. Tôi có cảm
giác là trận bão hãy còn dữ dội và chúng tôi vẫn còn đi vu vơ trên cánh đồng
hoang phủ tuyết… Bỗng tôi thấy một cái cổng và thấy xe đi vào sân dinh thự nhà
tôi. Ý nghĩ đầu tiên của tôi là sợ rằng cha tôi sẽ nổi giận vì tôi đã vô tình
trở lại nhà và tưởng rằng tôi đã cố ý trái lệnh người. Tôi lo lắng nhảy xuống
xe và thấy mẹ tôi đang đứng đón tôi ở trước thềm, vẻ buồn rầu vô hạn. Người bảo
tôi: “Khẽ chứ, cha con ốm sắp qua đời rồi, đang mong được gặp lại con lần cuối
cùng đấy”. Tôi hốt hoảng theo mẹ tôi vào phòng ngủ. Tôi thấy gian phòng tối mờ
mờ, bên cạnh giường có nhiều người đứng, vẻ mặt buồn rầu. Tôi rón rén bước lại
phía giường. Mẹ tôi vén màn lên và nói: “Ông Anđrây Pêtơrôvích, thằng Piốt đã về
đây rồi: nó biết ông ốm nên quay trở lại đấy; ông làm dấu ban phước cho nó đi”.
Tôi quỳ xuống và ngước mắt nhìn người bệnh. Ồ, sao thế này? Hóa ra đấy không phải
là cha tôi: người nằm trên giường là một người nông dân để bộ râu đen, đang vui
vẻ đưa mắt nhìn tôi. Tôi bàng hoàng quay lại phía mẹ tôi, nói: “Như thế nghĩa
là thế nào? Đây có phải cha con đâu? Tại sao con lại phải đến cho một lão nông
dân ban phước?” Mẹ tôi đáp: “Cũng thế thôi con ạ, đây là cha chủ hôn của con đấy,
con đến hôn tay người đi, để người làm dấu ban phúc cho con…”. Tôi một mực
không chịu. Lúc đó người nông dân từ trong giường chồm dậy, với tay rút một cái
rìu ở sau lưng ra và bắt đầu vung lên tứ phía. Tôi muốn bỏ chạy, nhưng không
sao chạy được; gian phòng đã đầy những xác chết; tôi cứ vấp vào các thây ma và
trượt chân trên những vũng máu nhầy nhụa… Người nông dân kinh khủng kia ôn tồn
gọi tôi lại nói: “Đừng sợ, lại đây ta ban phúc cho…”. Tôi sợ hãi và bàng hoàng
không sao tả xiết… Vừa lúc ấy tôi tỉnh dậy. Ngựa đã dừng lại, Xavêlích kéo tay
tôi, bảo: “Xuống thôi cậu, đến nơi rồi”.
Tôi
giụi mắt hỏi:
- Đến
đâu rồi?
- Đến
quán trọ. Nhờ trời, chúng ta đã đâm thẳng vào hàng rào nhà này. Xuống nhanh đi
cậu, xuống nhanh vào mà sưởi cho ấm.
Tôi
xuống xe. Trận bão tuyết vẫn còn tiếp tục, nhưng không dữ dội như trước. Trời tối
đen như mực. Chủ quán đứng đón chúng tôi ở cổng, tay cầm cái đèn che dưới vạt
áo, và dẫn tôi vào một căn phòng chật hẹp, nhưng cũng sạch sẽ, sáng mờ mờ ánh lửa
vỏ bào. Trên vách có treo một khẩu súng trường và một chiếc mũ Cô-dắc chóp cao.
Chủ quán là một người Cô-dắc vùng sông Iaich (ngày nay là sông Uran), một nông
dân trạc chừng sáu mươi tuổi, hãy còn mạnh khỏe và nhanh nhẹn. Xavêlích mang
cái tráp đựng ấm chén vào cho tôi và hỏi xin lửa đun nước pha trà. Chưa bao giờ
tôi thấy cần uống chén trà nóng như thế này. Lão chủ quán thì xắng xở đi dọn dẹp.
Tôi
hỏi Xavêlích:
- Thế
người dẫn đường đâu?
-
Thưa ngài đây ạ, - một giọng nói đâu ở phía trên đầu tôi đáp lại.
Tôi
ngước mắt nhìn lên giàn gác thì thấy một bộ râu đen và hai con mắt sáng quắc.
Tôi hỏi:
- Thế
nào, bác kia, rét lắm hả?
- Mặc
một cái áo dạ thô thủng be bét ra thế này thì làm gì mà chả rét! Tôi cũng có áo
tu-lúp, nhưng chả giấu gì ngài, tối
hôm qua tôi gán nợ cho lão chủ quán rượu rồi, chả là hôm qua trời có vẻ không lấy
gì làm rét lắm.
Lúc ấy
ông chủ quán bưng chiếc ấm xa-mô-va đang sôi vào, tôi mời người dẫn đường của
tôi uống một chén; hắn ta liền từ trên giàn tụt xuống. Dung mạo của hắn khiến
tôi chú ý: hắn trạc độ bốn mươi, người tầm thước, dáng xương xương, vai rộng. Bộ
râu đen có điểm mấy đường hoa râm; đôi mắt to và linh hoạt luôn đưa đi đưa lại.
Vẻ mặt hắn cũng dễ ưa, nhưng có một cái gì hơi quỷ quyệt. Tóc hắn húi thành một
vòng tròn quanh đầu theo kiểu của người Cô-dắc, hắn mặc một cái áo dạ thô đã sờn
rách và một cái quần thụng kiểu Tác-ta. Tôi đưa chén trà mời hắn uống; hắn nhấp
một ngụm, rồi nhăn mặt:
-
Thưa ngài, xin ngài làm ơn bảo đem cho một cốc rượu: người Cô-dắc chúng tôi
không quen uống nước trà đâu.
Tôi
vui lòng chiều theo ý hăn. Chủ quán mở chạn lấy chai cốc mang lại, rồi nhìn chằm
chằm vào mặt hắn, nói:
- Ê
hê! Chú mày lại đến vùng này đấy hử? Ở đâu đến thế?
Người
dẫn đường của tôi nháy mắt một cái, vẻ hóm hỉnh, rồi trả lời bằng một câu tục
ngữ:
- Chim bay vào vườn, chim nhả hạt đay, bà già
ném đá, may lại trượt tay. Thế còn công việc của bác ra sao rồi?
Chủ
quán vẫn dùng lối nói lóng, trả lời:
- Việc
chúng tớ ấy à? Cũng định là đến giờ rung chuông nguyện, nhưng bà cố đạo không
cho: ông cố đạo đi vắng, ma quỷ ở ngoài mồ.
-
Thôi bác im mồm đi; có trận mưa rào thì khắc có nấm, mà đã có nấm thì khắc có
gió. Nhưng bây giờ thì, - đến đây hắn lại nháy mắt, - giấu rìu sau lưng đã, có
kiểm lâm đấy! Thưa ngài, xin nâng cốc chúc ngài sức khỏe!
Nói
đoạn hắn cầm cốc rượu, làm dấu thánh giá, rồi uống một hơi cạn sạch. Xong hắn
cúi chào tôi, rồi leo lên giàn gác.
Lúc ấy,
tôi nghe mấy câu nói lóng kia chẳng hiểu tí gì; mãi về sau tôi mới đoán ra rằng
họ nói chuyện với nhau về công việc của đội quân Cô-dắc miền sông Iaích nổi loạn
hồi 1772 (Người
Cô-dắc miền sông Iaích làm thành một tổ chức quân ngũ riêng, gọi là “đội quân
Iaich”. Ngày 12 tháng Giêng 1772 đội quân Iaich phát động cuộc khởi nghĩa do
quyền tự trị của họ bị hạn chế) và bấy giờ vừa mới bị dẹp yên.
Xavêlích nghe hai người nói chuyện, vè rất khó chịu. Bác ta ngờ vực đưa mắt hết
nhìn lão chủ quán lại nhìn người dẫn đường. Ngôi quán này - tiếng địa phương gọi
là umét - dựng ở một nơi khuất nẻo,
giữa thảo nguyên xa cách làng mạc, và có vẻ như một nơi hẹn hò của phường trộm
cướp. Nhưng bây giờ chả còn biết làm thế nào được nữa. Chả nhẽ lại đùng đùng bỏ
đi? Vẻ lo lắng của Xavêlích làm cho tôi buồn cười. Tôi bắt đầu dọn chỗ ngủ và nằm
ra chiếc ghế dài. Xavêlích leo lên lò sưởi, (Nông dân Nga thường nằm ở giàn trên của lò
sưởi cho ấm), còn chủ quán thì nằm ở giữa sàn nhà. Chẳng bao lâu
trong ngôi nhà gỗ, tiếng ngáy đã vang lên, và tôi thiếp đi, ngủ say như chết.
Sáng
hôm sau tôi dậy hơi muộn, nhìn ra ngoài thì thấy cơn bão đã tạnh hẳn. Mặt trời
sáng rực. Thảo nguyên mênh mông phủ tuyết trắng xóa nhìn chói cả mắt. Ngựa đã
thắng xong. Tôi trả tiền trọ cho chủ quán: lão ta tính giá rất phải chăng, đến
nỗi ngay cả Xavêlích cũng không kỳ kèo mặc cả như mọi khi, và những mối ngờ vực
tối hôm qua trong đầu óc bác đều tiêu tan đi đâu cả. Tôi gọi người dẫn đường lại,
cảm ơn hắn đã giúp đỡ chúng tôi và bảo Xavêlích cho hắn năm hào uống rượu.
Xavêlích cau mặt lại:
-
Năm hào uống rượu à! Hắn làm được cái gì mà cậu thưởng? Hắn chỉ việc ngồi xe của
cậu đi đến tận quán trọ chứ có gì đâu mà cậu thưởng. Tùy cậu đấy, chứ bây giờ
chả còn đồng năm hào nào thừa cả… Cứ lại bạ ai cũng cho tiền uống rượu, thì rồi
chả mấy chốc mà chết đói.
Tôi
không thể cãi lại Xavêlích được. Cứ như lời tôi đã hứa thì tiền bạc hoàn toàn
thuộc quyền sử dụng của bác ta. Song tôi rất lấy làm ân hận là không trả ơn được
người đã giúp tôi thoát ra khỏi một tình cảnh nếu không phải là nguy hiểm thì
ít ra cũng rất bực mình. Tôi thản nhiên nói:
-
Thôi được, nếu bác không muốn cho người ta năm hào thì xem còn cái áo nào đấy
bác lấy cho người ta vậy. Bác ấy ăn mặc phong phanh quá! Cho bác ấy cái áo
tu-lúp da thỏ của tôi đi.
Xavêlích
kêu lên:
- Trời,
cậu Piốt Anđrêêvích! Hắn lấy cái áo da thỏ của cậu làm gì kia chứ? Rồi lại nướng
ngay vào quán rượu cho mà xem.
Người
dẫn đường nói:
-
Này tôi có nướng hay không nướng thì việc gì đến lão? Quan ngài đã có lòng tặng
tôi cái áo trên vai ngài thì đó là ý muốn của ngài, còn lão thì chỉ nên tuân lệnh
ngài, chứ đừng cãi cọ gì cả.
Xavêlích
giận dữ đáp:
- Đồ
kẻ cướp, ra mày không sợ Chúa à? Mày cũng biết thừa ra rằng trẻ nó chưa biết
khôn, thế mà thấy nó thật thà tốt bụng lại muốn ăn vòi của nó! Mày lấy cái áo
con tí ấy làm gì? Làm thế nào mặc cho vừa cái thân hình chết tiệt ấy hử?
Tôi
bảo bác Xavêlích:
-
Thôi, bác đừng nói khôn nói khéo nữa, bác đưa ngay cái áo tu-lúp ra đây cho
tôi.
- Trời
đất! Cái áo còn mới chứ có phải! Mà cho ai còn được, chứ lại đem cho cái quân
say rượu này!
Tuy
vậy cái áo tu-lúp da thỏ cũng được mang ra. Người nông dân kia lập tức ướm thử
vào người. Thật ra chiếc áo này đến bây giờ tôi nhớn rồi mặc cũng đã hơi chật.
Nhưng người kia loay hoay một lúc rồi cũng mặc cố vào được. Chiếc áo bị kéo
căng quá, đường may cứ đứt chỉ kêu bùng bục khiến Xavêlích nghe mà tiếc đứt ruột,
suýt buột miệng kêu thành tiếng. Người dẫn đường rất hài lòng với món quà tặng
của tôi. Hắn tiễn tôi ra xe và cúi rạp xuống chào tôi.
-
Cám ơn ngài. Cầu chúa ban thưởng cho lòng nhân đức của ngài. Đến ngàn đời tôi
cũng không dám quên ơn ngài.
Nói
đoạn hắn từ biệt chúng tôi và ra đi. Xe chúng tôi cũng lên đường. Tôi không hề
để ý đến vẻ bực bội của Xavêlích và chỉ một lát sau, tôi quên bẵng trận bão tuyết
đêm qua cùng người dẫn đường và cái áo tu-lúp da thỏ.
Đến
Ôrenburg, tôi lập tức vào trình diện thiếu tướng. Anđrây Karlôvích là một người
cao lớn, nhưng lưng đã hơi còng vì tuổi tác. Mái tóc để dài của ông đã bạc phơ.
Bộ quân phục phai màu khiến người ta hồi tưởng lại một quân nhân thời Anna Iôanốpna
(Anna Ioanốpna
(1693-1740) - nữ hoàng Nga những năm 1730-1740, cháu gái của Nga hoàng Piốt Đại
Đế), và khi ông nói, có thể nhận rõ cái giọng lơ lớ của người Đức.
Tôi đưa bức thư của cha tôi gửi cho ông. Đọc thấy tên cha tôi, ông ta liếc nhìn
tôi một cái, rồi nói:
- Trời
ơi! Mới hồi nào Anđrây Pêtơrôvích cũng chỉ ngần này tuổi thôi, thế mà bây giờ
đã có cậu con giai nhớn tướng thế này! Chà, thời gian! Thời gian thật là!…
Ông
bóc bì thư ra và bắt đầu lẩm nhẩm đọc, vừa đọc vừa phê phán:
- “Anđrây Karlôvích đại nhân các hạ, tôi hy vọng
rằng đại quan nhân…”. Cha chả là lễ nghi! Hừ hừ, viết lách cái lối ở đâu thế
này! Đã đành là kỷ luật trên hết, nhưng viết thư cho kamerad (bạn đồng ngũ -
tiếng Đức) già ai lại… “Đại
quan nhân hẳn chưa quên…”, hừm… “và hồi…
sinh thời nguyên soái Min… chiến dịch… và hẳn còn nhớ… cô bé Karôlinca…”. Ê
hê! Bruder ! (người
anh em - tiếng Đức). Thế là bác ta hãy còn nhớ những trò quỷ sứ của
cánh ta ngày xưa đấy nhỉ! “Bây giờ xin
bàn vào công việc… Xin gửi quan bác thằng con trời đánh của tôi”… hừm… “với nó phải đi găng lông nhím mới được”…
Găng lông nhím là cái gì nhỉ? Chắc lại là một tục ngữ tục nghiếc gì của Nga
đây… “Găng lông nhím” là thế nào hử? -
ông quay sang hỏi tôi.
Tôi
làm ra một vẻ mắt hết sức ngây thơ, đáp:
- Dạ,
như thế nghĩa là đối xử dịu dàng, không nghiêm khắc quá, để cho tự do thoải
mái, đi găng lông nhím là như vậy đấy ạ.
- Hừm,
tôi hiểu… - Anđrây Karlôvích lại đọc tiếp, - “và đừng để nó tự do”… không phải, cứ như ở đây thì đi găng lông
nhím không phải như thế… “kèm theo đây… tờ
hộ chiếu của nó…”. Đâu nào? À đây rồi… “viết
thư hộ cho trung đoàn Xêmiônốpxki”… Được, được, rồi đâu sẽ vào đấy cả. “Quan bác cho phép tôi thân mật ôm hôn… và
như một người bạn đồng ngũ già” - a! Bây giờ mới nhớ ra… và vân vân, vân
vân…
Anđrây
Karlôvích đọc xong bức thư, đặt tờ hộ chiếu của tôi sang một bên, rồi nói:
-
Thôi được rồi, cậu em ạ, mọi việc rồi sẽ đâu vào đấy, cậu sẽ được chuyển về làm
sĩ quan ở trung đoàn N. và để cậu khỏi mất thì giờ, sáng mai cậu sẽ lập tức đến
đồn Bêlôgorxcơ, cậu sẽ được sung vào đơn vị của đại úy Mirônốp. Ông ta là người
hiền lành và trung trực. Ở đấy cậu sẽ được sống một cuộc đời lính chiến thực sự,
sẽ học được tinh thần kỷ luật. Ở Ôrenburg thì chả có gì cho cậu làm cả; nhàn cư
vi bất thiện, nhất là đối với một thanh niên như cậu. Còn hôm nay thì mời cậu ở
lại ăn bữa chiều ở nhà tôi.
Tôi
nghĩ thầm:
“Thật
là càng ngày càng gay go! Ngay từ khi đang nằm trong bụng mẹ, đã đăng ký vào
quân cận vệ, thế mà có ăn thua gì đâu! Kết quả là thế nào? Rút cục là vào trung
đoàn N. ở một cái đồn heo hút tận biên giới Kiếcghidia Caixắc”. (Vùng ở phía sông
Uran, bây giờ là lãnh thổ nước Cộng hòa Kadắcxtan)
Tôi
ăn bữa chiều với Anđrây Karlôvích và người sĩ quan hầu cận già của ông. Cách dọn
ăn trên bàn của ông lộ rõ nếp sống tiết kiệm khắc khổ của người Đức, và tôi
nghĩ rằng sở dĩ ông ta vội vã cho tôi về nhận chức ở đồn như vậy một phần chẳng
qua cũng chỉ vì sợ có thêm khách ăn mà thôi. Ngày hôm sau tôi từ giã viên tướng
lên đường tới nơi đóng quân.
------------
Còn tiếp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét