Đắc Lê dịch
Tối tối, nàng ra khỏi bóng tối trùm lên ngõ hẻm, bước vào
trong ánh sáng rực rỡ của đường phố giống như một đứa trẻ sợ sệt lúc xa nhà.
Tôi biết chưa khi nào nàng đến đầu cái ngõ hẻm này trước lúc tám giờ, thế mà có
nhiều tối, tôi chạy tới đó từ trước hàng hai tiếng đồng hồ, đứng đợi bên cạnh
cái máy nước to lớn, sơn màu xanh đỏ cho tới khi nàng tới. Trong suốt những
tháng chúng tôi gần gũi nhau, nàng chỉ đến chậm có hai ba lần, lúc nàng đến mới
chỉ quá tám giờ mươi mười lăm phút.
Rây-chơn không bao giờ cho tôi biết chỗ ở của nàng và cũng
không bao giờ bằng lòng để tôi đưa nàng về nhà. Nơi đầu ngõ hẻm cạnh máy nước
là cái cửa để nàng bước ra vào lúc tám giờ và cũng là cái cửa đóng lại khi nàng
trở về lúc 10 giờ. Những lúc tôi muốn đưa nàng về nhà, nàng đều khẩn khoản nói
với tôi rằng bố nàng không cho phép nàng giao thiệp với bọn con trai, rằng nếu
thấy chúng tôi đi với nhau, ông sẽ đánh đập nàng không thương tiếc, hoặc sẽ
đuổi nàng ra khỏi nhà. Vì thế tôi đành giữ lời hứa và chưa lúc nào đi cùng nàng
qua lối ra vào ở đầu ngõ cả.
- Anh Phe-reng ạ, buổi tối em sẽ thường xuyên lại đây gặp
anh, - nàng nói với tôi, rồi vội vã thêm. - chừng nào anh còn muốn em đến.
Nhưng anh phải giữ lời hứa là không bao giờ được tìm chỗ em ở, hoặc đưa em về
nhà đấy.
Tôi hứa đi, hứa lại với nàng.
- Có lẽ một ngày nào đó, anh có thể đến thăm em được.- nàng
thì thầm và chạm cánh tay tôi. - nhưng bây giờ thì chưa được. Anh không bao giờ
được đi quá cái máy nước đấy. Bao giờ em bảo được hẵng đi nhé!
Hầu như cứ mỗi lần gặp Rây-chơn, tôi đều nghe nàng giao hẹn
như thế, tựa như nàng muốn tôi nhận thấy có một mối nguy hiểm nào đó núp trong
bóng đen của ngõ hẻm ấy. Tôi biết là không có một mối nguy hiểm về thể xác nào
cả, bởi vì nhà của chúng tôi ở góc phố đó, và tôi quen biết hết thảy hàng xóm
láng giềng. Hơn nữa, ban ngày mỗi khi về muộn bữa, tôi thường đi qua cái ngõ
hẻm ấy để về nhà bằng lối cửa sau, vì đó là lối đi tắt. nhưng đêm đến, ngõ hẻm
là của Rây-chơn; và ban đêm, tôi không bao giờ theo đường ấy về nhà, vì sợ nhỡ
ra trông thấy nàng hoặc nghe thấy điều gì đó về nàng. Tôi đã hứa với nàng từ
buổi đầư gặp gỡ là không bao giờ đi theo nàng để tìm nơi nàng ở, hoặc tìm ra
tên thật của nàng. Lời hứa ấy, tôi giữ đến cùng.
Tôi đoán Rây-chơn và gia đình nàng rất nghèo, vì suốt gần
một năm trời nàng chỉ mặc mỗi một bộ quần áo. Đó là bộ quần áo vải màu xanh đã
bạc màu, cũ kĩ. Tôi chưa hề thấy nó bị dây bẩn bao giờ. Tôi chắc ngày nào nàng
cũng giặt. Bộ quần áo ấy được mạng vá nhiều lần, cẩn thận và khéo léo; mỗi buổi
đến gặp nàng, tôi đều cảm thấy lo lắng là bộ quần áo chẳng còn mặc được bao lâu
nữa. Tôi muốn dùng mấy đô-la dành dụm ở ngân hàng để mua tặng nàng một bộ nhưng
tôi cũng ngại. Tôi biết chắc là nàng không đời nào cho phép tôi biếu nàng số
tiền ấy và tôi không biết chúng tôi sẽ làm thế nào khi bộ quần áo rách hẳn. Tôi
tin chắc rằng đó là lúc tôi sẽ không còn được gặp nàng nữa. Nàng phải hết sức
giữ gìn bộ quần áo và rất cẩn thận khi giặt hàng ngày mới có thể giữ cho nó còn
được nguyên vẹn như thế.
Có một lần, Rây-chơn đi tất lụa đen. Từ tối đầu tiên nàng
bước vào đường phố rực rỡ ánh đèn với đôi tất sợi trắng, suốt một năm trời nàng
chưa chưa hề mang đôi tất nào khác. Thế rồi một buổi tối, nàng đi đôi tất lụa
đen.
Tối hôm sau, tôi mong thấy nàng lại đi đôi tất ấy nhưng khi
nàng bước ra khỏi ngõ hẻm tôi lại thấy nàng vẫn mang đôi tất sợi trắng. Tôi
không hỏi nàng vì kinh nghiệm dạy tôi không bao giờ nói một điều gì làm tổn
thương đến tình cảm của nàng; nhưng tôi không thể hiểu được tại sao nàng chỉ
mang đôi tất lụa đen ấy có một lần thôi. Nếu tôi hỏi, biết đâu nàng sẽ cười,
chạm cánh tay tôi như nàng thường làm khi chúng tôi ở bên nhau và nói cho tôi
nghe. Nhưng tôi ngại không dám hỏi có bao nhiêu cách có thể làm cho nàng khổ
tâm và cảm thấy bị tổn thương.
Mỗi buổi tối, khi nàng bước ra khỏi ngõ hẻm tối đen, thì tôi
lại gặp nàng, và chúng tôi cùng đi trên con đường rực rỡ ánh đèn đến hiệu giải
khát ở góc phố. Đối diện với hiệu giải khát là rạp chiếu bóng. Mỗi buổi tối,
nếu không vào hiệu giải khát thì chúng tôi vào rạp chiếu bóng. Tôi muốn đưa
nàng vào cả hai nơi nhưng tôi chưa bao giờ kiếm đủ tiền để vào cả hai trong
cùng một buổi tối. Với 20 xu tiền công đưa báo buổi chiều trên một con đường
nhà cửa san sát, làm sao có thể đủ để vừa mua kem ở hiệu giải khát vừa mua vé
xem xi-nê được. Chúng tôi đành phải chọn một trong hai thứ.
Lúc đứng ở cái góc đối diện hiệu giải khát và hiệu chiếu
bóng, chưa bao giờ chúng tôi quyết định được ngay là nên xem chiếu bóng hay nên
ăn kem. Những giây phút vui sướng ở góc phố ấy, đối với tôi, cũng thú vị như
mọi việc chúng tôi đã làm. Rây-chơn luôn buộc tôi phải nói với nàng tôi thích
vào đâu hơn, trước khi nàng bộc lộ ý mình. Và tất nhiên tôi mong ước làm sao
cho nàng vừa lòng nhất.
- Anh sẽ không nhích một bước về bất cứ phía nào cho đến khi
em bảo anh là em thích vào đâu hơn.- Tôi thường nói với nàng thế, - Đối với
anh, việc đó không thành vấn đề, bởi vì được ở bên em là tất cả những điều anh
hằng mong ước.
- Anh Phơ-reng ạ, thế thì để em nói là ta nên đi đâu nhé, -
nàng vừa nói vừa chạm cánh tay tôi, rồi vờ như đùa bỡn.- anh vào hiệu giải khát
còn em vào rạp chiếu bóng.
Đó là cách Rây-chơn nói cho tôi biết nàng thích vào đâu hơn.
Nhưng khi nàng gợi ý tôi vào rạp chiếu bóng, còn để nàng vào hiệu giải khát thì
tôi biết tối ấy nàng thích món kem hơn. Thú vui xem xi-nê kéo dài được gần 2
giờ còn ăn kem thì chẳng bao giờ kéo dải được quá nửa giờ, do đó, trừ hai ba
buổi, còn tất cả các buổi tối trong tuần chúng tôi đều vào rạp chiếu bóng ở bên
kia đường phố.
Đó là nơi tôi luôn mong được đến, vì trong bóng tối lờ mờ,
chúng tôi ngồi sát bên nhau và tôi nắm tay nàng. Và nếu trong rạp không đông
người, chúng tôi bao giờ cũng tìm hai chỗ gần hàng ghế cuối ở một trong hai
góc, và ở đó tôi hôn nàng, khi chúng tôi chắc chắn không có ai nhìn hai đứa
chúng tôi.
Sau khi tan xi-nê, chúng tôi ra ngoài đường phố sáng và
thong thả bước về phía cái máy nước sơn màu xanh đỏ ở giữa dãy nhà đằng kia.
Chúng tôi dừng lại một lát ở đầu ngõ hẻm. Trong khi đi chầm chậm về phía ngõ
tối đó, nếu trên đường phố không có ai khác, bao giờ tôi cũng choàng tay ôm
ngang lưng Rây-chơn. Chúng tôi không nói gì, tôi ôm chặt Râychơn hơn, còn nàng
siết chặt mấy ngón tay tôi. Cuối cùng, sau khi kéo dài thời gian ra về của nàng
đến lúc không thể nấn ná thêm được nữa, chúng tôi bước mấy bước khuất vào trong
bóng tối của ngõ hẻm và đứng ôm nhau. Lần đầu tiên trong tối đó, Rây-chơn hôn
tôi, và tôi hôn lại nàng; rồi chúng tôi chia tay, vẫn không ai nói gì cả.
Lúc nàng sắp biến vào bóng đen của ngõ hẻm, tôi chạy theo,
nắm lấy tay nàng:
- Anh yêu em, Rây-chơn ạ, - tôi nói với nàng thế, và khi
nàng kéo tay tôi về, tôi nắm chặt hơn ngón tay nàng.
- Em cũng yêu anh, anh Phơ-ren ạ. - nàng nói và quay người
chạy vào trong ngõ.
Sau khi đợi một lát, lắng nghe cho đến lúc không còn tiếng
chân nàng bước nữa, tôi mới quay lại và bước chầm chậm ngược đường phố về nhà.
Nhà tôi ở cách một dãy nhà: một nửa dãy nhà gối đầu vào góc phố này, một nửa ở
bên kia. Về đến buồng mình, tôi đến bên cửa sổ, đứng nhìn vào đêm tối, lắng
nghe tiếng chân nàng. Cửa sổ buồng tôi trông ra cái ngõ hẻm nằm sau ngôi nhà,
những ngọn đèn ngoài phố tỏa ánh sáng mờ mờ trên nóc các ngôi nhà, nhưng tôi
không bao giờ có thể nhìn thấy phía dưới nằm trong bóng tối ngõ hẻm. Sau khi
đứng bên cửa sổ hơn một tiếng đồng hồ, tôi mới thay quần áo đi ngủ. Nhiều lần
tôi tưởng như nghe thấy tiếng nàng ở đâu đây trong bóng tối, nhưng sau khi nhảy
khỏi giường và đến bên cửa sổ lắng tai, chăm chú một lúc lâu, tôi mới biết đó
là một âm thanh khác.
Gần cuối mùa hè, tôi nhận được 5 đô-la là quà sinh nhật của
một người cô gửi cho tôi. Ngay sau khi lúc nhận được tiền, tôi liền phác thảo
một kế hoạch cho Râychơn và tôi. Tối hôm đó, tôi muốn làm cho nàng ngạc nhiên
với món tiền này, rồi đưa nàng đi tàu điện đến khu trung tâm thành phố, trước
tiên, chúng tôi sẽ vào một hiệu ăn, rồi sau đó vào một rạp hát lớn. Chúng tôi
chưa bao giờ cùng nhau đến khu trung tâm, đây là lần đầu tiên, một lúc tôi có
trong tay món tiền quá 50 xu. Chiều hôm đó, sau khi đưa báo xong, tôi chạy ngay
về nhà, và bắt đầu nghĩ đến kế hoạch dự định cho buổi tối.
Trước khi trời tối, tôi đã từ phòng mình đi xuống thang gác,
ra cổng trước, đợi đến giờ đi gặp Rây-chơn. Tôi ngồi trên bậc thềm, quên bẵng
cả việc báo cho mẹ tôi biết là tôi sẽ đi chơi ở khu trung tâm. Mẹ tôi không bao
giờ cho phép tôi đi xa nhà như thế, nếu như không nói trước là đi đâu, đi với
ai và đến bao giờ thì về.
Tôi ngồi ở bậc thềm được gần một tiếng đồng hồ thì chị tôi
ra cửa gọi tôi. Chị Nen-xi bảo tôi:
- Em có việc phải làm đấy, Phơ-reng. Trước khi đi chơi, mẹ
bảo em vào bếp đã. Em đừng quên mà đi mất nhé.
Tôi đáp là sẽ vào ngay. Nhưng mải tưởng tượng Rây-chơn sẽ
ngạc nhiên như thế nào, tôi quên mất có công việc đang chờ tôi ở trong bếp đã
gần nửa giờ đồng hồ rồi. Lúc ấy đã đến sát giờ gặp Rây-chơn ở cái máy nước, tôi
đứng phắt lên, chạy vào bếp để làm thật gấp cho xong việc.
Khi tôi vào đến bếp, chị Nen-xi đưa cho tôi một hộp nhỏ, bảo
tôi mở ra, đem bột rắc vào trong thùng rác. Tôi đã từng nghe mẹ tôi nói về
chuyện chuột chui vào thùng rác như thế nào nên tôi cầm cái hộp chạy ra cổng
sau, không đứng lại nói về chuyện đó. Vừa rắc bột vào đống thức ăn thừa xong,
tôi liền chạy ngay vào nhà, tìm mũ, rồi lao ra phố. Tôi bực chị tôi đã làm tôi
trễ giờ gặp Rây-chơn, mặc dù lỗi là ở tôi, vì tôi có thể làm xong việc đó sớm
hơn. Thế nhưng tôi tin chắc rằng thế nào Rây-chơn cũng đợi tôi, dù tôi có chậm
ít phút. Tôi không thể tin được là nàng đã đến chỗ máy nước mà lại bỏ đi ngay.
Tôi chạy được gần hai chục bước thì nghe thấy tiếng mẹ tôi
gọi. Tôi nói với lại:
- Con đi xem xi-nê đây, mẹ ạ. Con sẽ về sớm thôi.
Mẹ tôi đáp:
- Được thôi, Phơ-reng ạ. Mẹ chỉ sợ con đi vào khu trung tâm
hoặc nơi nào xa như thế thôi. Cố mà về sớm nhé.
Tôi chạy vài bước, rồi dừng lại. Tôi rất lo mẹ tôi bắt ở
nhà, nếu tôi nói là đi vào khu trung tâm, nên hết sức phân vân không biết làm
thế nào. Tôi chưa bao giờ nói dối mẹ và lúc này tôi không tài nào buộc mình
phải làm điều ấy. Tôi nhìn lại, thấy mẹ tôi đang đứng trên bậc thềm nhìn tôi,
tôi nói:
- Mẹ ơi, con đi đến khu trung tâm đây, nhưng con sẽ về sớm.
Trước khi mẹ tôi kịp gọi tôi lại, tôi đã cố hết sức chạy
thật nhanh, vòng qua góc phố, rồi lao đến chỗ cái máy nước ở đầu ngõ hẻm. Gần
đến cái máy nước, chẳng thấy Rây-chơn đâu, tôi mới dừng lại thở hổn hển một
lúc.
Nàng kia rồi, đang đứng đợi tôi bên cạnh hàng rào. Nàng nói
là chỉ vừa mới đến trước đó một giây thôi. Chúng tôi đi về phía góc phố, nơi có
hiệu giải khát, tôi lấy tiền từ túi đựng đồng hồ ra, chìa cho nàng xem. Nàng
còn vui sướng hơn cả lúc tôi thấy món tiền này lần đầu tiên. Nàng ngắm nghía
món tiền một lúc, rồi mân mê nó trong lòng bàn tay. Tôi bảo cho nàng biết những
dự định của tôi cho tối hôm ấy.
Nghe thấy tiếng tàu điện đang đến, chúng tôi chạy lại góc
phố, vừa kịp lên tàu. Tàu chạy vào khu trung tâm rất nhanh, tuy vậy nhưng chúng
tôi cũng mất gần nửa giờ mới tới nơi. Chúng tôi xuống tàu ở gần nơi có nhiều
rạp hát.
Tôi định trước tiên sẽ vào một quán ăn nhỏ, sau đó sẽ đi xem
biểu diễn. Ngay lúc đi ngang qua hiệu giải khát, Rây-chơn nắm lấy cánh tay tôi
nói:
- Anh Phơ-reng ạ, em khát ghê lắm anh ạ. Anh đưa em vào hiệu
giải khát và lấy cho em một cốc nước được không anh?
Tôi đáp:
- Nếu em cần phải uống ngay bây giờ thì anh sẽ đưa em vào
hiệu giải khát, nhưng em không thể chờ thêm được một vài phút nữa sao? Cách đây
vài nhà có một hiệu ăn, đến đó chúng ta sẽ uống nước trong khi chờ người ta dọn
thức ăn. Nếu để mất nhiều thời giờ, chúng ta sẽ không xem được trọn vẹn buổi
phim.
- Em không thể chờ được nữa, anh Phơ-reng ạ, - nàng vừa nói
vừa víu chặt cánh tay tôi. - Anh cảm ơn, làm ơn lấy cho em một cốc nước. Nhanh
lên anh!
Chúng tôi vào hiệu thuốc, đứng trước vòi bán xô-đa. Tôi bảo
cho một cốc nước. Rây-chơn đứng đợi sát bên cạnh tôi và nắm cánh tay tôi mỗi
lúc một chặt hơn.
Trước mặt chúng tôi, trên bức tường là một tấm gương lớn.
Tôi thấy hình chúng tôi in rõ trong gương, nhưng trong hình bóng của chúng tôi,
đặc biệt là của Rây-chơn, có một vẻ mà từ trước tôi chưa bao giờ chú ý đến.
Đúng là chúng tôi chưa hề có lần nào đứng trước một tấm gương lớn, bây giờ tôi
mới nhìn thấy. Sắc đẹp của Rây-chơn phải có một tấm gương lớn mới bộc lộ hết
được. Đường cong của đôi má và đôi môi vẫn tuyệt đẹp. Vẻ yêu kiều cân đối của
cổ và cánh tay nàng vẫn là vẻ đẹp tôi đã tôn thờ, nhưng bây giờ trong tấm gương
trước mặt chúng tôi lần đầu tiên tôi mới thấy vẻ quyến rũ mới lạ, chưa hề lộ
ra.
- Nhanh lên, anh Phơ-reng ơi, - Rây-chơn kêu lên, víu chặt
lấy cánh tay tôi một cách tuyệt vọng. - nước, anh ơi !
Tôi gọi người bán hàng lần nữa, nhưng không nhìn anh ta, bởi
vì tôi không muốn rời khỏi cái sắc đẹp như thế ở một người thiếu nữ. Tấm gương
như một tia chớp xuyên qua căn phòng tối để lộ ra trong một thoáng cái duyên
dáng mà trong suốt thời gian gần gũi nàng tôi không phát hiện ra và chưa nhìn
thấy. Thật không thể tin được rằng một người đàn bà, rằng Rây-chơn lại có thể
có được cái sắc đẹp mới lạ và có lẽ là có một không hai như thế.
Nàng lại víu chặt cánh tay tôi, làm những ý nghĩ của tôi tan
vỡ như người ta vừa đập một tấm gương. người bán hàng rót đầy cốc nước và đưa
cho nàng, nhưng cốc nước chưa đến tay, nàng đã với tay ra, giật lấy. Người bán
hàng cũng như tôi đều rất ngạc nhiên. Từ trước đến nay, Rây-chơn chưa bao giờ
xử sự như thế. Mọi điều nàng làm trước đây đều rất hoàn mỹ.
Nàng nắm chặt như muốn bóp vỡ cốc nước và uống một hơi. Rồi
nàng trả vội cái cốc cho người bán hàng, một tay giữ lấy cổ họng và gào lấy
nước nữa. Trước khi người bán hàng rót đầy cốc nước, nàng lại gào lên to hơn
trước. Khách đi đường dừng lại và chạy vào xem việc gì đang xảy ra. Những người
khác trong cửa hiệu cũng chạy xô về phía chúng tôi, chăm chú nhìn Rây-chơn.
- Em làm sao thế, Rây-chơn? - Tôi khẩn khoản hỏi, nắm lấy
hai cổ tay nàng và lắc mạnh.- Em Rây-chơn, em làm sao thế?
Rây-chơn quay lại nhìn tôi. Mắt nàng đã đảo ngược, đôi môi
sưng vù và bầm đen. Nét mặt nàng trông thật khủng khiếp.
Một người pha chế thuốc chạy lại chỗ chúng tôi. Anh ta
thoáng nhìn Rây-chơn rồi chạy về phía sau cửa hiệu. Lúc đó Rây-chơn ngã sấp vào
cái vòi nước ngọt bằng đá cẩm thạch. Tôi đỡ lấy nàng, giữ cho nàng khỏi ngã
xuống đất.
Người pha chế thuốc quay trở lại, mang theo một thứ nước
quánh trắng như sữa. Anh ta đặt cái cốc vào môi nàng và cố đổ thứ nước đó vào
trong cổ họng nàng. Anh ta nói:
- Tôi e rằng đã quá chậm. Nếu chúng tôi biết sớm độ 10 phút
thì có thể cứu được cô ấy.
- Quá chậm? - Tôi hỏi. - Quá chậm cái gì? Cô ấy làm sao thế?
- Cô ấy bị ngộ độc. Theo tôi thì hình như đó là thuốc diệt
chuột. Chắc vậy, nhưng cũng có thể là loại thuốc độc khác.
Tôi không thể tin bất kì điều gì anh ta đang nói và cũng
không thể tin được điều tôi thấy là sự thực.
Thuốc giải độc không có tác dụng gì với Rây-chơn. Nàng nằm
đờ trong cánh tay tôi, mặt mỗi lúc một méo mó và đen xạm hơn.
- Nhanh lên, đem vào phía sau! - Người pha chế thuốc nói,
lay tôi.
Chúng tôi cùng nâng nàng lên và nhanh chóng đưa nàng về phía
sau cửa hiệu. Người pha chế thuốc với lấy một cái bơm hút và cố ấn vào cổ họng
nàng. Ngay lúc anh ta định cho cái bơm chạy, thì một người thầy thuốc chạy đến
len vào giữa chúng tôi và nhanh chóng khám cho Rây-chơn. Một lát sau, ông ta
đứng lên rồi ra hiệu cho tôi và người pha chế thuốc đứng sang một bên. Ông ta
nói:
- Giờ thì muộn quá rồi. Trước đây nửa giờ, chúng tôi còn có
thể cứu được cô ấy, nhưng lúc này tim đã không còn hoạt động và hơi thở đã
ngừng lại rồi. Chắc chắn cô ấy đã nuốt phải cả một hộp thuốc độc; tôi nghĩ là
thuốc diệt chuột. Thuốc đã ngấm vào máu, vào tim.
Người pha chế thuốc ấn vòi bơm vào cổ họng nàng và bắt đầu
cho bơm hoạt động. Người thầy thuốc vẫn đứng bên chúng tôi chỉ bảo, nhưng luôn
lắc đầu. Chúng tôi cố đổ chất kích thích vào cổ họng nàng và cố sức làm cho
nàng sống lại bằng phương pháp hô hấp nhân tạo. Suốt thời gian đó, người thấy
thuốc đứng sau chúng tôi luôn miệng nói:
- Thôi, thôi. Vô ích thôi. Giờ thì đã quá muộn rồi. Cô ấy
không bao giờ sống lại nữa. Trong người cô ấy có một liều thuốc diệt chuột đủ
giết chết được 10 người.
Một lát sau, xe cứu thương đến mang nàng đi. Tôi không biết
người ta mang nàng đi đâu và tôi cũng không cố tìm biết. Tôi ngồi trong căn
buồng nhỏ có vách ngăn màu nâu xung quanh đầy những chai lọ dán nhãn hiệu
trắng; tôi đưa mắt nhìn người pha chế thuốc, người đã cố sức cứu nàng.
Cuối cùng khi tôi đứng dậy bỏ đi thì hiệu giải khát không
còn ai nữa, trừ một người bán hàng đang nhìn tôi hờ hững. Đường phố cũng không
còn ai, ngoài mấy người lái xe tắc-xi đang nhìn theo con đường tôi đi.
Trong lòng đau khổ, tôi bước về nhà qua những phố vắng.
Đường vắng ngắt, mắt mờ lệ, tôi không còn thấy con đường tôi đang đi nữa.
Tôi không thấy những chỗ sáng, chỗ tối trên đường, nhưng đau
xót thay, tôi có thể thấy rõ mồn một hình ảnh của Rây-chơn trong một tấm gương
lớn đang cúi xuống thùng rác đựng thức ăn thừa của nhà tôi, trong khi đó hình
sắc tuyệt đẹp của nàng trong gương rực cháy trong tâm hồn và trái tim tôi.
-----------
In trong tập Hoa Dại - nxb Lao Động, 1986
-----------
In trong tập Hoa Dại - nxb Lao Động, 1986
Có những câu chuyện mà khi ta nghe, ta đọc xong thì chẳng có một phê bình nào thích đáng bằng câm lặng.
Trả lờiXóa