Chủ Nhật, 2 tháng 3, 2014

Những ngôi sao Eghe - (p12)

Gárdonyi Géza

Những ngôi sao Eghe
(Nguyên tác: Egri Csillagok)

Dịch giả: Lê Xuân Giang
Tiểu thuyết - Văn học Hungari
Nhà xuất bản: Văn học - Hà Nội
Năm xuất bản: 1987

Phần năm

Nguyệt thực - (tiếp theo)

14

Nếu dùng gỗ không thành công, chúng ta sẽ thành công với đất! - Quân Thổ nghĩ vậy.
Chúng đặt thành ngoài, vốn nguy hiểm cho việc chuyên chở, vào dưới tầm pháo: ban ngày chúng bắn phá rầm rầm, còn ban đêm chúng chở bổi và đất đến. Mỗi lượt đất đắp lên chúng lại tưới nước cho dẽ.
Gergey lo lắng trông thấy con đường mới không thể phóng hỏa mà đốt được ấy cứ mỗi ngày một cao dần lên về phía thành. Hàng trăm, hàng ngàn, toàn thể trại giặc sẽ theo đường đó mà lên.
Chàng lo nghĩ, đi ngược đi xuôi trong thành.
Chàng nhòm ngó tất cả mọi đống đổ nát, mọi đống đá, mọi chuồng bò, chuồng ngựa, mọi hầm ngầm, mọi đống đạn đại bác. Chàng gãi đầu gãi tai, và cứ thế lắc đầu hoài. Chàng đến cả chỗ đống đổ nát của kho đồ thánh. Cuối cùng chàng dừng lại trong góc phòng thợ nguội. Ở đó, trước vô khối binh khí Hung và Thổ vứt thành đống, có một cái bánh xe lớn đen kịt, Gergey nhận ra đó là bánh xe của một cái cối xay bị nổ tung.
Gã xigan đang ngồi trên cái bánh xe, ăn thịt luộc đựng trong một cái đĩa sành to. Gã tự vũ trang cho mình một cách ghê gớm. Chân đi đôi ủng ionisa màu đỏ tươi, lưng giắt đầy những thanh gươm cong sáng loáng, đầu đội mũ chiến bằng đồng thủng lỗ chỗ, có lẽ cũng là đồ của bọn Thổ. Gã xigan cảm thấy mình cũng là chiến sĩ, liền đứng dậy, ôm cái đĩa vào cánh tay trái, còn tay phải đưa lên chào. Rồi gã lại ngồi xuống với món thịt.
- Đứng dậy cái, anh bạn. - Gergey bảo gã. - Để ta xem cái bánh xe này.
Gã xigan đứng tránh ra.
Cái bánh xe còn khá lành lặn, chỉ bị gãy có hai nan hoa, Gergey đứng lên, ấn thử từng nan hoa một. Chỉ có một cái lúc lắc.
- Hừm, - chàng vừa đưa tay lên sờ cằm vừa nói.
Gã xigan cất tiếng hỏi:
- Có lẽ chúng ta định nghiền bọn Thổ chăng thưa quan thượng úy?
- Đúng đấy. - Gergey đáp. - Các ngươi xem chỗ nào lỏng thì tán đinh lại, nhanh lên.
Đám thợ nguội bỏ đĩa xuống, cầm lấy búa.
Gergey hỏi họ có thấy Đôbô ở đâu không?
- Hôm nay ngài đến đây cả chục lần ấy, - một thợ nguội trả lời. - nhưng đã nửa giờ nay chúng tôi không thấy.
Gergey bèn đi tìm ông. Chàng đến tận pháo đài nhà thờ. Ông không có ở đó. Có lẽ ông đang ở chỗ pháo đài đất.
Chàng đang ngập ngừng bước đi chợt thoáng thấy một cặp mắt phụ nữ trong một khung cửa sổ của soái phủ. Cặp mắt đó từ trong nền tranh tối tranh sáng của căn phòng nhìn chàng.
Chàng giật thót mình, đứng sững lại, nhấp nháy mắt như muốn thấy thật rõ hơn.
Nhưng cặp mắt phụ nữ đã biến mất.
Gergey đờ người như hóa đá, nhìn chằm chằm vào khung cửa sổ. Một cảm giác ấm áp đặc biệt truyền khắp người chàng khi chàng thoáng thấy cặp mắt đó, khiến cho chàng đến hàng phút vẫn không thể nhúc nhích được.
- Ồ, chuyện vớ vẩn! - Sau đó chàng lắc đầu lẩm bẩm. - Làm sao ta lại có thể nghĩ đến một chuyện như thế được!
Nhưng tuy vậy chàng lại nhìn lên lần nữa. Lần này chàng trông thấy một thằng bé Thổ trong khung cửa sổ.
Đôbô từ phía pháo đài đất đi tới. Gergey vội vã đến gặp ông.
- Thưa đại úy, tôi muốn xin cái bánh xe cối xay. - Chàng nói, tay đưa lên vành mũ chiến.
- Anh lấy đi. - Đôbô trả lời ngắn gọn và rẽ vào soái phủ.
Gergey đến nhà bếp, nơi quân lính đang ngồi trên mặt đất thành một hàng dài, ăn trưa với món đậu hầm thơm mùi dấm.
Chàng gọi mười người trong bọn họ, sai lăn cái bánh xe đến chỗ pháo đài của chàng.
Nòng súng gỉ và gãy thì trong thành vô khối. Chàng sai nạp đạn vào những nòng súng đó, rồi lấy dây thép buộc chúng vào bánh xe, sao cho đầu nòng chĩa ra phía ngoài. Chàng lại sai lấy phoi sắt, lưu huỳnh, mỡ bò, hắc ín nhét chặt vào kẽ hở giữa các nòng súng, rồi lấy ván gỗ đóng ốp hai bên. Cuối cùng chàng sai đóng những chân đế rộng bằng gỗ vào khắp xung quanh bánh xe để có thể dựng đứng mà không đổ.
Tất cả quân dân trong thành đều đến xem cái công cụ kỳ lạ đó. Bản thân Đôbô cũng đến nhìn ngắm một vài lần. Ông cho đặt một nòng súng cối vào chính giữa.
- Gergey, anh chỉnh cái này vào bên trong, sao cho nó nổ cuối cùng.
- Thưa đại úy, được ạ.
- Cần gì nữa không con, Gergey?
- Nếu có thể được tôi xin một ít thùng rỗng.
- Ở trong hầm rượu ấy à?
- Vâng. - Có khối ra đấy, anh cứ việc cho mang ra.
Dưới kia, gò đất mỗi lúc một cao. Trong này mỗi lúc một nhiều thùng được chuẩn bị xong. Người ta nạp đầy các thùng cũng với cung cách như làm cái bánh xe. Người ta bỏ cả đá vào nữa, ở dưới đáy, trên mặt và xung quanh thùng. Đáy đóng thật chắc, chỉ chừa một lỗ cho dây ngòi thò lò ra.
Đôbô có rất nhiều tu pháo - đến ba trăm khẩu. Tu pháo thực chất là những khẩu súng nòng to đặt vào tường, đạn lớn hơn quả hồ đào một chút là nạp không vừa nữa. Người ta gọi là tu pháo vì ở cuối nòng có một cái râu sắt quặp xuống. Sở dĩ cần cái râu sắt ấy là để nó giữ khẩu súng lại, vì mỗi khi bắn nòng súng lại nhảy giật lùi.
Đôbô bèn cho nạp cả những nòng tu pháo cũ đã gỉ vào những cái thùng to. Người ta chuẩn bị độ chừng năm chục cái thùng như thế để tiếp đón bọn Thổ. Người ta đóng đai, buộc dây thép, đóng đinh thật chắc.
Còn bọn Thổ đêm đêm lại hăng hái đổ đất đắp con đường tiến quân thênh thang, đẹp đẽ lên pháo đài.

15

Một buổi sáng Gergey đang ngủ giữa các chiến binh của chàng thì bỗng người ta báo cáo với Zôntoi rằng mặt nước xao động và hạt tiêu rung rinh ở trong góc chuồng ngựa.
Thế đấy, quân Thổ xảo quyệt không chỉ lấp hào mà còn đào ngách nữa!
Zôntoi không cho phép đánh thức Gergey dậy, chàng sai quân đi gọi Mectsei.
Mectsei lập tức đến ngay. Anh sai đặt khay nước và cái trống ở mấy điểm, cuối cùng anh tìm được cái chỗ cần phải đào ở trong nhà xe.
Mười chiến sĩ được lệnh đào. Chốc chốc họ lại ngừng tay để đặt khay nước xuống quan sát.
Gần trưa Gergey tỉnh dậy, chàng lập tức chạy bổ đến chỗ đào hầm.
Các chiến sĩ đã làm việc dưới tầm sâu ba sải tay. Tiếng thình thịch trầm trầm của bọn lagumji [88] báo cho biết chúng đã vào gần.
- Ơ kìa, ngài đại úy. - Gergey nói với Mectsei. - Đây là pháo đài của tôi chứ! Anh không chỉ huy ở đây.
- Thế tớ giải quyết không đúng à?
- Chúng ta hãy ngừng lại, không đào nữa!
- Để chúng nó hất tung tường lên ấy à?
- Để chúng nó khỏi đánh hơi được công việc của ta.
- Cậu muốn thế nào thì cứ việc, - Mectsei nhún vai đáp rồi rời khỏi chỗ đó.
Gergey sai mang đến một khẩu súng ngắn. Chàng đích thân đặt đá lửa, đích thân nạp thuốc. Chàng lại gọi mười tay súng đến chỗ mình, rồi cho thổi tắt các ngọn đèn đi. Họ phục trong bóng tối. Tiếng thình thịch mỗi lúc một mạnh. Đã có thể nghe cả tiếng nói của tên võ quan cầm đầu.
Chốc chốc Gergey lại đặt bàn tay lên vách để xem chỗ nào rung rinh mạnh nhất.
- Suỵt. - Chàng khe khẽ nói với các chiến sĩ. - Chúng nó đào xuyên qua bây giờ đấy.
Trong nháy mắt đó, một cái cuốc chim bổ xuyên qua, đất lạo xạo rơi xuống chân Gergey. Một lỗ hổng bằng chỗ thắt lưng hiện ra.
Tên lagumji dừng lại, nhòm vào.
Tối mịt. Hắn không thấy gì cả. Khi hắn quay lại, có thể thấy những ngọn đèn của chúng lấp ló bên kia, giữa những ngọn đèn là một tên aga đội tuyban trắng, đeo dây thao, bụng phệ. Tên lagumji kêu to lên là đã gặp lỗ hổng. Nghe tiếng hắn kêu, tên aga quay lại.
Gergey nhắm đích. Khẩu súng ngắn tóe lửa, nổ.
Tên aga ôm lấy bụng, ngã gục.
Gergey nhảy lùi lại, hô to:
- Bắn!
Mười chiến sĩ kê súng lên miệng lỗ. Đùng đoàng! - Họ bắn bọn lagumji đang đạp lên lưng lên cổ nhau tháo chạy.
Các chiến sĩ trở về với ba chục cái cuốc chim và xác chết tên aga. Chỉ một người ở lại dưới hầm với khẩu súng đã lên cò và với một ngọn đèn soi sáng chỗ lỗ hổng.
Họ đặt xác tên aga xuống bãi chợ trong thành, đặt chẳng nhẹ nhàng gì mấy, khiến đầu hắn va cộp xuống nền đá, cái tuyban rơi ra. Nhưng giờ đây đối với hắn như thế cũng tốt rồi. Hắn là một người thấp, to ngang, râu cằm xam xám. Ba vết sẹo dài trên cái đầu hói chứng minh hắn đã phục vụ xứng đáng với chức aga. Phát đạn của Gergey đã xuyên vào bụng hắn. Một viên đạn nhỏ trúng ngực, chắc hẳn do các chiến sĩ bắn.
Viên quản lý Sukan khám kỹ tuyban, đai lưng, các túi của hắn và ghi lại số tiền, số nhẫn, số bình khi tìm được trong người hắn. Số tiền và đồ vật đó được phân phát cho các chiến sĩ vừa phục vụ ở chỗ đường hầm.
 Sau đó lão cho phép những kẻ tò mò được đến xem. Trước hết tất cả dĩ nhiên là đám đàn bà đứng xúm lại xung quanh.
- Bọn này nó đi những đôi hia đỏ thế này cơ à?
- Chúng nó dùng dây buộc gấu quần lại các bác ạ.
- Tên này chắc là một tay giàu có lắm đây.
- Trung úy hay đại úy gì đó.
- Chả hiểu nó có vợ chưa nhỉ?
- Lại không hàng chục ấy à.
- Cũng chẳng đến nỗi xấu giai. - Mụ vợ bác thợ xay bột ở Mokola nói. - Tiếc thay hắn lại là Thổ.
Zôntoi cũng đi đến đó xem.
- Thế mà một mình tên aga này vẫn lọt được vào thành đấy!
Thằng bé Thổ bỗng ở đâu chui vào qua váy các mụ đàn bà và cúi xuống cái xác chết, mừng rỡ kêu lên:
- Bố ơi! Bố yêu! Bố! Bố thân yêu!
Nó gục đầu vào ngực xác chết, ôm lấy xác chết mà hôn. Nó áp má vào má xác chết. Nó lay, nó cười, nó gọi:
- Bố ơi! Bố yêu của con ơi!
Mắt các bà đẫm lệ. Bolốc phu nhân nắm lấy tay thằng bé mà bảo:
- Ta đi đi, Xelim! Bố ngủ đấy!

16

Lúc bình minh, khi đạo quân Thổ trùng trùng điệp điệp lại xuất phát từ dưới thung lũng để tiến đánh thành, các chiến sĩ đã chuẩn bị kỹ càng, nhìn sự di chuyển của chúng với một khoái cảm phấn khích. Nỗi háo hức trả thù như lò xo căng lên trong đường gân thớ thịt của họ. Họ đã không thể chờ đợi được nữa. Một gã trai trẻ thấp lùn nhảy qua chỗ tường vỡ ra ngoài gò đất, đối mặt với quân Thổ đang lũ lượt tràn đến, vừa quát tháo vừa giơ gươm lên đe chúng.
Các chiến sĩ trên mặt thành tất nhiên đều cười vang.
- Ai đấy? - Zôntoi cũng vừa cười vừa hỏi.
- Cậu Vorơgo đấy ạ. - các chiến sĩ trả lời, - Vorơgo Gianốt!
Gã trai nhảy trở vào, nhưng khi thấy mọi người cười vang, gã lại lao vọt ra lần thứ hai nữa và làm hiệu dọa đạo quân Thổ trùng trùng điệp điệp.
Bây giờ bọn tưphensi đã nổ súng vào gã, nghe tiếng súng gã nhảy trở vào còn nhanh hơn lần trước nữa. Thấy thế quân ta càng cười tợn.
Đôbô cũng đã trông thấy hành động đó. Ông gật đầu cho gã tỏ ý khen ngợi.
 Vorơgo Gianốt thấy vẻ thích thú của Đôbô thì, úi chà, gã nhảy vọt ra lần thứ ba nữa, và không thèm để ý gì đến những viên đạn, gã hiên ngang hăm dọa bọn Thổ đang hung hãn xông lên.
Đạn, thủ pháo, lao tua tủa bay về phía gã, nhưng không cái nào trúng đích. Gã nhảy nhót chế nhạo và lè lưỡi ra diễu chúng. Hơn thế nữa, gã còn bất thình lình quay mình lại và vỗ vỗ trên mình một cách rất chi bất lịch sự, nhưng vẫn rất thích hợp trong trường hợp đó. Sau đó gã mới nhảy vào qua lỗ hổng.
Và việc đó đã xảy ra ngay trước mũi bọn Thổ. Trước hàng trăm ngàn tên Thổ sát khí đằng đằng!
- Đáng mặt nam nhi đấy! - Đôbô gọi vọng xuống. - Ngươi sẽ được nhận phần thưởng!
Thấy ở đó mọi việc đều ổn, ông lại lên ngựa phi đến Cổng Cũ. Quân Thổ tập trung tiến vào sườn phía đông và phía nam thành. Tất cả sức mạnh của đợt công kích hướng vào hai chỗ. Gergey mặc quần áo giáp đứng trên pháo đài. Quanh chàng là những cái thùng và cái bánh xe khổng lồ.
Chàng đứng đó điềm tĩnh như quả núi đá trên bờ một biển cả gào thét.
Quân địch vẫn tiến tới, vẫn lũ lượt tràn tới. Tiếng la hét dậy trời: Nhân danh Ala! Nhân danh Ala! Tiếng thét xung trận một lúc lâu át cả dàn quân nhạc. Nhưng sau đó dàn quân nhạc dừng lại trên đồi Ghế Vua đối diện với thành và vang lên không lúc nào ngớt.
- Rồi tí nữa chúng mày còn được khiêu vũ nữa kia! - Zôntoi quát lên.
Bởi vì tiếng nhạc thì thòm cuồng loạn như thúc người ta nhảy.
Đạo quân Thổ ầm ầm lướt tới. Những lá cờ đuôi ngựa, có thêu hình nửa vầng trăng bay phấp phới. Lá cờ nửa vàng nửa đỏ của bọn ionisa đi trước nhất. Phía sau là lá cờ nền xanh sọc trắng của bọn ulepheji. Bọn xpahi xông tới trong những bộ giáp sắt, người khuất sau những cái khiên dài đến gối.
- Ala! Ala!
Tay chúng cầm giáo hoặc cầm thương. Những thanh gươm trần đeo đầu dây lủng lẳng ở khuỷu tay chúng. Ngang lưng chúng lại dắt một thanh gươm khác nữa. Từ các dãy hào, bọn chúng đông nghịt, ào ào chạy lên thành.
- Ala chí cao! Vì Ala! Chúng mày ơi!
Để trả lời, một cái thùng đen lao xuống, vừa tóe lửa, vừa nhảy lóc cóc vừa lăn về phía chúng. Một tên xpahi cắm cây thương của hắn xuống đất đón đường cái thùng, tên thứ hai, tên thứ ba cắm thương xuống bên cạnh hắn.
- Ala! Ala!
Tên thứ tư vần cái thùng định ném xuống hào. Trong nháy mắt đó, cái thùng nổ và những tia lửa của nó hất tung toán quân đi đầu.
- Ala chí cao!
Đến khi chúng nó ngửng được đầu lên, cái thùng thứ hai cũng đã lao vào giữa bọn. Nó nổ lục bục và lửa bắn ra khắp mọi phía. Nó dừng lại giữa toán lính mặc quần áo giáp đầy người và hất tung chúng nó lên.
- Ala! Ala!
Nhưng bọn địch không thể quay trở lại. Từ phía dưới hàng nghìn hàng vạn tên khác xông lên dẫm bẹp chúng nó. Chỉ có thể thấy cảnh nhảy nhót cuống cuồng: cảnh những tên ép mình vào tường, sự khựng lại của những tên đứng phía sau, cùng những tia lửa phụt ra dài hàng chục sải.
Tiến lên, quân dị giáo, tiến lên! Dù có phải xông qua lửa bỏng cũng cứ tiến lên! Và đội ngũ dày đặc của bọn xpahi vẫn lũ lượt xông lên.
Nhưng đây rồi, lớp tường con chạch trên pháo đài mở ra và một cái bánh xe gỗ khổng lồ bốc khói xuất hiện trên cao.
Phần giữa cái bánh xe bốc khói, bốc khói và rít xèo xèo.Cái bánh xe từ bên tường đá lăn ra, lao xuống, xông vào đoàn quân muôn ngàn tên dày đặc.
- Tiến lên, tiến lên! - Bọn aga và bọn iaxaun[89] hò hét khắp nơi.
Nhưng sự xuất hiện của cái bánh xe lại nói với những tên gan góc đi đầu một điều khác.
Chưa đến chỗ bọn chúng, tia chớp đầu tiên đã từ cái bánh xe lóe ra cùng với một vòi lửa dài hàng năm chục sải, mỗi một giọt của nó sau khi bắn ra vẫn tiếp tục cháy với ngọn lửa xanh lè, bất kể rơi nhằm thằng sống hay thằng chết.
- Cẩn thận! Coi chừng chúng mày ơi!
Lớp đầu của quân Thổ hoảng hốt nằm sấp mặt xuống để cho cái bánh xe ma quái kia lăn qua trên lưng. Nhưng khi đến giữa bọn chúng, cái bánh xe đã trở thành một vành lửa loe lóe liên hồi. Nó phụt lửa, dầu cháy và những bông hoa lửa màu tím lên những cái đầu cạo trọc, lên những bộ quần áo dã chiến. Nó vừa xèo xèo, lách tách, vừa đùng đoàng lăn qua hàng ngũ chúng. Từ các nan hoa vãi ra, phụt ra, bắn ra những ngôi sao đỏ, xanh, vàng thành những luồng ngoằn ngoèo.
- Trời ơi, cứu tôi với!
Những toán địch gan góc nhất cũng hoảng hốt tháo lui, đạp lên nhau chạy trốn trước quái vật khủng khiếp này.
Và cái bánh xe, dường như có trí khôn và chủ định, theo sát gót những tên chạy trốn, đánh chúng ngã xuống, phụt lửa rừng rực cùng với dầu cháy, lưu huỳnh vào người chúng, làm súng của giặc Thổ nổ bắn lẫn vào nhau. Khạc đầy lửa vào mắt, mồm, tai của chúng, đến nỗi những tên đang hấp hối cũng phải nhao người mà tránh. Cái vành lửa vẫn tiếp tục lăn đi. Những lưỡi tầm sét lửa dài bay ra đánh ngã bọn giám trận, cả nguời lẫn ngựa. Những ngọn lửa dài cháy đến tận xương, khói của nó làm quân địch ngạt thở. Tiếng nổ rền đinh tai. Nó trùm lửa lên những toán quân trên đường nó lao qua. Dọc đường nó đi không còn lại gì khác ngoài những tên quằn quại trong lửa bỏng, những tử thi cháy sém, những tên còn sống bốc lửa nhảy nhót như một lũ phát cuồng.
Giờ đây đã khoác một lớp màn khói, cái bánh xe lăn vẫn tiếp tục lăn đi, hắt ra hàng trăm luồng chớp.
- Cứu với! Cứu với! Trời ơi!
Tiếng hò hét của bọn giám trận, ngọn roi có gai đánh vào mặt những tên chạy trốn đều vô hiệu tất, không còn kẻ nào dám ở lại tấn công thành ngoài nữa.
Đã thế, quân Hung còn xông ra khỏi những chỗ tường vỡ, băm vằm không thương xót những tên nằm ẹp xuống hai bên đường để tránh bánh xe, hoặc đang bủn rủn vẫn chưa chạy kịp.
- Quay về! Quay về! - Tiếng kèn rúc lên.
Khó khăn lắm Gergey mới buộc được các chiến sĩ của chàng quay về.
- Đưa thùng gỗ lên mặt thành! Đưa thùng gỗ lên!
Các chiến sĩ lăn thùng gỗ lên dựng trên mặt thành. Nhưng phần còn lại của đạo quân Thổ đã ồn ào, hỗn độn rút khỏi chỗ đó. Chỉ những khẩu đại bác còn đứng lại cùng bọn tốpsi trố mắt ngẩn người.
May mà Mectsei đã bỏ chỗ đào hầm vừa rồi quay về vị trí, nếu không ở chỗ Cổng Cũ quân địch đã lọt vào ba nơi theo đường ngầm khác.
Trong khi ở đằng này cái bánh lửa lao vào đánh địch thì dưới nền đất Cổng Cũ, cuộc chiến đấu cũng đang diễn ra. Ở đó tường thành đã sụt lở đến nỗi quân Thổ có thể chọc thương và giáo vào qua những kẽ đá hở, quân Hung thì chọc ra. Mectsei ra lệnh cho đào hầm đối diện với đường ngầm của địch và đuổi chúng chạy dài ở cả ba nơi.
Cuối cùng quân Thổ phóng hỏa đốt cổng, để muốn qua đó mà đột nhập vào thành, nhưng tất nhiên chúng đã gặp phải một lớp tường dày, kiên cố ở đằng sau cánh cổng. Mectsie đã sớm cho xây lớp tường đó.
Khi thấy quân sĩ xuất kích và quanh mạn pháo đài của mình, quân địch đã hốt hoảng bỏ chạy, Gergey sai lấy những tấm da nhúng nước phủ lên các khẩu pháo và những thùng thuốc súng, để lại mười người đứng gác, còn bao nhiêu chàng dẫn sang Cổng Cũ để giúp Mectsei.
Nhưng ở đây cũng không còn việc gì để giúp nữa.
Nỗi kinh hoàng của bọn Thổ ở đằng kia tác động đến cả mạn cổng này. Trong số những binh đoàn đưa đến đây chỉ có bọn pháo thủ đứng vững. Bọn này đứng vòng quanh cổng mà bắn, rồi lại nạp đạn, lại bắn liên hồi.
Trên mặt thành, náu mình dưới lớp tường con chạch, những người lính canh vẫn đứng gác, chỉ có một toán chiến sĩ cúi lom khom dưới công sự. Thỉnh thoảng họ đâm giáo qua những kẽ hở trên mặt tường.
Gergey chạy lên mặt thành, nấp sau một cái khiên, nhìn xuống. Chàng trông thấy một toán lính Thổ rục rịch sát trong chân tường, từ trên cao cũng như từ hai phía sườn không thể bắn vào chúng được.
Các chiến sĩ Hung đâm ra, nhưng, hoặc chúng nép ở nơi không có kẽ hở, hoặc chúng ngồi xổm xuống. Một số đứa mang bao tải, một số đứa mang đá. Bọn chúng dùng bao tải và đá hòng bịt kín những lỗ châu mai khiến các chiến sĩ Hung không thể bắn ra được. Vì vậy các chiến sĩ Hung từ bên trong đẩy những vật đó ra, thỉnh thoảng còn nhằm đâm bọn Thổ. Còn bọn Thổ mỗi khi thấy một ngọn giáo Hung đâm ra, chúng chộp ngay lấy, rồi cả hai ba đứa bíu vào nhau. Hai bên co kéo một lúc, sau đó chúng giật cây giáo ra.
Chiến sĩ Hung chửi vung lên.
- Ê! Lửa kia kìa! Hơ ngọn giáo vào lửa ấy! - Gergey gọi vọng xuống chỗ toán lính.
Một đống lửa đang cháy bên chân tường. Cả vài chục người lính nhảy vội đến chĩa ngọn giáo vào đống than hồng. Họ nung cho đến lúc đỏ lên.
Quân Thổ sẵn sàng đoạt giáo, vừa nhăn nhở cười vừa đoạt những ngọn giáo mới.
Cùng một lúc hai chục ngọn giáo từ trong tường đâm ra.
Quân Thổ chộp ngay lấy! Đã hẳn là tay chúng cháy xèo xèo trên lưỡi giáo. Đáp lại tiếng chửi rủa điên khùng của chúng là tiếng cười khoái trá của các chiến sĩ Hung.

17

Mười hai tháng Mười. Thứ tư.
Ngày hôm đó tường thành đã giống như một cái sàng.
Đã ba mươi hai ngày nay kẻ địch bắn không ngừng không nghỉ, lúc ở mặt trước, lúc từ mặt sau, lúc ở phía này, lúc ở sườn bên nọ.
Đạn đại bác Thổ rơi vào thành đã nhiều đến nỗi đi đâu cũng vấp phải chúng. Đám nông dân dùng chổi buộc bằng cành dương quét thứ đạn nhỏ ra hai bên lề đường để mỗi khi có đợt công kích, quân ta khỏi ngã vì đạp phải chúng. Còn thứ đạn lớn người ta mang lên chỗ các khẩu pháo.
Giữa pháo đài Mới và pháo đài Đất, một chỗ vỡ hình chữ V há miệng toang toác trên tường. Một cạnh tường của pháo đài Nhà ngục đổ xuống hào sâu. Pháo đài Đất chi chít những lỗ, chả khác nào cái tổ ong. Tháp Bôiki chỉ còn hai bức tường. Tháp Góc trông như một cây gỗ mục đổ úp ngọn xuống đất. Dãy tường con chạch chỉ còn lại từng quãng. Những công thự trong thành, cái đổ ra phía ngoài, cái đổ vào phía trong, hoặc chỉ còn là những khung tường mất mái. Trong soái phủ chỉ còn đúng ba buồng có thể ở được, nhưng cũng bị mưa hắt vào. Bãi chợ cũng đã đổi khác, những đường hào sâu hàng sải tay chạy dọc chạy ngang. Mỗi khi quân Thổ bắn, người ta phải đi dưới hào, lúc thường thì đi qua trên những thanh xà bắc ngang bên trên làm cầu.
Bầy sói dữ vẫn gào rú ở bên ngoài.
Giờ đây giữa ban ngày người ta cũng phải vá lại tường. Những cây gỗ thanh và những tấm gỗ xẻ lấp các lỗ hổng lại được chừng nào hay chừng ấy. Đá chỉ còn đủ để làm vật tựa ở đằng sau.
Ở chỗ Cổng Cũ, Mectsei cũng thân hành vác đá. Chàng khích lệ những người mỏi mệt và luôn nhắc Thượng đế xuống giúp rập. Có thể thấy trước là ở nơi đó cuộc công kích sẽ dữ dội lắm. Khi thì Đôbô, khi Gergey, khi Mectsei kiểm tra lại tường thành. Cả ba đều thấy rằng tháp Góc không còn bảo vệ được cổng thành nữa, cần phải có nhiều thủ pháo. Vì vậy họ ra lệnh cho mang thủ pháo lên để đầy các giàn gỗ. Những tay súng thiện nghệ được bố trí vào những kẽ hở.
Gergey cho chế nhiều vòng rơm tẩm nhựa đường, hỏa hổ và thủ pháo rồi sai mang đến khắp mọi nơi.
Zôntoi xây dựng trên pháo đài Sanđô.
Phuyghétđi sai lấy xích buộc giằng những chỗ vỡ trên pháo đài Mới.
Đôbô cưỡi ngựa lúc đến chỗ này lúc đến chỗ nọ. Người ta đã chừa lối đi cho ngựa của ông quanh chân tường, dưới những giàn gỗ. Tuy vậy ông vẫn thường phải đi giữa những làn đạn bay tới tấp. Ông xem xét, sai phái cho nhịp độ của công việc được đều đặn. Võ đồng Bôlajơ cưỡi con ngựa giống Thổ còn lại cuối cùng theo sát gót ông để truyền những mệnh lệnh của đại úy đi. Bảy con ngựa khác đều đã bị bắn chết ngay dưới mình hai võ đồng.
Ngày hôm đó Petơ cũng lên ngựa. Chân anh phải bó đến tận đầu gối. Da mặt anh xanh mét, nhưng bộ ria vê xoăn tít. Mectsei chiến đấu thay anh ở Cổng Cũ, bây giờ anh thế chỗ Mectsei bên đội quân dự bị trong thành.
Lúc chỗ này, lúc chỗ khác, anh nói với quân sĩ bằng cái giọng trầm sang sảng:
- Quân Thổ đến đây đã ba mươi hai ngày! Ước gì chúng nó cứ ở lại mãi đây cho đến lúc tên cuối cùng cũng được chúng ta cho về chầu âm phủ! Viện binh nhà vua thế nào cũng đến! Cả thế giới đang nói về lòng dũng cảm của chúng ta! Cả đến trăm năm sau người ta vẫn còn dùng chữ Eghe để thay tính từ dũng cảm.
Thấy có đông người xúm quanh chàng dũng sĩ hùng biện, Đôbô cũng dừng lại một phút để nghe xem anh ta nói gì.
Nghe đến câu cuối cùng, ông mỉm cười: ông tư lự nói với Xexey đứng bên cạnh:
- Trăm năm sau ấy à? Thế gian còn nhớ gì đến mặt mũi chúng ta nữa!
Điều đó ông tự nói với mình hơn là tự nói với Xexey. Và dường như thấy xấu hổ vì nói to ý nghĩ đó lên, ông nhún vai:
- Thế nào cũng được. Cái chính không phải là mặt mũi mà là tâm hồn, không phải vì ban khen mà vì nghĩa vụ!
Nói đoạn ông thúc ngựa về phía pháo đài Sanđô.
Các chiến sĩ còn tiếp tục say sưa vì lời nói chứa đựng nhiều điều tốt đẹp ấy. Không có nó họ vẫn đứng vững ở vị trí của mình, nhưng lời nói hay cũng giống như thứ rượu vang hảo hạng. Petơ đẩy lệch cái mũ sang một bên, nói tiếp:
- Rồi cả nhà vua cũng đích thân đến đây nữa cho mà xem! Người sẽ ra lệnh cho các dũng sĩ Eghe xếp hàng và bắt tay từng người một. Ngươi tên là gì? Nhà vua sẽ hỏi. Tâu hoàng thượng, tên con là Nogiơ Gianốt ạ! Tâu bệ hạ, tên con là Xobô Nogiơ Mihai ạ! - Cầu thượng đế phù hộ cho ngươi, con ạ! Nhà vua sẽ vui vẻ, hài lòng mà nói vậy. Nhưng các ngươi cũng xứng đáng với điều đó lắm. Ta còn nghe nói từ nay về sau hoàng thượng chỉ chọn sĩ quan trong số những chiến binh đã tỏ rõ lòng dũng cảm ở đây! Tất cả mọi lính trơn đều trở thành trung úy sau cuộc vây hãm này, ta nghe nói như thế đấy. Rồi có thể là đại úy nữa cũng nên! Suy cho cùng, đối với hoàng thượng tốt nhất cũng là người lính đã chịu đựng thử thách.
Anh nhìn qua một bên, trông thấy gã xigan đang nhảy lên như con dê vì một viên đạn vừa rơi độp xuống trước mặt gã.
- Này, xigan, - anh bảo gã - ngươi thì ngay đến danh hiệu quý tộc cũng chưa được phong. Đến một tên Thổ thôi ngươi cũng chưa đập chết được.
- Thì con biết làm thế nào được? - Gã xigan đáp. - Chả có lấy một đứa nào đến chỗ con đứng cả, đấng Đevơla vật chết chúng nó đi!
Lúc trời gần tối, một tên Thổ cầm khăn trắng xuất hiện bên một kẽ hở. Người ta nhận ra Vosơ Mikơlôt và lập tức kéo anh ta vào, dẫn đến chỗ Đôbô.
Dọc đường hàng trăm và hàng trăm cái miệng hỏi anh:
- Có tin gì đấy?
- Viện binh đến đấy! - Mikơlôi gọi to đến khắp nơi.
Tin mừng đó lan đi trong thành như một tiếng reo:
- Viện binh của nhà vua đã đến!
Thực ra thì Đôbô đã dặn Vosơ Mikơlôt khi vào thành phải nói như thế.
Vậy là đại quân đã đến! Ngài thượng úy Petơ nói thế mà đúng đấy!
Đến trước Đôbô, Vosơ Mikơlôt bỏ tuyban ra, mở lớp vải lấy lá thư đưa cho Đôbô.
Đôbô nhìn dấu niêm phong. Lá thư của đức giám mục. Ông xé phong bì ở chỗ cạnh dấu niêm và mở lá thư với bàn tay bình tĩnh. Ông ngồi trên lưng ngựa, quân dân kéo đến xung quanh. Trong khi ông đọc bức thư, quân dân cố dò nội dung của bức thư đó qua nét mặt ông. Nhưng nét mặt ấy cứ như gang thép. Khi ông bắt đầu, nét mặt cũng như khi đã đọc xong. Ông gập bức thư lại, bỏ vào túi, đoạn nhìn quanh như thể ngạc nhiên vì thấy người ta đứng xung quanh đông đến thế. Trong số các thượng úy chỉ một mình Petơ có mặt ở đó. Ông nói với anh cốt để những người khác cũng có thể nghe:
- Tối nay tôi sẽ cho mời các ngài trung úy. Tôi muốn báo cho họ một tin đáng mừng.
Đoạn ông đi vào buồng riêng, đóng cửa lại.
Ông ngồi xuống ghế. Những nét bình thản như gang thép trên mặt ông trở thành những nét buồn bã. Ông nhìn trân trân ra phía trước, cay đắng và tuyệt vọng.
Hôm đó Đôbô còn nhận được một bức thư khác nữa. Một nông dân đã mang nó đến. Bức thư màu trắng trong tay gã chứng tỏ bọn Thổ phái gã đến. Đó là sứ giả thứ tư của pasa Ali. Quân dân trong thành đã biết Đôbô vẫn đối xử cục cằn với những kẻ đưa thư của bọn Thổ, vậy cứ để ông tiếp gã trên bãi chợ. Và họ dẫn người đưa thư đến đó.
Ban đêm trời đã lạnh, những người lính đến phiên nghỉ đốt lửa sưởi trên bãi chợ. Họ nướng mỡ ướp và chiêu bằng một vài cốc rượu vang pha nước lã.
- Tốt hơn hết là bác hãy đốt nó đi trước khi ngài đại úy trông thấy. - Một chiến sĩ thương tình bảo người đưa thư. - Nó chẳng đưa lại may mắn cho bác đâu.
- Tôi đốt thế nào được. Có phải của tôi đâu.
- Nhưng bác đã mang nó từ chỗ quân thù đến đây.
- Ai gửi thì tôi mang từ chỗ kẻ đó lại.
- Người ta sẽ treo cổ bác.
- Treo cổ tôi ấy à?
- Chứ còn ai nữa? Ngài đại úy đã sai treo cổ cả một ông trung úy của chúng tôi đấy. Thế mà ông ta cũng là quan cơ đấy, lại còn nhà quý tộc chứ không phải loại nông dân ục ịch như bác đâu.
Cái giá treo cổ còn đứng trên bãi, người lính chỉ tay về phía đó mà bảo:
- Kia kia: cái giá treo cổ vẫn còn đấy.
Gã nông dân hoảng sợ, vã cả mồ hôi. Gã gãi quanh cái đầu rồi thò tay vào bị. Vừa lúc đó Đôbô phóng ngựa tới:
- Cái gì thế? Người này là ai? Ngươi muốn gì?
Gã nông dân ấn cái bị vào trong áo choàng lông, vừa lúng túng xoay cái mũ vừa đáp:
- Con là Kovát Esơvanhơ, con hôn bàn tay ngài.
- Ngươi muốn gì?
- Co… on ấy ạ? Con không muốn gì cả ạ.
- Thế thì ngươi vào đây làm gì.
- Chả là... Con chỉ vào cốt để hỏi xem quân ta làm gì trong cơn hoạn nạn này?
- Ngươi đã mang thư vào phải không?
- Không ạ. Con không mang một mẩu thư nào đâu ạ.
Thấy Đôbô vẫn như nhìn xuyên qua người gã, gã vừa lau trán vừa nhắc lại:
- Trời bảo con cũng chẳng mang vào.
- Hãy khám người nó xem!
Gã nông dân tái mặt phục tùng. Bức thư bằng giấy Ai Cập có con dấu niêm to tướng được lôi ra khỏi bị.
- Ném vào lửa! - Đôbô quát.
Người lính quẳng bức thư vào đống lửa.
Gã nông dân run lẩy bẩy, gã vừa gãi đầu vừa chối:
- Co… on không biết làm sao nó lại ở trong người con. Kẻ nào đó đã bỏ vào…
- Gông cổ lại! - Đôbô ra lệnh. - Rồi đưa cái đồ khốn kiếp ấy vào chỗ bọn kia.

18

Vì đại bác nã nhiều quá nên hôm đó (12 tháng Mười) trời cũng mưa. Mãi đến tối, khi gió thu lùa mạnh trên khắp vùng, những đám mây mới tản đi.
Quân dân trong thành thấy bọn Thổ đã tập trung đằng sau các ụ chướng ngại. Đôbô chỉ cho ba trăm chiến sĩ đi nghỉ, còn tất cả những người khác đều phải sẵn sàng quanh những chỗ tường vỡ.
Khoảng mười một giờ đêm, đám mây cuối cùng cũng bị gió đuổi ra khỏi bầu trời. Trăng rằm tắm Eghe trong ánh sáng vằng vặc gần như ban ngày.
- Cầm lấy vũ khí, bà con ơi! - Tiếng kêu bỗng nhiên đồng thanh vang lên từ khắp mọi phía trong thành. - Cả thường dân cũng cầm lấy vũ khí!
Lời cấp báo vang trên mặt trống.
Vậy là sẽ có cuộc công kích ban đêm. Dậy đi, hỡi tất cả những ai còn có thể nhúc nhắc!
Và những hình thù đội mũ sắt, cầm giáo từ sau những đống đổ nát tràn ngập ánh trăng chui ra ở khắp mọi nơi.
Giáo sĩ Balin cũng vũ trang đầy người đi vào giữa đám quân dự bị. Tay ông cầm một cây thương to đến nỗi giá có đem làm cọc thùng xe cũng vừa. Hai người chủ quán cũng đã sắp hàng ở đó. Những người thợ xay bột, thợ mộc, đồ tể, những nông dân phục vụ trong thành, tất cả đều binh khí trong tay sẵn sàng đợi lệnh.
Quân dân trong thành cảm thấy giờ thử thách cuối cùng đã đến.
Ngoài kia tiếng trống đồng Thổ Nhĩ Kỳ cũng đổ dồn. Quân Thổ lũ lượt đổ vào các dãy hào đằng sau cái ụ đất như nước lũ sau cơn giông. Những lá cờ đuôi ngựa phấp phới trên thác người. Thỉnh thoảng có thể trông thấy bọn võ quan Thổ đội mũ nhọn cưỡi ngựa đi đi lại lại bên ngoài các ụ đất. Những viên đá quý và các thứ vàng bạc nạm trên yên cương lấp lánh dưới ánh trăng. Nhiều tên còn quấn khăn tuyban xung quanh cái mũ sắt bóng loáng. Bọn giám binh đội tuyban cao nghễu nghện, phóng ngựa từ chỗ này sang chỗ khác để bố trí các toán quân tấn công.
Nửa đêm, những khẩu đại bác Thổ chớp lửa quanh thành và giữa tiếng gầm kéo dài hàng bốn năm phút, chúng khạc đạn lên thành. Sau đó, từ khắp mọi nơi mọi hướng, từ trăm ngàn cổ họng, dậy lên tiếng thét Bixmila và Ala, những lá cờ đuôi ngựa gần như bay lên các mặt thành.
Trước Cổng Cũ và trên mặt thành có đến ba mươi đám cháy. Hỏa hổ, vỏ nhồi thuốc súng và những vòng rơm xèo xèo bén lửa. Hàng trăm cầu vồng lửa bung thành những vòng cung lớn loe lóe trên không.
Nhưng bọn tấn công vẫn liều mạng xông lên, chúng dốc sức bấu víu, đẩy nhau lên mặt thành. Những đoạn thang nhanh chóng nối nhau lên. Bọn ionisa, bọn axap và bọn kỵ binh đã phiên chế thành bộ binh thoăn thoắt leo lên thang như một bầy sóc.
Trên mặt thành cuốc chim bổ chan chát lên đầu mấu thang. Lửa và đá rơi xuống tơi tấp.
- Thượng đế chí cao! Nào chúng mày ơi! Hu-ra!
Những lá cờ đuôi ngựa lả tả rơi trở xuống, nhưng những bàn tay mới lại giơ lên. Thang tốt thế ngay chỗ thang gãy. Đạp qua thi thể còn quằn quại của những tên ngã xuống, những toán quân mới lại ùa lên thang.
Bọn chúng xông lên dày đặc đến nỗi che kín cả mặt tường. Ở kẽ hở nào có ngọn dáo Hung đâm ra, y như rằng ở đó một tên Thổ rơi xuống khỏi thang, nhưng lập tức đã lại có ngay tên khác thế chân. Nó cũng chẳng tránh cái bậc thang nguy hiểm kia nữa, nhát dáo sắp tới sẽ chọc vào bụng nó hay sẽ trượt qua dưới nách, chuyện đó nó hoàn toàn phó mặc cho may rủi. Thành đã không còn cổng nữa. Bọn Thổ đứng trên thang dùng búa bổ như mưa lên các thanh gỗ đóng ngáng ở những chỗ vỡ trên tường. Những tên từ trên cao rơi xuống đôi khi cuốn theo cả bọn dùng búa này, chúng lăn lộn, quằn quại trong máu lửa cho đến khi những tên khác xông lên che khuất chúng.
- Thượng đế chí cao! Nào chúng mày ơi! Hu-ra!
- Giê–su!
Và những chiến cụ lại tới tấp đổ xuống đầu giặc: cuốc chim chan chát, hỏa hổ đì đùng, thang kêu răng rắc, búa vung vùn vụt: cơn bão máu lồng lộn gào thét.
Cùng một lúc, khoảng năm chục tên địch đã cố lên được đến ngang lớp tường con chạch. Lớp tường kêu răng rắc, ngả ra phía ngoài. Mectsei giật lấy cây mã tấu trong tay một chiến sĩ, chém sả một sợi dây giằng. Đoạn tường đổ ra, lăn nhào xuống cùng với những tên lính thiết giáp Thổ bám vào nó và quét khỏi mặt thành hàng trăm tên khác nữa.
- Lên mặt tường! Lên mặt tường! - Mectsei kêu to rồi chính anh cũng nhảy lên mặt thành cùng với một cây thương dài chừng sải rưỡi.
Những tảng đá vuông lớn và những quả đạn gang nặng hàng nửa tạ do các bức kích pháo bắn vào, rơi tới tấp lên bọn Thổ ngã lăn lóc dưới chân thành.
Nhưng từ bên dưới, tên và đá cũng vun vút bay lên. Máu chảy qua lưới che mặt của Mectsei. 
- Ngài đại úy! - Người ta gọi để lưu ý chàng.
- Lửa! Ném lửa xuống! - Mectsei hét và dùng đôi giầy sắt hất một đống than hồng xuống bọn Thổ lăn lóc dưới chân thành.
Người Hung cũng gục ngã trên mặt thành, người rơi ra ngoài, nguời ngã vào trong. Nhưng giờ đây người ta không còn nhìn xem người tử trận là ai nữa. Một người vừa ngã xuống, người khác đã nhảy lên thay và lại giội đá, giội đạn xuống cho đến khi những cái thang lại đầy người, lúc đó phải dùng cuốc chim và chùy mà đánh bật những tên Thổ đã lên đến ngang mặt thành, trở lại.
Trên pháo đài Đất, cuộc chém giết cũng khốc liệt không kém. Đôbô chỉ huy việc phòng vệ ở đó. Khi quân Thổ đã vượt qua cả địa ngục của hỏa hổ và những vòng cháy, ông cho đem những rầm gỗ đến đặt trên mặt thành. Ông bảo quân sĩ dùng những rầm gỗ đó mà quét bọn Thổ.
Những phút nghỉ ít ỏi nhờ vậy mà có được, ông dùng để lên ngựa phi đến chỗ Cổng Cũ xem ở đó quân ta chống cự ra sao. Khi phi ngang pháo đài Nhà ngục để trở về, thấy ở đó cuộc tấn công đã ngừng, ông bèn gọi quân sĩ ở pháo đài Nhà ngục sang pháo đài Đất. Những người ở đây cũng đã chú ý về phía pháo đài Đất từ lâu. Tất thảy đều đã háo hức chờ dịp được khoa gươm múa kích. Họ đứng lên lớp tường con chạch, tựa vào tường, kiễng chân trên cỗ pháo để nhìn sang cuộc xung đột bên pháo đài bạn. Vì vậy khi nghe tiếng Đôbô gọi, họ gần như nhảy cẫng lên mà ùa sang pháo đài Đất.
Thế nhưng trong lúc đó quân Thổ cũng lại bắc thang lên pháo đài Nhà ngục. Đầu tiên chỉ hai, ba cái, sau đó đến mười, muời lăm cái. Vì từ trên thành không có lửa cũng chẳng có đá lửa ném xuống, quân giặc vun vút lao lên.
Khi lão Sukan đứng trực trên thành quay trở lại, đầu của một tên Thổ đội mũ sắt cũng vừa nhô lên.
- Chà, bố mày chứ! - Lão rú lên rồi bất thình lình cầm thương lao tới. Cây thương vẽ một vòng lên trời rồi bổ xuống đầu tên Thổ, hắn rơi xuống khỏi thang cùng chín mười tên khác nữa.
- Lại đây, lại đây! Ối bà con ơi! - Lão Sukan thét to và lại đâm túi bụi vào toán địch trên một cái thang khác.
Pribêch Gianốt là người đầu tiên chạy đến tiếp ứng cho lão, và người pháo thủ này quật cả cái ghế của người thợ đóng giầy vào giữa mặt một tên Thổ cầm cờ đang bước lên.
Người lính đứng gác dưới chân pháo đài vội chạy đi xin cầu viện. Hai phút sau Petơ đã có mặt ở đó với một toán quân đã nghỉ ngơi, và những vò nạp đạn, đá, hỏa hổ lại bay xuống đầu bọn quân tấn công.
Đôbô cũng chú ý nhìn sang bên đó. Ông thấy lá quốc kỳ đã bị đạn bắn gãy cán, bèn sai đem lá cờ của đội quân dự bị đến và trao cho Nogiơ Isơtơvan.
Trời lúc đó đã tảng sáng.
Trong ánh sáng màu hồng của buổi bình minh, Nogiơ Isơtơvan cầm lá cờ lao lên. Trên người anh không có áo giáp cũng không có mũ sắt, tuy vậy anh vẫn lao lên lan can của pháo đài, tìm cái cọc sắt để cắm cờ.
- Đừng cắm ra đấy! - Đôbô gọi anh. - Chúng nó có thể cướp mất!
Trong nháy mắt đó Nogiơ Isơtơvan ôm lấy ngực. Anh quay một vòng rồi ngã xoài lên mặt thành, bên cạnh khẩu đại bác.
Đôbô bắt lấy cây cờ đang như một cánh chim bay về phía ông và đưa cho Bôtskoi:
- Cầm lấy, con!
Trong ánh bình minh, cuộc tấn công pháo đài Bôiki cũng bắt đầu. Ở đó quân địch xông lên theo sau tám lá cờ. Ánh mặt trời mới mọc đỏ rực đã biến những quả thao vàng trên cán cờ thành những quả cầu bằng hồng ngọc.
Ở pháo đài này quân địch đã bao lần bị xơi đòn chí tử đến nỗi chỉ còn bọn ionisa, những con hổ già dặn nhất, trải nhiều thử thách nhất của các đạo quân, là còn dám liều lĩnh xông lên. Đầu chúng đội mũ sắt, mặt và cổ đeo chàng mạng bằng lưới thép, ngực và tay đều mang giáp sắt, chân đi ủng da thuộc màu đỏ tươi.
Gergey và Zôntoi đều sẵn sàng ở đó. Suốt đêm qua họ đã phải thức mà không được làm gì cả, đã phải ngồi yên mà nghe tiếng náo động của trận tấn công lớn, đẫm máu bên các pháo đài khác.
Được, trời sáng lại càng tốt.
Khoảng hai trăm tên axap xếp hàng trước pháo đài với những bầu đầy nước. Mặc kệ: hễ chạm được đến đầu chúng thì cứ tuôn lửa xuống.
Ở đây quân Thổ không bắt đầu bằng thang. Khi quân bảo vệ đã lên cả trên mặt thành, ở dưới kia hàng ngàn cánh tay nhất tề cử động, một cơn mưa đá và tên bao phủ lấy những người giữ thành.
Zôntoi bị một hòn đá trúng vào đầu. May mà anh đội mũ sắt. Hòn đá chỉ làm gãy cái khóa gài quai mũ. Anh chửi ầm lên, vừa quát vừa giật cái quai xuống:
- Được, quân cầu trệ, chúng mày cứ liệu thần hồn! Vì món này, hôm nay tao sẽ đập nát một trăm cái mũ của chúng mày!
Và chỉ chưa đầy mười lăm phút sau, tiếng quát tháo của anh đã lại sang sảng:
- Này, đồ dị giáo, đây là đòn trả thù cho cái mũ của tao.
Rồi với một tên khác:
- Này, gọi là nếm thử một chút quà Eghe.
Một cái mái to bằng da bò từ trong trại quân Thổ tiến vào nom thật lạ lùng. Năm chục tên axap chỉ mới gọi là đủ để khiêng nó. Hai trăm tên inoisa nấp vừa bên dưới mái.
Gergey gọi đem thùng cháy đến và châm lửa vào cái dây ngòi tẩm dầu quấn quanh một que sắt nhỏ.
Cái mái khổng lồ như một con rùa bò đến tường thành. Dù người ta có dùng cuốc chim phá được lớp da đi nữa thì đến khi đốt được nó, bọn Thổ cũng đã lên đến mặt thành. Chưa kể còn vấn đề là có thể đốt được nó hay không? Không chỉ lớp da ướt sũng nước mà cả khung gỗ cũng vậy. Quân Thổ đã rút kinh nghiệm.
Mặt trời ló ra từ sau dãy núi đằng đông, chiếu thẳng vào mắt những người bảo vệ pháo đài Sanđô. Mặt trời cũng tiếp tay cho bọn Thổ.
Khi cái mái đã lên đến sườn dốc của pháo đài, Gergey thét lớn:
- Nằm xuống!
Các chiến sĩ không nghĩ ra được tại sao phải nằm. Một loạt đạn nổ rền đã giúp cho họ hiểu. Bọn Thổ đã nghĩ ra kế xếp nòng súng quanh cái mái da lớn. Những nòng súng như cái còi của cây đại phong cầm chĩa về phía đoàn quân phòng vệ. Gergey đã kịp trông thấy cái đó.
- Đứng dậy! - Chàng hô lên sau loạt đạn. - Thùng cháy!
Chàng sai quân lăn thùng cháy xuống.
Quân Thổ không nằm phục xuống đất trước thùng cháy nữa mà hoặc nhảy tránh sang một bên hoặc nhảy qua, rồi lại tiếp tục xông tới trước.
- Hai thùng! - Gergey hô.
Chàng tự đặt cái thùng thứ ba ở thế sẵn sàng lăn xuống, tự chàng cầm bùi nhùi lên để châm lửa.
Hai cái thùng cháy lại quét quang một đường giữa đám đông nhốn nháo ở dưới chân thành. Cái thùng thứ ba bị một tên ionisa to ngang bắt lấy, xô xuống một cái hố dọc đường và lấy đất lấp lên. Khi hắn dẫm chân lên lớp đất đỏ, cái thùng nổ tung, hất tên ionisa cùng cả lớp đất lên trời và quật ngã thêm hai chục đứa nữa trong bọn đứng quanh đó.
Việc đó khiến đoàn quân công kích phải khựng lại. Nhưng đằng sau đã vang lên tiếng thét “tiến lên” và “xung phong” của bọn giám binh cùng với tiếng các bầu nước tưới rào rào để dập các đám lửa tung tóe ra, khiến hơi nước bốc lên nghi ngút.
- Bây giờ chỉ ném đá xuống chúng nó thôi. - Gergey hô.
Chàng muốn chờ đến khi bọn địch lại bâu dày đặc trên đường và trên tường.
Và giữa tiếng thét “Ala” như trăm ngàn tiếng hổ gầm, giữa tiếng kèn vang trống thúc, đoàn quân địch lại xông lên. Rừng thang tiến đến bên tường thành.
Một tên ionisa ném một cuộn dây có móc lên tường, rồi ngậm thanh gươm cong vào giữa hàm răng, với sự khéo léo của loài khỉ, hắn theo dây leo lên. Một hòn đá rơi đúng đầu hắn và làm rơi cái mũ sắt. Cái đầu trọc của hắn với những vết chém đã thành sẹo, trông chẳng khác nào quả dưa bở.
Hắn tiếp tục leo.
Gergey vớ lấy cây giáo.
Khi tên Thổ chỉ còn cách Gergey chừng một sải tay, hắn ngửng mặt lên. Bộ mặt hắn đẫm mồ hôi, cái mồm thở phì phò.
Gergey như thể bị ai đánh vào giữa ngực, chàng sững cả người. Đây chính là khuôn mặt ấy! Đây chính là giáo sĩ Gabô, người thầy đã xấu số của chàng! Cũng những con mắt màu gio, cũng hàng ria mỏng, cũng những cái xương lông mày nhô ra như thế!
- Mi là em giáo sĩ Gabô! - Chàng quát bảo tên Thổ.
Hắn trừng mắt nhìn chàng, vẻ không hiểu gì cả.
- Các ngươi đánh chết nó đi! - Gergey quay đi bảo quân sĩ. - Đến tiếng mẹ nó cũng không còn biết nữa.
Cuộc tấn công dữ dội kéo dài đến tận chiều tà. Quân Thổ từ khắp các mặt mệt mỏi rút lui khỏi tường thành.
Hàng ngàn xác giặc Thổ chết và bị thương nằm la liệt quanh thành. Khắp nơi văng vẳng tiếng kêu rên của những tên gãy xương đang quằn quại.
Nhưng trong thành cũng đầy thương binh, tử sĩ; mặt trong các bức tường và các giàn gỗ cũng đỏ lòm những máu. Các chiến sĩ mệt nhọc, rã rời đi khiêng thương binh, tử sĩ lại một nơi.
Các võ quan đi rửa ráy. Bản thân Đôbô cũng đen sạm khói súng, râu ria cháy xoăn lên, nếu không có cái mũ sắt đại úy trên đầu, người ta sẽ không thể nhận ra ông. Cứ y nguyên nhem nhuốc như vậy, ông đón nghe các báo cáo ngay bên khẩu đại bác Búp bê.
- Chỗ tôi có sáu mươi lăm tử sĩ và bảy mươi tám người trọng thương. Dùng hết năm tạ thuốc súng. - Mectsei báo cáo.
- Ba chục người bị chết và một trăm mười người bị thương. Thuốc súng tám tạ. Ngay đêm nay cần phải cho hàn lại chỗ vỡ. - Bônemixo Gergey báo cáo.
- Ba tạ thuốc súng, hai mươi lăm người chết, độ năm chục bị thương. - Phuyghétđi báo cáo rồi ấp tay lên má.
- Anh cũng bị thương à? - Đôbô hỏi.
- Không ạ. Nhưng cơn đau răng nó hành hạ tôi đến nỗi như thể có ai ngoáy một cây giáo nung đỏ trong má tôi vậy.
Trong số những người đến báo cáo, Đôbô trông thấy cả Vosanhi nữa. Người điệp viên mặc quần áo đạo sĩ, người anh đẫm máu từ ngực xuống đến bàn chân như thể mặc tạp dề màu đỏ ở chỗ đằng trước.
- Vosanhi! - Đôbô cắt ngang buổi báo cáo mà nói. - Ngươi lại đây! Ngươi bị thương đấy ư?
- Không ạ! - Vosanhi đáp. - Con phải khiêng xác chết mãi với bọn Thổ rồi mới lọt vào được. - Có tin gì mới đấy?
- Ngài Xonkoi đã viết thư lần thứ hai gửi đi khắp nơi cho các trấn và các thành phố rồi ạ.
- Thế mà cho đến nay vẫn chưa có ai tới?
- Từ một vài chỗ đã có người đến. - Vosanhi kéo dài giọng trả lời. - Nhưng họ còn chờ nhau đến cho đông đủ để có thể đánh thốc vào trại quân Thổ.
Đôbô hiểu là Xonkoi chẳng nhận được trả lời từ một nơi nào hết.
- Ngươi biết gì về tình hình bọn Thổ?
- Con đi lung tung giữa bọn chúng đã bốn ngày nay, vì vậy con biết chúng nó ngán ngẩm ghê lắm rồi.
- Nói to lên, - Đôbô bảo, mắt ông sáng ngời lên.
Và người điệp viên nhắc lại thật to để những người đứng quanh đấy cũng có thể nghe được: 
- Quân Thổ ngán ngẩm ghê lắm rồi. Thời tiết đối với chúng đã lạnh. Lương thực chúng không còn nữa. Tôi đã trông thấy, bằng chính đôi mắt lành lặn của tôi đây này, khi một gã người tỉnh Nôgrát chở đến năm xe bột vào ngày hôm qua, chúng nó lấy bát, lấy mũ xúc hết ngay. Chẳng kịp chờ để làm thành bánh nữa: vừa lấy ở các bao tải ra là chúng nó cứ thế bốc ăn sống. Nhưng có thấm tháp gì đối với ngần ấy con người cơ chứ?
- Kơrixtôp. - Đôbô bảo người võ đồng. - Chạy ngay đến chỗ thợ lò mổ bảo họ vật những con bò đẹp nhất cho quân sĩ. Hôm nay và ngày mai nữa, tất cả mọi người đều được ăn bít tết.
Rồi ông lại quay sang người điệp viên. Anh ta báo cáo tiếp:
- Từ hôm qua bọn ionisa đã bất mãn lắm rồi.
- To lên chứ!
- Bọn ionisa bất mãn lắm. - Vosanhi nói tiếp như hò, - Chúng nó bảo nhau rằng Thượng đế phù hộ những người Hung. Chúng nó còn bảo chúng nó đã quen với tất cả mọi thứ vũ khí, nhưng cái thứ lửa như hỏa ngục ấy thì chúng nó không quen. Những vật cháy ma quái như ở đây chúng nó chưa hề thấy.
Đôbô lặng lẽ nhìn ra trước mặt một lúc rồi nói:
- Một giờ nữa người hãy có mặt trước soái phủ. Ngươi sẽ lại dẫn Vosơ Mikơlôt đến Xorơvotkơ.
Đoạn ông quay sang Sukan.
Đầu lão già quấn đầy băng, kín cả mặt mũi, chỉ còn hở có đôi mắt đeo kính với bộ ria mép. Nhưng mặc dù vậy lão vẫn báo cáo bằng một giọng cứng cỏi, sang sảng:
- Ngày hôm nay chúng ta dùng hết hai tấn thuốc súng.

19

Mặt trời vừa nhô lên đã lại được thấy các dũng sĩ Eghe trên mặt thành. Nhưng xung quanh thành xác chết vẫn còn nhiều đến mức bọn đạo sĩ không sức nào khiêng hết.
Những khẩu đại bác im lặng. Bản thân mặt trời cũng vừa run vừa nhô lên trong khí lạnh, thành phố cùng các thung lũng chìm trong lớp sương mù cao đến ngọn tháp. Mãi đến khoảng tám giờ sương mù mới tan. Lúc đó mặt trời, dường như còn muốn hóa phép cho mùa xuân trở lại thêm một lần nữa, từ bầu trời xanh quang đãng dịu dàng toả nắng xuống mặt đất.
Những người trong thành cũng thu dọn xác đồng đội của họ. Đám nông dân và phụ nữ dùng ván thùng xe khiêng những xác chết lại một chỗ. Ở đằng Cổng Cũ thì phải dùng xe chở. Giáo sĩ Balin lo việc chôn cất, Giáo sĩ Marơtôn làm lễ sức dầu thánh lần cuối cùng cho những người hấp hối.
Trong ánh sáng mặt trời đang lên cao dần, có thể trông thấy các loại binh đoàn Thổ từ những sườn đồi xa đổ về phía thành. Có thể thấy bọn chúng đang tập trung tất thảy binh lính để khi tất cả đã tề tựu, chúng sẽ tiến công tòa thành đổ từ khắp các mặt với toàn bộ lực lượng đại quân.
Đêm qua, sau trận chiến đấu kéo dài, các chiến sĩ đã ngủ một giấc say sưa no mắt. Đôbô đã cho phép họ ngủ, chỉ có điều là phải ngủ xung quanh các pháo đài. Trên mỗi pháo đài chỉ để một người gác canh chừng. Đêm đó các sĩ quan cũng đã được nghỉ ngơi trong một giấc ngủ say như chết. Mãi đến tám giờ sáng Gergey cũng vẫn còn ngủ li bì dưới khẩu đại bác Cóc Tía, đến nỗi cả tiếng kèn, cả tiếng náo động của quân sĩ đi lại rầm rập cũng không khiến được chàng thức giấc. Chàng quấn mình trong một cái khăn, mái tóc dài màu nâu của chàng đọng sương muối trắng xóa.
Mectsei lấy khăn phủ lên đầu chàng và cởi áo khoác đắp thêm cho chàng.
Đôbô sai nạp đinh, sắt vụn vào tất cả các khẩu đại bác lớn nhỏ. Ông còn sai kéo những cái xe chở đầy đá đến chắn trước một số nơi tường vỡ, ở một số nơi khác thì sai bít lại bằng thùng rượu, bằng rầm gỗ, bằng da bò hoặc bằng các thứ đại loại như thế. Đám thợ nề đập vỡ một số quãng gờ tường để thang của bọn tấn công không thể bám vào một cách dễ dàng được. Người ta chở đá lên đầy các mặt thành. Người ta khuân tất cả vạc, chảo trong nhà bếp ra và đổ đầy nước. Tất cả hắc ín có thể tìm thấy trong thành đều được đem hết lên các pháo đài, để cạnh những cái vạc. Cái ống máng bằng thiếc ở soái phủ cũng bị đập vụn ra đem chia cho các khẩu pháo. Đám đồ tể có nhiệm vụ phải nướng thịt bò trên xiên cho mọi người ăn trưa. Bánh mì được mang ra bãi chợ, nơi những toán quân dự bị và những toán quân lui về nghỉ thường tập trung. Người ta xếp bánh thành từng đống. Mihai, người thư lại phái bánh, không riết róng nữa, ai muốn ăn bao nhiêu cũng được. Anh chàng diện cái áo đônman màu nâu rất bảnh, dận đôi ủng màu vàng, đi đến chỗ đám thợ nướng bánh ở bãi chợ và chỉ vắn tắt ghi vào quyến sổ của anh: 14 tháng 10. Bảy trăm xipô.
Trong thời gian đó quân Thổ vẫn tiếp tục tập trung về. Từ các sườn núi và các sườn đồi, dòng thác người màu sắc pha tạp lũ lượt trẩy xuống.
Lúc mười giờ người lính kèn trên bãi chợ trong thành thổi kèn tập hợp. Quân dân trong thành tề tựu cả lại. Toàn những người buộc băng ở đầu, ở tay. Người ít nhất cũng có một ngón tay phải buộc băng. Nhưng vậy đấy, ai còn nhúc nhắc được đều sẽ lên mặt thành.
Chính giữa bãi, những lá cờ bằng lụa của nhà thờ bay phần phật. Một lá cờ thêu hình Đức mẹ Maria, lá thứ hai thêu chân dung Thánh vương Isơtơvan, lá thứ ba thêu hình Thánh Gianôt. Những lá cờ đã cũ và phai màu: đó là những lá cờ lấy từ trong ngôi nhà thờ đã được cải biến thành pháo đài. Hai giáo sĩ mặc áo lễ màu tím đứng bên bệ thánh lập trên một cái bàn, trên bàn để giá cắm cái nhật nguyệt đựng minh thành.
Quân dân trong thành đã biết sẽ có lễ cầu nguyện. Lẽ ra trước các đợt công kích trước cũng phải làm lễ, nhưng Đôbô không cho phép họ nhắc nhở đến việc đó. Ông vẫn thường nói:
- Những trận này chỉ mới là thử sức thế thôi! Chừng nào đến trận đại công phá, đại quân của triều đình sẽ tới.
Nhưng bây giờ rõ ràng là giờ cuối cùng đã điểm.
Ai nấy đều rửa ráy, chải chuốt sạch sẽ, mặc quần áo đẹp nhất mà đi dự lễ. Các võ quan diện đủ các màu hoa, ủng đỏ, cựa bạc: ria mép xoăn vểnh, lông chim cắm trên mũ sắt, Mectsei mặc bộ áo giáp mới sáng loáng, bó sát người. Lưng đeo hai thanh gươm, một thanh có cán chạm đầu rắn là thanh gươm anh vẫn chỉ đeo trong những ngày lễ. Gergey xuất hiện, đầu đội cái mũ sắt có chóp nhọn. Trên viền mũ, ba cái lông thiên nga trắng tinh cắm trong cái giá chân chim bằng bạc. Ngực cũng đeo giáp nên cái áo đônman bằng da đỏ chỉ còn hở có hai ống tay. Tay chàng đi găng lụa, bên ngoài phủ lưới thép đan mắt nhỏ. Cổ áo chàng thêu kim tuyến, bẻ ra ngoài.
Zôntoi không thể đừng được một câu nhận xét:
- Cổ áo của cậu có vẻ áo chú rể quá!
- Vợ tôi thêu đấy, - Gergey nghiêm nghị đáp. - Không phải vì quý trọng quân Thổ mà tôi mặc nó đâu, mà vì tôn trọng thần chết đấy.
Zôntoi cũng vận võ phục đônman bằng da, hai thanh gươm đeo hai bên sườn. Cái mũ sắt của anh không có lưới che mặt, chỉ có một thanh thép nhỏ thò xuống đến tận đầu sống mũi. Quanh vành mũ, lưới thép rủ xuống vai anh. Cái mũ sắt ấy có lẽ đã từng là của một tên võ quan xpahi nào đó. Anh đã mua nó trong buổi bán đấu giá sau đợt xuất kích đầu tiên của họ.
Phuyghétđi mặc giáp từ đầu đến chân. Mắt anh đục ngầu. Anh than phiền về nỗi đau răng quá.
- Như vậy cậu giã bọn Thổ càng hăng hơn chứ sao! - Zôntoi an ủi. - Người tráng sĩ cáu tiết vào những lúc thế này là tốt lắm.
- Không có cái răng đau này tớ cũng đủ cáu tiết lắm rồi! - Phuyghétđi cảu rảu.
Petơ chỉ đội mũ sắt và mặc áo đônman bằng da nai. Anh cưỡi ngựa vì anh vẫn chưa thể đi được. Anh đứng sau lưng đám đông, giơ gươm vẫy chào các võ quan chỉ huy các đội.
Các võ quan khác cũng đều mặc những bộ quần áo mới nhất. Không phải để hành lễ, vì lúc đầu chưa phải ai cũng biết sẽ cử lễ, nhưng chính vì tất cả mọi người đều cảm thấy hôm đó là sẽ là ngày cuối cùng. Và thần chết, dù cho người ta có vẽ nó xấu xí đến thế nào, vẫn là một vị thần rất đáng kính trọng! Cả những người không có quần áo nào khác ngoài bộ mặc thường ngày. Ít nhất cũng xoăn tít ria mép và bôi sắp hẳn hoi.
Chỉ còn thiếu có Đôbô.
Ông bước ra trong bộ giáp sáng loáng. Đầu đội mũ sắt mạ vàng, chỏm mũ cắm cái lông đại bàng dài. Bên sườn đeo thanh gươm rộng bản, chuôi nạm ngọc. Tay đi găng thép nửa hình vẩy cá, nửa bằng lưới sợi bạc. Trong tay ông lấp lánh cây giáo lưỡi mạ vàng, cán bọc nhung đỏ.
Sau lưng ông, hai võ đồng cũng mặc giáp từ đầu đến chân như vậy. Lưng họ đeo gươm ngắn, tóc họ từ trong mũ chảy ra xõa sóng trên vai.
Đôbô dừng bước trước bệ thờ, bỏ mũ ra.
Vì hai giáo sĩ không biết diễn thuyết, Mectsei phải nói với quân sĩ và dân chúng.
Anh bỏ mũ xuống, ôm vào cánh tay và bắt đầu:
- Hỡi anh em đồng bào! Sau đợt công kích hôm qua chúng ta thấy hiện nay giặc Thổ đang tập trung tất cả mọi cánh quân của chúng. Ngày hôm nay toàn bộ lực lượng quân địch sẽ đọ sức với lực lượng của chúng ta. Nhưng Thượng đế đã phù hộ ta thì dù tất cả bọn dị giáo trên thế giới này có chống lại ý muốn của Người cũng vô ích. Trong buổi lễ mà chúng ta thấy ở đây, chúng ta biết chúa Giêsu cũng dự. Người đứng về phía chúng ta! Chúng ta hãy quỳ xuống và hãy cất lời cầu nguyện!
Quân dân trong thành nhất tề quỳ xuống.
Mectsei xướng kinh thay giáo sĩ:
- Đức Chúa trời, Cha của chúng con…
Mọi người lầm rầm đọc, từng câu một. Khi đọc xong cả tiếng amen, sự yên lặng trang nghiêm kéo dài một lúc lâu.
Giáo sĩ Marơtôn ghé tai Mectsei nói cho chàng biết cần phải nói tiếp những gì nữa. Mectsei đứng dậy và lại lên tiếng:
- Hai kẻ nô lệ trung thành này của Thượng đế giờ đây dâng lời cầu nguyện để xin Người xá tội hoàn toàn cho tất cả chúng ta. Thì giờ đã gấp quá khiến chúng ta không thể còn xưng tội được. Trong những giờ phút như thế này nhà chung có thể ban sự rửa tội mà không cần xưng nữa. Chỉ cần các ngươi hãy tự ăn năn về những tội lỗi của mình.
Chàng lại quỳ xuống. Chú bé phụ lễ rung chuông. Giáo sĩ Balin giơ cao cái tượng chịu nạn. Mọi người cúi mặt xuống lắng nghe người giáo sĩ già nói lên những lời xá tội. Khi họ ngửng mặt lên, cái tượng chịu nạn đã được đặt xuống bàn, và ông giáo sĩ giang rộng hai cánh tay ra để ban phước lành, mắt đẫm lệ, ông đứng không nhúc nhích nhìn lên khoảng trời cao quang đãng.
Phần nghi lễ đã hết. Đôbô lại đội mũ lên. Ông đứng lên một tảng đá, cất tiếng nói:
- Sau Đức Chúa Trời, ta có lời muốn nói với các ngươi! Ba mươi tư ngày trước đây chúng ta đã thề với nhau không nộp thành cho giặc. Chúng ta đã giữ lời thề. Cho nên đến nay thành ta đã trơ gan trước mọi cuộc tấn công, cũng như hòn đảo trước cơn bão biển. Giờ đây đến lượt thử thách cuối cùng. Chúng ta đã cầu Đức Chúa Trời đến phù hộ. Với tâm hồn không còn vương tội lỗi, chúng ta phải chiến đấu quyết tử cho sinh tồn của tòa thành này và của Tổ quốc chúng ta! Cuộc chiến đấu chúng ta đã tiến hành đến nay để bảo vệ thành là một cuộc chiến đấu chưa từng có, và sự nhục nhã mà giặc Thổ chuốc lấy ở đây, cho đến nay cũng là sự nhục nhã chưa bao giờ có. Ta tin ở vũ khí của chúng ta, ta tin ở sức mạnh tâm hồn của chúng ta, ta tin ở Đức mẹ Đồng trinh Maria người đỡ đầu của nuớc Hung, ta tin ở Thánh vương Isơtơvan, người mà vong linh vẫn luôn luôn phù hộ dân tộc Hung, và nhất là ta tin ở Đức Chúa Trời. Tiến lên, hỡi anh em!
Tiếng trống đồ hồi, kèn trận lanh lảnh.
Các chiến sĩ, với một sức mạnh gang thép, vồ lấy giáo và từng toán từng toán tản đi các ngả.
Đôbô lên ngựa, hai võ đồng của ông cũng cưỡi ngựa theo sau.
Đôbô lên mặt thành nhìn khắp xung quanh. Ông thấy đàn ngựa Thổ không có lính trông đang gặm cỏ thành từng bầy lớn trên các sườn đồi Eghe. Khắp xung quanh thành là một rừng giáo chuyển động. Quân Thổ như biển cả nhấp nhô quanh thành.
Và có thể thấy cả hai viên pasa trên đồi Ghế Vua. Pasa Ali đội tuyban hình quả dưa bở, quấn không biết bao nhiêu lớp, mặt hắn như mặt một mụ già, xám ngắt. Viên pasa kia là một tên hộ pháp, bộ râu xồm đã điểm bạc. Cả hai đều mặc áo caphơtan lụa xanh, nhưng màu áo của Ali sáng hơn. Mỗi khi chúng cử động, những hạt kim cương nạm trên binh khí dắt ở thắt lưng chúng lại lóe lên những tia sáng trắng.
Bọn bêi cưỡi những con ngựa tuyệt đẹp dẫn đầu các cánh quân. Bọn aga và iaxaun cũng cưỡi ngựa. Bọn còn lại đều đi bộ. Giữa rừng quân kỳ Thổ nổi bật một lá cờ đại màu đen. Dân thành chưa hề thấy lá cờ đó bao giờ, chỉ các võ quan hiểu lá cờ đen ấy có ý nghĩa gì: 
Không có khoan hồng!
Tất cả sinh mạng trong thành đều là mồi của thần chết!
Khoảng trưa, những khẩu đại bác Thổ gầm vang, đội quân nhạc của hai đạo quân Thổ vang lên.
Không gian đầy khói. Tòa thành rung lên vì tiếng thét Ala acba (Ala chí cao).
Trong thành cũng bắt đầu nổi lửa.
Các nông dân, phụ nữ và những người vào thành tị nạn thảy đều được Đôbô phái đến bên các vạc dầu hoặc bên tường thành. Ngay cả những người ốm cũng tập tễnh ra mặt thành. Người nào còn có thể đứng trên đôi chân đều rời khỏi chỗ nằm để nếu không giúp được việc gì khác thì cũng hô truyền mệnh lệnh hoặc lời nhắn gọi đi. Có người cả hai tay đều buộc băng đeo vào cổ, thế mà vẫn mò ra đứng cạnh đống lửa để chốc chốc dùng chân đẩy củi vào dưới vạc dầu. Các nhà trong thành không còn ai khác ngoài trẻ con, trong soái phủ chỉ còn hai phụ nữ.
Bơlốc phu nhân… Tội nghiệp cho Bolôc phu nhân, bà đã gửi con vào trường cung kiếm nên không con dám xin Đôbô đừng bắt con bà phục vụ trong những trận công kích. Thằng bé còn yếu, nó đứng sao nổi trước vũ khí của bầy mãnh thú dị giáo! Tuy vậy không bao giờ bà để lộ một nét mặt lo sợ cho con. Nghị lực sắt đá của Đôbô đã dẹp đi cái nỗi lo lắng của bà. Bà không dám thở mạnh mỗi khi Đôbô nhìn bà. Y như những người lính, tất cả đều chuyển động theo lệnh của Đôbô với một sự phục tùng như máy. Những người khác mất cả ý muốn riêng, ý của ông chiếm lĩnh tất cả mọi người. Có khi cũng chẳng cần đến lời nói của ông nữa, chỉ cần ông ra hiệu là tay chân mọi người sẽ theo đó mà cử động.
Tòa thành đã biến ra cái gì rồi, nếu chỉ một sợi tóc thôi của Đôbô run lên vì sợ hãi! Ông nhắc mọi người phải cẩn trọng, ông bắt tất cả mọi người đều phải mặc giáp, đội mũ sắt: nhưng khi thần chết xuất hiện trên mặt thành, ông chỉ huy quân dân chống cự, không hề phân biệt cá nhân ai cả.
Không có ai quý hơn Tổ quốc!
Đối với người mẹ đáng thương, những ngày bị vây hãm thực đầy lo ngại. Mỗi buổi sáng lại run rẩy khi con bà theo hầu Đôbô. Lúc nào bà cũng lo rình xem đạn có trúng nó không. Niềm vui lớn nhất đối với bà là mỗi khi võ đồng Kơrixtôp thay phiên cho nó, và thằng con bà mệt mỏi, sạm đen khói súng bước vào soái phủ! Bao giờ bà cũng đón nó với đôi tay giang rộng và những cái hôn như thể nó vừa từ tha phương trở về. Bà tắm rửa cho con. Bà chải chuốt mớ tóc dài mềm mại như tơ của con. Bà dọn cho con tất cả những thức gì ngon lành mà bà tìm được trong bếp.
- Ai bị chết đây con? Trong số các võ quan ai bị thương đấy! - Bao giờ đó cũng là câu hỏi đầu tiên của hai người phụ nữ.
Cậu thiếu niên không biết Êvo là ai. Cậu tưởng nàng cũng là một thiếu phụ quý tộc nào đó ở Eghe như những người khác, và mẹ cậu đã lấy vào soái phủ để giúp đỡ bà. Vì vậy cậu cứ kể tất cả mọi tin tức. Tin của cậu bao giờ cũng bắt đầu bằng việc kể tên những người tử trận và kết thúc bằng lời ca ngợi chú Gergey. Thôi thì cái chú Gergey ấy chẳng còn gì mà chưa nghĩ ra nữa! Tâm hồn cậu tràn ngập niềm khâm phục chú Gergey. Cậu kể chi li đã thấy chú ấy đánh nhau như thế nào, một mình chọi với bao nhiêu giặc Thổ, đã dùng những miếng võ gì để đánh ngã từng tên Thổ một.
Êvo nín thở, tái mặt, nhưng tự hào lắng nghe, và bao giờ cũng rưng rưng nước mắt. Nàng chỉ mỉm cười khi cậu thiếu niên đã kể đến chỗ tên Thổ không địch nổi với cái chú Gergey tuyệt vời ấy.
Dưới giông bão của những trận công kích, hai người phụ nữ đứng bên cửa sổ vừa run vừa khóc. Qua một kẽ nhỏ, họ không thể thấy gì khác ngoài những bóng người chạy đi chạy lại, khói mù mịt và ánh lửa chốc chốc lại đỏ hồng lên, rồi sau đó là những người thợ cạo đem vải băng ra chất thành một đống tướng, với những cái khay đựng đầy nước sạch. Rồi người ta đem thương binh đến từng người một, mỗi lúc một vội vã hơn và đẫm máu hơn.
Và khi tất cả chú ý của họ đã hướng về những người bị thương thì ôi, người ta lại khiêng thêm về một người nào đó nữa! Không phải Bolajơ. Không phải Gergey. Xin cảm tạ Thượng đế! Người ta lại khiêng về... Nhưng nhỡ người ta không khiêng Bolajơ hoặc Gergey về đây là vì người ta đã mang ra hầm mộ... Và đến cả mấy lời vĩnh biệt: Trời phù hộ cho anh hoặc cho con! Họ cũng không thể nói được thì sao?!
Êvo còn có người cha già đã tàn phế nửa người ở đây nữa chứ. Đã nhiều lần nàng thấy ông tập tễnh đi dọc đường qua trước cửa soái phủ, trên vai đeo một cái cung dài cũng bằng người ông. Ống tên lúc trống rỗng lúc đầy ắp. Nàng những muốn gọi to ra:
- Cha ơi! Cha yêu quý của con ơi! Cha hãy cẩn trọng lấy mình vàng cha nhé!
Hôm nay, khi đại bác lại vang rền, hai người phụ nữ ứa nước mắt gục đầu vào vai nhau:
- Ta cầu nguyện đi em!
- Ta cầu nguyện đi thím!
Họ quỳ xuống, cúi mặt sát đất, lầm rầm cầu nguyện.
Và cùng cầu nguyện với họ tất cả mỗi ngày, mỗi đêm là một nghìn rưỡi phụ nữ ở tất cả mọi vùng xa trong miền Thượng địa nước Hung. Và những bàn tay trẻ con tí xíu chắp lại trong những vùng tị nạn xa xôi; bọn trẻ thơ ngây nguyện cầu cho những người cha đang chiến đấu ở Eghe.
- Đức Chúa Trời lòng lành vô cùng, xin hãy giữ gìn tính mạng cho cha con! Xin Người hãy đem cha về cho chúng con!
Tiếng đại bác nổ rền, tiếng kèn trận thôi thúc, tiếng kêu Giêsu, tiếng gào Ala ầm vang, náo động như địa ngục. Những đám khói nặng nề lan tỏa vào trong thành.
Người ta đã khiêng về những thương binh đầu tiên. Họ khiêng người thứ nhất trên một cái ván đã đọng máu đen ngòm. Đó là một chiến sĩ trẻ, mặt nhợt nhạt. Chân anh bị bắn gãy ngang đầu gối. Những người thợ cạo băng bó qua loa. Họ vất vả với anh làm gì nhiều cơ chứ, chỉ vì một hai giờ hy vọng mà họ băng bó chân anh đấy thôi, trước sau rồi anh cũng mất máu mà chết.
Và người ta đem đến người thứ hai, thứ ba, thứ tư. Khuôn mặt của một trong ba người đó chỉ còn là một cục bùng nhùng đầm đìa những máu, mất cả hai mắt, hàm răng lộ cả ra trên khuôn mặt. Người thứ hai bị tên cắm xuyên vào cổ, phải mổ mà lấy ra. Người thứ ba ấp chặt tay lên sườn bên phải, bàn tay nhuộm máu đầm đìa. Máu chảy nhỏ giọt qua các kẽ ngón tay. Anh ta ngồi xuống đất chờ đợi mà không hề rên rỉ, mãi cho đến lúc cái chết ám mờ đôi mắt của anh.
Đôbô cưỡi trên mình con tuấn mã phi nước đại dồn dập qua trước soái phủ. Võ đồng Kơrixtôp, bị rớt lại đằng sau khá xa, đuổi theo ông.
- Đứa kia đâu rồi? - Ánh mắt đau đớn của bà mẹ hỏi.
Cậu ấy cũng đang chạy kia, về phía pháo đài Sanđô: hẳn là đang truyền lệnh đi. Đa tạ Thượng đế! Ôi!
Số thương binh đã nhiều đến mức cả mười ba người thợ cạo đều phải làm việc. Cùng với thương binh, người ta đem về cả ba lá cờ Thổ. Tiếng hò hét của bọn Thổ mỗi lúc một dữ dội hơn, khói thuốc súng đã che mờ khu vực pháo đài phía đông và phía bắc, đã trùm lên cả soái phủ. Dày đặc đến mức cách ba bước là không thể nom thấy gì nữa, chẳng khác nào sương mù mùa đông.
- Lạy chúa nhân từ! - Bolôc phu nhân cầu nguyện. - Nếu bọn Thổ tràn vào đây thì chúng con sẽ ra sao!?
- Nếu vậy tôi sẽ chết! - Êvo đáp, mặt nhợt nhạt hơn cả tường vôi.
Đoạn nàng đi vào phòng binh khí lấy ra một thanh gươm, thanh gươm dùng ngày thường của Đôbô. Nét mặt đăm chiêu, nàng đặt gươm lên bàn.
Qua cánh cửa sổ mở, tiếng rên la của các thương binh vọng vào.
- Ôi, đôi mắt tôi, đôi mắt tôi! - Một người khóc lóc. - Không bao giờ tôi còn thấy cảnh trần gian đẹp đẽ của Chúa nữa!
- Tôi ăn mày rồi! - Một người khác rên rỉ. - Chúng nó chặt cụt cả hai tay tôi rồi!
Xung quanh đám thợ cạo, thương binh đã nhiều đến nỗi họ không băng bó kịp nữa.
Toàn thân Bolôc phu nhân run lẩy bẩy.
- Chúng ta phải đi ra thôi! - Bà nói, nét mặt đau đớn. - Cần phải giúp đám thợ cạo mới được. 
- Tôi cũng đi ra ư? Tôi cũng ra! Tôi thấy lời hứa danh dự cũng như mệnh lệnh đều không thể cấm tôi chăm sóc thương binh.
Gió quét khói quang đi. Bolôc phu nhân mở cửa, nhìn ra xa, về phía pháo đài nhà ngục. Trong một đám khói bà thấy Đôbô bổ một nhát gươm kinh khủng lên đầu một tên Thổ vừa đặt chân lên mặt thành, rồi xô cái xác chết xuống. Võ đồng Bolajơ đứng đằng sau ông, lưới mũ sắt đã kéo xuống. Cậu cắp giáo, chùy và một thanh gươm khác nữa của chủ tướng ở dưới nách.
Mặt trời thỉnh thoảng lại ló ra giữa những đám mây và khói. Thời tiết mùa thu lẽ ra đã lạnh nổi da gà, ấy thế mà những người chiến đấu vẫn thấy nóng như kỳ đại thử! Đôbô giật quai mũ ra, ném cho Bolajơ. Đoạn ông rút khăn tay ở thắt lưng lau vừng trán đẫm mồ hôi.
Đầu để trần, ông đánh tiếp.
Võ đồng Bolajơ không biết để cái mũ sắt mạ vàng ấy vào đâu nữa, cậu bèn đội lên đầu mình.
Khói trùm kín người họ. Bay đi khói ơi, bay đi!
Màn khói loãng dần như thể đã nghe tiếng kêu của trái tim người mẹ. Bolajơ còn đứng, vẫn đứng trên mặt thành. Bà mẹ muốn gọi bảo con hãy đứng lui ra sau chút nữa, thấp xuống chút nữa, nhưng dù bà có gọi, trong cơn gào thét địa ngục này nó cũng chẳng nghe thấy tiếng nào.
Bà vừa giơ tay lên để vẫy con trai thì cậu thiếu niên buông rơi binh khí của Đôbô và đưa tay lên cổ bằng một cử chỉ uể oải, đồng thời loạng choạng quay một vòng. Cái mũ mạ vàng rơi khỏi đầu cậu, lăn lông lốc. Cậu thiếu niên ngã xoài ra mà không đưa tay về phía mặt đất để đỡ.
Bà mẹ kêu lên một tiếng nghe buốt óc, xô tung cánh cửa, chạy bổ nhào tới đó. Bà bế con trai lên, kêu khóc, gục xuống xác con, ôm chặt lấy, gọi tên con.
Đôbô liếc nhìn họ rồi nhặt cái mũ lên. Ông vẫy hai chiến sĩ và chỉ vào cậu thiếu niên.
Hai chiến sĩ đỡ lấy cậu thiếu niên, một người đỡ vai, người kia đỡ dưới khoeo chân, họ mang cậu vào soái phủ, vào phòng bà mẹ.
Cậu thiếu niên nằm bất tỉnh với cái cổ đẫm máu như một chú bồ câu trúng đạn.
- Ôi, tôi không còn con trai nữa rồi! - Người quả phụ tóc đã hoa râm khóc nấc lên.
- Có lẽ cậu ấy chỉ ngất đi thôi. - Một chiến sĩ nói.
Anh ta cởi cái mũ sắt có lưới che mặt ra khỏi đầu người võ đồng, cởi giáp hộ thân và các thứ giáp khác nữa.
Vết thương hoác miệng trên cổ cậu thiếu niên. Viên đạn đi vào không phải ở chỗ cổ mà ở ngang lưng, ở cổ chỉ là chỗ nó đi ra.
Mặt người quả phụ méo mó đi vì đau đớn, cặp mắt đỏ ngầu máu. Bà vồ lấy thanh gươm nằm trên bàn mà Êvo đem ra hồi nãy, và lao vào cơn lốc người trên pháo đài Nhà Ngục.
Một số phụ nữ đã chạy đi chạy lại ở đó rồi. Họ nấu nước, hắc ín và chì ở dưới chân pháo đài rồi nhanh nhẹn khiêng những vạc đã sôi lên cho các chiến sĩ.
- Mang cả nước lạnh lên nữa chứ, nước uống ấy! - Các chiến sĩ la lên mỗi khi có một chút hở tay giữa hai đợt công kích.
- Các mụ ơi, hãy vào hầm rượu! - Đôbô gọi với xuống. - Mở hết các thùng ra! Dùng bình gỗ mang ra cho các chiến sĩ.
Những người nghe tiếng gọi liền hộc tốc chạy đi. Váy xống của họ tung phồng cả lên.
Viên thư lại Imre đang vác binh khí đi đi lại lại trước cửa hầm rượu. Thấy có đông phụ nữ hộc tốc chạy đến, anh ta liền thọc chìa khóa vào cửa.
- Cho các sĩ quan có phải không? - Anh ta hỏi bà vợ Kôtsit.
- Cho tất cả mọi người, ông thư lại ạ, cho tất cả mọi người. Ngài đại úy đã bảo thế.
Imre đẩy cửa hầm ra:
- Rượu ngon ở đằng trong ấy! - Anh ta nói to rồi kéo sụp lưới che mặt xuống, tuốt gươm ra.
Cả anh nữa cũng lao lên pháo đài Nhà Ngục.
Quân Thổ xông lên pháo đài mỗi lúc một đông hơn. Chúng đã nhảy lên cả mặt thành, vật lộn sống chết với các dũng sĩ Eghe. Chính Đôbô cũng tóm lấy cổ một tên, một thằng hộ pháp mà chỉ riêng bộ xương của nó cũng đã đến một tạ. Ông định xô nó xuống. Tên Thổ choãi chân trụ lại. Cả hai trừng mắt thở hổn hển đến một phút. Lúc đó Đôbô dồn hết sức bình sinh vặn một cái, giật nó vào phía trong, khiến nó ngã dúi từ trên giàn cao xuống sân. Cái mũ sắt của tên Thổ rơi ra, còn nó rơi phịch xuống giữa đống đá. Nhưng nó lại gượng đứng dậy và quay đầu lại xem đồng đội của nó có đến không.
Lúc đó Bolôc phu nhân vừa đến nơi. Rú lên một tiếng như chim cắt, bà vung gươm lên, và đầu tên Thổ lìa khỏi cổ dưới nhát chém kinh khủng của bà.
Những người phụ nữ khác đã xoay xở cả trên pháo đài. Trong cuộc vật lộn, thấy các chiến sĩ không lấy hắc ín chảy, đá và chì nữa, họ bèn tự mình mang lên và trong lửa, trong khói bụi mù mịt, họ giội các thứ đó xuống đầu bọn Thổ đang cố xông lên.
Thằng chết rơi xuống, thằng sống lại chen lên. Mỗi một lần đá lăn xuống, mỗi một lượt hắc ín và chì giội xuống lại dọn quang một lối trên mặt tường bị bâu kín, nhưng đống xác chết chỉ càng giúp cho những binh đoàn vừa nghỉ sức leo lên dễ dàng hơn. Những thằng sống giật những lá cờ khỏi tay những thằng chết vừa rơi xuống, và lá cờ đuôi ngựa lại phấp phới trên thang.
- Ala! Ala! Thắng rồi! Chúng ta thắng rồi!
Đôbô ngạc nhiên liếc sang nhìn Bolôc phu nhân đang chiến đấu bên cạnh, nhưng ông không có thì giờ để nói gì cả. Chính ông cũng đang đánh nhau. Máu nhỏ ròng ròng trên bộ giáp sáng loáng của ông, từ vai đến gót.
Người quả phụ liên tiếp phân phát những nhát chém cho bọn Thổ xông lên, cuối cùng bà trúng một nhát giáo, ngã từ trên pháo đài xuống giàn gỗ.
Không còn ai để kéo bà xuống nữa. Cuộc chém giết đã chuyển lên mặt thành. Người sống xéo lên người chết. Đôbô nhảy lên một cái mỏm đá chìa ra ngoài, nhìn xuống. Bọn aga cũng đã vào đến chân tường. Bêi Veli cưỡi ngựa, cầm một lá cờ đại bằng nhung đỏ thắm. Bọn chiến binh Thổ trông thấy lá cờ thì hò reo ầm lên:
- Ala giúp đỡ đấy! Phút khải hoàn đã đến rồi!
Lá cờ này là lá cờ chiến thắng của viên pasa Ali. Mùa hè năm đó nó đã tung bay trên giá cờ của ba chục thành quách và lâu đài, loan tin thắng trận của sức mạnh Thổ Nhĩ Kỳ. Ngoài ánh vinh quang, nó chưa hề hoen dấu gì khác!
Bêi Veli cầm lá cờ tiến vào sát pháo đài Đất. Ở đó cuộc phòng vệ có vẻ yếu ớt hơn cả, vì cả phụ nữ cũng đã phải giáp chiến.
Đôbô đã trông thấy lá cờ đại trang trọng, có thêu chữ và lấp lánh ánh vàng. Ông nhắn về với Petơ, rồi đích thân chạy sang pháo đài Đất.
Ở đó cuộc chiến đấu đang diễn ra lộn ẩu. Thỉnh thoảng một hình thù cầm cờ nhô lên rồi lại biến mất dưới sâu. Các chiến sĩ giao tranh trong một màn khói và bụi mù mịt. Những vòng rơm tẩm hắc ín và những cái bánh lửa bay loang loáng trong đám khói như những ngôi sao chổi.
- Giêsu, lạy Chúa giúp chúng con! - Một phụ nữ rú lên.
Đôbô đến đó trong cái nháy mắt mà một tên Thổ vọt lên cắm phập thanh gươm cong đến tận chuôi vào Xuêrơ Machiát, người thợ xay bột làng Mokơla.
- Đánh đi! Đánh đi! - Giọng nói của Đôbô vang vang trên pháo đài.
Tiếng nói đó tiếp thêm sức mới cho các chiến sĩ. Họ chém giết những tên sấn lên mặt thành giữa những lời chửi rủa rất dân gian của Hung, không bao giờ có thể ghép vào tội được. Đôbô xông vào tên giặc đã giết người thợ xay bột. Ông thấy tên Thổ mặc áo giáp bằng thép Đerơben từ đầu đến chân, chém vào loại giáp đó, gươm sẽ trượt đi. Với một quyết định chớp nhoáng, ông nhảy xổ vào người hắn và đè hắn lên xác người thợ bột vừa bị hắn giết. Nhưng tên Thổ là một thằng to lớn lực lưỡng. Hắn cố lật Đôbô xuống. Trong cơn tức giận bất lực, hắn cắn đứt cái giáp che tay của Đôbô, rồi bất thình lình nằm lăn ra đất và phơi cái mặt ra. Nhưng đó chính là chỗ chết của hắn. Đôbô đã tìm thấy cái cổ trần và không chút thương xót, ông bóp chặt linh hồn vào trong xác hắn.
Ông chưa kịp đứng lên, thì một ngọn giáo Thổ từ trên cao rơi xuống trúng vào chân ông, xẻ đứt đai da và dừng lại trong mắt cá. Trong cơn đau đớn, Đôbô gầm lên như một con sư tử. Ông ngã quỳ lên đầu gối, ôm lấy chân, những giọt nước mắt đau đớn nhòe ướt mắt.
- Chủ tướng! Ngài bị thương đấy ư? - Võ đồng Kơrixtốp hoảng sợ hỏi.
Đôbô không đáp, ông giật mũi giáo ra khỏi chân và ném đi. Ông nắm chặt tay đứng lặng một chút, nghiến hàm răng cho đến khi cơn đau nhói đầu tiên đã dịu đi. Sau đó ông đá một cái xem chân có gẫy không. Không gẫy, nó chỉ chảy máu thôi. Khi cơn đau đã hết ông lại cầm gươm lên và văng mình như con hổ vào bọn Thổ. Thật vô phúc cho đứa nào giờ đây xông tới trước mặt ông.
Trong khi ở đó quân hai bên đã gần như dùng cả răng mà cắn xé lẫn nhau thì cách đó không đầy mười sải, một cánh quân địch cũng chen lên đông nghịt ở một chỗ vỡ khác. Những thanh gỗ bít chỗ vỡ bị gãy dưới sức ép của hàng mấy trăm tên địch, và bọn Thổ hò reo đắc thắng xông vào, không cần phải leo tường gì nữa. Tên này xô đẩy tên kia, tay phải chúng cầm binh khí, tay trái cầm cờ. Những tên đi trước cầm cờ nhảy lên pháo đài, những tên đi sau nhảy xổ vào đám thương binh và phụ nữ đứng chờ lượt dưới các giàn gỗ. Một tên lấy chân bọc giáp sắt đá một đống củi đang cháy vào cái cột đỡ giàn gỗ. Lửa lè những cái lưỡi dài bắt đầu liếm vào cột.
Bọn giặc dễ dàng xử trí các thương binh, nhưng đám phụ nữ vừa thét lên giận dữ vừa nhấc các vạc dầu và các chảo nước sôi lên. Bà vợ Kôtsit Gátpa người to béo, tưới nước sôi vào mặt một tên aga rậm râu, khi hắn vội vã đưa tay lên chộp lấy bộ râu thì bộ râu làm dáng nằm lại trong tay hắn. Một người phụ nữ khác vớ lấy một khúc củi đang cháy trong một đống lửa ở gần đấy, phang thẳng vào mặt tên giặc Thổ khiến những tia lửa tung tóe ra như hoa cà hoa cải. Các bà khác cũng vớ lấy vũ khí cự địch với bọn dị giáo.
- Đánh chết chúng nó đi! Đánh chết chúng nó đi! - Bác thợ rèn vùng Phennêmét gầm lên.
Bác xách cây búa tạ lao đến chỗ các bà. Ba tên dị giáo đang dựa lưng vào nhau mà đánh họ. Bác nện vào đầu một tên, mạnh đến nỗi óc nó phọt ra cả đằng mũi, đằng tai. Thanh gươm cong loáng lên trong tay tên Thổ thứ hai và cắm đến chuôi vào bụng bác thợ rèn.
- Đồ cẩu trệ, mày sẽ cùng tao về thế giới bên kia! - Bác thợ rèn rống lên.
Bác vung cây búa tạ lên quá đầu một lần nữa và chỉ ngồi bệt xuống đất, đè tay lên bụng sau khi thấy kẻ địch của mình đã ngã sấp mặt vào giữa đống xác chết với cái mũ sắt bẹp dúm dưới nhát búa khủng khiếp.
Tất cả phụ nữ đều nhặt các thứ binh khí lăn lóc ở dưới đất lên, vừa căm hờn la hét the thé như tiếng chim cắt, vừa chọi nhau kịch liệt với bọn Thổ. Khăn trùm của họ rơi xuống, tóc họ xõa ra, váy họ xoắn đi xoắn lại trong trận kịch chiến. Nhưng họ không nghĩ gì đến giới tính của họ nữa, vừa la hét họ vừa lao vào bọn Thổ. Gươm của họ không đỡ được miếng đòn nào cả, nhát nào đánh vào, họ cũng đều phải nhận. Nhưng nhát nào họ đánh trả, quân Thổ cũng không thể tránh nổi.
- Hoan hô các bà! - Tiếng Petơ vang lên sau lưng họ.
Vừa trông thấy ngọn lửa bén vào giàn gỗ, anh vội vớ lấy xô nước và tưới lên cái cột. Anh đem đến một toán quân đã được nghỉ ngơi. Chính anh cũng vung gươm nhảy vào một tên akinji đang vọt lên như một con mèo và hạ nó xuống cái rầm gỗ. Trong khi đó, các chiến sĩ của anh rải xác những tên Thổ đã đột nhập được vào thành như vãi trấu. Hơn thế nữa họ còn xông ra ngoài lỗ hổng.
Đôbô quỳ xuống mặt thành, ngực thở phập phồng đưa cặp mắt đăm đăm nhìn xuống phía dưới. Máu nhỏ giọt từ lưỡi gươm và từ râu cằm của ông.
Những người Eghe nổi xung xông ra khỏi thành mỗi lúc một đông, họ đã choảng bọn Thổ ở dưới chân pháo đài, giữa đống xác chết.
- Quay về! - Đôbô lấy hết gân cổ hét lên.
Nhưng trong cơn lốc của trận đánh, những người kia không nghe cả đến tiếng của chính họ nữa.
Một chiến sĩ tên là Tốt Laxlô trông thấy tên bêi cầm cây cờ nhung đỏ, bèn nhảy đến chỗ hắn. Anh nổ khẩu súng ngắn trong tay vào ngực tên bêi và giật lấy cờ. Động tác tiếp đó của anh là ném khẩu súng ngắn hết đạn vào giữa mắt một tên Thổ khác. Sau đó anh nhảy lui về với cây cờ chiến lợi phẩm, trong khi năm đồng đội cùng xông ra với anh bị bọn ionisa băm nát. Đôbô chỉ thấy tên bêi Veli ngã lăn xuống ngựa và lá cờ chiến thắng của viên pasa bị người Hung cướp lấy. Ông chỉ chỗ cho đám quân vừa được nghỉ. Ông vắt những tua áo rách đẫm máu trên cánh tay trái một cái rồi lao xuống chỗ lỗ hổng. Petơ đã đứng ở đó và đang giơ một khúc gỗ cháy lên khẩu súng cối đặt trước lỗ hổng.
Phát súng đó đã hất lùi bọn ionisa đuổi theo lá cờ.
- Nạp đạn! - Đôbô hô lên với một chiến sĩ. - Bốn người các ngươi ở lại đây. Nếu có thì giờ thì mang gỗ, mang đá lại đây!
Cơn bão lửa lại tiếp tục lồng lộn trên pháo đài với một sức mạnh mới.

20

Êvo còn lại một mình với cái xác chết.
Nàng ngây ra nhìn đến một phút rồi mới cử động được. Nàng đội cái mũ sắt lên đầu, thắt áo giáp vào ngang lưng, vào cánh tay. Cậu thiếu niên cũng tầm vóc như nàng, nàng mặc quần áo cậu vào người. Nàng chê thanh gươm của cậu hơi ngắn, bèn đi vào phòng Đôbô, nhấc trên tường xuống một thanh kiếm Ý dài, thẳng đuột, đeo sợi quai da ở chuôi kiếm vào khuỷu tay.
Bỏ bao kiếm lại, nàng xách thanh kiếm trần lao vút ra cửa, co chân chạy, mà chính nàng cũng không biết là chạy đi đâu. Nàng chỉ biết một điều là chồng nàng cùng Zôntoi đốc chiến ở thành ngoài. Nhưng từ soái phủ phải đi theo ngả nào để ra thành ngoài thì nàng không biết.
Mặt trời đã trên đường đi xuống, nhưng qua những đám khói cuồn cuộn khắp xung quanh, trông nó cũng chỉ như một viên đạn đại bác đỏ lừ lửng lơ trong không khí.
Nàng nhớ mang máng về cái bản đồ của thành là thành ngoài như hình lưỡi liềm đặt bên cạnh con rùa về phía đông. Mặt trời lặn về bên tay phải, vậy thành ngoài phải ở bên tay trái. Mười người lính sạm khói, dính đầy hắc ín chạy ngược lại phía nàng, đi đầu là một viên thập trưởng. Cánh tay phải và sườn, bên phải của họ đen ngòm những máu. Giáo vác trên vai, họ chạy về phía pháo đài Nhà Ngục. Rồi đến một người lính loạng choạng. Máu chảy ròng ròng trên mặt anh ta. Chắc hẳn anh ta định đi đến chỗ đám thợ cạo. Một vài bước lảo đảo nữa, và anh ta ngã sõng soài ra đất.
Êvo lưỡng lự một giây: không xốc anh ta lên ư? Nhưng một người thứ hai, thứ ba nữa cũng đã chết hoặc bất tỉnh nhân sự nằm kề đó. Người thứ ba ấy là cậu con trai lớn của ông đốc lý Eghe mà nàng đã biết qua cửa sổ. Ngực anh ta mang một mũi tên.
Các bà phụ nữ thở hổn hển từ phía hầm rượu chạy tới. Đầu họ đội bình gỗ, tay họ xách vò ép phó mát hoặc vò có tai. Họ cũng chạy về phía đông, Êvo liền nhập bọn với họ. Sau khi chạy qua dãy chuồng bò, chuồng ngựa, họ biến vào trong một đường hầm dốc xuống thoai thoải. Trong đường hầm có hai ngọn đèn chiếu sáng. Đó là cổng Cũ, cổng này nối liền thành quai sanh bên ngoài với thành trong.
Vừa vượt qua cái cổng đó, họ rơi tõm ngay vào một địa ngục náo động đầy bụi và khói.
Xác chết la liệt trên mặt đất, trên bậc cầu thang trên các giàn gỗ. Êvo nhận ra một xác chết là giáo sĩ Balin. Ông giáo sĩ nằm ngửa, trên đầu không có mũ sắt, bộ râu bạc rủ dài của ông nhuộm đỏ máu, thanh gươm vẫn còn nằm trong tay ông.
Êvo nhặt từ dưới đất lên một cây chùy và lao lên cầu thang.
Cuộc xô xát đã gần trở thành cuộc đánh vật. Các chiến sĩ đứng trên mặt thành đẩy bọn Thổ trở lại. Một phụ nữ từ trên cao ném xuống một khúc gỗ cháy. Một người khác vung cây gậy đầu đày đang cháy lên phang vào cổ tên giặc Thổ. Tiếng chửi bới, tiếng kêu Giêsu, tiếng thét Ala, tiếng chân nện lộp cộp, tiếng vù vù, loảng xoảng vang ầm khắp nơi.
Trên pháo đài, hai khẩu đại bác nối tiếp nhau nổ rền.
Nghe tiếng súng Êvo ngước mắt nhìn lên. Nàng thấy chồng đang cầm cái bùi nhùi bốc khói trong tay và đôi mắt nhìn xuống dưới để xem hiệu lực của phát đạn. Người ta đánh ngã năm hoặc sáu tên Thổ còn lại trên gờ tường, sau đó tiếp đến một phút ngơi tay. Tất thảy các chiến sĩ đều quay trở lại, gân cổ lên mà hét:
- Nước! Nước! 
Ngay bên cạnh Êvo, một lão chiến sĩ đội mũ sắt đứng trên một tảng đá nhô ra ở chỗ tường đổ mà gào. Mồ hôi pha máu lấm tấm như sương trên mặt lão, hầu như chỉ còn chừa có hai con mắt.
Êvo nhận ra cha nàng.
Nàng giật lấy cái bình trong tay người phụ nữ và chìa cho lão. Nàng đỡ cái bình giúp lão. Ông lão uống ừng ực. Trong bình có rượu vang đỏ Eghe để đã lâu năm chứ đâu phải nước lã. Lão tu từng hơi dài. Khi lão đẩy cái bình ra khỏi miệng, rượu từ ria mép dòng dòng nhỏ xuống. Sau đó lão mới thở phào một cái.
Êvo thấy tay phải của lão bị cháy. Chẳng có gì lạ: từ khuỷu tay trở ra, cánh tay ấy làm bằng gỗ. Chắc hẳn rơm tẩm hắc ín đã bén phải nó, thế mà ông lão chẳng hề nhận thấy.
Êvo vất cái bình và cây chùy xuống, chụp lấy tay ông lão. Nàng đã biết cánh tay gỗ được buộc đai ở chỗ nào, với những ngón tay nhanh nhẹn, nàng cởi khóa ra, và cánh tay gỗ bay vào giữa bọn Thổ.
Còn ông lão lại cầm lấy gươm, nhô người ra ngoài pháo đài, dùng cánh tay trái chém sả vào một cái khiên bằng sậy có đóng những mặt trăng bằng đồng.
Êvo tiếp tục lao về phía chồng. Đây đó nàng lại phải nhảy qua một xác chết. Thỉnh thoảng một vệt lửa bay qua trước mặt nàng. Đôi khi một viên đạn va độp vào tường ở phía trước hoặc sau lưng nàng. Nhưng tất cả các chiến sĩ vẫn đang mải uống. Họ chỉ xin nước lã thôi, nước lã cũng đã là nước cam lộ đối với họ lúc này rồi. Huống nữa lại là rượu vang! Cứ như thể họ uống sức thần vào người!
Xen vào tiếng ầm ầm của bọn Thổ cuồn cuộn la hét dưới chân thành là tiếng quát vang rền của Zôntoi:
- Lên đây, quân cẩu trệ! Lên đây! Để tao nhắn tin về cõi Nát bàn cho Môhamét!
Rồi một phút sau nữa anh chỉ còn quát:
- Chúc mày yên giấc!
Tên Thổ được anh chúc chắc hẳn đã quên chúc mừng trở lại.
- Hêri! Hêri! (Tiến lên! Tiến lên!) - Bọn giám binh Thổ hò hét không ngớt. - Thắng lợi rồi! Thắng lợi rồi!
Và những toán quân mới, rừng thang mới, lớp khiên mới lại rùng rùng kéo lên cái núi xác chết.
- Ala! Ala!
Cuối cùng Êvo cũng đến được chỗ Gergey lúc chàng châm ngòi một cái vỏ thùng rượu nhỏ chứa đầy thuốc súng và ném xuống đầu lũ giặc. Sau đó chàng ném cái mũ sắt xuống đất, nhảy đến trước mặt một người phụ nữ, giằng lấy cái bình tu ừng ực đến nỗi rượu vang đỏ tràn qua cả hai bên mép, chảy xuống thành hai dòng nhỏ.
Êvo đưa rượu của nàng cho một chiến sĩ khác và cúi xuống nhặt cái mũ, nhưng khi nàng vừa cúi xuống, khói hắc ín xộc vào mắt. Lúc nàng dụi hết nước mắt thì không còn thấy Gergey đâu nữa. Nàng đang ngoái cổ nhìn quanh thì các chiến sĩ xung quanh nàng bỗng bất thình lình ngồi thụp xuống. Một loạt đạn của bọn tưphenji nổ rền, cách mặt thành không đầy mười sải - một viên đạn quật trúng cái mũ sắt của Êvo, làm nứt cả mũ. Êvo loạng choạng. Mất một lúc nàng mới hồi sức lại được.
Tiếng trống thúc, kèn reo ở dưới chân thành ầm ầm như cảnh địa ngục. Một tên giám binh Thổ cổ dài ngoằng gân họng hét lanh lảnh:
- Lại đây! Lại đây!
Cánh quân Thổ đã quây lại dưới chân thành. Chúng nó điều bọn axap mũ da và bọn akinji mũ đỏ đến thay thế bọn ionisa.
Một tên đạo sĩ khoác áo trắng nhưng lại đội mũ sắt thay mũ lông lạc đà, tay cầm cờ, miệng gào Tiến lên! Tiến lên! Hắn xông lên thành với mười tên ionsia già.
Các chiến sĩ ta thường không bắn vào bọn đạo sĩ, nhưng vì tên này đội mũ sắt, tay lại cầm gươm nên họ nổ súng vào hắn. Hắn khiến Êvo cũng phải chú ý.
Gió thổi bạt khói đi một phút và cuốn phần phật lá cờ ba quả thao trong tay tên đạo sĩ. Khi hắn quay về phía thành, Êvo thấy một bên mắt hắn buộc băng.
- Yumusác! - nàng thét lên với nỗi giận dữ của con hổ và ném cây chùy xuống như một tia chớp.
Quả chùy bay qua đầu tên đạo sĩ rồi trúng vào ngực một tên ionisa. Tên đạo sĩ nghe tiếng thét liền ngửng nhìn lên. Ngay lúc đó khẩu đại bác trên pháo đài gầm lên, bọc lấy tên đạo sĩ cùng toán quân của hắn trong một luồng lửa và khói.
Lúc khói tan, ở đó không còn dấu vết gì của tên đạo sĩ nữa. Tuy vậy tường thành vẫn đen kịt những toán quân vừa mới xông lên.
Chúng nó không chỉ leo lên bằng thang nữa. Một tên inosia mũ trắng leo lên bằng cách bám vào những tảng đá nhô ra ngoài mặt thành đã sạt lở. Rờ chỗ nào tay hắn cũng tìm được chỗ để bám, chân hắn cũng tìm được kẻ hở để đứng. Đến những đoạn giăng bằng gỗ, hắn càng dễ vượt lên. Đứa thứ hai, đứa thứ ba, mười, hai mươi, rồi hàng trăm đứa khác noi gương hắn - chúng bâu kín những mặt thành đầy ánh nắng chẳng khác gì đàn bọ xít về mùa xuân. Chúng nó bấu víu leo trèo suốt dọc dài thành ngoài, mắt cháy rực, mồm thở phì phò. Một vài tên mang theo cả thang dây để móc vào tảng đá nhô ra một cách thuận tiện, và những đứa còn lại đứng dưới đất liền bám lấy leo lên.
Gergey từ trên pháo đài chạy xuống chỗ tường vỡ, đầu trần, tay cầm giáo, mặt sạm đen khói thuốc súng.
- Sukan! - Chàng gọi to với một người đang sử dụng cây thương. - Còn hắc ín trong kho nữa không?
Giọng chàng khản đặc, chàng gần như ghé sát tai lão già mà hỏi.
- Hết rồi! - Sukan đáp. - Còn một thùng nhựa thông trong ấy nữa thôi.
- Bác cho mang ngay ra chỗ đại bác Perênhi ấy nhé.
Viên thư lại Imre, người phát bánh, cũng đang chiến đấu bên cạnh lão già. Anh ta đặt thương xuống, lao đi ngay.
- Bớ quân sĩ! Hãy ráng hết sức ra! - Gergey hô.
Từ bên cạnh, tiếng Zôntoi vọng qua như một hồi âm.
- Nếu lần này ta đánh lui quân giặc, chúng sẽ không bao giờ đến nữa!
- Bắn! Bắn! - Tiếng hô vang từ các phía khác vẳng đến.
Các bà phụ nữ xỏ đòn khiêng từng vạc chì sôi, dầu sôi, nước sôi.
Mụ Vosơ Pheren xúc một xẻng lớn than hồng chạy lên mặt thành rồi trút xuống bọn Thổ. Nhưng cũng lúc đó cái xẻng rơi ra khỏi tay mụ: một mảnh đá bị đạn bắn vỡ văng vào thái dương mụ. Mụ ngã tựa lưng vào một cái cột rồi từ từ gục xuống. Một mụ to béo, sạm đen khói súng, cúi xuống định đỡ bạn lên nhưng mụ thấy ngay là bạn mình đã bỏ mạng. Mắt mụ liếc ngay sang tảng đá nằm bên cạnh. Mụ nhấc bổng tảng đá lên, chạy vội đến bên rìa mặt thành. Một viên đạn bắn trúng ngực khiến mụ ngã sấp về phía trước.
- Mẹ ơi! - Một cô gái váy đỏ rú lên.
Nhưng cô không nằm phủ lên người mẹ mà trước hết cô nhấc bổng tảng đá mẹ cô vừa đánh rơi, rồi giáng xuống ngay chỗ mẹ cô định ném. Tảng đá quật chết tươi hai tên Thổ. Chỉ khi đã trông thấy điều đó cô gái mới quay lại ôm lấy mẹ, bế xuống cầu thang.
Trong biển khói, một tốp lá chắn hình mai rùa tiến lại chân thành. Những cái lá chắn ghép sát vào nhau mà tiến, không thể trông thấy bọn akinji nấp bên dưới.
- Bớ quân sĩ, hãy chú ý. - Tiếng Gergey vang lên.
- Nước sôi! Lửa! - Zôntoi thét vang. - Kia kìa! Kia kìa! Chúng nó đang trèo cả lên tường không cần thang kia kìa!
Một tấm ván bọc tôn từ sau công sự của bọn Thổ nhô lên. Bốn tên piát khiêng chạy đến chân thành. Bọn đứng trên thang đỡ lấy, giơ lên che kín người. Sau đó còn nhiều cái mái như thế nữa được mang tới. Cái nào cũng bọc tôn để các chiến sĩ ta không thể dùng cuốc chim mà đánh thủng được.
- Nước sôi! Nhiều vào! - Gergey gọi ra phía sau.
Êvo chạy đến bên chàng, chụp lại cái mũ sắt lên đầu chàng.
- Cám ơn Bolajơ! Đôbô phái chú đến đây à? - Gergey hỏi.
Êvơ không đáp, nàng chạy vội xuống dưới pháo đài lấy nước sôi.
- Nước! Nước sôi các bà con ơi!
Nàng gân cổ lên gọi. Trong lúc đó những tấm ván bọc tôn ghép sát vào nhau. Những tên xung kích mặc quần áo mỏng chạy vào bên dưới. Một số tên cởi trần trùng trục mà mồ hôi vẫn chảy ròng ròng. Đầu chúng không bị mũ sắt đè nặng trĩu. Chúng ném khỏi thắt lưng tất cả những thứ binh khí nặng nề, chỉ giữ lại thanh gươm cong sắc như nước lủng lẳng đầu dây quai đeo ở cánh tay.
Khi Êvo quay lại để được ở cạnh Gergey, trong làn khói dày đặc nàng không trông thấy ai nữa, chỉ thấy những lưỡi lửa dài, đỏ đòng đọc bay tứ tung và ánh gươm loang loáng trắng trong ánh lửa.
- Ala! Ala!
- Đùng, đùng, đùng! - Tiếng đại bác.
Khói càng dày đặc hơn, nhưng bỗng nhiên bay vọt lên quá đầu toán quân phòng thủ như một cái đình màn lượn sóng và có thể thấy rõ binh khí Thổ lấp loáng chĩa lên, binh khí Hung tua tủa chĩa xuống.
- Nước sôi! Nước sôi! - Gergey gào.
Cái mái tôn dưới chân thành đã bắt đầu lên cao dần. Những tảng đá hàng tạ từ trên thành lăn xuống. Cái mái tôn hé ra, nuốt lấy tảng đã rồi lại liền như cũ.
- Nước sôi! - Zôntoi cũng vừa hô vừa xông đến chỗ đó, Gergey vừa trông thấy Zôntoi đến bèn nhảy ngay xuống chỗ khẩu đại bác. Thùng nhựa thông đã sẵn sàng ở đó. Gergey xô ngã cái thùng và bảo các pháo thủ:
- Các ngươi hãy nạp vào các khẩu đại bác, nạp lên trên thuốc súng! Nạp đầy vào! Dộng mạnh vào cho nó vụn ra! Bỏ ít đạn thôi!
Lúc đó từ mặt thành, người ta trút nước sôi xuống. Nước sôi chảy đến những nơi đá không đến được. Cái mái rùng rình rồi rã ra. Bọn Thổ ở bên dưới rú lên ối ối và nhảy ra khỏi các tấm mái.
Đàn bọ xít vẫn bâu kín tường, Gergey nã vào chúng một phát súng cối. Nhưng chúng vẫn cứ còn lại trên tường. Gergey vác một cái gậy thông nòng đại bác xông về phía chúng.
- Gergey! - Tiếng Petơ gọi to.
- Tôi đây. - Gergey trả lời giọng khàn đặc.
- Mình dẫn đến năm chục người đây. Đủ không?
- Còn được bao nhiêu cậu cứ điều đến nữa đi! Cậu cho nhóm thêm lửa và bảo mang nước sôi đến đây!
Loạt đạn mới của bọn tưphensi tung thêm khói vào đám khói của phát đạn cối và che mờ tường thành đi một lúc. Bọn xung kích mặc quần áo mỏng đã lợi dụng phút đó để lại bâu kín những cái thang.
Gergey trở về chỗ khẩu đại bác.
- Nạp xong rồi chứ? - Chàng hỏi.
- Xong rồi! - Lão Kôtsit Gátpa đáp.
- Bắn!
Khẩu đại bác tóe lửa, nổ vang. Nhựa thông từ nòng đại bác phụt ra thành một cột lửa dài đến hai chục sải. Ngay cả những tên Thổ chỉ bị luồng hơi ép của đại bác lướt qua cũng nhảy đại xuống khỏi mặt tường.
Thấy mặt tường lại bị quét sạch, bọn giám binh và các võ quan Thổ tức tối hò hét.
Từ trên thành có thể thấy rõ tất cả mọi tên lính địch đều chạy xa khỏi tường thành. Axap, piát, tưphensi, deli, xpahi, akanji, tất cả hỗn độn, hoảng hốt bỏ chạy về phía các ụ đất. Đứa vẩy tay, đứa nhảy lò cò. Tất cả đều đẫm máu, điên khùng, mất hết vẻ người. Đám đông bọn giám binh và bọn aga phải quát tháo dữ dội mới có thể cản được lũ lính lại. Bọn quan không chỉ dùng roi da nữa mà dùng cả gươm để ngăn đám lính chực bỏ chạy ấy.
- Kẻ nào anh hùng thì theo ta! - Tên bêi đạo sĩ hét lên với lũ lính.
Một tinh thần mới truyền vào toán quân đã bị thương đẫm máu. Chúng lại xùi bọt mép, bắc thang, ôm đầu máu xông lên, lần này thì thẳng đến bức tường đặt đại bác. Tên đạo sĩ dẫn đầu bọn chúng. Hắn vọt lên trước nhất. Máu đã nhuộm đỏ cái áo khoác trắng của hắn. Ngậm lá cờ vào mồm, hắn xông lên không cần mang mộc.
Ở cái thang bên cạnh cũng có một tên bêi trèo lên, một tên đại hộ pháp. Cái tuyban của hắn to như tổ cò, thanh gươm của hắn bằng cả cây mã tấu của đao phủ.
Gergey nhìn quanh và lại thấy người võ đồng tức lồng lên đang nhấc bổng tảng đá ở ngay bên mình. Người võ đồng nhấc một tảng đá xây nhà to tướng ném mạnh xuống.
- Bolajo, chú đi chỗ khác đi! - Gergey nói. Cái giọng khàn đặc của chàng bỗng trở nên sang sảng ở hai tiếng cuối cùng.
Êvo không đáp. Trong tay nàng vẫn còn thanh kiếm Ý mà nàng mang ở trong phòng ra. Nàng chạy vụt đến chỗ cái thang của tên đạo sĩ.
Gergey nhìn xuống. Chàng quát to với tên hộ pháp vừa hổn hển nhô lên:
- Hoivan! Ồ, đồ bò. - Chàng tiếp bằng tiếng Thổ. - Thế mày tưởng gươm súng không phạm vào mày thật à?
Tên Thổ sửng sốt. Bộ mặt to bè bè của hắn ngây ra như phổng đá nhìn Gergey. Lợi dụng giây phút đó, Gergey đâm phập cây giáo vào mỏ ác hắn. Tên Thổ một tay nắm lấy cán giáo, tay kia bổ một nhát kinh hồn vào Gergey. Nhưng nhát chém chỉ rạch không khí thôi và cái xác khổng lồ rơi ngửa xuống một tấm ván bọc tôn.
Trong khi đó tên đạo sĩ đã lên đến đầu thang. Êvo né đầu tránh nhát giáo của hắn rồi chém sả vào cánh tay trái đang bám vào thang của tên đạo sĩ. Cánh tay áo lông cừu của hắn đứt đôi nhưng ở bên dưới lấp lánh làn áo lưới thép.
Vọt một cái hắn nhảy lên mặt thành. Hắn chộp lấy chuôi thanh gươm lủng lẳng ở cánh tay, phì phò lao vào Êvo - Êvo nhảy lùi lại hai bước, chĩa thẳng thanh kiếm ra phía trước, mắt tròn xoe chờ kẻ địch lao vào. Nhưng tên Thổ từng vào sinh ra tử đã nhiều, hắn thấy hắn đang đối mặt với một thanh kiếm nhọn để đâm chứ không phải với một thanh gươm rộng bản. Hắn biết là không nên nhảy xổ vào thanh kiếm dài đang chĩa ra kia. Hắn xuống tấn, khựng lại, chém xuống thanh kiếm để đánh bật sang một bên, và để bằng một nhát kiếm tiếp theo sẽ gửi gã võ đồng này sang thế giới bên kia.
Nhưng Êvo cũng biết miếng võ đó. Nhanh như cắt, nàng đảo thanh kiếm một vòng từ dưới lên trên, tránh nhát gươm của tên Thổ. Khi tên Thổ có thể chém được nhát thứ hai thì thanh kiếm của Êvo đã luồn vào dưới nách hắn.
Cái áo lưới đã cứu mạng cho tên Thổ. Những mắt lưới thép rít ken két, nhưng cùng lúc đó. Tên đạo sĩ đã chém nhát thứ hai và lưỡi gươm của hắn bổ trúng đầu Êvo.
Êvo cảm thấy như thể đầu mình vỡ tung ra. Trời đất tối sầm lại trước mắt nàng và dưới chân nàng mặt đất dường như bị kéo tuột đi. Nàng đưa tay ra phía trước rồi đổ xuống bên cạnh khẩu đại bác như một cái bao tải.

21

Khi Êvo tỉnh dậy khỏi cơn choáng, xung quanh đã yên ắng cả. Nàng không biết mình đang ở đâu.
Nàng mở mắt nhìn, cố nhớ lại. Ngôi nhà gỗ sụp đổ giữa những thanh gỗ là bầu trời sáng trăng quang đãng và những ngôi sao trắng lấp lánh…
Có cái gì cưng cứng ấn đau ngang hông nàng. Đầu nàng cũng nằm trong cái gì ươn ướt lạnh…
Nàng thò cánh tay rã rời xuống dưới hông. Nàng rờ phải đá răm và một viên đạn gang lạnh lẽo, to bằng quả táo.
Tất cả vụt trở nên rõ ràng trước mắt nàng.
Yên lặng, như vậy là cuộc chiến đấu đã chấm dứt. Chẳng biết ai đang làm chủ trong thành? Thổ hay Hung? Trên đài quan sát, bước chân chậm rãi, đều đều của một người lính canh vẳng đến: một, hai, ba, bốn…
Êvo muốn nhỏm dậy lắm, nhưng đầu nàng nặng như chì. Tuy vậy nàng cũng quay đầu một chút và thấy được là mình đang nằm gần pháo đài, cạnh nàng, một phụ nữ nằm sấp bụng xuống đất, với một chiến sĩ áo xanh không còn đầu nữa.
Lạy Chúa nhân từ, nếu quân Thổ mà làm chủ…
Có ánh đèn đỏ lọt qua kẻ hở giữa các thanh gỗ rồi tiếng chân người đến gần. Một giọng đàn ông khàn khàn vằng đến:
- Ta khiêng người võ đồng vào trước hay là người phụ nữ vào trước?
Ô, đa tạ Thượng đế, tiếng nói đó là tiếng Hung.


Phần kết

Những ai còn muốn biết thêm những chuyện gì xảy ra sau cuộc vây hãm, xin hãy đọc các sách về lịch sử. Chính tôi cũng chép thêm từ đây ra một mẩu ngắn gọn như sau:
Trước cuộc vây hãm, Đôbô có cầu cứu hội nghị đại biểu quý tộc họp ở Xichxo. Họ đã trả lời ông, đúng hơn là trả lời Meetsei, người thay mặt ông đến đó rằng:
- Nếu các ông không đủ sức thì các ông giữ chức trấn thủ đô làm gì? Các ông đã ăn cải, vậy bây giờ hãy uống nốt nước đi!
Hai viên đại úy đã đáp lại bằng cách, sau cuộc vây hãm, cả hai đều từ chức.
Tin thắng trận nhanh chóng bay về phương tây, Châu Âu vỗ tay reo mừng. Tại La Mã, giáo hoàng làm lễ ca ngợi Chúa Trời. Từ khắp nơi, những lá thư chúc mừng tới tấp gởi về ca tụng nhà Vua. Dân thành Viên lũ lượt kéo nhau đi ngắm những lá cờ cướp được của quân Thổ gửi về triều (lá cờ nhung của pasa Ali chắc hẳn ngày nay vẫn còn giữa những kỷ vật chiến thắng khác của dòng họ Hápxbua).
Nhà vua phái viên đại úy Sphôadia Machiát đến Eghe để giữ Đôbô và Mectsei ở lại. Nhưng đã hẳn là họ vẫn khăng khăng từ chức.
- Chúng tôi đã làm tròn nghĩa vụ của chúng tôi. - Đôbô trả lời. - Giá chỉ những người khác cũng làm tròn nghĩa vụ của họ! Xin ngài chuyển đạt giùm sự kính trọng của chúng tôi lên hoàng thượng!
Sau đó nhà vua đành bổ nhiệm Bônemixo Gergey làm đại úy trấn thủ Eghe thay Đôbô.

Hết
--------------
Chú thích:
[88] Công binh Thổ.
[89] Quan giám trận trong quân Thổ.

2 nhận xét:

  1. Tôi mới đọc được hai phần. Cảm giác tác phẩm như bộ sử thi của nước Hung.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Ít tác phẩm văn học Hung được dịch ra tiếng Việt. May mắn là trong số ít ấy lại có “Những ngôi sao Eghe”, một tác phẩm đặc sắc và thật sự có giá trị nghệ thuật cao.
      Đọc “Những ngôi sao…” lại tủi cho nền văn học VN. Lịch sử của dân tộc VN là gì, nếu không phải là lịch sử những cuộc chiến tranh triên miên. Chiến tranh tự vệ chống phong kiến Tầu phía Bắc và chiến tranh mở rộng bờ cõi về phía Nam hoặc nội chiến. trong tiến trình lịch sử dằng dặc binh đao ấy, có biết bao sự kiện bi tráng mà tầm vóc, quy mô cũng như ý nghĩa quyết định đến tồn vong đất nước lớn hơn trận Eghe nhiều lắm. Vậy mà văn học VN từ cổ, trung đại đến nay không có nổi một tác phẩm làm bất tử những sự kiện ấy. Văn học VN duy nhất có “Hoàng Lê nhất thống chí” là có tham vong ghi lại những sự kiện bi đát mà hào hùng của một thời điểm trong lịch sử. Tiếc là tác phẩm ấy chỉ là một sự bắt chước đáng thương hại “Tam Quốc chí” của La Quán Trung.
      Trận Mô-hát, trận đánh được đánh giá là lớn nhất, quan trọng nhất của dân tộc Hung (cho đến thời điểm đó, năm 1526) Quân Hung có 25 nghìn người tham chiến và hơn 20 nghìn chết trận.
      Việt Nam, năm 42, Mã Viện mang quân sang xâm chiếm nước ta. Hai bà Trưng đem quân chống cự tại Lãng Bạc, Trận ấy quân ta thua, hơn 100 nghìn người chết trận. Và chết theo cả nền độc lập non trẻ của nước Việt, của dân tộc Việt.
      Trận Mô-hát thua kém trận Lãng Bạc cả về quy mô, ý nghĩa, và nhân số thương vong. Vậy mà Tinôdi Sebestien, thi sĩ - ca công lớn nhất của dân tộc Hung đã khóc than:
      “Tôi hát khúc sầu tang của nước Hung
      Khóc cánh đồng đẫm máu trận Mô-hát
      Bao vạn đời trai lìa rơi tan nát…

      Bên Mô-hát, đồng không ai cắt cỏ
      Mộ địa đây lớn nhất cả hoàn cầu! (?!)
      Rồi ông than thở:
      “Đất nước này còn sinh phục nữa đâu”.
      Ai khóc than cho triệu, triệu đời trai Việt đã ngã xuống nơi trận địa của vô vàn trận đánh lớn hơn nhiều so với Mô-hát, Eghe?

      Xóa