Gárdonyi Géza
Những ngôi sao Eghe
(Nguyên tác: Egri Csillagok)
Dịch giả: Lê Xuân Giang
Tiểu thuyết - Văn học Hungari
Nhà xuất bản: Văn học - Hà Nội
Năm xuất bản: 1987
Phần bốn
Hiểm họa của Eghe - (tiếp theo)
13
Ngày hôm sau, 16 tháng chín, tiếng gầm thét của những khẩu
đại bác đã gọi mặt trời nhô lên đằng sau những dãy núi.
Mặt đất run rẩy. Từ các bãi pháo, khói bay lên như những đám
mây màu nâu hòa lẫn vào mây trời và ngay trong giờ đầu tiên đã che kín cả mặt
trời, cả biển xanh lồng lộng của bầu trời.
Các pháo đài và tường thành rên rỉ, rạn nứt. Đạn to, đạn bé
đua nhau vãi vào thành trong. Tên lửa và hỏa pháo rơi như mưa. Đạn đại bác lao
xuống và quay lông lốc khắp nơi. Từ nay trở đi, tính mạng của người và vật
không còn được an toàn nữa.
Nhưng những người trong thành cũng đã sẵn sàng chờ đón mối
nguy đó. Đôbô đã cho thổi kèn đánh thức quân lính dậy từ khi trời còn tối. Một
bộ phận đi đắp cao thành con chạch về những hướng mà người ta đã biết chắc rằng
hôm sau đạn sẽ từ nhà chánh xứ Hêxei theo đó bay vào. Một bộ phận khác được
lệnh mang tất cả số da còn lại trên trần nhà kho ra ngâm vào các bồn nước.
Những người khác nữa vác xà gỗ, thùng gỗ và những bao tải chất đầy đất ra thành
ngoài, đến pháo đài Ngục thất và đến các cổng thành, để hễ nơi nào bị phá vỡ, tất
cả vật liệu hàn khẩu sẽ sẵn có ngay.
Tất cả xô và nồi có trong thành, hễ còn rỗng, là phải đổ đầy
nước vào. Người ta khuân tất cả mọi thứ không cần thiết ra khỏi các phòng ở
tầng một, tầng hầm và đặt giường vào đó. Củ cải, bí đỏ, bắp cải muối - tất cả những
thứ mà đạn không thể sát hại được - đều được chuyển lên các tầng trên để dành
chỗ cho những người làm việc hoặc nghỉ ngơi.
Người ta còn đào sâu cả chuồng súc vật. Ngựa và bò chuyển
xuống sâu hơn nửa sải tay.
Người ta đắp đất vào các sườn nhà phía bắc và phía đông.
Những nơi đạn đã rơi xuống bãi chợ người ta đào hào và đắp đất ra phía trước.
Đạn bay đến đều cắm phập vào ụ đất.
Trong thành đã không còn gì có thể cháy được, ngoài mái
chuồng gia súc, với lại một vài đống cỏ khô, một đụn lúa nhỏ, một đống rạ rải
chuồng ở trước chuồng gia súc.
Đôbô ra lệnh dỡ cả mái chuồng xuống, lấy da bò ướt phủ kín
mấy đống cỏ, đụn lúa và xúc đất phủ phía ngoài đống rạ. Để chữa cháy cho những
gì còn có thể bén lửa như trần nhà và các giàn gỗ đi lên mặt lũy, ông sai phân
phát những tấm da đã tẩm nước đi các nơi.
Tiếng gầm của những khẩu đại bác đã bắt gặp tòa thành trong
công việc đó. Viên đạn đầu tiên nặng nửa tạ rơi trúng nhà bếp, làm vỡ một lô
xoong chảo.
Các bà phụ nữ đang lúc nhóm lửa và chuẩn bị nhồi bột, lấy mỡ,
lấy thịt nướng để nấu cho các chiến sĩ. Viên đạn khổng lồ rơi vào bếp làm họ
phát hoảng, đạp lên đầu lên cổ nhau mà chạy nhào ra khỏi nhà bếp, người nào
không kịp ra cửa chính thì trèo qua cửa sổ.
Viên đạn vẫn nằm lăn ở đó mà tiếp tục quay giữa đống xoong
chảo, đĩa gỗ và nồi đất vỡ. Mectsei đứng ở chỗ chuồng gia súc trông thấy viên
đạn bắn vỡ mái nhà bếp liền chạy lại.
- Cái gì thế? - Chàng vừa quát lên hỏi họ vừa dang rộng hai
tay để chặn họ lại.
- Đạn bắn vào.
- Quay lại! Quay lại! Các bà hãy đi theo tôi!
Anh vội bước vào nhà bếp, cầm lấy hai tai của một chậu nước,
bưng nó lên tưới vào viên đạn.
- Nào, - anh nói và lấy chân đạp viên đạn vào góc nhà - các
bà tiếp tục nấu nướng đi. Viên đạn bắn vào từ phía trái, vậy các bà hãy làm
việc ở nửa bên trái nhà bếp. Tất cả xoong chảo để bên kia phải đem sang bên này
và đừng ai đi lại ở nửa bên ấy. Ở nửa bên trái này không còn nguy hiểm gì nữa.
- Ôi! - Một bà tái mặt rên rỉ. - Đêm qua con gà mái nhà tôi
nó lại gáy cơ chứ. Ngày tận thế đã đến đây rồi.
- Nó là con gà trống đấy.- Mectsei bảo.
- Nhưng rõ ràng là gà mái, ngài đại úy ạ.
- Nào, nếu đúng là gà mái thì các bà hãy đem nấu bữa trưa
cho tôi, như vậy nó sẽ không gáy nữa!
Đám phụ nữ còn làm dấu thánh một vài phút, nhưng sau đó, khi
viên đạn thứ hai phá thủng mái nhà rơi xuống, tự họ múc nước giội cho nguội đi
và lăn đến bên cạnh viên kia.
Cơn bão đạn đã làm cho cả thành phố bối rối. Cho đến sáng
hôm đó, đại bác chỉ nổ ở một chỗ, và nếu đôi khi đạn có rơi vào, họ đã biết cần
phải tránh những bức tường dọi nắng ban mai và những bức tường ánh nắng không
bao giờ dọi đến. Nhưng giờ đây, khi đạn đã rú rít và rơi chan chát vào tất cả
mọi phía, to nhỏ đủ các cỡ từ quả dưa hấu đến quả hồ đào; họ không còn biết nơi
nào là an toàn nữa.
Bây giờ thì mọi người tranh nhau lấy tất cả mũ sắt, tất cả
giáp sắt, dù xấu xí đến đâu. Cho đến nay chỉ có gã xigan mang giáp trụ, mặc dù
vẫn đi chân đất, nhưng bây giờ, khi đạn rơi chan chát, phầm phập, lộp bộp vào
khắp nơi, khi đám thợ cạo, ngay trong giờ đầu tiên đã phải rắc phèn và khâu cho
mười người bị thương, ai nấy đều vội vã đến các kho binh khí để khoác lên mình
một bộ giáp sắt càng dày càng tốt.
Hai vị đại úy cùng các thượng úy trong mười lăm phút đầu
tiên đã đi đến khắp mọi chỗ trong thành.
- Các ngươi đừng sợ! - Giọng Đôbô vang lên như sấm.
Và tiếng các thượng úy gọi vang khắp nơi như tiếng vọng:
- Đừng sợ! Hướng đạn rơi không đổi. Nơi nào đạn đã rơi thì
đừng đi qua!
Họ nói thế nhưng bản thân họ vẫn đi khắp mọi nơi. Quả nhiên
không đầy một giờ sau, chính những viên đạn đã chỉ cho mọi người thấy những
ngôi nhà, bức tường nào là nguy hiểm. Đạn làm rụng tất cả lớp vữa trát tường,
chỗ nào nhà xây bằng sa thạch thì đạn găm vào đó nhiều đến nỗi đen cả bức
tường.
Ngược lại một số tường vẫn nguyên vẹn, vẫn trắng toát. Dù
đôi chỗ có bị đạn rơi vào thì cũng chỉ do nó từ một bức tường khác nẩy sang.
Tất cả những bức tường như thế giờ đây trở thành những bức tường bảo hộ, nơi
dân thợ có thể làm việc, lính tráng có thể nghỉ ngơi.
Sự thực trong thành cũng chẳng còn nhiều bức tường như thế.
Giữa cơn giông ầm ầm đó của chết chóc, Đôbô khi xuất hiện ở
pháo đài này, lúc lại đến pháo đài kia.
Giờ đây ông đã đội mũ sắt sáng loáng, mang giáp hộ thân,
giáp tay và giáp chân; bàn tay cũng đeo găng sắt.
Chỗ này ông sai sửa lại những ụ công sự bảo vệ pháo, chỗ kia
ông điều chỉnh pháo.
- Chỉ cần bắn những cái nào chắc chắn thôi. - Ông bảo. - Ta
phải dè xẻn thuốc súng, các người ạ!
Đó là điều duy nhất mà dân trong thành không hiểu.
- Báu gì cái thứ thuốc súng này. - Đám nông dân lầu bầu với
nhau. - Có thuốc súng mà không bắn thì
để làm gì?
Và không một ai trong thành lại không ngứa tay muốn bắn. Thì
ai chả thấy quân Thổ đã ở ngay đây dưới mũi chúng ta: vậy phải diệt trừ những
tên côn đồ hung bạo ấy đi chứ, hay ít ra cũng phải làm cho chúng nó sợ mà lùi
ra xa thành đi chứ.
Tuy vậy họ không dám nói với Đôbô. Cuộc vây hãm càng trở nên
quyết liệt bao nhiêu, ông càng nắm chắc trong tay bấy nhiêu tất thảy mọi quyền
lệnh.
Bọn Thổ lúc này đã tràn ngập cả đồi Ghế vua. Lều trại, cờ xí
san sát khắp nơi quanh thành, và giữa những khoảng trống là bọn lính ăn mặc pha
tạp lúc nhúc ồn ào.
Quân nhạc Thổ vang lên khi ở chỗ này, lúc ở chỗ kia, tiếng
kèn, tiếng trống, tiếng thanh la đệm theo tiếng ầm ầm như sấm không ngừng không
dứt của hàng trăm khẩu đại bác.
Ở những quãng thành không bị đại bác bắn phá, bọn
kumbaratjii ném thủ pháo và bọn cung thủ ionisa bắn tên lửa vào.
Thật là một cơn bão đạn và mưa tên lửa.
Tất nhiên tên lửa và thủ pháo nổ còn làm cho dân thành hoảng
hốt hơn cả đại bác. Nhưng những người chỉ huy dày dạn đã dạy cho họ cả cách
tránh những thứ đó.
Khi những quả thủ pháo đầu tiên bay vào và vừa xì xì vừa
nhảy lóc cóc vừa phụt ra những tia lửa đỏ chói, Đôbô cũng thân hành giật lấy
một tấm da ướt và chụp lên một quả. Những người dân kinh ngạc nhận thấy chẳng
những quả thủ pháo không nổ tan xác ngài đại úy, mà chỉ lục đục dưới tấm da một
tý rồi tịt đi ngay.
Những quả thủ pháo sau đó đã do lính tráng dập tắt. Thứ thủ
pháo đó đều làm bằng gốm hoặc bằng thủy tinh.
- Chúng ta sẽ giới thiệu cho bọn Thổ biết những thứ khá hơn!
Gergey nói và sai mang ra những quả hỏa hổ [65] do chàng chỉ
huy chế tạo suốt cả tuần qua.
Đôbô đặt tay lên vai Gergey.
- Hẵng gượm.
Đại bác vẫn gầm thét liên hồi từ sáng đến tối và cơn mưa
chết chóc vẫn trút xuống. Những viên đạn nặng nửa tạ của những khẩu Zobuzan phá
ra trên tường thành những mảng to bằng cánh cửa một. Những viên đạn nhỏ nhưng
nặng của tu pháo và pháo bắn ria bẻ gãy những hình chạm trổ tuyệt mỹ của nhà
thờ và làm thủng lỗ chỗ bức tường hậu của soái phủ.
Lúc bình minh, khi toán lính trực canh vừa chiếm lĩnh vị trí
sau dãy tường con chạch, đạn từ những khẩu tu pháo của bọn Thổ đặt phía sau rơi
xuống họ như mưa đá.
- Nằm xuống! - Gergey hô to.
Một trăm năm mươi chiến sĩ nằm ép bụng sát đất. Gergey núp
vào sát tường. Đạn rít qua trên đầu họ và cắm phầm phập vào tường thành. Dãy
tường con chạch trên mặt thành liền giống như một cái sàng.
Một lát nghỉ tiếp đến. Bọn Thổ đã bắn xong tất cả các khẩu
pháo, chúng đang nạp đạn.
- Đứng dậy! - Gergey hô.
Năm người nằm không dậy nữa.
- Khiêng họ vào trước nhà thờ. - Gergey buồn bã nói. - Trong
số các ngươi có ai bị thương không?
Mười lăm người máu me lặng lẽ bước ra khỏi hàng.
- Các ngươi hãy đến ngay chỗ nhóm thợ cạo.
Chàng lắc đầu và cất tiếng nguyền rủa. Sau đó chàng bảo các
chiến sĩ:
- Các cậu ạ, chúng ta không thể nằm ép bụng ở đây suốt ngày
được. Hãy lấy xẻng ra đây mà đào hào.
Khoảng mười người chạy đi vác xẻng và một lát sau tất cả mọi
chiến sĩ đều hì hục đào. Chưa đầy một giờ sau các chiến sĩ đã đào được một cái
hào sâu có thể đứng đến ngang ngực. Gergey chờ cho bọn Thổ bắn xong loạt đạn
mới rồi nhảy lên khỏi hào, vội vã đi vào thành trong để báo cáo với Đôbô về
việc đào hào.
Bên cạnh tu viện, chàng bắt gặp thằng bé con Thổ Nhĩ Kỳ đang
chơi cạnh ống máng. Nó đang dùng thìa moi một viên đạn đại bác bốc khói ra khỏi
tường. Thằng bé chắc hẳn vừa trốn khỏi nhà bếp và đang đứng ở một chỗ đạn rơi
không ngớt.
- Hajđe! (Cút ngay khỏi chỗ này!) - Gergey quát to.
Thằng bé giật mình quay về phía Gergey. Nó đứng tựa lưng vào
tường, tái mặt và đưa cặp mắt sợ sệt nhìn chàng, hai tay nó bíu vào tường như
thể đang tìm váy mẹ.
Một loạt đạn mới xuyên vào tường làm vữa rơi lả tả. Một viên
đạn đen thui to bằng nắm tay cắm phập vào tường phía trên vai thằng bé và để
lại quanh cái lỗ một quầng đen bẩn thỉu. Gergey nhảy lại chỗ đó. Chàng bế xốc
thằng bé lên và đem vào soái phủ.
Chiều tối hôm đó, mặt trời lặn sau những đám mây xám về phía
Bocto. Trong có một phút, nó lóe ra một dải vàng rực rỡ đến tận giữa đỉnh trời
rồi biến mất giữa những cụm mây màu máu để đi chiếu sáng cho những con người ở
một miền đất khác hạnh phúc hơn, những kẻ đêm nay có thể ngả đầu lên gối bên
tiếng râm ran êm ả của bầy cánh cam mùa thu.
Trong thành Eghe, công việc chỉ bây giờ mới bắt đầu.
Khi loạt súng cuối cùng của bọn tốpsi vừa nổ xong những
người thợ nề cầm lấy bay trát vữa, những người nông dân vác đá, vác đất, vác
xà, chuyển nước, cát và bắt đầu việc hàn gấp lại những lỗ hổng.
Những tay súng nằm phục bên rìa mặt lũy, những người thợ làm
việc bên những lỗ hổng. Thỉnh thoảng một phát đạn ria lại vang lên, khi ở pháo
đài này, lúc ở pháo đài kia. Viên đạn bay lên cao nổ tung giữa không trung và
trong một thoáng, chiếu sáng lòa bãi trống ở trước thành với ánh sáng màu đỏ.
Đó là những viên pháo sáng. Giờ đây đã phải cần đến chúng. Người ta đề phòng
quỷ kế của bọn Thổ.
- Làm đi, các người làm đi! - Đây đó vang lên tiếng thúc
giục của các sĩ quan.
Một thợ nề theo dây tụt xuống phía ngoài thành để dùng đinh
đỉa đóng thanh xà bắc ngang lỗ hổng vào mặt tường bên ngoài.
Từ phía dưới, ánh lửa sáng chớp chớp. Một cơn mưa đạn trút
lên những người thợ. Sau đó còn có nhiều ánh lửa lóe lên và nhiều tiếng súng nổ
ran. Ánh lửa của những khẩu súng Thổ soi sáng hai đại đội ionisa nằm phục trước
chân thành.
Từ trên mặt thành một loạt đạn trả lời chúng.
Những người thợ nề đã rơi xuống dưới chân thành phía bên
ngoài.
- Chỉ làm việc bên trong thôi! - Tiếng Petơ vang lên.
Và những người thợ vẫn tiếp tục làm việc giữa những loạt
súng chốc chốc lại rộ lên của bọn tưphensi.
Lúc nửa đêm, tiếng tù và của người gác cổng bỗng rúc lên.
Đôbô đang ngồi trên một thùng thuốc súng, ông ngửng phắt đầu lên.
- Nào, phúc thư của nhà vua đây rồi.
Quả thực chưa đầy năm phút sau, hai người đầy máu me thở hổn
hển đã đứng trước mặt Đôbô. Cả hai đều mặc trang phục Thổ. Thanh gươm dính máu
vẫn nằm trong tay họ chứng tỏ vào được thành Eghe không phải chuyện dễ dàng.
- Nào. - Đôbô giục. - Các ngươi nói đi chứ.
Một trong hai người đó là Vosanhi, anh ta vừa đi ra đêm qua.
Người kia là Vosơ Mikơlôt, người mang lá thư của Pasa Amét đến chỗ nhà vua.
Vosanhi vẫn thở hồng hộc.
- Suýt nữa thì bị chúng nó giết!
Vosơ Mikơlôt tra thanh gươm còn dính máu vào vỏ rồi ngồi
xuống thềm đất đầy bột đá. Anh ta lôi chiếc ủng da vàng, rút dao ra cậy đế giày
lên. Trong đó có một phong thư, anh trao cho Đôbô. Chỉ lúc đó anh mới cất tiếng
được:
- Con đã gặp đích thân ngài giám mục. Ngài gửi lời chào kính
trọng đến đại úy. Ngài giám mục đích thân mang thư đến chỗ hoàng thượng. Đây là
lời phúc đáp.
- Người thứ ba đã bị chúng nó giết mất. - Vosanhi nói.
- Người thứ ba nào? - Petơ hỏi ngay.
- Xuyxobô Isơtơvan, một chiến sĩ của ta. Anh ta cũng bị mắc
kẹt ở bên ngoài. Anh muốn vào cùng với chúng con. Chúng nó đã dùng giáo đâm
chết anh ngay trước cổng thành.
Anh ta thở một hơi dài rồi lại tiếp.
- Chúng con không hề nghĩ là lại gặp bọn Thổ ở ngay cổng
thành. Khi vào đến nơi, con thổi cái còi của con. Con vừa thổi còi lên, lập tức
mười tên Thổ đã từ bên cổng thành ập đến. Úi chà chà! May mà trời tối, với lại
người của ta đã lập tức mở cổng kịp thời, Isơtơvan bị chúng nó đâm ngã ngay
trước mặt con, con vừa vặn kịp nhảy vào.
Trong lúc đó Đôbô đã bẻ dấu niêm phong, mà thực ra cũng đã
nát thành cám dưới gót giày, và nghiêng xuống ngọn đèn đọc bức thư. Nét mặt ông
mỗi lúc một tối sầm lại. Cặp lông mày đã hoàn toàn nhíu sát lại gần nhau. Khi
đọc đến cuối bức thư, ông hất đầu một cái và nhét bức thư vào túi.
Petơ rất muốn hỏi nhà vua viết những thứ. Nhưng Đôbô đưa cặp
mắt tối sầm liếc nhìn quanh rồi quay về phía Vosanhi:
- Nhà ngươi đã trao bức thư cho ngài Xonkoi rồi à?
- Thưa ngài, con đã đưa rồi ạ. Ông gửi lời chào ngài. Ông ấy
đã viết suốt cả buổi sáng và xong được bao nhiêu bức thư, ông ấy liền sai ngần
ấy phi mã gửi đến khắp nơi ngay trong buổi sáng.
- Các ngươi còn việc gì nói nữa không?
- Con không có gì nói nữa. - Vosơ Mikơlôt nói. - Ngài giám
mục đã tiếp con rất ân cần. Ở chỗ hoàng thượng cũng thế, tất cả mọi người đều
vui lòng tiếp, nhưng con bị một nhát chém vào đầu, con muốn được đến ngay chỗ
thợ cạo.
- Petơ con ơi, - Đôbô nói. - sáng mai anh đừng quên nói với
Sukan ghi tên hai người này vào danh sách những người mà sau cuộc vây hãm chúng
ta sẽ xin nhà vua ban thưởng cho họ.
- Thưa ngài. - Vosanhi vừa nói vừa đưa tay mân mê yết hầu. -
Con còn có điều báo cáo. Đôbô nhìn anh ta.
- Đó là. - Vosanhi tiếp. - Nogiơ Lukát bảo con xin với ngài
cho thắp một vài cây đuốc ở chỗ cổng chính. Anh ấy muốn trở về trong đêm…
- Ta sẽ sai gông cổ nó lại. - Đôbô giận dữ quát lên. - Rồi
ta sẽ dạy cho nó biết thế nào là chậm trễ.
Một người đeo thùng sau lưng mang nước lên cho thợ nề vội vã
đi qua bên cạnh họ. Đôbô đứng né sang một bên và gọi to lên bảo đám thợ nề:
- Bắc ngang thanh dầm lại, đừng để dọc như thế!
Rồi Đôbô quay sang Vosanhi.
- Có lẽ cái anh chàng Lukát ấy tưởng rằng… Được rồi, hắn cứ
việc mà đến trước mặt ta!
Vosanhi gãi gãi cằm và cầu khẩn nhìn Đôbô:
- Thưa ngài, anh ấy rất lấy làm hối hận vì đã bị mắc kẹt ở
ngoài. Thật anh ấy buồn rầu không biết để đâu cho hết.
Đôbô mất bình tĩnh đi đi lại lại dưới cây đèn.
- Chỉ là chuyện điên rồ! Cái anh chàng ấy nghĩ thế nào cơ
chứ? Vả lại hắn nhắn nhe cái gì cũng mặc, không tránh khỏi hình phạt đâu. Ngay
đêm nay các người lại phải quay ra, mang thư đến chỗ ngài giám mục, đến chỗ nhà
vua một lần nữa. Mikơlôt, nhà ngươi còn có thể đi nổi nữa không?
Mikơlôt đắp khăn lên đầu. Trên khuôn mặt trai trẻ của anh,
máu từ bên trái ứa ra như suối, cái khăn đã đỏ lòe vì máu.
- Nổi ạ. - Anh sẵn sàng trả lời. - Vậy thì để đến Xorơvotkơ,
con sẽ bảo khâu lại đầu cũng được.
14
Đổ nát một ngày một lan rộng trên những tường thành. Bây giờ
đã nhiều người làm công việc của thợ nề hơn. Đêm đêm số lính gác cũng đông hơn.
Hôm sau, khi những đại bác Thổ lại lên tiếng, vữa từ các mặt thành vọt lên cao
hàng chục sải và những viên đạn bắn vào đó nằm lại vĩnh viễn trong tường.
- Chúng mày bắn nữa đi! - Lão già Xexey la lên. - Cứ lấy sắt
mà gia cường mặt lũy cho chúng tao.
Nhưng đến ngày thứ mười, quân Thổ thức dậy đã thấy có những
đổ nát không hàn gắn được. Trong một đêm, người ta không còn chữa nổi tất cả
những chỗ bị bắn vỡ.
Cuối tuần thứ hai một lão nông dân già khoác áo lông cừu đến
trước cổng xin vào. Áo lông cừu trên người lão không phải áo vùng Hevét [66] tuy
vậy người ta vẫn để lão vào.
Đôbô tiếp lão trên bãi chợ. Ông đã biết rằng chúng nó lại
gửi thư đến.
- Lão người ở đâu? - Ông giận dữ hỏi.
- Thưa ngài, con là dân vùng Tsabơrac.
- Lão tìm gì ở đây?
- Thưa ngài, con chở bột mì đến cho bọn Thổ ạ.
- Bao nhiêu?
- Dạ… dạ, mười sáu xe ạ.
- Ai gửi lão đến đây?
- Ông tổng quản ạ.
- Nó không phải là tổng quản mà là đồ Hung gian mạt hạng!
- Dạ bẩm ngài… chúng con đành phải khuất phục. Chúng con
không muốn lâm vào cảnh như bên láng giềng ạ.
- Láng giềng đó là ai vậy?
- Thưa ngài, thành Đơrêgey ạ.
- Lão mang thư đến phải không?
- Dạ… dạ, quả con có mang.
- Từ chỗ bọn Thổ đến phải không?
- Vâng thưa ngài, từ đấy đến ạ.
- Lương tâm lão có bảo lão rằng khi lão nhận mang thư đến
đây là đã làm một việc tội lỗi hay chăng?
- Thì… con có biết trong thư có gì đâu ạ?
- Quân Thổ lại có thể gửi một cái gì tốt đẹp đến sao?
Lão già không đáp.
- Lão có biết đọc chăng?
- Bẩm không ạ.
Đôbô quay sang bảo đám phụ nữ.
- Các ngươi mang một nồi than đỏ ra đây.
Họ mang ra và đổ than xuống đất. Đôbô ném bức thư lên đống
than hồng.
- Bắt lấy cái thằng già bán nước này và đút mũi nó vào khói.
Đồ vô loài, nếu mi không biết đọc thì hãy ngửi đi!
Sau đó ông sai gô cổ lão già đó lại và bêu giữa bãi chợ để
cho dân thành thấy kẻ nào nhận thư bọn Thổ thì sẽ ra sao.
Các sĩ quan cũng chứng kiến cảnh đó. Dân chúng cũng kéo nhau
đến: họ cười, nhìn lão già chảy nước mắt nước mũi vì khói và vì đau xót.
- Thấy chưa đồ thổ tả. - Gã xigan bảo lão. - Can cớ gì mà
làm phu trạm?
Bức thư rời ra từng tờ khi đỏ, khi đen trên đám than hồng.
Khi nó đỏ, những hàng chữ hiện lên như những họa tiết trang trí màu đen; đến
khi những trang giấy đã thành than, những hàng chữ lại đỏ rực lên ngoằn ngoèo
một lát trên nền đen.
Gergey cũng đứng đó.
Khi lão nông dân bước vào cổng, mọi khẩu đại bác đều im
tiếng. Bọn Thổ chờ sự trả lời.
- Thưa đại úy, - Gergey nói khi họ bước ra khỏi đám đông. -
tôi đã vô tình đọc thấy một dòng trong bức thư kia.
- Anh đọc làm gì? - Đôbô nhún vai đáp. - Ta không đọc, tuy
vậy ta vẫn biết.
- Đáng lẽ cũng chẳng nên nói đến làm gì. - Gergey tiếp. -
Nhưng mà cái câu đó thật quá vô đạo, vì vậy tôi đã không thể đừng được mà không
nói với ngài.
Đôbô không bảo nói đi, cũng không bảo đừng nói. Thế là
Gergey lại tiếp:
- Câu ấy như thế này: Hay là quan tài của ngươi đã đóng xong
rồi, hở Đôbô Istơvan?
Đôbô hừm hừm:
- Xong rồi. Như vậy là chúng hỏi ta đã chuẩn bị sẵn sàng để
chết hay chưa chứ gì? Về một điều đó, ta sẽ trả lời cho chúng biết.
Mười lăm phút sau, một cỗ quan tài sơn đen xuất hiện trên
tường thành. Hai đầu móc vào xích sắt buộc vào hai ngọn thương. Các chiến sĩ
cắm hai cây thương vào kẽ đá.
Những khẩu đại bác Thổ lại gầm vang.
* * *
Đến tối hôm lễ thánh Mikai đã có khoảng mười lăm lỗ hổng lớn
há miệng toang hoác trên các tường thành.
Nhiều nhất là ở trên tường thành ngoài. Cảnh đổ vỡ lớn thứ
hai là ở pháo đài góc đông nam. Thứ ba và thứ tư là ở về phía nam, nơi đó chúng
nó đã bắn vỡ cổng. Cái tháp canh cao bị bắn phá đến nỗi người ta không thể hiểu
cái gì còn giữ được nó chưa đổ xuống, đặc biệt là ở đoạn lưng chừng tháp.
Dân thành đã không còn đủ sức lấp những lỗ hổng, chữa lại
tường. Có thể thấy là dù tất thảy mọi người có ra làm việc chăng nữa, một nửa
số chỗ đổ vỡ vẫn không thể hàn gắn kịp.
- Nhưng các người ạ, ta vẫn cứ phải làm đi!
Lúc nửa đêm, Đôbô gọi các sĩ quan của ông lên pháo đài nhà
thờ và sai bắn pháo sáng lên trời.
- Các ngươi hãy nhìn xem. - Ông nói. - Những đụn đất kéo dần
vào đây kia kìa, thật y như đám chuột chù thỉnh thoảng lại dũi xuống dưới mặt
đất, những giao thông hào kia đều đầy bọn Thổ.
Đêm hôm đó quả thật quân Thổ đã tiến vào gần tất cả những
tường thành. Có thể thấy ở khắp mọi hướng trong một tầm ngắn, những lá cờ vàng
đỏ của bọn ionisa, những cái thang công thành nằm dài thuồn thuỗn giữa các lều
trại và những cái lều ionisa bằng khố tải, trong mỗi chiếc như thế có chừng mười
- hai mươi tên nằm ngủ. Lúc này, đó là tuyến trong của vòng vây.
- Các con ơi. - Đôbô lại nói. - Điều này có nghĩa là ngày
mai chúng nó sẽ tấn công vào thành. Tất cả mọi người hãy ngủ ở ngoài này.
Ông ra lệnh đặt pháo bắn đạn ria và súng kíp ở những nơi
tường thành bị vỡ. những khẩu đại bác cũng được chỉnh hướng về những phía đó.
Tất cả thương, giáo, hỏa hổ, cuốc chim, lưỡi hái, nghĩa là tất cả những gì có
trong kho binh khí dự trữ của thành đều được đem ra dựng dọc quanh tường thành.
Rồi ông bắt tay tất cả các sĩ quan.
- Các con ơi. - Ông nói. - Tất cả các con đều đã biết nhiệm
vụ của mình. Bây giờ đi ngủ đi, được ngần nào hay ngần ấy. Chúng ta cần phải
đánh lui đợt tấn công này.
Lúc đó một tiếng ồn ào khác thường từ phía thành phố vẳng
đến. Tất cả bọn họ đều chú ý về phía đó. Trước cổng thành, về phía con suối,
tiếng còi của Vosanhi lảnh lót vang lên.
- Mở cổng mau! - Đôbô quát.
Dưới thành phố tiếng ầm ĩ mỗi lúc một tăng. Tiếng vó ngựa,
tiếng binh khí chạm nhau, tiếng súng nổ. một giọng Hung la lớn:
- Mở cổng ra! Lukát về đấy!
Người trực gác cổng là trung úy Voiđơ Gianốt. Anh lập tức
sai đốt đuốc sai ra ngoài. Thì ra đội quân của Nogiơ Lukát trong một hàng dài,
đang cố sức chọc qua bọn lính thiết giáp Thổ nghỉ đêm ở bãi chợ để tiến về phía
thành.
- Hạ đuốc xuống! Chiếu vào dưới cổng! - Voiđơ hét, bởi vì
anh lập tức thấy ngay rằng để đội quân đó tiến về trong bóng tối thì có lợi cho
họ hơn.
Người ta lập tức hạ cầu xuống và kéo cây đại phong cầm lên.
- Những người có súng, có giáo đến ngay quanh cổng!
Các dũng sĩ của chúng ta nối nhau thúc ngựa nhảy vào cổng.
Bọn Thổ la ó ùa theo sát gót họ.
Một trận xô xát đẫm máu bắt đầu dưới vòm cổng.
Một tên piát đi chân đất lẹ như con mèo, thoăn thoắt leo lên
dây xích cầu treo, thanh gươm cong ngậm ngang trong mồm. Người lính gác cầm
đuốc đã trông thấy nó. Hai bên gườm gườm nhìn nhau một phút, rồi người lính gác
quật đầu đuốc lửa vào mặt hắn một cái mạnh đến nỗi tên Thổ rơi tõm xuống khoảng
tối đen. Trong lúc đó những tên Thổ khác không ngừng la hét Allahakbar (Thượng
đế chí cao) chen nhau xông vào dưới cổng.
- Kéo cầu lên! - Đôbô thét.
Loạt đạn của các xạ thủ nổ rền át mất giọng của ông.
- Cầu không thể kéo lên được! - Người gác cổng gào đáp lại.
Ai cũng thấy quân Thổ đứng đầy trên cầu.
Lúc đó Gergey vừa đến nơi. Chàng giật lấy cây đuốc trong tay
một người gác và cố tiến đến chỗ khẩu súng cối.
Trong giây lát sau đó, khẩu cối khạc lửa, gầm lên và quét
quang một vệt rộng giữa bọn Thổ chen chúc trên cầu.
Cái cầu khục khặc, cót két nâng dần lên qua trục vít to bằng
cái bánh xe bò và nhấc bổng cả bọn Thổ lên theo.
Bên trong, những cái cọc sắt của cây đại phong cắm sập
xuống, bên ngoài cái cầu ốp lên, khoảng chừng năm chục tên Thổ mắc kẹt trong
một khoảng hẹp dưới vòm cổng. Chúng điên khùng quay cuồng, đạp phá lung tung
cho đến khi ngã chồng lên nhau thành đống dưới những loạt đạn và những ngọn
giáo xỉa vào.
Vài phút sau dưới cổng vòm tối om chỉ còn lại một đống hình
thù thở dốc, quằn quại.
Đôbô đã đứng trên bãi đất trong cổng.
Dưới ánh đuốc, hai mươi hai kỵ sĩ đầu trần đứng sắp hàng
trước mặt ông.
Một người thấp, vai rộng, bước lên, dừng lại trước Đôbô, vừa
thở vừa nói:
- Xin báo cáo đại úy, tôi đã về.
- Lukát con ơi! - Đôbô xúc động trả lời. - Ngươi đáng được
một cái cùm vào chân lắm, đồ lông bông lêu lổng! Nhưng lại cũng đáng được một
vòng vàng đeo vào cổ, chàng dũng sĩ gan dạ, trung thành của ta ạ!
Và ông ôm lấy người chiến sĩ của mình, hôn lên má.
- Vậy các người làm thế nào mà vào được?
- Thưa đại úy, chúng con phải chờ cho đến khi chém được một
số quân Thổ đủ để lấy cho mỗi người một cái tuyban và một áo khoác. Chúng con
thường từ Xorơvotkơ xuất kích ra, và đến đêm nay chỉ còn thiếu hai tuyban nữa
mà thôi. Vosanhi đưa cho chúng con mượn cái còi của anh ta. Giá như ở bãi chợ
có cả kỵ binh thì chúng con đã có thể vào một cách êm thấm. Nhưng bọn bộ binh
đã đánh hơi biết được chúng con không thuộc bọn chúng, thế là chúng nó tấn công
vào chúng con.
- Thiếu những ai?
Các chiến sĩ đưa mắt nhìn nhau. Ánh đuốc ban đêm chỉ soi rõ
một nửa mặt họ.
Người nào người nấy đều chảy máu, máu thấm đỏ cả quần áo, cả
mình ngựa.
- Gabô. - Một tiếng nói khe khẽ.
- Bitsơkei. - Lại có tiếng.
- Bonkanhi…
- Sôsơ Giuri…
Mắt Đôbô chợt ngừng lại trước một chiến sĩ nhỏ nhắn có bộ
tóc như con gái, đứng lùi về phía sau hàng và giấu mặt vào bên cổ ngựa.
- Bolajơ! Con đấy ư? - Ông kêu lên, trái tim ông cũng nhói
lên một cái.
Chú thiếu niên bước lên, quỳ một chân xuống, đặt thanh gươm
đảm đẫm máu đang cầm trên tay xuống bên chân Đôbô và lặng lẽ cúi đầu.
Đúng là Bolôc Bolajơ, người võ đồng bé nhất của ông.
15
Đêm đó, trừ tám mươi tay súng, tất cả mọi chiến sĩ đều được
ngủ. Họ ngủ cạnh những tường thành, trên lớp rơm rạ trải dưới chiến hào. Gươm
giáo đặt ngang trên người hoặc để bên cạnh.
Trên kia, bên cạnh tường con chạch, những tay súng đặt súng
lên tường: súng đã nhồi thuốc, sẵn sàng nhả đạn, được phủ một lớp giẻ rách, vải
mỏng để che sương.
Cứ độ mười - hai mươi bước lại có người đứng gác giữa những
người ngủ. Cạnh các khẩu pháo, trong các tháp canh cũng vậy. Phía bên thành phố
ít người gác nhất.
Tất cả mọi nông dân có trong thành, những đồ tể, thợ xay
bột, thợ nguội, thợ mộc, bốn người thợ rèn, hai tay lái chó và cả gã xigan nữa
đều được Đôbô cử đến giúp việc đám thợ nề.
Người ta đặt những cây gỗ dài nhất vào các chỗ tường đổ.
Đất, ván gỗ và cát, và bao nhiêu đá có thể chuyển đến được trong sự bề bộn của
công việc vội vàng, đều được ném vào các chỗ tường đổ. Cánh cổng bị bắn vỡ thì
phải lấy đất, đá, cát và những thùng gỗ tọng đầy đất để lấp chặt lại. Súng cối
được đặt phía trong và phía trên cổng, pháo bắn ria và tu pháo đặt hai bên,
người ta chuyển đến đây tất cả những khẩu súng nào có thể điều động được.
Bọn tưphensi[67] đứng dưới những hào sâu, thỉnh thoảng lại
bắn lên, mỗi khi có một người thợ nào xuất hiện ở những chỗ tường đổ. Vậy mà họ
vẫn cần phải xuất hiện, vẫn phải nhô người ra, mặc dù họ đã dùng những ụ cản
đạn bằng nhánh cây để che tầm mắt nhìn lên như thế nào đi nữa.
Bên tháp góc, Bôiki Tomát đôn đốc việc lấp chỗ sụt lở. Ở đó,
vì tường bị sụt sâu đến ba sải tay, người trung úy ở Bôrơsôt phải sai lấy chão,
lấy xích sắt buộc chặt những thanh gỗ đặt hai bên mép tường. Một công việc nguy
hiểm. Thỉnh thoảng cần phải nhô người ra và mỗi lần như thế, bọn ionisa ở dưới
kia đều nổ súng.
Người ta bắn trả lại chúng, vô ích, vãi hỏa hổ xuống cũng
chẳng ăn thua, bọn chúng đã bao kín chỗ nấp bằng ụ đất và đường con chạch đến
nỗi chỉ còn thấy mũi súng của chúng thò ra mà thôi.
Thêm vào đó ánh đèn của những người trong thành lại soi rõ
mục tiêu cho chúng.
- Đưa gỗ lên! - Bôiki Tomát ra lệnh.
Đám nông dân đứng ở chỗ đống gỗ thanh, nhưng đêm đó đã ba
người trong bọn họ bị chuyển đến chỗ thương binh.
- Đưa gỗ lên! - Bôiki lại kêu.
Đám nông dân vẫn đứng ngần ngừ.
Người trung úy bước đến chỗ tường sụt và lại thét lên:
- Nhúc nhích đi chứ! Lên đây! Lên đây!
Những thanh gỗ thoăn thoắt bay lên. Từ phía dưới, súng Thổ
nổ như ngô rang. Trên này búa đóng chan chát, và xích sắt rít lên, kêu lách
cách, riết chặt những thanh gỗ lại với nhau.
- Đừng sợ! - Người trung úy xứ Bôrơsôt quát lên.
Không một ai còn dám sợ nữa.
Một viên đạn đập chát vào cái mũ sắt của người trung úy, làm
gãy cái mỏ bạc cắm lông trên mũ.
- Nhanh lên, nhanh lên!
Người trung úy lại hò hét và giật lấy một cây gỗ, dùng xích
buộc chặt vào một thanh xà khác.
- Tomát! - Mectset gọi chõ lên. - Xuống ngay!
Bởi vì đạn cắm vào tháp dày đặc, và ở dưới kia, súng Thổ
càng nổ rền.
- Tôi xuống ngay đây.
Bôiki Tomát đáp và lại cúi xuống để giúp đưa một thanh gỗ
khác lên. Anh sững lại trong cái tư thế cúi xuống, như thể đã hóa đá.
- Tomát! - Mectset bồi hồi kêu lên.
Tomát quỳ khuỵu xuống. Cái mũ sắt rơi khỏi đầu, làn tóc dài
màu xám xõa ra đằng trước. Mectset xông lên, bế Tomát xuống khỏi quãng tường
sụt và đặt anh nằm xuống một góc trong tường pháo đài.
- Đưa đèn lại đây!
Mặt Bôiki Tomát đã trắng bệch như sáp. Máu chảy dọc theo râu
anh nhỏ giọt xuống lớp bụi vôi trắng trên nền đất.
- Tomát! Cậu còn nói được không? - Mectset hỏi và ứa nước
mắt nhìn anh.
- Được. - Tomát khó nhọc nói. - Các bạn hãy chiến đấu… vì Tổ
quốc…
* * *
Đèn và những cây đuốc tẩm hắc ín cắm vào đinh cháy rải rác
trong thành. Đôbô cưỡi ngựa đi từ chỗ sạt lở này đến chỗ sạt lở khác.
Cái tháp đứng trên cổng Cũ khiến ông lo ngại nhất. Đại bác
Thổ đã bắn vỡ cả cổng, làm hư hỏng cả tháp. Cái cầu thang vòng đã lộ ra đen đen
ở mặt phía nam và cũng đã gãy mất bốn bậc.
Cánh cổng còn có thể lấp kịp nhưng để xây lại cái tháp thì
không còn thời gian nữa. Nếu ngày mai chúng nó vẫn bắn cái tháp thì sẽ ra sao?
Cái tháp ấy là địa điểm quan sát và là nơi đặt súng bắn về hướng nam: nếu nó
đổ, tòa thành sẽ mất một điểm mạnh rất đáng kể.
Ông phái bốn chục tay súng giỏi đến đó. Họ phải ngủ lại đó
với khẩu súng đã nhồi sẵn thuốc, sẵn sàng chiến đấu.
- Ngủ đi! - Ông kêu lên bảo họ. - Chỉ cần hai người thức
canh ở mấy cửa sổ là đủ.
Rồi ông quay ngựa lại, tế đến chỗ tháp đằng góc.
- Cái gì ở đây thế? - Ông la lớn. - Sao các người không làm
việc?
- Thưa ngài, - một người thợ nói với giọng run run, - vừa
trong phút này đây chúng nó đã bắn chết ngài trung úy Bôiki.
Lúc đó người ta khênh chàng trung úy xuống cầu thang, trên
một tấm ván khênh đá. Chân anh lủng lẳng thò xuống dưới tấm ván. Hai tay không
đeo găng cài vào nhau, đặt trên tấm giáp hộ tâm. Mectset cầm cái mũ sắt của
người chết đi theo sau.
- Anh ấy chết rồi ư? - Đôbô hỏi.
- Vâng. - Mectset buồn rầu đáp.
- Tiếp tục làm việc đi! - Đôbô gọi lên pháo đài.
Ông xuống ngựa, bỏ mũ ra, bước đến người đã chết, lặng lẽ,
buồn rầu nhìn anh ta.
- Cầu thượng đế phù hộ cho anh, Bôiki Tomát. Hãy đứng lại
trước mặt Thượng đế: hãy chỉ cho người xem vết thương của anh, và hãy chỉ cả
xuống cái thành này nữa.
Ông đứng đó đầu trần, buồn rầu nhìn theo họ cho đến khi cây
đèn biến mất đằng sau góc chuồng súc vật. Lúc đó ông lại lên ngựa và vội vã đi
ra đằng sau soái phủ, đến một chỗ sạt lở khác.
Ở đó Zôntoi đang chật vật với một cuộn chão lớn để buộc các
thanh gỗ vào nhau đem lấp chỗ vỡ. Bản thân anh cũng đang xúm vào giúp kéo dây,
giữa chừng thỉnh thoảng anh quát bảo người này người nọ:
- Đừng có sợ hỏng dây, không phải xúc xích đâu mà sợ! Cầm
lấy, Iontsi, chắc vào chứ! Kéo mạnh vào, như thể kéo hoàng đế Thổ lên giá treo
cổ ấy.
Và những thanh gỗ răng rắc ép sát vào nhau. Những người thợ
mộc đóng đai sắt ôm xung quanh, rồi đất, đá và cát tuôn đổ rào rào để lấp chỗ
vỡ mà đại bác Thổ đã phá ra trên tường thành.
Đôbô gọi lên bảo Zôntoi:
- Anh xuống đây!
Zôntoi thả cái dây xuống nhưng còn ngoái lại thét lên một
lần nữa:
- Đóng đinh đỉa vào, càng nhiều càng tốt!
Đôbô đặt tay lên vai anh.
- Đi ngủ đi con. Ngày mai cần phải có sức!
- Chỉ một vài thùng nữa…
- Xéo đi ngủ ngay! - Đôbô quát anh. - Một! Hai!
Zôntoi đưa tay lên vành mũ rồi lặng lẽ bước đi.
Đôbô không muốn người ta làm trái ý ông.
Ông còn đuổi Phuyghétđi và Petơ vào nữa, sau đó ông cũng
xuống ngựa trước soái phủ, giao ngựa cho người lính gác cửa và đi vào phòng
riêng.
Cái phòng nhỏ ở tầng một, nơi ông ở từ khi giặc bắt đầu bắn
phá, được chiếu sáng bằng một cây đèn treo bằng gốm màu xanh. Trên bàn có thịt
nguội, rượu vang và bánh mì. Đôbô cứ đứng như thể đang cầm bánh mì lên, bẻ một
mẩu.
Từ phòng bên cạnh, một phụ nữ tóc hoa râm, mặc tang phục mở
cửa vào, tay bà cầm cây nến. Trông thấy Đôbô, bà bước hẳn vào phòng.
Đó là phu nhân Bolốc, mẹ võ đồng Bolajơ.
Người phụ nữ quý tộc nhỏ nhắn, khí khái này ngay từ lúc bị
kẹt lại trong thành đã lập tức thích ứng với tình thế. Bà cáng đáng công việc
của người vợ viên giữ cổng và nấu ăn cho Đôbô, bà lo lắng về tất cả mọi thứ.
- Công tử thế nào rồi? - Đôbô hỏi.
- Cháu nó ngủ rồi. - Phu nhân trả lời. - Người nó bị những
sáu vết thương. Trên ngực, trên đầu, ở tay. Nhưng ngài đại úy, ngày ngài không
ăn, đêm ngài không ngủ, chuyện này không thể tiếp tục như thế được nữa. Nếu
ngày mai ngài cũng không về ăn trưa, tôi sẽ đích thân bưng theo ngài cho đến
khi nào ngài ăn hết.
- Tôi không có thì giờ. - Đôbô đáp và dốc cạn cốc. - Giường
của tôi đã trải chưa ạ?
- Ba ngày đêm nay nó vẫn thế.
- Nào, vậy thì đêm nay tôi sẽ ngả mình một cái (quả thực ông
đã ngồi xuống). Cậu bé không bị vết thương nào to chứ?
- Trên đầu nó có một vết chém dài lắm. Những vết kia nhờ
được cái áo đônman bằng da đỡ cho một phần, cũng nhờ ơn Trời! Tay
chân nó cử động dễ dàng.
- Thưa phu nhân tôn kính, phu nhân cũng phải đi ngủ đi thôi.
Hôm nay tôi cũng sẽ làm thế. Tôi phải nghỉ ngơi một chút. Chúc phu nhân ngon
giấc.
Ông nhìn ra ngoài trời và lại bước ra khỏi phòng.
Cái áo khoác dài mặc ban đêm của ông treo ở tiền sảnh. Ông
khoác lên người rồi vội ra pháo đài Ngục thất. Ông bắt gặp Gergey ở đó đang sai
một gã thanh niên vác một bì da to tướng lên phía trên.
- Cái gì thế này? - Ông giận dữ bảo chàng. - Té ra anh còn
thức hở? Không phải ta đã ra lệnh cho anh đi ngủ ư?
- Tôi đã ngủ rồi. - Gergey đáp. - Nhưng tôi chợt nhớ là
sương sa xuống pháo. Tôi sai đem thuốc súng khô đến tất cả các nơi.
Đôbô gọi xuống chỗ súng cối bắn pháo sáng:
- Bắn!
Khẩu cối xòe xòe, nổ vang. Viên đạn hắt lửa ra ở độ cao một
trăm sải, và nổ bùng bục, soi sáng quanh thành.
Trại quân Thổ nằm im quanh thành. Đây đó chỉ có những tên
lính gác bẻ cổ áo lên đến tai ngồi trước các đội quân.
Đôbô theo Bônemixo lên pháo đài nhà thờ xem cách chàng thổi
thuốc ẩm ra khỏi các lỗ điểm hỏa, cách chàng cẩn thận rắc thuốc khô lên, cách
chàng nhìn xem dây ngòi, gậy nhồi thuốc, môi đong thuốc và đạn có để đúng chỗ
hay không.
Sau đó Đôbô ở lại. Ông đứng khoanh tay trên mỏm pháo đài,
bên khẩu đại bác Búpbê. Trong cái lặng lẽ mênh mông đang nghe ngóng xung quanh,
ông ngửng lên nhìn trời, bầu trời đầy mây, không ánh trăng. Chỉ có một vài ngôi
sao trắng le lói trên một khoảnh trời nhỏ.
Đôbô bỏ mũ ra, quỳ xuống, ngửng mặt lên trời. Ông chắp tay
lầm rầm cầu nguyện:
- Thượng đế của con! Người đang thấy cái thành nhỏ đổ nát
dần của chúng con và cái nhúm người quyết tâm này trong đó… Trong cái vô cùng
vô tận của Người, thế giới trần tục này nhỏ không đáng kể. Ôi, nhưng đối với
chúng con, đây lại là tất cả! Nếu cần đến cuộc đời chúng con, xin Người hãy lấy
đi! Chúng con hãy rơi rụng đi như cuộng cỏ dưới đà lia lưỡi hái! Chỉ cần đất
nước này tồn tại… cái nước Hung nhỏ bé này…
Mặt ông tái nhợt, lệ trào ra khóe mắt. Với khuôn mặt đầm đìa
nước mắt, ông lại tiếp:
- Maria, mẹ của Giêsu, người mẹ bảo trợ của nước Hung! Chúng
con vẫn hằng mang ảnh Người trên lá cờ của chúng con! Tên của Người hàng triệu
đôi môi vẫn ca ngợi bằng tiếng Hung! Xin hãy đoái thương đến chúng con! Thánh
vương Isơtơvan! Từ thượng giới Người hãy nhìn xuống đây! Hãy nhìn xuống đất
nước đang bị tiêu diệt, dân tộc đang đau khổ của Người! Hãy nhìn Eghe, nơi
những bức tường nhà thờ của Người đang đứng và nơi nhân dân hằng ca ngợi đấng
vạn năng bằng tiếng nói của Người, bằng tôn giáo của Người! Người hãy dậy đi
trong doanh trướng thiên đình, Thánh vương Isơtơvan, ôi, Người hãy phủ phục
xuống chân Thượng đế! Thượng đế! Thượng đế! Xin hãy dành trái tim của người cho
chúng con!
Cái khoảnh nhỏ quang mây trên bầu trời kia như thể cái cửa
sổ của thiên đình, trong đó những ngôi sao là những cây nến trắng.
Đôbô lau nước mắt rồi ngồi lên giá gỗ khẩu đại bác. Chìm sâu
trong lo nghĩ, ông ngồi bất động, nhìn vào khoảng tối om ở dưới chân thành.
Trại quân Thổ ngủ yên với tiếng rì rầm khe khẽ. Không trung
rung động vì hơi thở của hàng chục vạn con người.
Đôbô tựa lưng, tì tay lên nòng đại bác. Đầu ông mỗi lúc một
gục thấp xuống, cuối cùng gục lên cánh tay: ông đã ngủ thiếp đi.
16
Ở phía chuồng súc vật, một tiếng gà trống chưa cứng cựa tẻ
tè te cất lên, liền đó là một tiếng gáy ồ ồ. Về phía đông, một dải mài xám nhạt
tách bầu trời tối đen ra khỏi những ngọn đồi.
Bình minh.
Dường như những cục đất của địa cầu bỗng nhiên chuyển động ở
dưới kia. Tiếng lích kích khe khẽ nổi lên trong một khoảng rộng xa tít. Mặt đất
dồi lên như những làn sóng đen ngòm, và tiếng lích kích, rì rầm ngày một vang
ầm. Một đôi tiếng chuông lắc cũng đã hòa vào tiếng lích kích, và một đôi tiếng
còi khe khẽ nữa. Dải màu xám ở đằng chân trời ngày một rộng, màu đen trên bầu
trời đã chuyển thành một cái chàng mạng có thể nhìn thấu qua.
Đã có thể nhìn thấy bóng phấp phới của những lá cờ ở dưới
kia. Đã có thể nhìn thấy những tốp tuyban, những chiếc thang mảnh khảnh chĩa
lên trời, lắc la lắc lư tiến về phía chân thành.
Bầu trời đằng đông sáng rất nhanh. Màu hồng đã thế chỗ dải
màu xám và những cái tháp không mái, những bức tường đổ của tòa thành đã nhô ra
khỏi lớn sương mù lành lạnh đang tan dần.
- Thưa chủ tướng. - Bônemixo gọi và đặt tay lên vai Đôbô.
Đôbô choàng dậy:
- Anh đấy à, Gergey?
Ông nhìn xuống đám lính Thổ đang bạt ngàn nhấp nhô.
- Cho thổi kèn báo thức đi!
Cái kèn của pháo đài lanh lảnh vang lên. Tám kèn khác lập tức
trả lời nó. Binh khí va loảng xoảng. Tiếng rậm rịch và tiếng người vang vang
khắp mọi nơi. Những cái hào trên thành ngoài cũng nhộn nhịp lên. Quân lính đã
sắp hàng trên những pháo đài và trên các mặt lũy. Đôbô nhảy lên ngựa, trong ánh
sáng của buổi bình minh, ông quan sát cách bố trí, những chỗ tập trung của các
binh đoàn Thổ.
Bọn chúng bố trí đông nhất ở mạn thành phía các lâu đài.
- Hễ bọn chúng xông lên mặt thành là ném hỏa hổ xuống ngay!
Đôbô ra lệnh ở khắp mọi nơi.
Võ đồng Kơrixtôp gặp đại úy ở bãi chợ. Chú cưỡi trên một con
ngựa Thổ nhỏ màu xám, mặc áo khoác màu xanh thẫm.
- Thưa chủ tướng, con mang áo giáp ra chứ ạ?
- Đừng. - Đôbô đáp. - Ta vào ngay bây giờ.
Nhưng ông không đi vào. Trong ánh sáng mỗi phút một tăng,
ông tế ngựa từ pháo đài này qua pháo đài khác để xem mọi người chuẩn bị ra sao.
- Các ngươi nhớ chỉ bắn vào những chỗ đông đặc thôi! - Ông
bảo các pháo thủ. - Cái chủ yếu hiện nay là hỏa hổ và thương, giáo.
Sau đó ông lại la to:
- Chừng nào bọn Thổ chưa bắn xong tất cả các khẩu đại bác,
các ngươi đừng có vượt lên mặt thành.
Hỏa hổ đã sẵn sàng từng đống hình tháp, cạnh những chỗ tường
vỡ. Người ta chế tạo suốt mấy tuần nay. Gergey đã cho đặt thêm vào giữa một
liều thuốc nữa, với liều thuốc đó, hỏa hổ trở nên mạnh gấp đôi. Khi người ta
ném xuống chúng nổ lần đầu, khi cái nhân bắn ra, chúng sẽ nổ lần thứ hai. Sau
đó những tia lửa trắng cháy đến hàng mấy phút từ trong hỏa hố phụt ra tứ tung,
kẻ nào bị nó bắn vào quần áo, vào mặt, nhất định phải nhảy lùi ra xa. Quân Thổ
không biết chế tạo loại hỏa hổ như thế.
Võ đồng Kơrixtôp chờ chủ tướng trước cửa soái phủ một lát,
sau đó cậu thấy ông phóng ngựa đi hết pháo đài này sang pháo đài khác mỗi lúc
một nhanh hơn. Cậu đi vào phòng mang ra đặt lên ngựa tấm giáp hộ tâm, giáp che
tay, giáp che đùi, cắp cái mũ chiến vào nách rồi ra đón gặp Đôbô ở chỗ tháp
góc.
Đôbô cứ ngồi yên trên ngựa mà mặc bộ quần áo sắt vào người.
Kơrixtôp cũng ngồi trên ngựa lần lượt trao cho ông tấm giáp hộ tâm, giáp che
tay, găng tay sắt. Rồi cậu nhảy xuống thắt đai giáp che đùi cho chủ tướng. Cuối
cùng cậu trao chiếc mũ khảm vàng lên cho ông.
- Con mang cái kia ra đây. - Đôbô bảo. - Cái mũ thép ấy.
Lúc đó trời đã sáng bạch, đến mức có thể thấy rõ ràng các
binh đoàn Thổ ở dưới kia. Dưới chân thành, trong những dây hào, hàng ngàn
tuyban và mũ chiến nhấp nhô. Nhưng chúng nó vẫn đứng một chỗ - chúng đang chờ
hiệu lệnh để bắt đầu đợt công kích.
Chúng không phải chờ lâu. Khi ánh sáng đã tăng đến độ có thể
thấy rõ những bậc nhấp nhô ở những nơi tường bị phá, những hòn đá nhô ra và
những hàng gỗ, trong trại quân Thổ tiếng hát cầu kinh thành kính của các tu sĩ
Hồi giáo đồng thanh nổi lên ở hàng trăm chỗ quanh thành. Đám quân trùng điệp,
trong tiếng lách cách lan đi rất xa, nằm phủ phục úp mặt xuống đất rồi lại quỳ
lên.
Như tiếng ì ầm của một cơn giông đang đến gần, đám quân dị
giáo khổng lồ lầm bầm khấn khứa:
- Ala …
giáo tổ Môhamét của chúng con… Người hãy làm cho trái tim chúng con trở thành
dũng cảm… Người hãy dang rộng những cánh tay vô địch của Người… Người hãy làm
tắc họng súng khạc lửa của chúng nó… Người hãy biến bọn vô tri vô đạo đó thành
bầy chó để chúng cắn xé chí tử lẫn nhau… Người hãy phái cơn gió lốc đến chỗ
chúng nó để quật chúng nó xuống đất, cho mắt chúng nó đầy bụi… Người hãy bẻ gãy
xương chân chúng nó để chúng nó không thể nào đứng vững trước chúng con… Giáo
tổ vinh quang của chúng con, xin Người hãy làm nhục chúng nó để chúng con có
thể rạng rỡ trên thây chúng nó và để đất nước của Người vĩnh viễn phồn vinh!
Rồi chúng nó nhảy dậy trong tiếng lách cách ầm ĩ.
- Bitxmila! (Nhân danh Thượng đế!)
Đại bác và súng tay Thổ nhất loạt nổ rền. Tường thành rung
chuyển, những chỗ hàn khâu lại nứt vỡ lung tung bởi vô vàn đạn đại bác bắn tới.
Tên và đạn súng tay rơi như mưa rào xuống dãy tường con chạch trên các pháo
đài. Không gian sặc sụa mùi thuốc súng. Hòa vào tiếng nổ rung trời chuyển đất
là tiếng ầm ĩ của trống trận, kèn co, kèn đại và tiếng gào thét Ala của trăm ngàn tên
Thổ.
Từ các chiến hào, bọn axap, ionisa, đeli, rebétzi và tất cả
các loại bộ binh Thổ nhảy lên đông như châu chấu. Rừng thang vượt thành bay về
phía các đoạn tường và pháo đài bị bắn vỡ, từ phía sau những cái thang, cơn mưa
tên bay rào rào lên các mặt lũy theo những đường vòng cung lớn.
Đội nhạc quân Thổ lanh lảnh vang lên.
Nhưng từ phía trên, câu trả lời cũng ập xuống. Những khẩu
đại bác chúc nòng xuống khạc lửa, sắt, chì, mảnh chai, mảnh sành vào những chỗ
quân Thổ tập trung dày đặc nhất. Hàng trăm tên ngã gục trên vũng máu, hàng ngũ
chúng lay động, ngả nghiêng. Nhưng ngay sau phút đó, hàng trăm tên khác đã lại
chen chúc nhau đạp qua những tên vừa ngã xuống.
Những cái thang vượt thành va lách cách vào đá, vào sắt, vào
gỗ, và đám đông gần như chạy, thoăn thoắt leo lên phía mặt lũy, khiên che trên
đầu, một tay cầm giáo hoặc kích, thanh gươm cong ngậm ngang mồm.
Hai mươi bảy lá cờ Thổ phấp phới, phần phật dẫn đoàn quân
leo thang ở phía sau các lâu đài, nơi những chỗ tường đổ.
- Ala ,
acba! La ila in Ala !
Ia kerim! Ia ranhim! Ia phetta! (Ala
chí cao! Vì Ala ! Chúng mày ơi! Hura! Nào dô ta!)
Tiếng gào thét kích động nổi lên không ngớt.
- Lên tường! Lên tường!
Ở trên tiếng hô cũng vang lên khắp nơi.
Và các mặt tường đầy người. Đến bây giờ hỏa hổ mới bắt đầu
ném xuống. Người ta dùng tay mà ném xuống những quả thủ pháo cháy xèo xèo, sau
đó phụt lửa và cuối cùng nổ ran. Hàng ngàn tia sét rơi xuống - nổ rền - bắn
tung tóe. Tiếng kêu thất thanh, tiếng gào thét, khói, tiếng nổ đùng đùng, mùi
hôi lưu huỳnh, thật là cảnh địa ngục. Cuốc chim, lưỡi búa nện chan chát lên đầu
móc sắt của những cái thang. Một đôi cái thang khi rơi xuống có đến hai chục
đứa bám theo. Chúng nó lăn xuống đè gẫy xương nhau và mở ra một lối giữa đám
đông lúc nhúc dưới chân thành. Nhưng chỉ một phút sau, đợt sóng mới của đám
đông võ trang lại tràn lên lấp chỗ của chúng, và bên cạnh những thang đã móc
được vào tường, những thang mới vẫn nhô lên. Ala !
Trên pháo đài góc, nơi mà từ tối hôm qua đã được đặt tên mới
là pháo đài Bôiki, Gergey và Zôntoi cùng chỉ huy.
Cơn bão công kích ở đó còn gầm thét mạnh mẽ hơn ở ba chỗ
tường vỡ khác, vì ở đó chỗ vỡ to hơn. Quân tấn công cũng đông hơn.
Những quả hỏa hổ quét rơi hàng trăm và hàng trăm tên leo
thang, từ bên mạn sườn, người ta cũng bắn vào bọn chúng. Nhưng đối với bọn Thổ,
cuộc sống có chi là quý giá khi chúng đông đến ngần ấy đứa. Chỉ cần mười tên
đột phá được vào cùng một lúc là cả đạo quân sẽ theo sát gót chúng, chen chúc
nhau đổ vào như một dòng thác lớn cho mà xem!
Vì vậy cần phải có người làm đê cản chúng lại!
Đã một giờ qua, hỏa hổ đánh lui những tên cố sức leo lên
không bao giờ đứt đoạn, nhưng lúc nào cũng vẫn còn thang và bọn địch trên
thang. Hễ một cái thang lớn mà mắc được vào đá là chúng nó đã chuyền ngay lên
cho nhau những đoạn thang nhỏ hơn để trèo tiếp lên mép thành phía trên.
- Giật cái thang lên! - Gergey kêu to.
Và trước sự ngơ ngác sững sờ của bọn Thổ, chẳng những người
ta không chặt phá thang, mà khi bọn chúng vừa giơ lên, ở trên đó người ta nhanh
nhẹn bắt lấy và giật lên.
Người ta đã giật lên được năm cái thang của chúng, khi một
tên Thổ mặc áo giáp bằng đồng vàng đưa cái thang của hắn lên và hắn cũng lập
tức đeo lên theo.
- Kéo nó lên! - Gergey kêu to và thọc cán thương vào giữa
hai bậc thang, bẩy lên. - Các người mau giúp ta!
Cái thang vòng lên ra xa tường như một cái cầu treo, ở đằng
cuối thang tòng teng tên Thổ mặc giáp đồng. Trong tay hắn cầm một cây giáo dài
có đính ngù. Nhưng khi bị nhấc bổng lên giữa không trung, hắn buông rơi cái mộc
và cây giáo, hai tay bíu vào nấc thang cuối cùng.
Hắn lủng lẳng giữa không trung.
Đoàn quân ở bên dưới gào rú.
Gergey muốn kéo hắn vào nhưng không có thì giờ. Một tên axap
đội mũ lông nhảy thoắt lên một cái thang nhỏ khác, phải xử trí với tên đó.
- Lật úp nó xuống! - Chàng kêu lên với bốn thanh niên đang
kéo cái thang.
Rồi chàng rút cây thương lên, đâm phập vào vai tên axap. Tên
axap lảo đảo trong một phút, máu trào ra thấm đỏ suốt cánh tay. Sau đó hắn ngã
lộn tùng phèo xuống, cuốn theo khoảng mười tên nữa trong số những tên đang cố
vượt lên.
Trong lúc đó mấy chàng trai cũng tuân lời chàng: họ lật cái
thang lại. Tên Thổ mặc giáp đồng phải lựa chọn: hoặc gãy tay hoặc bay một quãng
hai chục sải giữa không trung.
Hắn chọn cái sau.
Một tên Thổ đánh trống, đang khua cái trống hình giống cái
bánh xipô, đứng cách chân thành khoảng mười sải tay đã bị tên mặc áo giáp đồng
rơi vào đúng giữa đỉnh đầu và cùng hắn lăn ra giữa đống xác chết.
Nhưng cái đó có gì là đáng kể giữa đám trăm ngàn quân.
Một cái khiên da cá sấu vừa nhô lên. Không thể trông thấy
tên Thổ ở bên dưới. Ngọn thương trượt đi trên mặt khiên nhẵn. Tên Thổ ranh khôn
chắc hẳn đã móc phần giữa khiên vào cái đỉnh nhọn trên mũ chiến của hắn. Dù
người ta đâm hắn bất cứ từ phía nào, cái khiên chỉ chao đi và ngọn thương sẽ
trượt vào không khí.
Hấp một cái, Gergey đã nhảy tới.
- Phải thế này này!
Chàng trở ngược cán thương ra phía trước và quật dọc xuống
theo người tên Thổ có khiên da cá sấu. Tên Thổ ngã lộn đầu xuống.
Tiếng gào thét vẫn vang lên không ngừng.
- Ala
acba! Ia kerim! Ia phétta!
Đôi khi có cả tiếng Hung nữa:
- Chúng mày hãy nộp thành đi!
- Đây này! - Zôntơi đáp và bằng một nhát cuốc chim kinh hồn,
anh quật thủng cái khiên, cái mũ sắt và cái sọ dừa.
Anh đứng ở đầu bên kia chỗ tường vỡ và chỉ làm việc bằng
cuốc chim. Cái tường che đến ngang lưng anh. Anh nhường công việc bằng thương
cho quân sĩ. Anh đích thân đứng trên một đoạn tường xếp bằng gỗ thành, nơi
thang rất dễ móc vào, nơi thang đặt san sát bên nhau và đám đông vũ trang dày
đặc chen chúc nhau xô lên.
Anh đã ra lệnh chặt gẫy một hai cái thang, nhưng sau đó anh
thét lớn:
- Cứ nhè đầu chúng nó thôi, các cậu ạ!
Và anh cũng đứng ra phía trước để đích thân đón tiếp những
kẻ xâm nhập. Giáp của anh bằng thép. Cán cuốc chim của anh dài như một cây côn.
- Cứ lên đây, đồ nhọ nhem, lên đây, để tao đánh vỡ cái mõm
bê đẹp đẽ kia của mày ra!
Anh khích lệ một tên da đen đang giơ một cái khiên tròn,
nhẹ, đan bằng sậy và tiến lên, từ phía sau cái khiên, lòng mắt trắng dã của hắn
cứ lóe ra. Khi đến còn cách một sải tay, hắn co tròn người lại như một viên
đạn, tiếp tục tiến lên. Ý định của hắn là đến bậc thang trên cùng hắn sẽ bất
thình lình bật dậy, lao ngọn giáo vào Zôntoi và nhảy lên mỏm pháo đài.
Chức tổng đốc Eghe đã được hứa phong cho kẻ nào cắm được
ngọn cờ chiến thắng trước tiên. Quân dân trong thành cũng biết điều đó.
Con báo đen vẫn tiếp tục vọt lên. Nối gót hắn, một tên
rebetji râu rậm, mồm xùi bọt mép, thét vang Ala acba (Thượng đế chí cao!). Sau lưng hắn,
một lá cờ đuôi ngựa cán ngắn giắt ở thắt lưng. Mồm hắn ngậm ngang một thanh
gươm cong rộng bản tuốt trần.
- Ala
acha! Ia kerim! Ia rahim!
Zôntoi giật tấm lưới che mặt xuống, vừa đúng lúc. Tên da đen
bật thẳng người dậy, đâm ngọn giáo lên và cắm gãy mũi giáo vào bộ phận che cằm
của cái mũ chiến.
Trong nháy mắt đó, cái cuốc chim bổ chát vào hắn và tên da
đen từ bậc thang ngã vào không trung, rơi lộn đầu xuống.
Đến lượt tên rậm râu ở dưới hắn. Thằng này không cầm giáo
trong tay mà cầm một cái chùy cắm đinh lởm chởm, buộc vào một đoạn xích. Đầu
chùy lủng lẳng đầu sợi xích.
Zôntoi giật phắt đầu tránh cú đánh rồi quật cuốc chim trả
miếng mạnh đến nỗi tay tên Thổ rậm râu bị gẫy, lủng lẳng một bên.
Tên Thổ đánh đu bằng một tay, kêu gào được một lát nữa nhưng
cú đánh thứ hai đã làm hắn câm họng. Cái xác to lớn lăn xuống dọc thang, quét
theo cả những thằng sống.
- Ta gửi lời chào kính trọng tới giáo tổ của mày! - Zôntoi
quát với theo.
Việc nói chuyện với quân Thổ bị cấm, nhưng Zôntoi, trong cơn
hăng chiến đấu đã quên mất điều đó. Rõ ràng là anh không thể chiến đấu mà không
gửi gắm vào mỗi cú đánh một câu gì đó. Những câu hò hét của anh làm tăng thêm
lòng hăng hái của toán binh sĩ chiến đấu bên cạnh anh rất nhiều.
- Đánh đi con, Gianốt! - Anh kêu to với một chiến sĩ bên
cạnh! - Đánh như thiên lôi ấy! Pập! Thằng này cũng chẳng trở thành tổng đốc
Eghe được!
- Chờ gì nữa! - Anh nói to với một người khác. - Có lẽ cậu
còn chờ để nó hôn cậu chăng! Pập! Tiên sư cha nó!
Rồi khi một tên gureba đội tuyban, mặc áo giáp bằng thép
xông lại xông lên trước mặt anh, anh thét lên với những người bên cạnh:
- Các cậu hãy xoa nhẹ nó như thế này này!
Anh đánh trúng vào cổ nó. Máu vọt lên tường và tên gureba
vừa quay tròn theo chiều nằm nghiêng vừa rơi xuống.
- Chúc mày rơi đến tận đáy âm phủ! - Anh quát theo.
Mặt trời đã tỏa nắng, có thể thấy nắng qua màn khói của
những khẩu đại bác trong thành. Đôi khi một cơn gió lùa khói sang một bên, ta
có thể thấy rất đông quân địch mang khiên thép, vác những cây cờ có quả thao mạ
vàng, vẫn tràn tới với ánh sáng lấp lánh đến chói mắt.
Đôbô ngồi trên mình ngựa tế từ chỗ bị tấn công này đến chỗ
khác. Nơi này ông chỉnh hướng đại bác, nơi kia ông ra lệnh đưa thương binh đi.
Ông giục giã nạp thuốc súng và điểm hỏa. Ông cho chuyền thương, đao đến những
chỗ binh khí đã gần hết. Ông khích lệ, ngợi khen, la mắng. Ông liên tục phái
hai võ đồng của mình chạy đến chỗ đội dự bị do Mectsei phụ trách ở trong thành.
- Một trăm người đến chỗ các lâu đài! Năm chục lên pháo đài
Bôiki! Năm chục ra Cổng Cũ!
Các đội quân cứ sau nửa giờ chiến đấu lại được thay phiên.
Họ kéo nhau về nghỉ trước hai quán rượu trong thành, mồ hôi nhễ nhại, máu me bê
bết, sặc sụa mùi thuốc súng, nhưng đầy hăng hái và hơi khoe khoang đôi chút, họ
kể cho những kẻ chưa ra chiến đấu nghe những hành động anh hùng của họ. Nỗi
khát khao được lao ngay vào chiến đấu cháy bỏng trong những người kia. Bản thân
Mectsei cũng điên người lên vì không được chiến đấu mà phải láng cháng trên sân
thành và phải bằng lòng với việc phái toán quân này, toán quân kia đi theo lời
nhắn của Đôbô, và nói với họ những lời khích lệ:
- Số phận của Tổ quốc đang ở trên đầu thương mũi giáo của
các ngươi đấy!
Những toán quân với nét mặt đỏ bừng bừng, vội vã lao mình
vào cơn bão đang gầm thét. Những cái thang vượt thành đã nhầy nhụa máu. Quanh
những cái thang, tường thành đã trở nên màu đỏ. Dưới chân thành, xác chết và
bọn tử thương chất thành những quả đồi máu me quằn quại. Nhưng hàng ngàn và
hàng ngàn tên giặc mới vẫn la hét leo lên đống tử thi. Kèn lanh lảnh, trống thì
thùng, đội nhạc binh vang dội và tiếng reo xung trận ở trên mặt thành vẫn hòa
vào tiếng gào Ala
không dứt không ngừng. Ở dưới kia là tiếng quát tháo ra lệnh của bọn iaxaun [69],
tiếng gầm của đại bác, tiếng đoàng đoàng của súng tay, tiếng ùng ục của thủ
pháo, tiếng ngựa hí, tiếng những tên hấp hối thở dốc, rên rỉ, tiếng thang gãy
răng rắc.
- Lên đây tổng đốc, lên đây! Pập!...
- Nói cho giáo tổ nhà mi biết, cú này là Zôntoi đánh đấy! -
Tiếng thét vang lên từ trong đám khói bao phủ pháo đài.
Tiếng gào rống thú vật và tiếng súng cối nổ át những tiếng
thét của người dũng sĩ. Nhưng những hình thù chen chúc quanh anh và điệu múa
nhanh loang loáng của binh khí cho người ta thấy toàn quân ở đó đang làm việc
cật lực.
Khói che mờ cả mặt trời. Quanh chu vi thành, khói cũng bốc
lên cuồn cuộn, qua lớp khói đó, thỉnh thoảng lại lấp loáng một quân đoàn Thổ
đội mũ sắt, hoặc nhô ra màu nâu nâu của một hàng lạc đà chở thuốc súng và phấp
pha phấp phới những lá cờ đại, cờ đuôi nheo.
Ở pháo đài Cổng Cũ nhiều người phải thay phiên nhất. Petơ
Gátpa chỉ huy ở đó. Mỗi một lần rừng thang thưa đi, quân Thổ lại dùng những
viên đạn đá nặng hàng tạ công phá tường thành và lớp tường bổi. Chúng dùng cuốc
chim và thuổng để phá cánh cổng đã lèn chặt, ba cọc sắt trong số hàng cọc của
cây đại phong cầm đã bị gãy.
- Năm trăm! - Đôbê hét to với Korixtôp.
Và Korixtôp hối hả quay ngựa, phi đi gọi năm trăm người.
Số đó đã hầu như là toàn bộ lực lượng dự trữ còn lại.
Mectsei chụp mũ sắt lên đầu và cùng mười người chạy đến Cổng
Cũ. Nếu chúng nó phá được vào, công việc của anh cũng sẽ bắt đầu: việc cố thủ
thành trong.
Dưới vòm cổng và trên pháo đài, bọn Thổ rụng như ruồi. Từ
trên tháp, những tay súng của chúng ta bắn liên hồi khiến chúng đổ gục thành
từng gò đống. Giọng nói như sấm của Petơ Gátpa thôi thúc vang lên:
- Theo ta, hỡi các chú! Đừng lui bước! Hai tay chứ, mẹ kiếp
nó!
Bản thân anh dính đầy máu đến nửa người, anh quật, anh chém
lia lịa, khi dùng gươm, khi dùng cuốc chim, có lúc lại dùng thương.
- Giêsu, cầu Chúa phù hộ!
- Ala ! Ala !
Khi bọn leo thang đã vơi đi, tiếng kêu “Nước! Nước!” vang
lên khắp nơi.
Đám phụ nữ dùng bình sành, cốc vại bằng gỗ đưa nước đến dưới
pháo đài. Petơ giật lấy một cốc vại bằng gỗ. Anh đẩy tấm lưới che mặt lên, uống
ừng ực đến nỗi chảy tràn ra hai bên mép như hai dòng suối nhỏ xuống áo giáp,
nước tiếp tục chui qua áo giáp ra khuỷu tay, đầu gối, gót chân như chảy từ
trong ống máng ra vậy. Nhưng trong cơn giận dữ và khát đến khô người, anh chẳng
hề để ý đến điều đó.
Vừa đưa cái cốc ra khỏi miệng, anh thấy một tên Thổ nhảy lên
mặt thành. Một tay hắn cầm cờ, tay kia hắn chém thục mạng. Đằng sau hắn nhô lên
một cái đầu Thổ thứ hai, rồi cái thứ ba.
- Hừ, tiên sư cha chúng mày!
Và anh chộp lấy ống chân tên Thổ giật nó vào. Anh cùng nó
lăn xuống cầu thang. Khi vướng vào một chỗ nào đó, anh bóp lấy cổ nó và dùng
nắm đấm đi găng sắt đánh vào mặt nó.
Sau đó anh lại nhảy dậy, bỏ tên Thổ bị bóp chết dở đó cho
đám nông dân ở dưới chân pháo đài, và vội vã quay lên. Anh nhanh tay chém sa sả
trong một nháy mắt cả về sáu hướng.
- Ala
acba!
Quân Thổ lăn lộn trên tường. Một tên akiji đã vượt lên được
đến tháp canh. Hắn cắm cờ lên. Dưới kia tiếng gào đắc thắng nổi lên như bão cồn
chào mừng lá cờ. Giêsu, lạy Chúa! Có thế chứ, nó không phất phơ ở đó được đến
hai phút. Những dũng sĩ của chúng ta nhào tới bổ vỡ sọ những tên sấn sổ lên
tiếp sau. Một dũng sĩ Hung đội mũ sắt gỉ đã như một con mèo trèo theo tên
akinji ra ngoài mỏm. Anh đặt chân lên một mỏm đá và giáng lên hắn một đòn khủng
khiếp. Anh chặt đứt phăng cánh tay tên Thổ cầm cờ khiến cây cờ cùng theo cánh
tay từ trên cao rơi xuống.
- Cậu là ai? - Petơ mừng rỡ hét lên dưới thành.
Chàng dũng sĩ quay lại, kiêu hãnh kêu to trả lời.
- Komlôsi Ontơn!
Từ phía dãy lâu đài, chú võ đồng Bolajơ phi ngựa đến. Một
bên đầu chú buộc khăn trắng, tuy vậy chú vẫn phi như bay dường như không có
chuyện gì xảy ra cả.
- Chỗ soái phủ, hàn khẩu đã bị vỡ! - Chú la to.
- Một trăm người! - Đôbô đáp lại.
Trong khi chú thiếu niên chạy đến chỗ Mectsei, ông cúi rạp
mình ra phía trước, tế nước đại đến dãy lâu đài.
Quân Thổ đã phá vỡ chỗ hàn khẩu. Những thanh gỗ từ trong
tường chĩa ra như xương lườn con cá rán. Bọn Thổ bâu lên tường đông nghịt như
đàn kiến lửa. Đôbô nhảy lên mặt thành. Ông bổ đôi đầu một tên Thổ, đá một tên
khác lăn tòm xuống và hét to:
- Hất gỗ ra ngoài!
Cho tới lúc đó các chiến sĩ vẫn dùng cuốc chim kéo các thanh
gỗ vào phía trong. Nghe lệnh Đôbô, họ nhất loạt bẩy ra phía ngoài. Những thanh
gỗ quét theo cả bọn dị giáo gào thét xuống khỏi thang. Một lỗ hổng to tướng
toang hoác trên tường. Đằng nào cũng thế, một hai sải tay cao hơn hay thấp hơn
thì vẫn phải chiến đấu chống bọn giặc xông lên.
Một viên đạn quật gẫy lá cờ Hung xuống khỏi mặt lũy, rơi
xuống giữa bọn Thổ. Và đây, mảng tường vỡ to cũng có lợi: một chiến sĩ Hung
nhảy qua lỗ hổng ra ngoài, chém vào mặt một tên Thổ rồi giật lá cờ đem vào
trước khi chúng nó kịp xông đến chém anh.
- Toroc Laxtô, ta thấy ngươi rồi đấy, con ạ! - Đôbô mừng rỡ
kêu to.
Đạn đại bác đập vào tường, tung bay bụi đá đầy mắt các chiến
sĩ. Phía trước Đôbô, một người thấp nhưng to chắc, ngã tựa vào tường, lăn xuống
dọc chân tường. Cái mũ sắt rơi ra khỏi đầu người đó, lăn đến bên chân Đôbô.
Đôbô dụi mắt, nhìn xuống: Onđơrát nằm đó, người đốc lý của
Eghe. Tay ông ta vẫn khư khư nắm chặt thanh
gươm. Từ cổ ông ta, dòng máu chảy ra theo một vệt dài giống như cái cà vạt bị
sổ.
Nhưng kìa, cả hai võ đồng của ông đang từ phía Cổng Cũ chạy
tới. Ông vội liếc nhìn lên tháp canh Cổng Cũ: những lá cờ Thổ đính đuôi ngựa đã
phất phơ ở đó một, hai, năm… có đến hàng chục cái.
Và qua những lỗ thủng trên tháp canh, súng nổ chĩa vào phía
trong. Bọn ionisa lại đang trèo lên phía ngoài tháp canh. Một tên ngậm một lá
cờ đỏ to tướng giữa hai hàm răng, định cắm lên đỉnh tháp.
Trong thành tiếng kêu kinh hoàng chạy lan từ đầu này tới đầu
kia, xung quanh thành tiếng thét đắc thắng của trăm ngàn tên Thổ lay động cả
không trung:
- Ala !
Ia kerim! (Ala !
A chúng mày ơi!)
Những bộ mặt Hung tái mét.
Đôbô nhảy lên mình ngựa phi đến pháo đài nhà thờ. Ông chĩa
các khẩu đại bác vào ngang sườn tháp canh, và trong khi độ ba trăm tên ionisa
hò reo đắc thắng bâu đặc trên tháp, ba khẩu đại bác nhất loạt gầm lên. Cái tháp
rùng mình đổ xuống trong tiếng rầm rầm dữ dội. Bụi vôi từ đống vụn bốc lên mù
mịt như mây, và từ giữa đống đá, máu giặc Thổ chảy ra như rượu vang ở máy ép
trong mùa nho.
Những tên khác đang xô đẩy nhau trước cổng và trên tường,
nghe thấy tiếng trời tan đất sập đó liền kinh hoàng quay trở lại, và chưa đầy
năm phút sau, những cái thang vượt thành đã vắng ngắt. Chỉ còn la liệt cái khối
đẫm máu của những xác chết và những tên hấp hối bao phủ xung quanh Cổng Cũ và
vùng kế cận.
Về trưa cuộc chiến đấu ở các nơi khác cũng ngưng dần. Hàng
ngàn tên Thổ bị chết và bị thương, ám khói, máu me nằm ngổn ngang dưới chân
thành; không trung run rẩy vì những tiếng kêu “ei va”! Và “me det” (ái ái! ôi,
ôi!) rên rỉ của bọn bị thương. Chả khác gì tiếng cừu rống.
Không một quyền lực nào của bọn iaxaun có thể thúc ép quân
lính chúng tiếp tục tấn công trong ngày hôm đó nữa.
Nhưng bãi chợ trong thành cũng đầy thương binh.
Tất cả thợ cạo và phụ nữ đều bận rộn ở đó quanh các thương
binh với chậu nước, giẻ lau, vải băng, phèn và rượu sa tiền.
Những người bị bắn gãy tay hoặc gãy chân được chăm sóc trước
tiên. Biết thế nào người ta băng bó như thế. Những người khác phải tạm bằng
lòng với việc rửa vết thương do các phụ nữ đảm nhiệm. Phần lớn im lặng chịu
đựng đau đớn và chờ đến lượt, nhưng cũng có một số rên rỉ thảm thiết.
- Lạy Chúa tôi! Lạy Chúa tôi! Chúng nó bắn hỏng mất một mắt
của tôi rồi. - Một chiến sĩ trẻ tên là Orônhơ Mihai, xạ thủ người Eghe, vừa
khóc vừa lấy ống tay áo bị cháy mép ấn lên khuôn mặt đầy máu.
Petơ cũng ngồi ở đó, trên một cái ghế rơm phủ áo khoác lông
kiểu nông dân, giữa những người khác. Chỗ mắt cá chân của anh bị một vết thương
to đến nỗi máu chảy đọng thành vũng ở dưới ghế.
- Misơkơ[70], đừng khóc ỏm tỏi lên nữa! - Anh bảo người
lính. - Chẳng thà cậu sống với một mắt trong thành Eghe còn hơn nguyên vẹn cả
hai mắt mà bị quân Thổ nó treo cổ lên!
Và anh cắn răng chịu đựng cho người thợ cạo dùng rượu sa
tiền rửa vết thương đau ghê gớm ở chân.
Các tử sĩ nằm thành từng hàng trong cửa nhà thờ, máu mé, tơi
tả, lấm láp và bất động.
Đôbô xuống ngựa, cởi mũ chiến ra đi qua giữa các tử sĩ, cặp
mắt đẫm lệ.
Người đốc lý Eghe cũng nằm ở đó. Mái tóc hoa râm của ông bị
máu nhuốm đỏ. Trên cái ủng đen phủ đầy bụi của ông còn thấy máu của một phát
đạn. Hai người con trai quỳ gối bên cạnh.
Một phần các chiến sĩ người ngợm ám khói, rách tơi tả, mồ
hôi nhễ nhại, bê bết máu me ngồi trên bãi chợ. Hai người cầm cờ ngồi ở hai đầu.
Đôbô bảo võ đồng Bolajơ:
- Con đem lá cờ của thành phố lại đây!
Ông tháo lá cờ màu xanh đỏ của thành phố ra khỏi cán và đắp
lên người ông đốc lý Eghe - làm khăn liệm.
-------------
Chú thích:
[65] Một loại súng phun lửa.
[66] Eghe thuộc tỉnh Hevét.
[67] Lính bộ bắn súng kíp của Thổ.
[68] Ala
chí cao! Vì Ala ! Chúng mày ơi! Hura! Nào, dô ta.
[69] Bọn giám trận, phụ trách việc dàn quân, thúc quân lính
trong chiến đấu.
[70] Cách gọi thân mật của tên Mihai.
------------
Tiếp p10: http://bloggenguoixuthanh.blogspot.com/2014/03/nhung-ngoi-sao-eghe-p10.html
Tiếp p10: http://bloggenguoixuthanh.blogspot.com/2014/03/nhung-ngoi-sao-eghe-p10.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét