Chủ Nhật, 2 tháng 3, 2014

Những ngôi sao Eghe - (p11)

Gárdonyi Géza

Những ngôi sao Eghe
(Nguyên tác: Egri Csillagok)

Dịch giả: Lê Xuân Giang
Tiểu thuyết - Văn học Hungari
Nhà xuất bản: Văn học - Hà Nội
Năm xuất bản: 1987

Phần năm

Nguyệt thực - (tiếp theo)

7

Ngày hôm sau, mồng bốn tháng mười, mặt trời mọc chiếu sáng một dải đất cao mới đắp xung quanh thành. Con hào sâu bao quanh thành về phía bắc giờ đây đã bị lấp từng quãng. Nơi trước kia là hào giờ đây đã thành gò.
Những gò đất mới đắp nhô lên đối diện với những chỗ tường vỡ. Bên dưới là bổi, cành cây khô, dây nho khô buộc thành bó, bên trên là đất. Chắc chắn quân Thổ sẽ tiếp tục công việc đó cho đến khi một vài gò đất đã cao đến mức có thể đặt pháo bắn thẳng vào trong thành và có thể xung phong vào thành không cần thang.
Đôbô quan sát công việc của chúng. Ông lặng lẽ, nét mặt bình tĩnh quan sát tất cả mọi hướng. Sau đó ông cho mời các sĩ quan. Ông mời vào phòng hiệp sĩ bốn viên thượng úy, một trung úy, một viên quản, một thập trưởng và một binh nhất. Cả viên thư lại Mihai, người phát bánh, cũng được mời vào.
Cái bàn đã được phủ một tấm dạ xanh lá cây. Trên bàn đặt một cái tượng chịu nạn và hai cây nến cháy hai bên. Trong góc phòng là người đao phủ mặc quần áo dạ màu đỏ. Than đỏ hồng trong cái lồng ấp bên cạnh. Tay gã cầm một cái quạt gió. Bên cạnh cái lồng ấp còn có những thỏi chì và những cái kìm.
Đôbô mặc quần áo dạ đen. Cái lông đại bàng của hàm đại úy cắm trên chỏm mũ sắt. Một tờ giấy trắng đặt trước mặt ông.
- Các chiến hữu, - ông nói, nét mặt nghiêm nghị gần như cau lại. - sở dĩ chúng ta hội họp lại đây là để xét xử trường hợp của trung úy Heghétđuy và các đồng lõa của y. Hành động của chúng chứng tỏ chúng là những tên phản bội. Chúng ta sẽ xét xử chúng một cách phù hợp với lương tâm.
Rồi ông ra hiệu dẫn các tội nhân ra.
Gergey đứng lên nói:
- Thưa các ngài, trong việc này tôi không thể làm quan tòa được. Tôi đang có điều bất hòa với bị cáo. Xin các ngài hãy cho tôi rút khỏi ghế buộc tội.
Mectsei cũng đứng dậy nói:
- Tôi chỉ có thể làm chứng mà thôi. Không ai có thể vừa làm quan tòa lại vừa làm chứng được.
- Vậy ông hãy làm chứng. - Những người ngồi quanh bàn trả lời.
Gergey rời khỏi soái phủ, Mectsei đi ra tiền sảnh.
Lính gác dẫn Heghétđuy cùng ba đồng lõa của y vào, và cả tên Thổ nữa.
Heghétđuy tái mét mặt. Những quầng thâm viền quanh mắt y. Y không dám ngửng nhìn lên. Đôbô chỉ để y lại, những tên kia ông bảo dẫn ra ngoài.
- Ngươi hãy nói cho chúng ta hay. - Ông nói. - Việc đưa đường cho quân Thổ là việc gì thế?
Heghétđuy thu hết can đảm, ấp úng thanh minh:
- Tôi chỉ muốn lừa quân Thổ vào bể nước. Tôi không muốn nộp thành cho giặc. Bể nước thì rộng. Chúng tôi tìm thấy một lối hẹp đi vào qua bể nước. Tôi nghĩ nếu chính tôi tiêu diệt được hàng nghìn tên Thổ, công đầu sẽ thuộc về tôi.
Đôbô bình tĩnh nghe từ đầu đến cuối. Các sĩ quan cũng chẳng hỏi han gì y cả. Khi y không còn gì nói nữa. Đôbô sai dẫn y đứng sang một bên rồi lần lượt gọi từng tên lính vào.
- Chúng con, - tên đầu tiên nói. - chúng con không thể làm gì khác ngoài lệnh của ngài trung úy. Chúng con phải vâng lời khi cấp trên ra lệnh.
- Nó ra lệnh như thế nào?
- Ngài trung úy ra lệnh cho chúng con đứng trên miệng bể nước để ngài đưa một vài tên Thổ vào.
- Nó nói sao, để làm gì?
- Để bàn việc nộp thành.
Đôbô nhìn viên trung úy, Heghétđuy lắc đầu:
- Không đúng! Nó nói dối!
- Con mà nói dối à? - Gã lính tức giận nói. - Thế ngài trung úy đã chẳng bảo là quân Thổ hứa đủ mọi điều tốt đẹp, còn chủ tướng Đôbô chẳng hứa điều gì tốt cả, đến như tiền công cố thủ cũng không muốn trả.
- Nói láo. - Heghétđuy nhắc lại.
Người ta dẫn tên lính thứ hai vào.
- Tại sao chúng mày lại ở bên giếng?
- Chúng con chờ quân Thổ ạ. - Gã buồn rầu đáp. - Ngài trung úy bảo rằng trước sau rồi thành cũng lọt vào tay quân Thổ, vậy chẳng thà được tiền còn hơn là đổ máu. Nếu chúng ta không nộp thành, chắc chắn chúng ta sẽ chết.
Đôbô sai dẫn cả gã thứ ba vào.
- Con không biết gì cả ạ. - gã ấp úng. - con được phái đến bên giếng thôi ạ, chứ còn tại sao, con không biết ạ.
- Trung úy Heghétđuy không bảo mày rằng điều đình với quân Thổ thì tốt hơn hay sao?
- Cái ấy thì có đấy ạ.
- Lần đầu tiên trung úy nói vào lúc nào?
- Vào buổi tối sau đợt đại công kích ạ.
- Trung úy nói thế nào?
- Trung úy nói là ấy... rằng trung úy bảo là: chúng ta ít người, quân giặc thì đông, rằng là đấy, những thành khác cũng có giữ được đâu, vậy mà lúc đó quân Thổ còn đi riêng làm hai đạo.
- Trung úy Heghétđuy có nói gì về khoản tiền cố thủ không?
- Có ạ. Trung úy nói đáng lẽ chúng con phải được lĩnh gấp đôi tiền.
- Còn về việc nộp thành thì trung úy nói sao?
- Nói rằng là ấy... trung úy bảo rằng, thì quân Thổ thể nào rồi cũng lấy được thành, vậy thà để chúng nó trả tiền cho, còn hơn là để đầu cũng mất.
- Thế quân lính nói lại thế nào?
- Dạ, không nói gì cả. Khi quân Thổ gọi vào, chúng con chỉ nói chuyện bên cạnh đống lửa thôi ạ.
- Các ngươi không đối đáp với chúng ư?
- Không ạ. Chỉ có ngài trung úy nói chuyện với chúng vào lúc khuya mà thôi.
- Nói bằng cách nào?
- Nói qua một kẽ nứt ổ chỗ Cổng Cũ ấy ạ. Trung úy đi đến chỗ ấy và nói chuyện đến ba lần cơ ạ.
- Với quân Thổ à?
- Với quân Thổ ạ.
- Và khi quay về, trung úy nói gì?
- Trung úy nói là quân Thổ để cho tất cả mọi người rút đi không động chạm gì đến, không chém ai cả. Ngoài ra còn trả cho toàn lính Koso mỗi người mười đồng vàng, với lại hai pasa gửi thư có tướng ấn đến để bảo đảm lời hứa.
- Trong số lính ở đấy, mấy người nghe nói về chuyện đó?
- Độ mươi người.
- Thế tại sao các người không báo cho ta biết? Các ngươi đã chẳng thề không nói chuyện về việc nộp thành hay sao?
Gã lính im bặt. Đôbô tiếp:
- Đáng lẽ bổn phận của các ngươi là phải báo cáo ngay về câu chuyện của ngài trung úy!
- Chúng con không dám ạ.
- Tóm lại các ngươi đã rắp tâm trao thành vào tay giặc Thổ. Những ai đồng tình vào việc này?
Gã lính kể ra bảy tên nữa, sau đó gã phân trần:
- Chúng con, thưa ngài đại úy, chúng con không đồng tình đâu ạ. Chúng con chỉ tuân theo mệnh lệnh. Chỉ có ngài trung úy nói thôi, ông ta đã ra lệnh cho chúng con ạ.
Bức tường bị viên đạn bắn vào kêu lên một tiếng. Những bộ giáp treo trên dãy cọc rung lên lách cách. Một mớ vôi vữa trên tường rơi xuống sàn nhà.
Đôbô nhìn các quan tòa:
- Ai còn gì hỏi nữa không?
Các quan tòa ngồi bên bàn hầu như cứng đờ cả người. Cuối cùng viên quan tòa binh nhất lên tiếng hỏi:
- Mười người lính đã đồng tình với việc giao thành cho quân Thổ à?
Gã lính tái mặt, nhún vai:
- Người lính không thể muốn gì khác ngoài điều mà sĩ quan của mình muốn.
Không còn câu hỏi gì khác.
- Đang còn tên Thổ nữa. - Đôbô nói. - Dẫn nó vào đây.
Tên Thổ cúi vái ba lần rồi mới đi tới trước cái bàn. Tới đó hắn đứng khom lưng xuống, tay vòng lại trước ngực.
- Tên mi là gì? - Đôbô hỏi.
- Iuxup.
- Iuxup, tiếng Hung nghĩa là Jôjép. Đứng thẳng người lên!
Tên Thổ đứng thẳng dậy. Hắn là một tên akinji khoảng chừng ba chục tuổi, người chắc nịch, bắp thịt nổi cuồn cuộn. Cái mũi bị tẹt và vết sẹo đỏ trên đầu chứng tỏ hắn đã từng xông pha nhiều trận mạc. Trả lời cho các câu hỏi, hắn nói hắn đã ở nước Hung mười năm nay, hắn đã đứng bên tường thành khi Heghétđuy hỏi qua kẽ nứt: “Ê, bọn Thổ, đứa nào biết tiếng Hung?”
- Nó nói láo. - Heghétđuy lầm bầm. - Zôntôi cũng luôn luôn nói chuyện với quân Thổ đấy thôi.
- Tôi? - Zôntôi hỏi như quát lên.
- Đúng cậu nói. Mỗi lần có đợt công kích cậu đều luôn luôn kêu to lên với chúng nó.
Zôntôi tái người đi vì giận, nhảy dậy khỏi ghế ngồi.
- Tôi đề nghị điều tra về bản thân tôi. Tôi không thể tiếp tục ngồi trên ghế quan tòa nữa. Còn mỗi khi tôi đánh tôi lại kêu lên một tiếng, cái đó có thể. Nhưng đó chỉ là tiếng chửi. Đó không phải là lầm lỗi! Nói như vậy là nghĩa lý gì?
Đôbô nói để anh bớt giận:
- Tất cả chúng ta đây đều biết cái thói quen đó của anh, và chẳng ai vì thế mà nói anh. Nhưng vì anh đã nổi giận đối với kẻ bị cáo, chúng ta miễn cho anh khỏi việc xét xử.
Zôntôi cúi chào và đi ra. Đôbô lại nhìn tên Thổ.
Bằng một thứ tiếng Hung cà khổ, hắn kể rằng Heghétđuy đã nói chuyện với một tên aga, sau đó với bêi Orơxơlan ở chỗ Cổng Cũ. Heghétđuy đã đề nghị tên bêi hứa lời hứa danh dự làm chứng và đưa một trăm đồng vàng. Heghétđuy đã nói đến đêm sẽ đưa đường cho tất cả đạo quân vào thành, chỉ cần đào hầm bên cạnh cổng chỗ vẫn thường đặt cái trống đồng lớn. Y (hắn chỉ Heghétđuy) nói là một đêm y đã đi trong bể nước và tìm thấy một đường hầm, nhưng đường hầm đó đã bị lấp ở chỗ Cổng Cũ. Ở chỗ lấp y nghe tiếng trống đồng đánh ngay trên đầu và nghe cả tiếng bước chân của bọn lính, như vậy không cần phải đào nhiều lắm. Đến mười hai giờ đêm, y sẽ chờ bọn kia. Nhưng bọn kia cũng cần phải đảm bảo sẽ không phạm đến những người lính Koso đứng ở chỗ Cổng Cũ. Chúng nó thỏa thuận. Nửa đêm Heghétđuy xách đèn dẫn đường cho chúng. Bọn ionisa, axap và piát lẫn lộn cùng vào. Ba nghìn tên đi vào đường hầm. Những bộ phận khác của đạo quân, có trời biết bao nhiêu nghìn tên, chờ hai cửa thành sẽ mở. Nhưng một sự cố đã xảy ra là cái đèn của Heghétđuy bị va vào tường ở chỗ góc bể nước và tắt ngầm. Y tiếp tục dẫn tiền đội đi trong bóng tối. Y biết đường đi nhưng thành bể nước hẹp, trong bóng tối y có thể đi được nhưng đám lính tiền đội chen chúc nhau nên ngã xuống nước.
- Mi có biết về chuyện bêi Đạo sĩ cướp mất đứa con trai của một thượng úy bên chúng ta không? - Đôbô hỏi.
- Có ạ. Đã hai tuần nay người ta tìm đứa bé ấy khắp trong các trại. Ngài bêi sai tìm. Người ta đã ăn cắp mất của ông ta, hoặc giả đứa bé đã trốn mất vào ngày thứ ba sau khi đến đây.
Đôbô nhìn Heghétđuy và nói:
- Đồ khốn kiếp!
Heghétđuy quỳ sụp xuống:
- Xin các ngài khoan thứ, xin các ngài đoái thương đến thân tôi: Tôi đã lầm lạc, đầu óc tôi đã lú lẫn.
- Mi có thú nhận là mi đã muốn trao thành vào tay quân địch hay không?
- Tôi xin nhận.
Cuộc thảo luận không kéo dài quá một tiềng đồng hồ.
Sau đó, trung úy Heghétđuy đã lủng lẳng giữa bãi chợ, trên cái giá treo cổ đóng vội bằng một thanh xà.
Phuyghet loa to với dân thành:
- Tất cả những kẻ phản bội lời thề, bất kể lính thường hay sĩ quan mà muốn trao thành vào tay giặc Thổ đều chết như thế này cả!
Ba gã lính trơn bị xẻo tai dưới giá treo cổ. Bảy tên nữa bị xiềng chân và sai đi phục dịch ở trong thành.
Còn tên Thổ, người ta ném nó ra ngoài thành qua bức tường cao ở phía tây cho nó rơi xuống gãy cổ giữa đồng bọn.
Dân thành có thể thấy rằng Đôbô không đùa.

8

Tình mẹ. Người mạnh hơn tất cả mọi sức mạnh trên đời! Người là ánh dương náu trong cơ thể con người! Người là ngọn lửa thiêng từ trái tim Thượng đế giáng trần, là sự dịu dàng mà vô địch, không sợ cả cái chết!
Người, kẻ đã từ bỏ mái nhà yên ổn, gối êm đệm ấm, tất cả gia tài châu báu để cải hình đổi dạng vượt qua cái chết trùng trùng điệp điệp mà đến với những người thân yêu đang bị hiểm nguy đe dọa của Người! Người, kẻ chui xuống lòng sâu quả đất, với thanh gươm mỏng mảnh mà muốn vượt qua tường thành, bức tường thành mà hàng trăm ngàn con dã thú vũ khí tua tủa lúc nhúc phía trước mặt đang phải gào thét một cách bất lực! Người, kẻ không biết đến những việc gọi là không thể được mỗi khi nói về người mà Người yêu, dù có phải đồng nguy cộng khổ, cùng chịu chết với họ chăng nữa. - Ôi trái tim phụ nữ, ta xin bái phục Người!
Suốt hai đêm, hai ngày họ đào cật lực qua những chỗ sụt của đường hầm, trong cái lạnh lẽo ẩm ướt dưới những vòm trần lúc nào cũng chỉ chực đổ. Đôi chỗ đường chỉ bị lấp có vài bước, sau một giờ lao động họ đã có thể chui qua. Nhưng đôi chỗ họ phải trầy trật với cả những tảng đá, mà cánh tay phụ nữ yếu đuối cũng như cánh tay của người thiếu niên mười lăm tuổi chẳng lấy gì làm mạnh khỏe cho lắm đều không quen với loại công việc như vậy.
Đêm mồng ba tháng mười, khi trại giặc vừa yên ngủ, họ mang theo tất cả số lương thực. Theo tính toán của họ thì tòa thành chỉ còn cách họ chừng trăm bước. Họ hy vọng sẽ không phải quay trở lại nữa.
Và họ làm việc suốt đêm.
Ở dưới đất họ không thể biết được khi nào trời hửng, khi nào mặt trời lên. Suốt đêm họ nghe tiếng vó ngựa chở đất và chở cành cây, họ nghe cả tiếng nổ của tu pháo và các cỡ đại bác trong thành. Ở dưới đó họ cứ ngỡ là có tấn công ban đêm và họ làm việc càng hăng hái hơn để có thể lọt vào thành được.
Nhưng ngoài kia trời đã hửng, bình minh đến, rồi mặt trời nhô lên sau những dải núi xứ Bôrơsốt. Gia nhân của tên lái ngựa Thổ trông thấy cảnh hoang vắng của cái lều bèn nhòm vào. Hòn đá bị vần sang một bên và cái miệng hầm rộng làm chúng vô cùng kinh ngạc. Vì bọn kỵ binh đã lại tản đi khắp nơi để thu nhặt cành cây, tên lái ngựa đích thân chạy bổ đến chỗ một tên võ quan đeli và hầu như run lên vì mừng rỡ, báo cáo:
- Thưa quan, con xin trao thành vào tay quân đội. Đêm qua con vừa phát hiện ra một đường hầm!
Đông đảo bọn đeli, bọn akinji, bọn bêli, và gureba lập tức bỏ cành cây, bỏ ngựa giữa đồng.
Tiếng kèn tập hợp vang động. Lính của tất cả các cơ ngũ chen chúc xáo trộn vào nhau, binh khí va chạm lách cách, reo hò xô nhau qua miệng hầm xuống lòng đất. Tên lái ngựa cầm đuốc dẫn đường.
Trong lúc đó, hai linh hồn đáng thương đang trườn, bò, bì bõm, dọn dất vần đá, cố gắng tiến lên phía trước. Đến một chỗ con đường lại trở nên dốc và mở rộng ra có những hòn đá khô ráo. Họ đi vào một cái phòng ngầm rộng hình tam giác và ẩm ướt.
- Chúng ta đang ở bên dưới con hào ngoài thành thì phải. - Mikơlốt nói.
Nhưng hai góc kia của cái phòng ngầm đều bị đất sụt lấp kín. Trong hai góc đó, góc nào có lối đi?
Ở một góc, đất sụt võng xuống hình yên ngựa. Trên đỉnh có một lỗ hổng nhỏ, may lắm cũng chỉ đút lọt nắm tay. Ở góc kia, bên cạnh lớp đất sụt có một kẽ nứt nhỏ.
- Ở đây con đường chia hai ngả, - Mikơlốt nói. - vấn đề bây giờ là chúng ta phá lối nào?
Cậu đứng lên mấy hòn đá, giơ cây nến vào chỗ lỗ hồng. Ngọn lửa lay động. Cậu lại thử ở chỗ kẽ nứt phía bên trái. Ở đó ngọn lửa cứ đứng yên.
Cậu cắm cây nến lên vành mũ rồi bíu vào hòn đá ở trên cùng. Êvo đến giúp sức. Hòn đá lộc cộc lăn qua những hòn khác.
- Một hòn nữa! - Mikơlốt nói.
Cả hai lại cố sức kéo. Hòn đá này không chịu nhượng bộ.
- Ta phải đào những hòn đá nhỏ xung quanh nó ra.
Mikơlốt nói rồi cầm lấy xẻng hớt lớp đất sỏi xung quanh hòn đá. Sau đó họ lại bíu vào nó. Hòn đá lung lay. Mikơlốt thở phào một cái, đưa tay lên lau mặt.
- Mệt quá. - Cậu mỏi mệt nói.
- Nghỉ một tí. - Êvô đáp.
Họ ngồi xuống một hòn đá. Mikơlốt ngã lăn ra và ngủ thiếp đi luôn.
Êvo cũng choáng váng, mệt tưởng chết được. Quần áo nàng ướt sũng đến ngang đầu gối, bùn lấm be bét, tay nàng rơm rớm máu. Vì cứ phải cúi lên cúi xuống nhiều, tóc nàng xổ tung ra, một nửa lấp trong áo đônman, một nửa xõa ra ngoài áo, phất phơ vờn quanh cổ.
Nàng cầm cây nến soi vào cả hai lỗ hổng. Cà hai đều chỉ con đường tự do.
- Ta nghỉ một tí. - Nàng vừa gắn cây nến xuống mặt hòn đá vừa nói. - Nhưng ta không ngủ đâu, không, ta chỉ nghỉ thôi.
Vừa ngả lưng ra phía sau, nàng đã nghe tiếng vang khe khẽ ở đằng trước. Nàng nhíu lông mày nhìn vào bóng tối phía trước mặt: tiếng ồ ạt ở trên kia hay ở dưới này?
Từ đằng kia đường hầm, một tia sáng đỏ vụt hiện ra.
- Mikơlốt! - Êvo rú lên, lay cậu thiếu niên. - Chúng nó đến đấy!
Người thiếu niên mệt mỏi giương mi mắt lên.
- Chúng nó đến đấy!
Êvo tuyệt vọng nhắc lại và đưa tay lên đốc gươm.
Thanh gươm chỉ còn lại cái vỏ. Nó đã nằm lại ở một chỗ hầm sụt nào đó, nơi họ bẩy đá. Những thanh gươm cong cái quanh thắt lưng nàng cũng đã bị gãy hết trong lúc làm việc, cả con dao găm cũng vậy. Trong tay họ không có gì nữa.
Ánh sáng càng đến gần càng rõ dần.
Êvo thu hết sức lực bíu vào tảng đá. Mikơlốt cũng vậy. Cây nến của họ tắt phụt. Tảng đá nhúc nhích nhưng vẫn không chịu nhường bước.
Họ rụng rời nhìn tên lái ngựa cầm đuốc từ trong bóng tối nhô ra, và cạnh hắn tên aga hộ pháp, ria dài lòng thòng, quanh thắt lưng lấp lánh những thanh gươm cong.
Sau đó là những bàn tay vồ xuống người họ.
Tên aga đưa mắt nhìn cái công việc đang làm dở và nhanh chóng quyết định.
- Nhãi con, cầm lấy cây đuốc! Ở đây mày đã biết đường rồi. - Hắn bảo Mikơlốt.
Mikơlốt không hiểu lời nói, cậu chỉ biết chúng nó ấn cây đuốc vào tay cậu. Chỉ một loáng bọn lính giặc đã dỡ hết những tảng đá nặng. Con đường rộng bằng hai tầm người đã mở thông. Căn phòng ngầm chật ních lính địch.
- Mày sẽ dẫn chúng tao đi. - tên aga bảo Mikơlốt. - Còn tên kia, - hắn nhìn sang Êvô nói tiếp. - ở lại đây. Nếu mày dẫn chúng tao đi lạc hướng tao sẽ quẳng con đàn bà này vào giữa đám lính.
Một tên ionisa dịch lời hắn nói.
Êvo nhắm mắt lại.
Tên aga ngoái nhìn ra sau ra lệnh:
- Một đeli giữ lấy nó!
Rồi hắn xô Mikơlốt đi lên trước.
Một tên đeli đến đứng bên cạnh Êvo, những đứa khác tiếp tục đi. Nhưng vì tên aga không nói đích đứa nào phải giữ tù binh nên tên đeli liền chuyển ngay sang cho một tên đeli khác.
- Mày giữ lấy nó!
Tên này cũng đứng canh một lát, nhưng rồi hắn sực nhớ ra rằng những kẻ nào vào được thành trước tiên sẽ được phong quan to đến mãn kiếp, hắn liền định chuyển tù binh cho một tên mưxenlem.
- Tao không giữ đâu. - Tên mưxenlem trả lởi và tiếp tục bước đi.
Tên đeli cáu tiết uất người.
- Được, để tao giữ cho, mày cứ đi đi. - lúc đó một tên axap nhỏ bé đội mũ lông bảo tên đeli như vậy rồi tuốt gươm cong đến đứng bên người thiếu phụ.
Êvô dở sống dở chết tựa người vào vách. Những tên lính ăn mặc đủ các loại trang phục khác nhau, bẩn thỉu, nồng nặc mùi thuốc súng và mùi hành, hấp tấp bước qua bên cạnh nàng. Đứa nào đứa nấy gươm đều đã tuốt trần lăm lăm trong tay, mắt tất cả chúng nó đều đã cháy rực niềm hy vọng chiến thắng.
Thỉnh thoảng một tên lính cầm đuốc soi đường trước một tốp lính mới lại đi đến. Cũng có một đôi tốp chỉ dò dẫm trong bóng tối mà đi vào. Binh khí lách cách loảng xoảng trên mình chúng. Một tên địch vác trên vai một lá cờ lớn màu đỏ.
Chợt một tiếng rầm rầm xa xăm bỗng vẳng lên tựa hồ như sấm ran trong lòng đất. Con đường hầm, từ chỗ đổ vào phòng ngầm lui về phía sau một quãng dài đổ sập xuống. Tiếng rầm rầm kéo dài đến mấy phút. Đá lở, đá lăn phát ra tiếng động trầm trầm. Sau đó không một kẻ nào còn có thể vào thêm được nữa.
Từ hướng hầm sập có tiếng rên la và tiếng thở dốc vẳng đến. Về phía ngược chiều lại là tiếng lách cách khe khẽ của khối binh khí đang đi xa dần.
Tên lính canh người thiếu phụ bỗng nói bằng tiếng Hung:
- Cô đừng sợ!
Và y cầm lấy tay người thiếu phụ hỏi:
- Cô là ai?
Người thiếu phụ không thốt nổi nên lời.
- Cô là người Hung chứ?
Người thiếu phụ gật đầu.
- Cô hãy đi theo tôi. - Tên axap nói. - Ở đây con đường rẽ hai ngả. Nếu tôi mở được lối kia chúng ta sẽ thoát. Nhưng nếu chỗ này cũng bị sập nữa...
Êvo lại cảm thấy cái dòng sự sống luân chuyển trong mạch máu của mình.
- Bác là ai? - Nàng tỉnh người lại, hỏi.
- Tên tôi là Vosanhi. Tôi muốn làm điều tốt cho cô.
Anh ta lấy từ trong thắt lưng một thỏi thép và đá lửa rồi đánh lửa lên. Cái bùi nhùi mau chóng bắt lửa. Làn khói thơm hòa lẫn vào không khí ngột ngạt của đường hầm. Anh ta giơ bùi nhùi lại chỗ cây nến và thổi. Cây nến cháy bừng lên. Căn phòng lại tràn đầy ánh sáng.
- Cô hãy cầm lấy cây nến này.
Anh ta bước đến chỗ đất sụt phía bên trái và chỉ lắc một cái đã làm lung lay những hòn đá. Anh nhỏ người nhưng khỏe sức. Những hòn đá vuông to lần lượt lăn đi, hòn lăn ra ngoài, hòn lăn vào trong. Chẳng bao lâu đã có một lỗ hổng vừa đủ cho một người có thể chui qua. Anh cầm lấy cây nến trong tay người thiếu phụ và đi lên trước. Một bàn tay anh xòe ra che trước ngọn nến. Anh đi vội đến nỗi Êvo phải khó khăn lắm mới theo kịp.
Con đường chỗ đó đã quang hơn nhưng họ vẫn cứ còn phải đổ dốc.
Voxanhi bỗng nhiên quay người lại hỏi:
- Cô là ai? Có lẽ cô từ chỗ hoàng thượng đến chăng?
- Từ đấy đến. - Êvo trả lời, cứ như thể đang nói mê.
- Chúng tôi có nhận được viện binh không?
- Tôi không biết.
- Thôi, đằng nào cũng thế. Phải chi tôi biết được chúng ta đang ở đâu. Chúng ta phải đi gấp lên để vào trước bọn Thổ.
Con đường đã dốc lên. Ở hai bên đường đôi khi đã thấy một vài phòng ngách. Còn những hòn đá thì lại màu nâu và hơi ẩm lấp lánh như sương trên vách đá.
- Chúng ta vào đến trong thành rồi. - Voxanhi nói. - Chúng ta sẽ chui ra ở chỗ bể nước chứ không sai.
Một đống vữa trắng ngăn con đường lại, mùi vôi nồng nực phả đến chỗ họ.
Voxanhi chửi:
- Cha chả, purgatorium [Tiếng latinh: nơi rửa tội; nơi hóa kiếp].
- Cái ấy nghĩa là gì?
- Không có gì cả, nào. Tôi sẽ trèo lên trước. Cô cầm lấy cây nến này.
Anh nẳm áp bụng lên đống vữa, bò qua. Êvo thò tay đưa cây nến sang. Vosanhi đã đứng ở phía trong, anh cầm lấy cây nến và lầu bầu cái gì không rõ. Rồi anh giúp Êvo bò qua đống vữa.
Họ đứng trong một căn hầm rộng và trắng lóa. Từ phía trên, tiếng kinh cầu siêu vẳng xuống: Bai Inparadisum deducant te angeli[83] và từ cao hơn nữa, ánh sáng ban ngày le lói chiếu xuống.
Căn hầm đầy những quan tài trắng để chồng chất lên nhau, và khắp xung quanh là vôi pha loãng. Trên mép các quan tài, vôi khô đi thành những viền tua tua. Một bên vách căn hầm, cạnh đống quan tài, một xác chết mặt gầy gầy có ria mép, mặc áo, nhô ra khỏi bể nước vôi trong tư thế nghiêng nghiêng. Ánh sáng phía trên lọt xuống chiếu sáng khuôn mặt xác chết, một sợi dây lủng lẳng trên cổ.
Vosanhi kinh ngạc nhìn cái xác đó. Rồi anh ngoái nhìn lại.
Êvo ngã lăn trên mặt đất sau lưng anh, bất tỉnh nhân sự.
* * *
Trong thời gian đó, người thiếu niên phải đưa đường cho quân Thổ đi.
Thoạt đầu cậu sững sờ vì khiếp hãi, nhưng sau đó cậu nghĩ rằng nếu chui lên được vào trong thành cậu sẽ hô hoán lên. Ý nghĩ đó làm cậu cứng rắn lên. Không chút nao núng, cậu giơ đuốc khi đi trước tên aga, khi đi bên cạnh hắn.
Chẳng mấy chốc, cậu và chúng nó cũng đi ngược lên. Không gặp trở ngại gì, cậu và chúng đến chỗ một bức tường xây bằng thứ sa thạch giống như thứ đá ở khắp mọi nơi trong khu vực Eghe, lớp hồ xây tường tỏ ra người ta xây nó chưa lâu lắm.
- Phá nó ra! - Tên aga ra lệnh.
Lớp hồ chẳng mấy chốc đã rời rã dưới mũi thép của những thanh gươm cong và những ngọn giáo. Chúng nó chỉ hơi vất vả gỡ vài ba hòn đá đầu, những hòn sau dễ dàng xê dịch trước sức mạnh của những cánh tay rắn như thép. Tuy vậy, chúng nó vẫn phải làm hơn một tiếng đồng hồ. Khi kẽ hở đã lớn bằng bề ngang con người, tên aga ra lệnh cho Mikơlốt lách qua. Cậu và chúng nó lọt vào một nơi giống như một cái hầm rộng. Khắp nơi đầy những thùng là thùng. Chỉ có điều đặc biệt là chỗ đó có vẻ giống một cái phòng hơn là giống một cái hầm. Trên tường có cả một bức tranh lớn đã rách, ngay bên dưới bức tranh là một cái bồn tròn. Trên bức tranh còn có thể thấy hai cái đầu. Một cái có râu, nét mặt buồn rười rượi. Cái thứ hai là đầu một thiếu niên, cũng buồn, đang gục vào ngực người có râu. Trên đầu họ có vòng hào quang. Bên dưới đầu người thiếu niên bức tường trắng ló ra giữa những xơ vải rách.
- Binh khí cầm tay! - Tên aga khe khẽ truyền lệnh ra phía sau. - Im lặng tập hợp. Im lặng! Im lặng!... Khi nậy cửa không được phép hò hét! Nếu không thấy ai, chúng ta sẽ chờ những người đến sau! Những tên cầm cờ phải lập tức vọt lên mặt thành!
Thấy những tên đứng quanh gật đầu tuân lệnh, hắn lại tiếp:
- Chúng ta sẽ xung phong về phía cổng. Không có khoan hồng! Việc trước hết là tước khí giới bọn lính gác ở đó và mở cổng. Chúng mày đã hiểu chưa?
- Hiểu rồi ạ. - Tiếng đáp của bọn lính khe khẽ vang lên.
Tên aga bước lên trước và chợt trông thấy cái bồn to chứa đầy thuốc súng ở trước cánh cửa sắt. Hắn hoảng hốt khựng lại.
Chúng nó đang ở trong kho thuốc súng. Trong những cái thùng to kia, không phải rượu vang mà là thuốc súng.
Nhưng Mikơlốt cũng đã biết cậu và chúng nó đang ở đâu.
Đến bên cái bồn to, cậu quay ngoắt lại. Cậu nhìn suốt cái đám đông vũ trang đang chen chúc nhau. Mặt cậu tái đi, đượm vẻ thâm trầm. Cậu giơ cây đuốc đang cháy lên, dúi vào bồn thuốc súng.

9

Khi người ta dòng cái quan tài xuống. Vosanhi kêu to lên với họ:
- Hê, bà con ơi!
Nghe tiếng kêu, những khuôn mặt sửng sốt xuất hiện ở bên trên, quanh cửa miệng hầm mộ. Một cái đầu trần, cái thứ hai đội mũ sắt gỉ, có quai da mắc vào cằm.
Vosanhi lại kêu với lên:
- Tôi đây, Vosanhi đây! Kéo tôi lên với!
Anh bế Êvo lên tay rồi bước từ quan tài này sang quan tài khác mà đến chỗ mấy cái dây thừng. Anh buộc hai cái thừng vào nhau rồi ngồi vào. Người ta kéo anh lên.
Bên miệng hầm mộ không có ai khác ngoài hai giáo sĩ và hai nông dân dòng dây. Mấy người đó nhạc nhiên nhìn Êvo nằm như một xác chết trên đám cỏ, nơi Vosanhi đặt nàng xuống.
- Các bác lấy nước lại đây!
Vosanhi bảo hai nông dân. Trong nháy mắt đó một tháp lửa đỏ đòng đọc phụt lên từ dưới pháo đài nhà thờ, cột lửa phụt lên đến tận trời, những mảnh gỗ đen, những thanh xà, đá cục, gỗ súc, thân người cũng bay lẫn theo trong đó. Một tiếng nổ lay chuyển toà thành, vang to đến nỗi tất cả mọi người điếc đặc tai và ngã dúi dụi. Từ không trung giội xuống một cơn mưa đá, máu, binh khí và gỗ thanh, gỗ thỏi.
Một sự yên lặng như chết kéo dài đến hàng chục phút tiếp theo tiếng nổ đó. Yên lặng như chết không những ở trong thành mà cả ở ngoài thành, trong trại quân Thổ cũng thế.
Tất cả mọi người choáng váng, sững sờ.
Trời đã sập xuống chăng? Hay là đất vừa mở miệng để cho núi lửa tuôn lên thành địa ngục phủ ngập cả thế gian trong thác lửa khủng khiếp của ngày tận thế? Không một ai hiểu.
Mẹo giặc Thổ! - Đó là ý nghĩ độc nhất trong thành, trong tất cả mọi người.
Thành mất rồi! - Đó là cảm giác độc nhất đã làm hóa đá những trái tim vừa ngừng đập. Gergey lúc đó đang buộc những bình đầy chất giết người dưới chân pháo đài Sanđô. Luồng gió của vụ nổ quạt ra đã xô chàng vào những tấm lá chắn treo trên dãy đinh, phủ kín tường. Khi ngước mắt lên, chàng trông thấy cột lửa tỏa rộng dần như cái phễu đỏ rực cả bầu trời, trong cột lửa đó có một cái bánh xe cối xay đen ngòm, xung quanh cái bánh xe là người nằm ngửa, quay tròn, rớt xuống và cả một cái cẳng chân còn nguyên, không có đùi.
Chàng còn đủ tĩnh trí để nhảy vào dưới vòm pháo đài, nhưng trong phút đầu tiên đó, cả chàng nữa cũng ngây bộ mặt bần thần điếc đặc ra mà nhìn.
Trong giây lát tiếp sau đó, dân thành nhốn nháo cả lên. Dân thường chạy ngược chạy xuôi, quân lính vứt bỏ binh khí, phụ nữ kêu khóc, những con chiến mã giật đứt dây cương, dây hãm, điên cuồng chạy lồng lên khắp nơi.
Dưới kia, trại giặc Thổ vang tiếng hò la đắc thắng, những cái thang vượt thành giơ cao và hàng ngàn tên giặc tràn về phía thành.
- Tận số rồi! - Tiếng kêu vang lên khắp nơi trong thành.
Phụ nữ túm chặt lấy tay con cái họ, hoặc bế xốc vào lòng mà chạy nhớn nhác qua những hòn đá, qua những thanh xà đen nhẻm bồ hóng, qua những khúc gỗ đang cháy dở. Tất cả mọi người đều bỏ chạy nhớn nhác mà chẳng ai biết chạy đi đâu.
Từ không trung, tuyết đen dày đặc lả tả rơi xuống. Dày đặc đến nỗi cách nhau mươi bước đã không thể nhìn thấy gì nữa. Đó là muội than. Nó bay xuống phủ khắp thành, tựa hồ như muốn khoác áo tang lên tòa thành.
Những xác chết nát bét, những chân tay người hoen máu nằm lay lắt trên những hòn đá và những thanh gỗ rải rác khắp nơi.
Đôbô đầu trần, gò cương ngựa phi đến chỗ xảy ra vụ nổ và ra lệnh cho quân sĩ lên mặt thành.
- Không có gì xảy ra cả! - Ông quay sang hai bên thét to. - Chỉ có hai mươi bốn tấn thuốc súng trong kho đồ thánh đấy thôi!
Tất cả các sĩ quan đều nhảy lên ngựa và lấy lời Đôbô để trấn an dân thành ở khắp mọi nơi.
- Tất cả mọi người hãy trở về vị trí! Chỉ có hai mươi bốn tấn thuốc súng…
Mectsei nổi cáu dùng một cái cán thương gãy đánh những người lính bần thần và không tuân lệnh.
- Cầm lấy vũ khí, đồ chó Do Thái[84]!
Bản thân anh cũng nhảy xuống ngựa, giật lấy một cây thương cán to, lao lên mặt thành .
- Theo ta, bớ quân sĩ! Kẻ nào đáng mặt nam nhi hãy theo ta!
Một loạt đạn dài đón tiếp những tên Thổ đang leo thang. Những chiến sĩ ở quảng trường thành trong không có lệnh cũng chạy lên mặt thành, và chùy, thương, gươm, cuốc chim vung lên tới tấp.
Quân Thổ cũng xô đẩy nhau tiến thoái một cách hỗn độn, và ở bên ngoài thành sự bối rối cũng chẳng kém gì bên trong.
Chúng nó ồ ạt xông đến đông nhất ở chỗ xảy ra vụ nổ. Từ trên pháo đài của mình, trong cơn mưa muội than, Gergey trông thấy đoàn quân Thổ pha tạp đổ xô về phía pháo đài Nhà thờ.
- Anh ở đây nhé! - Chàng kêu to lên bảo Zoontoi, rồi tuốt gươm ra lao đến pháo đài Nhà thờ.
Dọc đường chàng chạy qua bên cạnh những cái vạc lớn. Đó là những cái vạc nấu xúp cho những người nghỉ phiên buổi trưa, đáng lẽ bây giờ họ đã vào ăn rồi. Gergey liếc mắt nhìn tám cái vạc lớn, món xúp thịt thái nhỏ đang bốc hơi nghi ngút, sôi lục bục. Chàng xỏ đòn qua quai một cái vạc rồi gọi người nông dân phụ trách việc chia khẩu phần:
- Bác cầm lấy! Những cái vạc kia cũng khiêng nốt ra pháo đài!
Khi họ lên đến pháo đài, chàng giội vạc xúp nóng bỏng lên bọn Thổ đang chen chúc leo thang.
* * *
Khi tỉnh lại, Vosanhi thấy người thiếu phụ vẫn nằm trên đất trước mặt mình. Hai người giáo sĩ đã để nguyên cả khăn lễ áo lễ như thế mà leo lên mặt thành, còn hai người nông dân chạy về hai ngả, chắc là đến chỗ các khẩu đại bác.
Vosanhi xốc Êvo lên vai như kiểu người ta vác một cái bị và đem vào soái phủ. Anh nghĩ nếu là sứ giả của triều đình thì ắt phải đưa vào chỗ đó. Rồi anh giao lại cho phu nhân Bolốc để bà vẩy nước cho cô ta tỉnh lại.
Chỉ sau khi đã đánh lui đợt công kích, người ta mới đến quan sát xem vụ nổ đã gây ra thiệt hại đến nhường nào.
Phía bên phải pháo đài Nhà thờ cùng với kho đồ thánh giờ đây là một cái hố toang hoác đen ngòm. Ở chỗ đó tường thành đã sụp đổ cùng với cả phần mới xây lại hồi đêm và hai cái cối xay vẫn làm việc ở đó giờ chỉ còn lại hai đống đổ nát. Sát tường kho đồ thánh, trước kia có ba chục con bò thịt đứng ở đó, giờ đây chúng nằm chết còng queo trong vũng tiết của chính chúng.
Người ta tìm thấy xác của tám người lính đang phiên nghỉ bị xé ra thành từng mảnh. Một trung úy cũng bị thiệt mạng: Nogiơ Pan, người mà Batôri Giorgiơ đã gửi đến cùng với ba chục tay súng từ thành Erođơt.
Trong số những người lính đứng gần đó cũng nhiều người bị thương. Một hòn đá từ chỗ nổ bắn ra đã phang cụt cánh tay ở sát bả vai của một dũng sĩ tên là Hôrơvát Gergey. Anh ta chết ngay hôm đó, ngay hôm đó người ta thả anh xuống hầm mộ.
Quân dân trong thành chỉ thực sự tỉnh táo lại khi thấy quân Thổ không đột nhập được vào thành.
- Thượng đế phù hộ chúng ta đây! - Đôbô vừa kêu lên vừa đưa tay vuốt tóc và ngước nhìn trời. - Bớ các dũng sĩ, hãy tin vào Thượng đế.
Chính ra món xúp đã đẩy lùi đợt công lích. Quân Thổ đã từng dạn dày với lửa, với lưỡi gươm, với ngọn thương mũi giáo, nhưng cái khoản nước xúp bỏng dẫy thì chúng không quen. Khi dòng nước xúp cay xé, nóng bỏng trút xuống cái thang đầu tiên, bọn lính giặc cứ như thể bị ai cầm chổi mà quét xuống. Đám quân chen lấn nhau dưới chân thang cũng nhảy tứ tung. Đứa ôm lấy tay, đứa sờ lên cổ, đứa bưng mặt. Bọn chúng đưa mộc lên che đầu, tháo chạy khỏi chân thành.
Quân dân trong thành thở phào.
Đôbô triệu những người thợ xay bột và thợ mộc đến rồi bảo:
- Các ngươi hãy mau thu nhặt lấy những bộ phận còn lại của hai cái cối xay. Từ hai cái các ngươi hãy làm lấy một cái cối nghiền thuốc súng. Còn thiếu gì nữa thì mấy tay thợ mộc đẽo ngay đi!
Rồi ông nhìn quanh:
- Viên quản lý đâu rồi?
Một hình người đen nhẻm từ góc tường tu viện bước ra, vừa thổi muội than bám lên bộ ria vừa phẩy phẩy bộ râu, đến đứng trước Đôbô. Đó là lão Sukan.
- Bác Sukan, - Đôbô bảo. - bác xuất diêm sinh, lưu huỳnh và than trong kho cho họ. Hễ cối nghiền làm xong, đám thợ xay bột sẽ nghiền thuốc súng.
Chỉ đến lúc đó ông mới nghĩ đến việc đi rửa ráy. Chính ông cũng đen nhẻm chẳng khác gì một người thợ thông khói.
Trong cửa soái phủ có một người đen nhẻm đang ngồi, anh ta ăn mặc pha kiểu Thổ, tay cầm một miếng bí nướng to và dùng thìa xúc ăn. Khi trông thấy Đôbô anh ta liền đứng dậy.
- Vosanhi, ngươi đấy ư?
- Thưa ngài, chính con đây ạ.
- Ngươi mang tin tức gì về đấy?
- Thưa ngài, con mang sứ giả của triều đình vào thành đấy ạ. Một phụ nữ.
Đôbô đi gần như chạy đến chỗ Bolốc phu nhân.
- Sứ giả đâu? - Ông hỏi ngay.
Phu nhân đang ngồi bên giường Petơ. Bà dùng lụa đỏ lót vào trong cái mũ sắt, cái mũ sắt của con trai bà.
- Sứ giả nào? - Bà ngạc nhiên hỏi lại. - Chỉ có một phụ nữ đến thôi.
- Thế người phụ nữ ấy đâu?
Bolốc phu nhân mở cửa vào phòng bên cạnh rồi lại khép cửa lại.
- Cô ấy đang ngủ. - Bà nói. - Chúng ta đừng làm kinh động. Cô ấy bị kiệt sức ghê lắm, tội nghiệp.
Đôbô mở cửa vào.
Êvo nằm trong giường, một cái giường sạch sẽ, trắng tinh. Chỉ có đầu nàng thò ra ngoài, xanh xao, ngập sâu đến một nửa vào trong gối, mái tóc xõa tung viền quanh khuôn mặt.
Đôbô sửng sốt nhìn khuôn mặt phụ nữ mà trong giấc ngủ cũng đượm màu gian khổ chết chóc. Ông không quen khuôn mặt ấy.
Ông quay ra và lại hỏi:
- Cô ấy không mang theo thư tín gì ư?
- Không.
- Cho tôi xem quần áo của cô ấy. Cô ấy là ai?
Bolốc phu nhân nhún vai, rồi khẩn khoản nhìn Đôbô:
- Cô ấy bảo chúng tôi đừng hỏi tên cô ấy. Cô ấy e rằng ngài sẽ không vui lòng gặp cô ấy.
- Cho tôi xem quần áo của cô ấy!
Bolốc phu nhân đem từ ngoài hành lang vào một bộ quần áo lính Thổ dính đầy vôi và bùn. Đôi ủng nhỏ nhắn màu vàng lưu huỳnh có đính cả cựa giày. Trong thắt lưng có hơn năm chục đồng tiền vàng của Hung, vỏ của một thanh gươm và hai cái gươm cong đã gãy.
- Phu nhân nắn hết các túi xem.
Trong một cái túi có giấy kêu sột soạt.
- Đây rồi đây. - Đôbô nói và dùng bàn tay đang đen nhẻm mà giở tờ giấy gập cẩn thận ra.
Đó là bản đồ tòa thành.
Trong các túi khác không còn gì nữa, ngoài một cái khăn tay với một đôi găng nhầu nát. Họ nắn cả các đường chỉ khâu trên quần áo, rồi tháo cả chỉ ra. Họ bóc tung cả đôi ủng. Không có gì hết.
- Không có ở chỗ cô ấy trong giường ư?
- Không có. - Bolốc phu nhân đáp, - Tôi đã đưa cả áo cho cô ấy nữa đấy. Ôi, cô ấy đã mệt đến quỵ cả người… Có lẽ lâu lắm cô ấy chưa được ngủ. Cô ấy đã đi vào bằng đường hầm, qua con đường xác.
Đôbô gọi Vosanhi vào.
- Ngươi bảo là sứ giả?
- Thì con đã hiểu ra như vậy.
- Thế cô ấy nói không rõ à?
- Thưa ngài, chúng con đã kịp nói chuyện gì đâu. Chúng con vào theo đường hầm gần như là chạy ấy.
- Đường hầm nào?
- Dạ đường hầm qua hầm mộ.
- Ở đó cũng có đường hầm cơ à?
- Thưa ngài, bây giờ thì không còn nữa ạ.
- Quân Thổ còn lương thực không?
- Thỉnh thoảng có một chục, vài chục xe bột đến, với lại một hai bầy cừu. Có Trời biết chúng nó kiếm được ở đâu! Gạo chúng nó đã hết từ lâu.
- Như thế nghĩa là chúng nó chưa đói?
- Cho tới nay thì chưa mấy khi.
- Ngươi còn biết gì về tình hình trong trại giặc?
- Con chỉ biết một điều nữa là chúng nó đào hào về phía đồi Ghế Vua.
- Đào hào vào thành à?
- Chắc thế, bởi vì bọn công binh làm.
- Tại sao ngươi không vào sớm hơn? Đáng lẽ ngươi đã phải đưa tin về việc chở cành cây.
- Dạ, không thể nào vào được ạ. Chúng nó cắt những tên ionisa khỏe mạnh nhất đến trước cổng thành, mà con thì không có quân phục ionisa. Nếu con muốn vượt qua chúng nó để vào thì sẽ làm chúng nghi ngay.
- Vậy bây giờ ngươi ở lại trong thành thôi. Hãy đến trình diện với ngài Bônemixo Gergey và báo cáo cho ngài biết chúng có đào đường ngầm ở phía nào. Sau đó ngươi quay về đây và túc trực quanh soái phủ.
Trong tay ông còn cầm tờ giấy vẽ bản đồ. Ông cho gọi Mectsei đến và bảo:
- Anh cầm lấy bản đồ này. Trên bản đồ có vẽ những đường hầm. Ta cũng không hề biết trên đời lại có một tấm bản đồ như thế này cơ đấy. Anh gọi ngay các thợ nề lại và sai họ nếu còn đường hầm nào thông thì xây tường bịt kín đi. Trước hết là phải xây tường chắn con đường ở dưới hầm mộ.
Ông còn giao cho hai võ đồng một vài việc nữa rồi mới đi tắm. Tắm xong ông lại mặc võ phục vào, đeo cả giáp chân, sau đó ông ngả mình lên tấm kỷ bọc da gấu.
Mỗi khi cơn buồn ngủ đến đè trĩu tâm trí ông, dù ban ngày hay ban đêm, ông cũng chỉ ngủ như vậy. Các chiến sĩ trong thành đồn nhau rằng ông không bao giờ ngủ.

10

Chỉ đến tối Đôbô mới nói chuyện được với Êvo.
Lúc đó Bônemixo phu nhân đã dậy. Nàng mặc bộ quần áo nội thất nhẹ nhàng. Chắc nàng đã lấy trong số y phục phụ nữ chiến lợi phẩm mà chồng nàng thu được trong lần xuất kích đầu tiên. Những bộ quần áo nữ ấy không thể bán hóa giá được, nên người ta cất vào một căn phòng bỏ trống trong soái phủ. Sau cuộc bao vây sẽ phát cho dần nghèo vẫn còn tốt chán.
Đôbô nói chuyện với nàng trong bữa cơm tối.
- Phu nhân là ai? - Đó là lời đầu tiên ông nói với nàng, bởi ông thấy ngay nàng không phải là một người đàn bà bình thường.
Võ đồng Bolajo đứng sau lưng Đôbô, Bolốc phu nhân cũng đang bận rộn ngay trong phòng, lúc đó bà đặt bình rượu vang đỏ bên cạnh món bít tết cừu, rồi châm thêm một cây nến nữa bên cạnh hai cây bạch lạp.
- Tôi không hiểu là tôi có quyền nói trước mặt người khác ngoài hai chúng ta hay không. - Êvo đáp. - Không phải vì Bolốc phu nhân đâu, mà vì tôi không biết ngài đại úy trấn thủ có cho phép tôi được công khai xưng tên hay không.
Theo hiệu tay của Đôbô, người võ đồng rút lui ra. Bolốc phu nhân cũng rời khỏi căn phòng.
Êvo nói:
- Tôi là vợ của Bônemixo Gergey.
Con dao ăn rơi khỏi tay Đôbô.
Với vẻ nhìn lo lắng, Êvo nói tiếp:
- Tôi biết rằng ở một chỗ như nơi đây, trong một công việc như thế này mà có đàn bà bên cạnh là không tốt. Nhưng xin ngài hãy tin tưởng, tôi sẽ không nài nỉ chồng tôi rời khỏi cuộc chiến đâu.
- Mời phu nhân ngồi xuống. - Đôbô đáp.-Tôi xin phép được vừa ăn vừa tiếp phu nhân. Xin mời phu nhân cùng ăn với tôi.
Nhưng đó chỉ là những lời lạnh lùng.
- Xin cám ơn. - Êvo trả lời và bải hoải ngồi xuống.
Họ im lặng đến mấy phút, sau đó Đôbô mới lên tiếng:
- Gergey biết phu nhân ở đây rồi ư?
- Chưa. Và chắc như vậy là tốt.
- Hà, phu nhân thân mến, - nghe vậy Đôbô nói với cái nhìn giờ đây đã hiền từ hơn. - phu nhân đã giấu tên mình đi là rất đúng. Gergey không được phép biết phu nhân có mặt ở đây. Trong vấn đề này tôi rất kiên quyết. Cuộc vây hãm không còn có thể kéo dài lâu nữa: đoàn quân cứu viện nhất định phải đến. Vì sao phu nhân lại đến đây?
Êvo ứa nước mắt nói:
- Vì con tôi.
- Thế ra chúng nó đã cướp đi thật ư?
- Vâng.
- Và cái nhẫn?
- Nó đây. - Êvo vừa đáp vừa lôi cái dây đeo ở cổ ra.
Đôbô liếc nhìn cái nhẫn. Ông uống một hớp rượu, rồi đứng dậy.
- Phu nhân lấy gì đảm bảo sẽ không nói chuyện với Gergey?
- Thưa đại úy, tôi phục tùng tất cả mọi mệnh lệnh của ngài. Tôi biết rằng...
- Phu nhân có hiểu tại sao không được phép nói chuyện với Gergey không?
- Tôi có nghĩ đến.
- Gergey là trí tuệ của thành. Không được phép thu hút suy nghĩ của cậu ấy khỏi công việc bảo vệ thành một phút nào cả. Phu nhân còn biết những ai ở đây nữa?
- Mectsei, Phuyghétđi, Zôntoi. Thầy tôi cũng ở đây, bác Balin nữa, ông giáo sĩ của chúng tôi ấy mà.
- Phu nhân không được phép ra khỏi mấy căn phòng của Bolốc phu nhân. Phu nhân hãy lấy danh dự mà hứa đi!
- Tôi xin hứa.
- Phu nhân hãy thề đi!
- Tôi xin thề!
- Còn tôi xin hứa sẽ làm tất cả để tìm bằng được cậu con trai của phu nhân. Phu nhân đưa cái nhẫn đây cho tôi.
Êvo đưa nhẫn cho ông.
Đôbô thắt quai mũ chiến, rồi chìa tay cho người phụ nữ trước khi đi găng.
- Xin phu nhân thứ lỗi cho về việc tôi đã thô bạo như vậy. Nhưng không thể làm cách nào khác được. Phu nhân hãy coi mấy căn phòng và đồ đạc để lại đây của vợ tôi như của mình.
- Còn một điều nữa. - Êvo nói - Tôi sẽ nói gì với Bolốc phu nhân: tôi là ai?
- Phu nhân muốn nói gì thì nói, miễn là Gergey đừng biết.
- Anh ấy sẽ không biết được đâu.
Đôbô chào nàng, bước ra cửa, gọi người dắt ngựa của ông lại.
Về tối trời nổi gió mạnh. Gió thổi bạt tro và muội than ra khỏi thành.
Đôbô gọi đám thợ nề và nông dân đến những chỗ sụt lở do vụ nổ gây ra, và bảo họ:
- Các ngươi nhặt nhạnh những hòn đá nằm ngổn ngang kia lại! Phải xây lại cái tường, mà nhớ đứng làm sao để tránh được đạn thì đứng.
Đoạn ông đi lên chỗ khẩu đại bác Búpbê, ngồi lên khẩu súng và dùng thiếc viết lên một mẩu giấy như sau:

“Bêi Đạo sĩ, hãy nghe đây! Hễ ngươi tìm thấy con trai của Bônemixo, hãy dùng cờ hiệu xanh đỏ báo tin cho ta biết ở chỗ cây dương bên bờ suối về phía bắc thành. Dấu nhẫn của ngươi ta đóng trên bức thư này. Ngươi có thể cho phái viên cầm cờ trắng dẫn đứa trẻ đến. Không những ta chỉ trả lại ngươi cái nhẫn, mà còn cả một đứa bé Thổ ở chỗ chúng ta nữa”.

Ông cho gọi Mectsei đến.
Ông lấy tay che những dòng chữ rồi bảo anh:
- Ta yêu cầu cậu ký tên vào đây.
Mectsei ký tên, không hỏi han gì cả.
Bolajơ đứng sẵn bên cạnh với con dấu và cây nến. Đôbô ngồi trên khẩu đại bác cúi xuống, giỏ sáp vào tờ giấy viết thư, Mectsei in dấu nhẫn của mình lên sáp, sau đó cũng chẳng hỏi giấy gửi cho ai, làm gì - anh vội vã đi làm việc của mình.
Đôbô gập bức thư lại, áp mặt cái nhẫn Thổ lên dấu niêm bên ngoài.
Nửa vầng trăng và những ngôi sao in rõ ràng trên dấu sáp.
Ông sai gọi Vosanhi đến, hiền từ bảo anh:
- Anh bạn Vosanhi! Bây giờ ta đã biết tại sao anh lại không vào thành. Anh vào làm gì cơ chứ, khi biết rằng chúng ta lại cứ luôn luôn phái anh ra. Anh có biết tên bêi Đạo sỹ không?
- Như thể biết cái ống giày của con vậy. - Vosanhi vui vẻ trả lời.
- Vậy ta có bức thư này đây. Anh lén bỏ nó vào lều, hoặc vào quần áo, hoặc vào cốc của tên bêi ấy: tóm lại có cách nào thì anh chuyển đến cho hắn bằng cách ấy.
- Thưa ngài, nhất định được.
- Sau đó anh đến Xorơvotkơ và chờ Vosơ Mikơlốt ở đó. Bây giờ anh ta phải về đến nơi rồi.
- Rồi chúng con làm sao mà vào thành được?
- Về phía bên phải cổng thành đêm nào cũng sẽ có dây dòng xuống. Anh hãy rờ lấy và giật dây. Nghe tiếng chuông, quân ta sẽ nhìn xuống và cho các anh vào.
Vosanhi bọc thư vào khăn, giấu vào ngực.

Trên pháo đài Sanđô đạn đồm độp rơi dày đặc. Đôbô trông thấy có sự bối rối ở đó. Quân lính lộn xộn nhảy ra khỏi pháo đài.
Bằng cách nào đó, quân Thổ đã biết được có một cửa hẹp nối liền giữa tường thành ngoài và thành trong (Lối đi giữa hai tường thành cũng giống cái chốt cài qua cái trâm gài đầu). Hai cái thang dài đặt châu vào nhau trên núi thành hình chữ V ngược. Một tên Thổ thoăn thoắt trèo lên. Hắn trông thấy các chiến sĩ ra đi ra đi vào qua cái cửa hẹp đó. Chúng lập tức kéo đại bác lên núi, bắn rất mạnh vào chỗ cửa đó.
Chỉ non một giờ, quân Hung đã bị thương hàng đống ở chỗ cửa, có năm người chết gục.
- Đưa gỗ lên! - Đôbô thét. - Dựng con chạch cao hơn nữa!
Nhưng họ dựng ván che lên cũng vô ích. Những khẩu đại bác Thổ đã nằm ở điểm cao, có thể đổ đạn vào cái cửa hẹp qua cả dãy ván che, qua cả tường con chạch.
- Vụ này tốn của ta một tạ thuốc súng đây! - Đôbô cảu rảu. - Mà lại đúng vào lúc này!
Gergey từ tháp đằng góc chạy đến.
- Thưa đại úy, không thể để cái cửa như thế này được! Chúng nó sẽ bắn chết hết những chiến sĩ cừ nhất của tôi.
- Chúng ta sẽ giải quyết. - Đôbô đáp rồi nói tiếp với giọng khe khẽ. - Cần phải chờ cho đến lúc bắt đầu nghiền được thuốc súng.
Đạn rơi xuống lối cửa hẹp như mưa rào.
- Xin đại úy cho phép chúng tôi phá cái tường hoặc đào lối đi xuyên dưới đất.
- Gergey, anh thì không cần phải xin phép nữa. Anh cứ việc làm!
Gergey sai đào một lối đi xuyên dưới chân tường ở cạnh cái cửa hẹp để quân lính ra vào. Còn quân Thổ vẫn tiếp tục đổ đạn xuống cánh cửa trống, dưới bậc cửa đạn nhiều đến nỗi có thể quét được.
Đến tối quân Thổ lại chở đất, chuyển cành cây. Trăng lờ mờ soi sáng cho chúng. Từ trên thành thỉnh thoảng người ta vẫn bắn vào chúng.
- Đừng bắn nữa! - Đôbô hạ lệnh.
Thấy trong thành im lặng, tiếng xôn xao, lục đục của bọn Thổ mỗi lúc một mạnh lên. Mỗi lúc chúng một thêm đông.
Đôbô phái tất cả lính bắn súng đến chỗ tường vỡ. Sau một hàng nằm đến một hàng quỳ, sau một hàng quỳ là một hàng đứng tựa vào tường con chạch nhô ra ngoài.
Những ngọn đèn tối đi.
Quân Thổ càng thêm đông và càng sơ hở. Những ngọn đèn xách tay nho nhỏ chiếu sáng cho chúng làm việc.
Khi toán quân giặc mỗi lúc một leo lên cao để lộ lớp tuyban nhấp nhô trước chỗ tường vỡ, Đôbô hô bắn.
Tiếng kêu thét và cảnh hỗn loạn tiếp sau tiếng nổ. Những tốp giặc bỏ chạy cuống cuồng đã chứng minh rằng loạt đạn không nổ một cách vô ích, một vài tên tưphensi[85] nổ súng bắn trả nhưng không trúng ai cả. Quân địch chỉ dám tiếp tục công việc ở chỗ sát chân thành một cách thận trọng, lúc nào cũng lo che mình.

11

Cái cối nghiền chạy ầm ù suốt ngày đêm. Thuốc súng mới tinh, đen nhánh xối xả tuôn ra máng. Niềm tin của quân dân trong thành đã trở lại.
Quân Thổ đắp công sự mới và trời vừa hơi rạng, ba khẩu zobuzan đã nổ ran ở chỗ nhà Giám mục. Mục tiêu mới của chúng là cái tháp phía tây bắc. Từ phía đó mà bắt đầu đợt công kích thì gay go thật đấy, nhưng có lẽ chúng muốn thu hút bớt lực lượng từ các phía khác của thành.
Những viên đạn đại bác to, đen chùi chũi như những con diều hâu bay lên tháp.
Nhà ở của binh sĩ nằm trong hướng đạn. Đó là một dãy nhà thấp, dựa lưng vào tường thành. Những viên đạn phá tường không nhận đủ thuốc súng đều rơi xuống dãy nhà đó.
Sườn phía tây của soái phủ bắt đầu sụp đổ.
Bolốc phu nhân hoảng hồn nhào vào căn phòng mà bà dọn giường cho Đôbô.
Viên đại úy đang ngồi bên cạnh giường, mình mặc nguyên áo giáp như lúc ở ngoài, chỉ không đội mũ chiến. Hai tay đặt trên hai tay ghế, ông đang ngủ ngon lành. Trước mặt ông, cây nến vẫn cháy. Trên đầu ông, một bức tranh sơn dầu đã ngả màu nâu. Hình Thánh vương Isơtơvan đang trao vương miện cho Maria. Người ta đã đem bức tranh từ cái nhà thờ bị cải biến thành pháo đài vào phòng này, và nó đã phai màu đến nỗi mắt của những nhân vật trong tranh chỉ còn như những chấm nâu nâu.
Đôbô vẫn thường ngủ ở đó.
Hôm đó chỉ gần sáng ông mới về phòng. Có lẽ ông chờ đợt công kích bất thình lình vào lúc bình minh cho nên mới không cởi bỏ áo giáp.
Quân địch bắn vào chái nhà chỗ ông ngủ. Những viên đạn làm rung chuyển ngôi nhà đến nỗi các thanh xà kêu răng rắc. Một bức tường trong phòng nứt toác, rộng đến bốn ngón tay. Qua kẽ nứt đó có thể nhìn thấy tận lớp tường con chạch.
- Ngài đại úy! - Bolốc phu nhân rú lên.
Một viên đạn mới bắn đến làm vữa trên tường rơi xuống đầu bà. Bà nhảy đến chỗ viên đại úy, lay mạnh.
- Ồ, cái gì thế? - Đôbô sực tỉnh.
- Chúng nó bắn soái phủ! Dậy đi ngài, hãy vì lòng thương của Chúa!
Đôbô nhìn quanh, Ông trông thấy chỗ tường nứt, bèn đứng dậy.
- Phu nhân bảo đưa giường của tôi xuống một phòng nào đó ở tầng dưới, phòng nào ở gần cửa ấy. Tôi sẽ trở lại ngay đấy.
Câu “tôi trở lại ngay đấy” này là một câu nói không bao giờ thực hiện của Đôbô, khiến Bolốc phu nhân ngay giữa lúc nguy hiểm này vẫn phải mỉm cười.
- Thì ít nhất ngài hãy chờ tôi nấu một ít xúp rượu vang đã.
- Món ấy tốt đấy. Xin cám ơn phu nhân. - Đôbô đáp, tay phủi bụi vữa trên mái tóc. - Bụng tôi nó hơi nê. Cho tôi xin cả vài hạt đinh hương vào đấy nữa.
- Tôi gửi ra chỗ nào đây?
- Rồi tôi sẽ tạt về ăn.
- Ngài chẳng tạt về đâu, đại úy ạ. Tôi sẽ sai con trai tôi mang ra vậy.
Một con ngựa yên cương sẵn sàng lúc nào cũng đứng chờ trước cửa, bên cạnh nó khi người võ đồng này, khi người võ đồng kia túc trực cùng với con ngựa nhỏ của mình. Đôbô lên ngựa, đi quanh khắp thành.
Một phần binh sĩ lếch thếch ùa ra khỏi những dãy nhà thấp đứng bên phía thành phố. Vũ khí và áo khoác vắt vai hoặc cắp dưới nách, một vài người còn quấn cả quần quanh cổ. Tiếng chửi rủa nổi lên lao xao như mưa đá.
- Đi vào chỗ tu viện ấy. - Đôbô bảo họ. - Cái nhà ấy không bị bắn.
Mectsei cùng một toán lính khác vội vã qua bãi chợ. Các chiến sĩ vác xẻng, cuốc, cuốc chim. Mectsei xách một khẩu súng hỏa mai.
Trông thấy Đôbô anh liền giơ khẩu súng lên vẫy về phía ông. Đôbô thúc ngựa vọt đến chỗ anh.
- Chúng nó đào hào từ phía đồi Ghế Vua. - Mectsei báo cáo. - Chúng tôi đi đánh bọn chúng đây.
- Tốt. - Đôbô đáp. - Anh cứ việc dẫn họ đi mà làm. Bảo cách cho họ đào rồi anh đến tìm tôi ngay nhé.
Ông đi sang pháo đài Bôiki. Có năm người đang ngồi dưới chân pháo đài, cạnh chuồng bò. Đầu họ đội mũ sắt, mặt đỏ bừng vì ánh lửa. Họ đang bện những cuộn con cúi rơm. Cạnh họ là những cái vạc nấu hắc ín.
Ông gặp Gergey trên pháo đài, chàng đang cúi mình trên mặt trống quan sát những hạt hồ tiêu. Trông thấy Đôbô, chàng đứng thẳng dậy.
- Bọn Thổ đang đào hầm ngầm. Hôm nay chúng tôi đã dò được một ngách. Mectsei đã đích thân đi diệt bọn chúng nó.
- Ta biết rồi. - Đôbô đáp.
- Mấy cái mặt trống bị dãn cả rồi, không thể dùng được nữa, nhưng mặt nước lay động đã mách chỗ bọn chúng nó.
Đôbô đến đứng bên lớp tường con chạch, nhòm qua kẽ hở ra ngoài.
Ở những chỗ tường thành bị vỡ, đống bổi và cành cây đã cao lên chừng một sải tay. Vừa lúc đó bọn đạo sĩ dùng hai cái thương khiêng xác một tên akinji ra khỏi đống cành cây. Đó là tên giặc chết trong loạt đạn bắn từ hồi đêm.
Đối diện với tường thành, ở khắp nơi đã thấy có nhiều hào và hàng rào gỗ. Bọn Thổ cũng tìm cách che mình.
- Lại có một cái gì đang sửa soạn đây. - Đôbô nói. - Không thấy bọn giám binh và bọn ionisa thò mặt ra ở đâu cả.
Lúc đó Mectsei vừa lên đến pháo đài, anh báo cáo ngắn gọn:
- Họ đang đào.
Nét mặt anh để lộ đêm vừa rồi anh không ngủ chút nào. Cặp mắt đỏ ngầu, da mặt tái nhợt, tóc rối xù. Vai áo đônman của anh dính vôi và bùn. Chắc hẳn anh đã giúp đám thợ nề khiêng gỗ.
- Anh bạn đại úy đồng nhiệm. - Đôbô nói với giọng cứng nhắc, có vẻ trách móc, - anh đã lại muốn đích thân chui xuống đường hầm rồi! Đi ngủ ngay đi!
Lúc đó võ đồng Bolajơ nhô lên khỏi bậc cầu thang, tay bưng một cái khay bạc, trên khay là một cái cốc bạc. Cái cốc bốc hơi trắng xóa trong khí lạnh ban mai.
Mectsei chào rồi bước đi.
Đôbô gọi với theo bằng cái giọng đã hiền dịu:
- Pisơto!
Mectsei quay lại.
- Cậu em thân mến, cầm lấy cái cốc ở khay Bolajơ mà uống đi.

12

Đêm sau người ta mới biết bọn ionisa hôm ấy đã làm gì.
Thì ra bọn chúng đóng những chiến cụ như cái phương du che cho các cha cố cầm minh thánh đi bên dưới trong những dịp lễ rước. Chỉ khác cái là đằng này mái làm bằng gỗ chắc chắn, còn bốn cái cột là bốn cây thương.
Từ hôm đó trở đi, đêm đêm bọn chúng chở đất và cành cây dưới những cái mái di động như thế.
Hồi ấy người ta gọi loại chiến cụ đó là động ốc.
Buổi chiều các viên chỉ huy trưởng ngủ một giấc dài, hết cả mệt mỏi. Phần nhiều họ ngủ vào buổi chiều vì chỉ cần đề phòng các đợt công kích vào lúc ban mai, và nội trong buổi sáng đã có thể biết rõ ý định trong ngày của bọn Thổ. Đến đêm họ lại thức, và lúc đó một nửa số binh sĩ được đi ngủ. Đôbô đã thỏa thuận với Mectsei là không dành thời giờ một cách thường xuyên cho việc ngủ, mà khi nào một người nghỉ xong, người kia sẽ lập tức về nghỉ.
Chắc chắn là không một người nào ngủ cẩn thận cả, nếu có nghỉ, họ chỉ ngủ ngồi đâu đó trong một góc pháo đài, trên một ụ đất độ một tiếng đồng hồ, buổi chiều đôi khi họ ngủ được hai tiếng.
Việc bọn Thổ náu mình dưới rất nhiều cái mái di động làm các tay súng điên tiết. Còn bao nhiêu gỗ ván nguyên lành trong các nhà, các sân ở thành phố, bọn Thổ đều thu nhặt tất. Chúng nó đã thấy chỉ còn lại mỗi một cách là phải đắp tường thôi, ngoài ra chúng không thể thành công bằng cách nào khác nữa.
Ở chỗ pháo đài Sanđô, bọn chúng đã đắp tường cao đến ngang chỗ tường thành bị đại bác bắn vỡ.
Những cái mái di động che chở bọn Thổ, những đống cành cây che những cái đầu nhô lên. Xung quanh chỗ tường vỡ lúc nào cũng có hai chục tay súng túc trực cùng một khẩu cối đã nạp đạn sẵn. Trên mặt tường cũng có lính vũ trang canh phòng. Nhưng tất cả đều chẳng ăn thua gì: bóng tối cũng là vật che chở cho bọn Thổ trong công việc ban đêm.
Bản thân Gergey cũng túc trực bên cạnh chỗ tường vỡ nhiều nhất.
Bỗng nhiên khoảng hai chục tên Thổ trèo ra khỏi chỗ nấp. Đầu đứa nào cũng đội một bó dây nho khô.
Gergey từ trên mặt thành gọi xuống:
- Gátparit!
- Dạ. - Tiếng một người đàn ông đáp lại.
- Các ngươi không thấy ngứa tay à?
- Sao lại không ạ, tổ sư chúng nó chứ! Thưa thượng úy, cho chúng con xông ra đánh một chút!
- Xông ra đánh chết bọn dị giáo ấy đi! Chỉ cần chú ý hễ đâm xong, các ngươi phải lập tức nhảy vào ngay.
- Bẩm thượng úy, con hiểu rồi ạ.
Đám thợ nề đang làm việc ở chỗ tường vỡ, nhưng khoảng hở vẫn còn rộng đến cả một cỗ xe hàng cũng có thể đi lọt qua.
Được lời Gergey, Gátparit nhảy vụt ra, đâm vào ngực một tên Thổ giắt gươm cong đầy người, rồi nhảy trở vào.
Tên Thổ ngã gục. Những tên khác vẫn tiếp tục chuyển dây nho khô.
Trông thấy hành động anh hùng của Gátparit, ba người nữa nhảy ra khỏi khoảng hở. Họ dùng giáo đâm ngã ba tên Thổ rồi lại nhảy trở vào.
Quân Thổ chửi rủa, bối rối mất một thoáng. Nhưng những đứa khác từ bên dưới đã chen lên. Lần này đã có mười người lao vút ra khoảng hở, Người dùng gươm, người dùng giáo đâm, chém bọn vác bổi. Sau đó họ quay lại và lần lượt nhảy vào.
Bọn Thổ ném những bó bổi đi, cả ba chục tên xông vào đánh ba người còn lại sau cùng. Gergey từ trên mặt thành ra lệnh nổ súng. Bọn Thổ ngã lộn nhào chồng lên nhau. Nhưng một người thập trưởng tên là Kamnan khi quay về cũng mang trên ngực một nhát giáo.
- Các người cũng bắn đi! - Gergey hô xuống phía dưới.
Từ những lỗ châu mai ở phía dưới, cái chết lóe ra phóng vào người những tên Thổ khác. Dưới ánh sáng lóe lên lần này người ta trông thấy độ khoảng bốn chục tên Thổ nằm lăn trong máu trước khoảng tường vỡ. Những tên Thổ còn lại tập họp thành một toán mới, nắm chắc gươm, giáo trong tay, chúng xông vào chỗ tường vỡ.
- Bắn! - Gergey hô lên với những tay súng đứng trên mặt thành.
Lúc đó Đôbô vừa đến.
Kanman nằm ngửa trong vũng máu của chính mình trước chỗ tường vỡ. Một tên ionisa thọc giáo vào khoảng hở, không thấy chạm ai cả, hắn bèn thét lên một tiếng rồi nhảy vào.
Đôbô đứng vừa sát bên cạnh khoảng hở. Với nắm tay trần, ông tống cho hắn một quả vào mũi vọt cả máu ra. Cũng trong nháy mắt đó, Gátparít đâm giáo vào người hắn.
Những tên Thổ khác không dám vào theo. Chúng quay lưng lại, nhảy tán loạn trong đống bổi.
- Ném con chó này ra ngoài! - Đôbô bảo đám thợ nề.
Rồi ông đi lên mặt thành.
- Chúng nó bỏ dở việc đào đường ngầm rồi. - Ông nói với Gergey.
- Tôi đã nghĩ như vậy. - Gergey đáp.
- Anh có gì báo cáo không?
- Xin mời đại úy xem những cái vò của chúng tôi.
Bên cây đèn dầu treo trên vách pháo đài có năm chiến sĩ đang làm việc, gã xigan cũng ở trong số đó. Mấy trăm cái vò sành xếp ngổn ngang bên cạnh. Họ đang nạp những cái vò đó. Một người bỏ một vốc thuốc súng vào vò. Người thứ hai tọng giẻ và đá lên trên thuốc súng. Người thứ ba lại bỏ thêm một vốc thuốc súng nữa vào vò. Người thứ tư ngồi bên cạnh một đống tướng những mẩu nòng súng gỉ đã chặt ra từng đoạn bằng gang tay một và đang nạp thuốc súng vào những mẩu nòng ấy. Anh ta dùng que gỗ nện chặt hai đầu. Người thứ năm dùng dây thép buộc chặt hai cái nút vào hai đầu ống. Gã xigan lấy bùn trét bên ngoài.
- Chúng tôi đã làm xong ba trăm vò, - Gergey báo cáo.
- Hãy cho cả lưu huỳnh vào đấy nữa. Cho những cục to to vào. - Đôbô nói.
- Món ấy chắc tốt lắm đấy. - Gergey đáp.
Võ đồng Bolajơ chạy đi lấy lưu huỳnh.
Đôbô có vẻ hài lòng đứng xem một chốc, sau đó ông nhìn quanh và hỏi:
- Gátparít có ở đây không?
- Con đây ạ. - Người chiến sĩ từ phía dưới đáp vọng lên.
- Lên đây.
Người chiến sĩ nhảy lên, dập gót giày vào nhau trước mặt Đôbô.
- Ngươi là người đầu tiên đã nhảy ra khỏi khoảng hở đấy à?
- Thưa đại úy, con ạ.
- Từ hôm nay trở đi ngươi là thập trưởng!
* * *
Vì những cái mái di động đã che đỡ cho giặc rất tốt trong đêm đầu, cho nên hôm sau quân dân trong thành trông thấy một dải đất cao chạy từ nhà giám mục Hêxey đến tường thành phía tây nam, tức là chỗ cổng thành hiện nay.
Ở chỗ giáp tường thành, chẳng bao lâu đã thấy những thùng gỗ lớn được đẩy lên khỏi hào, hàng ngàn và hàng ngàn bàn tay chuyển những cái thùng rỗng đến, xếp chồng lên nhau.
Quân Thổ đã phá cửa những hầm rượu trong thành phố: chúng tháo rượu vang ra khỏi các thùng rồi chuyển thùng và những cái thảng đạp nho[86] đến dưới chân thành. Một bức tường lớn bằng thùng gỗ được dựng lên ở mạn đó. Những cái thùng chuyền từ tay này sang tay kia, rồi được dựng đứng lên tất cả. Một quả núi bằng thùng đã mọc lên ngay trong hôm đó. Chỗ dựa của nó là tường thành. Ở mặt ngoài xếp thành bực.
Từ trong thành, suốt ngày người ta bắn vào quân giặc, nhưng thùng gỗ cũng che chở cho chúng. Chúng làm việc khẩn trương.
Cả ban đêm cũng vẫn vang vọng tiếng lăn thùng rượu, thảng đạp nho.
Phần lớn các tay súng giờ đây đã chuyển sang mạn đó. Những khẩu cối cũng chồm chỗm trên mặt thành ở chỗ ấy. Một vài khẩu tu pháo từ bên mạn sườn chĩa vào quả núi thùng.
- Bọn Thổ điên thật. - Phuyghétđi nói.
Nhưng chúng không điên đâu. Kìa, vừa sớm tinh sương, một vài cái mái di động to, rộng đã rục rịch bò ra dưới chân núi thùng. Tám cây thương đỡ một cái động ốc. Hai mươi - ba mươi tên Thổ cũng đứng vừa dưới một cái động ốc như thế.
- Lửa đâu, nước đâu! - Đôbô hạ lệnh. - Mang rơm, mỏ neo, câu liêm, cuốc chim lại đây, nhiều vào!
Bởi vì ông đã trông thấy không những chỉ sự chuyển động của những cái động óc mà cả những cây đuốc bọn Thổ đang đốt lên ở dưới hào nữa.
Hôm qua bọn chúng đã bắn cả pháo đài Bebec và ở phía đó bọn chúng xếp bao tải đất làm thành bậc.
Đôbô cũng đến cả chỗ đó. Ông thấy Gergey đã sẵn sàng với tất cả những thứ mỏ neo, câu liêm buộc vào đầu xích sắt và các loại cuốc chim. Trên pháo đài có một đống lửa. Mỡ bò đang chảy trong những cái vạc bên cạnh đống lửa. Những cuộn con củi rơm tẩm hắc ín xếp thành đống đen nhánh lấp loáng quanh đống lửa. Ở đây bọn Thổ cũng nấp dưới những cái mái di động lớn mà tiến đánh thành.
Mectsei đang sai hàn khấu ở chỗ Cổng Cũ. Người ta chờ đợi công kích ở cả mạn đó nữa. Mối nguy hiểm đe dọa hơn cả là ở góc thành tây nam, nơi Phuyghétđi trấn giữ, Đôbô chụp mũ chiến lên đầu rồi cùng võ đồng Bolajơ phóng ngựa lại chỗ đó.
Lúc bấy giờ dãy tường con chạch đã bắt đầu cháy.
Lần này quân Thổ không hò hét. Chúng thận trọng nấp dưới những cái mái di động bắn vào quân lính trên thành.
Từ phía trên người ta không thể bắn vào chúng được. Người ta bắn trả lại chúng từ chân tường con chạch đang cháy, và dùng cuốc chim khoét lỗ giữa kẻ thành đá để có thể qua những kẽ đó mà bắn vào bên dưới những cái động ốc.
- Ném rơm xuống đầu chúng nó! - Đôbô thét lên lanh lảnh.
Một mặt người ta tưới nước lên dãy tường con chạch đang cháy ở trên, mặt khác người ta ném những cuộn con củi tẩm dầu và mỡ đã châm lửa xuống mái những cái động ốc.
Cái động ốc nào lên tới mặt thành, người ta dùng cuốc chim lật nó lên hoặc hất nó đi. Cái nào đã bén lửa, người ta cứ để mặc nó cho số phận. Chỉ chốc lát, bọn Thổ đã quẳng nó đi, vừa kêu la vừa chạy trốn ra khỏi trận mưa lửa. Những thùng rượu rùng mình dưới chân chúng, một vài đứa đã cõng lửa hừng hực trên lưng.
- Rơm nữa vào, chỉ rơm thôi! - Đôbô thét.
Những vòng rơm tẩm dầu lại bay như những mảnh lửa rừng rực xuống mái những cái động ốc. Những tên cầm thương vứt bỏ chiến cụ, cắm đầu cắm cổ lao xuống để tránh cơn mưa đạn.
Nhưng đó chỉ là sự ngưng nghỉ tạm thời thôi. Khi những tên tấn công đợt đầu tiên đã bị đánh lui, những khẩu đại bác Thổ lại bắt đầu bắn phá dãy tường con chạch.
Đôbô hô quân nằm sấp xuống để tránh đạn. Đại bác Thổ đã bắn gãy được hai trong số những cái cọc chống tường con chạch. Dãy tường con chạch rùng mình, kêu răng rắc, ngả ra ngoài trên một chiều dài hơn chục sải. Chỉ một cái cọc nữa bị gãy thôi là tất cả sẽ đổ nhào xuống.
- Đưa cuốc chim ra! - Phuyghétđi hô to. - Dây xích nữa!
Năm chục cái cuốc chim tung ra móc vào dãy tường con chạch đã ngả ra ngoài. Xích sắt, dây thừng, cọc và cừ mới được chuyển đến. Chỉ chốc lát dãy tường con chạch lại trở về vị trí cũ của nó.
Bấy giờ Đôbô đã đến chỗ tháp Bôiki, nơi Gergey tiếp nhận trận đánh trong mùi khét nồng nặc của hắc ín, của thuốc súng và của mỡ bò cháy quyện lẫn vào nhau.
Cái tháp đứng đằng góc đã bị bắn gục ngang lưng đó trở nên một niềm hy vọng lớn đối với lũ giặc Thổ. Bởi thành Temétva cũng đã vì một cái tháp mà thất thủ, nên chúng coi đây là một điềm may, mặc dù trong trận công kích đầu tiên chúng chưa đưa lực lượng của chúng vào đây được.
Ở đây, vì chúng chỉ chuyển toàn đất đến bên tường tháp, nên từ phía trên người ta không thể có cách sát hại chúng được. Bọn Thổ đẩy nhau xông lên dưới những cái động ốc rộng. những vòng rơm tẩm hắc ín và mỡ bò cháy rừng rực rơi như mưa lên mái những động ốc, tuy vậy cuối cùng chúng vẫn xông được vào trong tháp.
- Ala chí cao! Đánh đi, chém đi!
Và từ trên sườn đồi Ghế Vua, hàng trăm nghìn tên Thổ lao về phía thành.
Ở dưới nền tháp, những cây thương và cuốc chim từ mặt thành chĩa xuống. Người ta đẩy, cuốc, chặt, móc những cái động ốc. Nhưng quân Thổ cũng làm việc. Từ dưới cái mái di động, bọn tưphensi nổ súng. Giáo, thủ pháo và tên từ dưới vun vút bay lên phía đoàn quân cố thủ.
Một tên xpahi khinh thường cái chết nhảy lên mặt thành, vung tít hai bàn tay sắt đánh bật tung những ngọn thương và cuốc chim. Tên thứ hai thứ ba cũng vọt lên theo gót hắn. Trong khi quân ta dùng chùy quật ngã ba tên đó, những tên khác đã xông lên sau lưng chúng. Không đầy một phút chúng đã đẩy được một cái động ốc có mái lót da bò lên đỉnh tháp và dưới cái mái di động đó, ba bốn chục tên ionisa vừa nằm vừa quỳ bắn vào các chiến sĩ ta đang chiến đấu trên pháo đài.
- Ala! Ala! - Hàng ngàn cái họng ở bên dưới gào lên.
- Thắng lợi đã gần rồi! - Bọn giám binh Thổ hò hét.
Cái mũ chiến rơi ra khỏi đầu Đôbô. Đầu để trần, ông lao đến chỗ các khẩu đại bác.
Các chiến sĩ Hung đứng trong tháp không tài nào sát hại được bọn ionisa đã leo lên trên đầu họ, bởi vì mái tháp đã lót gỗ ván, mà cũng không thể hất những ván gỗ đó lên được vì bọn ionisa đã đứng ở trên.
- Các ngươi đi ra đi! - Gergey thét lên khi chàng trông thấy Đôbô đang quay những khẩu đại bác.
Rồi, không hề quan tâm đến những khẩu súng của bọn ionisa, chàng cũng giật lấy một cái cuốc chim, ngoắc nó vào một cây thương chống cái mái di động và giật mạnh.
Những chiến sĩ đứng trên pháo đài cũng sửng sốt khi thấy cái tháp bị chiếm. Tất thảy đều chụp lấy hỏa khí và bao phủ bọn ionisa đang xông lên tường trong một màn lửa.
Đôbô trông thấy dây chuyền của bọn ionisa đã bị đứt quãng. Bất thình lình ông quay hai khẩu đại bác xuống phía dưới, bắn vào giữa đám ionisa đang chen chúc đông đặc trên ụ đất. Loại lính ionisa chẳng kiềng đại bác lắm. Hai viên đạn của hai khẩu đại bác chẳng sát hại được nhiều. Còn tiếng nổ thì chúng đã quá quen. Có điều là những khẩu đại bác của Đôbô nạp bằng những hạt đạn nhỏ, khi bắn gần, mỗi phát quật ngã hàng chục - hai chục tên Thổ. Bọn ionisa khiếp sợ lùi ra xa.
- Ném lửa vào chúng nó! Lửa! - Tiếng Gergey vang trên mặt thành.
Và những con cúi tẩm hắc ín bay lên đầu bọn ionisa mắc kẹt trên mái tháp. Bọn chúng luống cuống chống đỡ, nhưng súng của chúng đã bắn hết rồi, chúng không còn thì giờ nạp đạn nữa. Lửa cháy mỗi lúc một nhiều. Chúng kêu la inh ỏi, văng mình xuống khỏi mái tháp. Tên nào rơi ra ngoài là còn may phúc, chỉ ặc một cái là gãy cổ thôi. Tên nào nhảy vào phía trong thành cũng chẳng múa may được lâu, bởi người ta đánh cho nát nhừ, đến xương cũng chẳng còn cái nào nguyên vẹn.
Chập tối và đêm hôm đó bọn Thổ tiếp tục tiến đánh ở mạn pháo đài đất.
Pháo đài đất nối dài với pháo đài đá ở góc phía tây bắc thành phố. Chúng nó xới tung đất lên để hòng khoét ngách vào dưới chân pháo đài, nhưng ở đó tường thành đâu chỉ xây đến mặt đất. Tường nối tường cắm sâu vào lòng đất đến hai chục sải, dường như trong những thời kỳ xa xưa người ta đã xây dựng tòa thành từ lòng thung lũng, và dường như nhân dân thời đại tiếp sau đó đã mang đất lấp bằng tòa thành cũ rồi mới dựng lên tòa thành mới của mình, cuối cùng dân của Thánh vương Isơlơvan đến và xây nên bức tường của tòa thành ngày nay chồng lên tường của hai tòa thành trước.
Đôbô mau chóng nhận thấy rằng sự ầm ĩ của cuộc công kích ban đêm của bọn Thổ chỉ cốt để thu hút sự chú ý của quân ta khỏi việc chất gỗ của chúng.
Ông phái một trung úy cùng hai trăm người đến chỗ pháo đài đất, còn những người khác cứ túc trực với số lượng như thường lệ.
Kỵ binh Thổ không thấy xuất trận ở chỗ núi thùng, cũng không thấy có mặt trong trận công kích cái tháp. Có thể đoán biết trước là đến đêm chúng sẽ tiếp tục việc chuyển gỗ.
Giờ đây chúng nghĩ ra mẹo chở những cây gỗ to đến chứ không chở bổi nữa. Có bao nhiêu lạc đà, ngựa, bò, trâu và la trong trại giặc, tất thảy đều về đến chân tường thành lúc hoàng hôn, chở nặng gỗ tròn và gỗ xẻ.
Thoạt tiên bọn giặc chỉ đứng đằng sau những ụ đất đắp đối diện với tường thành mà ném bừa gỗ ra, sau đó, khi đống gỗ đã tương đối có thể che khuất người chúng, chúng bắt tay vào việc xếp.
Hàng ngàn vạn bàn tay khuân và xếp các súc gỗ tròn, các thanh gỗ xẻ chồng lên nhau. Thay cho công việc lặng lẽ của những đêm trước, đêm nay vang dậy tiếng gỗ chạm nhau côm cốp và tiếng đóng đinh chan chát ở khắp mọi phía. Chúng dùng đinh đỉa và xích sắt ghép chặt các thanh gỗ vào với nhau.
Một cái pháo đài gỗ đồ sộ đã ghép xong trước mặt pháo đài của Gergey, đỉnh của nó cách tường thành không đầy ba sải.
Bọn Thổ làm việc khéo léo: chúng xếp thế nào mà bao giờ gỗ cũng che khuất người chúng, và từ đằng sau lớp chắn cao một sải tay, chúng ném cả những cây gỗ tròn to qua phía hào nữa. Cái hào bị lấp đầy trông thấy, và quả núi gỗ cao dần lên bên cạnh tường đá.
Và mỗi lúc một vào gần tường thành.
Gergey lúc nhìn qua lỗ châu mai này, lúc nhìn qua lỗ châu mai nọ để quan sát công việc của kẻ địch. Cuối cùng chàng đi lên dãy tường con chạch.
Chàng gặp Đôbô ở đó. Người đại úy đứng đó, khoác cái áo khoác quen thuộc, dài đến ngang đầu gối. Đầu ông đội mũ sắt nhẹ, màu đen.
- Thưa đại úy, tôi muốn xin những đống ngói gỗ mà chúng ta đã bóc từ các mái nhà xuống, - Gergey nói.
- Anh có thể sai người chở đi.
- Tôi còn xin mỡ bò, hắc ín và dầu.
- Cần bao nhiêu anh cứ lấy. Không có nhiều mỡ bò đâu.
- Cũng không sao. Nếu không có mỡ bò, tôi xin mỡ lợn ướp, thật nhiều.
- Mỡ lợn ướp à?
- Độ vài ba chục lườn. Có thể được bao nhiêu, tôi xin bấy nhiêu.
Đôbô quay ra sau bảo Kơrixtôp:
- Con chạy đi đánh thức Sukan dậy, bảo bác ấy xuất mỡ bò và bốn chục lườn mỡ lợn ướp ở trong kho thực phẩm ấy. Cho người mang ngay ra đây nhé!
Và chỉ sau đó ông mới hỏi: - Để làm gì thế?
Thì ra Gergey đã nghĩ ra được một mẹo: trong khi quân Thổ đang xếp gỗ thành đống, chàng sai quân lính ném mỡ lợn ướp, mỡ bò và ngói gỗ xuống giữa những khúc gỗ và bó bổi.
Quân Thổ không để ý đến việc đó. Trong thành người ta vẫn luôn luôn ném đủ mọi thứ lên đầu chúng: đá, xương xẩu, nồi đất vỡ, mèo chết và các loại tương tự phút nào mà chẳng bay xuống giữa bọn chúng. Những miếng mỡ lợn ướp khổ rộng độ gang tay cũng chẳng nổi bật lên giữa bao nhiêu thứ khác. Nếu một tên Thổ nào đó có nhìn thấy, hoặc hắn không hiểu thứ đó để làm gì, hoặc nếu hiểu, hắn sẽ nhìn với vẻ ghê tởm [87].
Gergey sai quân lính cắt mỡ ướp ra thành từng miếng rộng độ gang tay, chốc chốc lại ném xuống giữa đống gỗ. Ngoài ra ngói gỗ quang sơn dầu, mỡ bò, rơm cũng tới tấp bay xuống. Chốc chốc chàng còn sai ném xuống một vỏ sành ngoài bọc rơm. Những cái vò trát kín bùn, có dây thép giằng xung quanh. Trong ruột chúng là thuốc súng cùng những mẩu nòng súng đã nạp thuốc và rất nhiều những cục lưu huỳnh bằng đốt ngón tay một.
Đôbô nhìn xuống phía dưới quan sát, ông bảo:
- Chừng chúng nó làm xong thì trời đã sáng. Kơrixtốp, con hãy ngó qua bên chỗ Mectsei xem anh ta còn thức hay không? Nếu anh ta còn thức, con bảo anh rằng ta đi nghỉ đây. Nếu anh ta đã ngủ thì cứ để cho anh ngủ. Sau đó con hãy đảo qua các vọng gác. Bảo với họ rằng hễ trông thấy giặc rục rịch chuẩn bị tấn công là phải đến chỗ tháp góc báo cáo ngay. Anh không ngả lưng một lát ư, Gergey?
- Hôm nay không ạ. Tôi sẽ chờ đến sáng mai. - Gergey đáp.
- Còn Zôntoi?
- Tôi đã bảo anh ấy đi ngủ để sáng mai còn có sức chỉ huy trên pháo đài.
- Khi nào pháo đài gỗ làm xong, anh đánh thức ta dậy nhé.
Ông đi lên tháp góc, ngả mình xuống một cái sạp của lính.
Võ đồng Kơrixtốp tuốt gươm đứng trước cửa tháp. Đó là nghĩa vụ của võ đồng. Cậu bảo vệ con sư tử ngủ.

13

Đến rạng đông, cái pháo đài gỗ của bọn Thổ đã cao gần bằng tường thành, chỉ còn thiếu độ một sải rưỡi nữa thôi.
Gergey còn sai nạp thuốc súng vào hai cái nòng đại bác quét vôi. Chàng sai lấy gỗ đóng chặt.
- Này, hai khẩu đại bác này chẳng ngờ là còn được bắn một lần nữa! - Gã xigan nói.
- Biến cũ thành mới mà lị. - Một người lính nói.
- Nếu đã mới thì ta đặt cả tên cho nó nữa đi. - Gã xigan nói. - Cho một cái là Lôi tỉ, một cái là Bồ câu.
Bởi vì tất cả các khẩu đại bác đều có tên riêng của nó.
Gergey móc một viên đạn chì ở trong túi ra, viết lên nòng đại bác nhỏ cái tên Gianốt, lên nòng đại bác to cái tên Êvo. Chàng cắp hai cái nòng đại bác vào nách, đi lên pháo đài.
Bình minh mau chóng tuôn ánh sáng ra khắp bầu trời. Dưới kia trại giặc rậm rà rậm rịch: từ khắp mọi ngả, tiếng lịch bịch của những đội quân đã đến gần.
Gergey đánh thức Đôbô dậy.
Quân lính đã cầm thương và cuốc chim đứng dàn cả trên mặt thành. Những tay súng kê nòng những khẩu súng mới nạp đạn lên những viên đá phủ trắng sương muối. Ba khẩu đại bác của pháo đài chúc nòng xuống phía dưới, còn hai khẩu đại bác ở chỗ Cổng Tối lại chĩa nòng lên mặt thành.
- Châm lửa vào những vòng rơm tẩm hắc ín và những cây gậy đầu đầy, ném ra ngoài! - Gergey hạ lệnh.
Mọi người nhất tề làm việc.
Khi Đôbô đến đó, bọn Thổ đã tràn đầy các dãy đồi như kiến cỏ. Chúng vẫn còn xếp gỗ và đóng đinh giằng. Pháo đài gỗ đã cao bằng pháo đài trong. Chốc chốc chúng lại lao những thanh gỗ xẻ qua để lấp kín những chỗ hở giữa hai bức tường. Gỗ ở chỗ đó nhiều vô kể. Cả một rừng gỗ. Cái thành gỗ rất chắc chắn. Những cái mái di động phủ da bò sống thận trọng nhô lên trên mặt thành gỗ.
Những vòng rơm cháy không tác hại đến da bò, còn cái nào rơi ra chỗ khác, quân Thổ lấy chân đá hất đi.
Theo một hiệu còi lảnh lói, hàng trăm ngàn tiếng thét Bixmila (Nhân danh Thượng đế) rung động cả không trung. Quân nhạc Thổ réo vang. Cái pháo đài gỗ khổng lồ kêu rầm rầm dưới những bàn chân ào ạt xông lên.
- Ala! Ala!
- Giêsu! Maria!
Từ dưới những cái mái di động, những cái thang ngắn nhanh chóng được đẩy ra để bắc cầu nối pháo đài gỗ với pháo đài đá.
Nhưng quân bên trong cũng đã đứng cả trên mặt thành. Hàng trăm vòng lửa nhất tề bay sang phía quân Thổ. Những bó rơm cháy và lưu huỳnh cháy phủ kín những cái thang, và ngói gỗ tẩm hắc ín tiếp tục rơi trên rơm.
Toán quân Thổ đầu tiên muốn xông qua lửa cháy để vào thành liền đụng ngay vào mũi cuốc chim và ngọn thương. Những tên khác đã có gươm, cuốc chim, gậy đầu đày rực lửa và chùy xích tiếp đón.
Một tên Thổ mặt đầy đặn giương cao một lá cờ đại nhô lên mặt đống gỗ cách Gergey chừng ba sải tay. Khi toàn bộ cái đầu của hắn đã biến thành một cái mồm há ngoác trong tiếng thét Ala, Gergey chộp lấy cái nòng đại bác nhỏ tống thẳng vào mõm hắn. Còn cái nòng đại bác to, chàng ném xuống đống lửa cháy ở bên dưới.
Quân Thổ bâu kín cái công trình bằng gỗ đồ sộ, và chắc chắn chúng đã xông qua cả đám lửa cháy nữa rồi, nếu một chuyện quái lạ không bất thình lình xảy đến, đó là tiếng súng tay và tiếng đại bác bỗng nổ vang lên từ phía dưới.
Những vỏ sành bắt đầu nổ bùng bục và bắn ra tứ tung những cục lưu huỳnh cháy. Tựa hồ như một quả núi lửa bỗng nhiên há miệng ngay dưới chân bọn giặc.
- Ôi, thôi chết! Chúng mày ơi! Cứu tao với! Ối, ối! Cứu với! - Quân giặc hoảng hốt kêu la.
Nhưng bọn giám trận không cho chúng nó lùi xuống.
- Chúng ta sẽ thắng! Đây là giờ phút chiến thắng! - Bọn giám trận thét lên đáp lại, và sai bọn lính còn ở bên dưới chạy đi lấy nước.
Bọn giặc dùng nước, binh khí, quần áo để cố cứu lấy cái công trình bằng gỗ bạt ngàn mà chúng đã tốn bao ngày đêm mới dựng lên được đó. Nhưng bấy giờ mỡ bò đặc và mỡ lợn ướp cũng đã bắt đầu chảy ra giữa những súc gỗ, và những cái vò mỗi lúc một bắn tung tóe lưu huỳnh ra với tốc độ mau hơn, làm bén cháy cả những súc gỗ to vài tay ôm.
- Ôi, chết rồi! Ôi, chúng mày ơi! Vượt qua lửa mà vào thành đi!
Bọn giặc không muốn tin rằng những cây gỗ lớn như thế lại có thể bốc cháy. Chúng tới tấp chuyển nước đến bằng những bầu da, bằng những cái xô và các loại nồi niêu xoong chảo. Nơi nào lửa từ đống gỗ bốc lên thành ngọn như hình đuôi ngựa là chúng mang nước đổ xô đến. Bọn chúng vừa nhảy nhót một cách tức tối và kinh hoàng vừa dập lửa. Nhưng cả núi gỗ đã biến thành một giàn lửa khổng lồ. Chỉ đến lúc đó những mẩu nòng súng mới bắt đầu nổ loạn xạ, còn mỡ vừa cháy xèo xèo với ánh lửa xanh vừa bắn vọt vào mắt bọn chữa lửa. Hai cái nòng đại bác liên tiếp nhau gầm lên dữ dội, hất tung gỗ cùng bọn Thổ ở nơi nó nổ.
Thật là một cảnh tượng kinh hoàng, tức tối, đầy tiếng kêu thét om sòm như ở địa ngục! Những tên ionisa không thể rút lui qua giàn lửa nổ loạn xạ ở sau lưng, cố sức hết đợt này đến đợt khác vượt qua cái cầu ghép bằng thang để thoát ra khỏi khói và lửa. Một đôi đứa tuyệt vọng nhảy lên mặt tường đá để rồi cũng trong nháy mắt đó lại ôm đầu máu mà rơi xuống. Những đứa khác lồng lộn nhảy nhót trên đỉnh giàn lửa và dùng binh khí quật vào những đầu gỗ bén lửa. Nhưng công việc đó thật vô ích! Bên tường thành giờ đây đã nổi lên cả một biển lửa, trong đó bao nhiêu tiếng nổ đã hợp lại thành tiếng gào thét của phong ba. Quân Thổ chỉ còn là những cái bóng ma quỷ nhảy nhót chập chờn trong ánh lửa. Quần áo chúng bốc cháy, râu ria chúng bốc cháy, tuyban chúng bốc cháy. Những tên Thổ đó đang trải qua cực hình địa ngục để lên cõi thiên đường với Môhamét!
Trên tường thành cũng nóng kinh khủng, đến nỗi người ta phải kéo những khẩu đại bác đi, và các dũng sĩ phải lấy nước giội vào những vị trí phòng ngự để gỗ ở đó khỏi bị cháy lây.
Bọn thương binh Thổ không thể nào cứu ra được gào thét trong ngọn lửa dữ, bên kia biển lửa vang lên tiếng hò la điên cuồng của bọn giám trận, và người ta trông thấy từng đám hơi nước ngùn ngụt bốc lên ở những nơi bọn Thổ cố dập lửa lần cuối cùng một cách uổng công.
Lửa và khói đã ngăn cách hai đạo quân ra.
--------------
Chú thích:
[82] Tiếng la tinh, có nghĩa là nơi rửa tội, nơi hóa kiếp.
[83] Tiếng la tinh trong nguyên bản: các thiên thần sẽ đưa bạn về cõi thiên đường.
[84] Nguyên văn: đồ chó Herôđex nhà mày (Herôđêx là một tên bạo chúa Do Thái vào thời 37 - 4 trước C.N).
[85] Lính bắn súng trường của Thổ.
[86] Hồi xưa chưa có máy ép, mỗi khi hái nho về người ta đổ vào những cái thảng to rồi người đứng vào giẫm.
[87] Đạo Hồi kiêng thịt lợn.
------------
tiếp 12: http://bloggenguoixuthanh.blogspot.com/2014/03/gardonyi-geza-nhung-ngoi-sao-eghe.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét