Dịch giả: Hải Triều
Chương 1 - Và anh là ai?
Đôi kim đồng hồ chỉ bốn giờ năm phút.
Trong ánh sáng hấp hối của một ngày tháng Chạp, mặt đồng của
chiếc đồng hồ đặt trên giá trông như có màu đen.
Hai cánh cửa kiếng của khung cửa sổ cao nhìn xuống dãy phố đông
đảo, nhộn nhịp bên dưới, nơi những người gác cửa đang dồn những mảnh tuyết nâu
lại thành từng đống, tuyết tuy mới rơi nhưng đã ướt và dơ bẩn, những cây cào gỗ
đẩy tuyết ngay dưới chân những người qua đường.
Innokenty Volodin, cố vấn Quốc gia đệ nhị, nhìn ngây xuống
cảnh đó nhưng không ghi nhận gì hết, chàng đứng dựa vài vào thành cửa sổ, miệng
khẽ huýt gió một điệu nhạc mệt mỏi. Những ngón tay chàng lật mở từng từ giấy
trắng bóng, in sặc sỡ nhiều màu của một tập san ngoại quốc. Nhưng mắt chàng
cũng không nhìn thấy những hình ảnh in trên những trang báo đó.
Cố vấn Quốc gia đệ nhị hạng Innokenty Volodin, chức vụ này
của chàng trong ngành ngoại giao tương đương với cấp Trung tá trong quân đội,
là một thanh niên cao và mảnh mai. Không bận đồng phục và bận bộ y phục may
bằng một thứ hàng len dệt, trông chàng có vẻ là một công tử hào hoa hơn là một
viên chức trung cấp trong Bộ Ngoại giao.
Bây giờ đã đến lúc chàng phải bật đèn trong văn phòng nếu
chàng muốn ở lại làm việc ngoài giờ, nhưng chàng không bật đèn, hoặc rời văn
phòng để về nhà. Chàng cũng không để lộ vẻ gì là sửa soạn ra về.
Bốn giờ chiều không có nghĩa là giờ làm việc trong ngày đã
hết, bốn giờ chiều chỉ có nghĩa là ánh sáng của một ngày đã tắt, hoặc mờ đi,
vào giờ nay tất cả mọi người đều về nhà ăn bữa tối để rồi bắt đầu từ mười giờ
đêm, cả ngàn khung cửa sổ của sáu mươi nhăm cơ quan chính phủ ở Mạc Tư Khoa lại
sáng đèn. Chỉ có một người, một người mà thôi, sống ở giữa khoảng một tá tường
thành ở Mạc Tư Khoa, không ngủ được ban đêm, và người này đã làm cho tất cả
những viên chức chính phủ lớn nhỏ ở Mạc Tư Khoa cũng phải thức với y cho tới
ba, bốn giờ sáng. Vì đã biết rõ thói quen thức đêm của Vị Chúa Tể, đêm nào cũng
vậy, khoảng ba mươi ông Tổng trưởng ngồi như những chú học trò được gọi đến
tên. Để cho khỏi buồn ngủ, những ông Tổng trưởng này hành hạ những ông phụ tá,
những ông phụ tá hành hạ những ông trưởng phòng và những nhân viên phụ trách
lưu trữ hồ sơ vất vả leo lên những bậc thang mở những ô kéo tìm những tấm phiếu
lý lịch hồ sơ, trong hành lang có những viên thư ký hấp tấp đi lại và trong văn
phòng có những viên thư ký hồi hộp làm gãy những ngọn viết chì.
Và ngay cả hôm nay nữa, đêm nay là đêm Giáng sinh Tây
phương, từ hai ngày nay tất cả những Tòa đại sứ ở Mạc Tư Khoa đều đóng cửa, tê
cứng trong cái lạnh đêm cuối năm, trong những Tòa đại sứ ấy tất cả những máy
điện thoại đều ngừng reo chuông, và ngay trong phút này, nhân viên của những
Tòa đại sứ ấy chắc là đang thoải mái ngồi chung quanh những cây Giáng sinh,
trong những cơ quan chính phủ này người ta vẫn làm việc. Nhiều người ngồi đánh
cờ, nhiều người ngồi kháo chuyện phiếm, nhiều người khác nữa ngủ gật – nhưng
đêm nay, người ta vẫn là làm việc.
Những ngón tay bối rối, hơi run của Volodin lơ đãng lật
nhanh những trang tập san. Suốt trong thời gian đó cảm giác sợ hãi dâng lên
trong chàng, nó bốc lên như lửa một lúc rồi tàn đi và sau cùng, đông lại.
Từ ngày còn thơ ấu, Innokenty đã biết bác sĩ Dobroumov,
chàng vẫn nhớ rõ hình ảnh của ông từ ngày đó cho đến bây giờ. Thời ấy bác sĩ
Dobroumov hãy còn là một ông thầy thuốc rất thường, danh tiếng ông chưa nổi
sáng và người ta chưa cử ông cầm đầu những phái đoàn đi ra ngoại quốc. Thời ấy,
chưa ai coi ông là khoa học gia, ông chỉ là một ông thầy thuốc đi chữa bệnh tận
nhà. Mẹ của Innokenty thường đau yếu luôn và lần nào có bệnh bà cũng mời đến
bác sĩ Dobroumov. Bà tin ở tài năng và kinh nghiệm của ông. Mỗi lần ông đến nhà
và treo cái mũ da của ông lên mắc sau cánh cửa, cả nhà như tràn đầy một làn
không khí dễ chịu bình yên, tin tưởng. Không lần nào ông ngồi lại dưới nửa
tiếng đồng hồ bên cạnh giường người bệnh. Ông hỏi về tất cả những khó chịu,
những đau đớn của người bệnh, như những chuyện đó làm cho ông hài lòng, ông xem
mắt, xem lưỡi, nghe ngực người bệnh và sau đó ông giải thích cho người bệnh nghe
về phương pháp điều trị mà ông áp dụng cho người bệnh. Khi đi ra khỏi nhà, lần
nào đi ngang trước mặt chú nhỏ ông cũng dừng lại để hỏi một câu, chú nhỏ sẽ nói
ra một câu thông minh. Trong những ngày xa xưa đó, ông bác sĩ đã có mái tóc bạc
xám. Bây giờ không biết ông ra sao?
Innokenty liệng tập báo xuống bàn và thần kinh chàng căng
thẳng, bối rối, khó nghĩ, chàng đi đi lại lại trong phòng.
Chàng có nên gọi điện thoại hay không?
Nếu vụ này liên can đến những bác sĩ mà chàng không đích
thân quen biết, Innokenty sẽ không phải bận trí suy nghĩ đến hai lần về việc
nên hay không báo cho người trong cuộc biết. Nhưng người trong cuộc lại là bác
sĩ Dobroumov!
Có thể có cách nào làm người ta nhận ra được giọng của một
người qua điện thoại nếu người nói nói thật nhanh, gác máy và đi ngay khỏi chỗ
đặt máy điện thoại? Họ có thể nhận ra tiếng nói của một người qua điện thoại
không? Chắc là họ chưa có kỹ thuật nào dùng vào việc này.
Chàng đi trở lại bàn giấy của chàng. Trong bóng tối của ngày
đông tàn chàng vẫn nhìn thấy rõ tập chỉ thị mật về công tác mới mà chàng sắp
phải làm. Chàng sẽ đi trước ngày đầu Năm mới, vào thứ Tư hay thứ Năm gì đó.
Nếu chàng đợi thì hợp lý hơn. Chàng cũng sẽ khôn ngoan hơn
nếu chàng đợi.
Trời ơi! Hai vai chàng rung động trong một cái rùng mình,
vai chàng chưa bao giờ bị đè nặng như thế này. Nếu chàng đừng biết gì hết về vụ
này, chàng sẽ đỡ khổ biết là chừng nào. Nếu chàng đừng biết…
Chàng cầm tập chỉ thị và tất cả những giấy tờ trên bàn đem
đến cất vào trong tủ sắt.
Nhưng… Làm sao người ta lại có thể kết tội bác sĩ Dobroumov
chỉ vì lời hứa đó của ông? Lời hứa đó chỉ biểu lộ tấm lòng quảng đại của một
người có tài. Tài năng là một cái gì bao giờ cũng biểu lộ ra ngoài bất kể người
có tài muốn biểu lộ hay không, người có tài và có lòng tốt bao giờ cũng sốt
sắng chia sẻ tài năng của mình cho người khác.
Cảm giác bối rối, khó xử trong Innokenty tăng lên, mạnh hơn.
Chàng đứng tựa vai vào thành tủ sắt, đầu cúi xuống, hai mắt nhắm lại. Chàng
đứng như thế ở đó một lúc khá lâu.
Rồi đột ngột, như chàng vừa để cơ hội tốt cuối cùng trôi
qua, không gọi điện thoại xuống nhà để xe để người ta mang xe hơi của chàng ra
trước cửa, không kịp cả đậy nắp lọ mực trên bàn, Innokenty đi vội ra khỏi văn
phòng. Chàng khóa cửa và đưa chìa khóa cho người hạ sĩ trực ngồi ở cuối hành
lang, bận áo khoác ngoài và bước nhanh xuống thang lầu. Chàng đi như chạy ra
khỏi tòa nhà, len lỏi giữa đám nhân viên bận những chiếc áo thêu vàng, cầu vai
vàng, nẹp vàng. Và chàng chạy vào vùng trời hoàng hôn bên ngoài, chàng thấy dễ
chịu hơn nhờ sự hoạt động này.
Đôi giày da bóng theo kiểu Pháp của chàng súc vào những tảng
tuyết ướt bẩn.
Đi ngang đài kỷ niệm Vorosky trong sân trước của Bộ Ngoại
giao, Innokenty nhìn lên và không thể ngăn được rùng mình. Chàng cảm thấy tòa
nhà mới xây cất ở đường Bolshaya Bubyanka đối diện với công viên Furkasovsky có
một ý nghĩa mới đối với chàng. Tòa nhà trắng xám chín tầng kia giống như mười
tám khẩu đại bác. Cô đơn và yếu đuối, Innokenty bị cuốn hút qua công viên nhỏ
tới dưới đầu chiến hạm khổng lồ ấy.
Chàng quay đi, như để tự cứu – chàng rẽ tay phải, đi xuống
đường Kuznestsky Most. Ở đầu đường này, ngay khúc quanh, một chiếc tắc xi sắp
rời khỏi vỉa hè. Innokenty vào xe và bảo tài xế chạy theo đường Kuznestsky Most
rồi quẹo trái để vào con đường Petrvka vừa mới sáng đèn đường.
Chàng vẫn còn do dự – chàng nghĩ đến chuyện chàng có thể gọi
điện thoại ở đâu để khỏi bị người đứng chờ đến lượt bên ngoài gõ gõ lên cửa
kiếng phòng điện thoại thúc dục chàng nói mau và nhường chỗ. Nhưng nếu chàng đi
tìm một phòng điện thoại công cộng ở một chỗ vắng vẻ, ít người, chàng sẽ còn dễ
bị nghi ngờ nhiều nữa. Có lẽ chàng nên đến một phòng điện thoại ở một khu thật
đông người, miễn là phòng điện thoại đó đứng sát vào một bức tường. Rồi chàng
nghĩ ra rằng chàng không nên đi lang thang vô định trong thành phố trong chiếc
tắc xi này, nếu có chuyện gì xảy ra, người tài xế này sẽ là một người làm
chứng. Chàng thò tay vào túi áo tìm một đồng mười lăm kopeck.
Bỗng dưng tâm trí chàng an định gần như hoàn toàn. Tất cả
những đe dọa dường như vừa trở thành không đáng kể nữa. Chỉ trong vài giây đồng
hồ ngắn ngủi, Innokenty bỗng thấy tâm hồn bình thản như chàng chưa từng bao giờ
sợ hãi, chưa từng bao giờ do dự trước việc làm này. Vì chàng vừa nhận ra rằng
chàng không sao làm khác được. Việc này có thể nguy hiểm, nhưng chàng vẫn phải
làm…
Nếu người ta cẩn thận quá, nếu người ta đề phòng quá, người
ta có thể nào còn là người được không?
Dưới ánh những ngọn đèn đường Okhotny Ryad những ngón tay
chàng tìm thấy trong túi áo hai đồng mười lăm kopeck – một dấu hiệu tốt!
Xe chạy ngang trường Đại học và Innokenty ra hiệu cho người
tài xế rẽ sang tay phải. Xe chạy nhanh về đường Arbat. Innokenty trả tiền cho
tài xế và không đợi lấy lại tiền lẻ, chàng đi ngang công trường. Chàng cố giữ
cho chân bước từ từ và đều đều.
Khu Arbat cũng đã sáng đèn. Từng dãy khán giả sắp hàng trước
cửa rạp hát bóng chờ vào coi phim Tình nàng vũ nữ. Chữ “M” màu đỏ trên cửa
xuống trạm xe điện ngầm mờ nhạt và gần như chìm mất trong làn sương xám. Một
người đàn bà ăn bận giống một thiếu phụ Bô-hê-miêng đứng bán những cành hoa
mimosa màu vàng.
Cố gắng làm việc này thật nhanh. Nói ít thôi, càng ngắn càng
tối – cắt máy ngay. Càng nhanh chừng nào nguy hiểm càng ít chừng ấy.
Innokenty đi thẳng về phía trước mặt. Một thiếu nữ qua đường
nghiêng mặt nhìn chàng.
Rồi một thiếu nữ khác.
Một phòng điện thoại công cộng vách gỗ ở trước cửa xuống
trạm xe điện ngầm không có người bên trong nhưng Innokenty đi ngang không nhìn
vào, chàng đi thẳng vào trong nhà trạm.
Trong này có bốn phòng điện thoại, tất cả bốn phòng đều sát
vách, nhưng trong cả bốn phòng đều có người. Innokenty dừng lại. Ở trong phòng
đầu tiên bên trái người thanh niên đứng bên trong đã mắc ông nói lên máy. Thanh
niên này vừa ra, Innokenty bước vội vào, chàng cẩn thận đóng cánh cửa kính dày
lại, một tay giữ cửa, tay kia chàng run run nhét đồng tiền vào máy và quay số.
Hai tay chàng vẫn còn mang bao tay.
Sau nhiều tiếng chuống reo dài, máy nói ở đầu dây bên kia
được một người nào đó nhấc lên.
- Tôi nghe…
Một giọng nói đàn bà vang lên, giọng nói không có vẻ vui
nhưng cũng không có vẻ khó chịu.
- Đây có phải là nhà riêng của bác sĩ Dobroumov?
Innokenty hỏi, chàng cố gắng làm cho giọng nói của chàng đổi
khác đi.
- Dạ phải.
- Làm ơn cho mời bác sĩ cho tôi nói chuyện.
- Anh là ai? Anh là ai mà muốn nói chuyện với bác sĩ?
Giọng nói của người đàn bà hơi nặng và lười biếng. Rất có
thể chị ta đang nằm dài trên đi văng trong khi trả lời chàng, chị ta không vội
vã như chàng.
- … Thưa cô… cô không biết tôi là ai đâu. Việc tôi là ai
không quan trọng… nhưng mà… tôi có chuyện cần nói với bác sĩ gấp. Thật mà… Mời
bác sĩ tới ngay giùm tôi.
Quá nhiều lời thừa thãi, vô ích – Innokenty hồi hộp nghĩ
thầm tất cả chỉ vì chàng lịch sự, lễ phép quá.
Giọng nói của người đàn bà bắt đầu có những âm thanh bất
mãn:
- Bác sĩ đâu có thể mất thì giờ nói chuyện với bất cứ ai gọi
điện thoại đến…
Giọng nói của thị làm cho Innokenty nghĩ rằng thị có thể gác
ngay ống nói sau khi nói câu đó.
Bên ngoài khung cửa kiếng dầy, người ta qua lại tấp nập, người
ta dừng lại chờ nhau, người ta bước vội cho kịp nhau. Có người đã dừng chờ đến
lượt vào gọi điện thoại ở bên cửa.
- Anh là ai? Tại sao anh lại không xưng tên?
- Tôi là một người bạn của bác sĩ. Tôi có chuyện quan trọng
cần nói với bác sĩ.
- Thì sao? Sao anh lại sợ không dám cho tôi biết tên?
Đã đến lúc chàng nên cắt đứt cuộc điện đàm lẩm cẩm, vô ích
này. Người ta không có quyền lấy những chị đàn bà ngu ngốc này làm vợ.
- Cô là ai? Phải cô là vợ của bác sĩ không?
- Tại sao tôi phải trả lời anh trước? – Người đàn bà phản
đối – anh phải nói trước…
Bàn tay cầm ống nói của Innokenty đã giơ lên với ý định là
gác máy không nói nữa. Nhưng trong vụ này, không phải chỉ có một mình bác sĩ
Dobroumov là bị liên can. Cơn giận trong Innokenty dâng lên và chàng không còn
để ý tới chuyện làm thay đổi giọng nói nữa, chàng cũng không còn cố nén hồi
hộp, cố giữ bình tĩnh để giọng nói của chàng giống giọng nói của một người chỉ
gọi đến để nói một chuyện rất thường. Chàng gằn lên vào ống nói, vừa năn nỉ vừa
giục dã:
- Cô nghe tôi… Này cô… Tôi phải báo cho bác sĩ biết một
chuyện nguy hiểm.
- Nguy hiểm?
Giọng nói của người đàn bà trầm xuống, rồi tắt đi. Nhưng
chàng vẫn không nghe thấy tiếng thị gọi ai đến máy. Rồi giọng thị lại cất cao:
- Nếu vậy, tôi lại càng không nên gọi ông ấy tới. Chuyện gì
là chuyện nguy hiểm? Biết đâu anh chẳng bày đặt? Làm sao tôi biết được là anh
nói thật hay nói dối?
Sàn phòng điện thoại như có lửa bốc lên đốt hai chân
Innokenty và ống nói đen có dây xích sắt buộc vào dàn máy như trơn tuột trong
lòng bàn tay chàng.
- Nghe tôi nè… Cô phải nghe tôi…- Chàng kêu lên trong tuyệt
vọng.- Lần xuất ngoại vừa rồi, khi ông bác sĩ ở Paris , ông ấy có hứa với những bác sĩ Pháp là
ổng sẽ cho họ một thứ gì đó. Một thứ thuốc mới. Trong vài ngày nữa ổng sẽ đưa
cho họ thứ thuốc ấy. Họ là người ngoại quốc. Cô hiểu gì không? Ông ấy không có
quyền cho người ngoại quốc bất cứ thứ gì… Ông sẽ bị…
Một tiếng cách vang lên và Innokenty đứng chết lặng với ống
nói áp trên tai.
Một kẻ nào đó đã cắt đứt đường dây.
Chương 2 – Ý tưởng của Dante
- Mới tới!
- Họ đưa tới nhiều người mới!
Những tù nhân đứng chật hành lang chính. Những người mới đến
đứng giữa và những người cư ngụ trước trong nhà tù Mavrino, trong số có những
người vừa ăn xong trong lượt tù ăn đầu, những người đi tới để vào phòng ăn,
đứng vây quanh họ.
- Từ đâu đến đó các đồng chí?
- Các bạn, ở đâu đến vậy?
- Trên ngực áo, trên mũ của các bạn có cái gì vậy? Họ dán
cái gì vào đây vậy?
- Số của bọn tôi đó – một tù nhân mới tới đáp – Trên lưng áo
chúng tôi cũng có số, cả trên hai đầu gối quần nữa này. Khi chúng tôi đi, họ xé
hết những miếng vải ghi số đó đi thành ra quần áo có vết…
- Bạn nói chi? Số là cái gì?
- Thưa quý vị.- Valentine Pryanchikov cao giọng nói.- tôi
xin phép được đặt câu hỏi này trước quý vị: Chúng ta hiện đang sống trong thời
đại gì?
Anh quay lại hỏi Lev Rubin, người bạn tù của anh:
- Ghi số trên con người. Lev Grigovich… Cho phép tôi được
hỏi anh. Anh có thể cho như vậy là tiến bộ được không?
- Thôi mà Valentulya, đừng có nặng phần trình diễn – Rubin
nói – Đi vào ăn cho xong đi.
- Nhưng làm sao tôi có thể ăn uống được khi quanh tôi còn có
những con người bị ghi số lên áo, lên mũ? Đây là thời Mạt thế mất rồi.
- Các bạn.- một tù nhân khác của Mavrino nói.- Họ sẽ phát
cho bọn mình mỗi người chín gói Belomor vào cuối tháng Chạp này. Các bạn mới
đến như vậy là hên lắm ạ.
- Bạn nói thuốc lá Belomor – Yavas hay là thuốc Belomor –
Dukats?
- Mỗi thứ một nửa.
- Dã man thật. Họ định giết mình vì thuốc Dukats. Tôi sẽ
khiếu nại việc này với đồng chí Tổng trưởng cho mà coi. Tôi thề danh dự với các
bạn là tôi sẽ khiếu nại.
- Còn các bạn, các bạn bận quần áo gì thế này?- Người tù mới
tới hồi nãy giải thích về những vết vải khác màu trên y phục họ lên tiếng.- Tại
sao bạn nào ở đây cũng bận đồ như lính nhảy dù vậy?
- Đây là đồng phục mà tất cả anh em trong này phải bận. Bây
giờ họ bắt đầu hà tiện với anh em mình rồi. Trước kia họ vẫn phát quần áo len,
có cả áo ngoài.
Thêm nhiều tù nhân Mavrino nữa bước vào hành lang.
- Kìa… anh em mới.
- Có nhiều anh em mới tới.
- Thôi mà các bạn. Các bạn làm như chưa từng nhìn thấy tù
mới bao giờ vậy. Đứng nghẹt hết đường đi…
- Ô kìa… Phải anh là Dof-Dneprovsky không? Đúng rồi. Mấy năm
nay anh ở đâu? Năm 45, tôi đi khắp Vienna
[2] tìm anh. Tìm khắp không thấy.
- Bạn nào cũng rách rưới, râu ria. Không được cạo râu à? Các
bạn từ trại tập trung nào đến đây vậy?
- Nhiều nơi lắm. Anh em tôi ở Rechlag…
- Chúng tôi ở Dubrovlag…
- Tôi ở tù đã tám năm rồi sao tôi chưa từng bao giờ nghe nói
đến hai trại đó kìa?
- Trại mới cả, trại đặc biệt. Mới có từ năm ngoái, năm 48,
theo chỉ thị của Staline: kiện toàn hậu phương…
- Hậu phương? Hậu phương nào mới được chứ?
- Chẳng biết. Chỉ biết là tôi bị họ bắt ngay trước cửa vào
nhà thờ Đức Bà Vienna. Họ nắm cổ tôi, tống tôi lên xe thùng…
- Chờ chút, Mitenka… Xem anh em mới tới nói gì.
- Không, đi ra sân, đi bộ sau bữa ăn. Đi ra ngoài trời một
lúc. Theo đúng thời khắc biểu. Dù có động đất cũng đi. Lev sẽ hỏi họ rồi kể lại
cho chúng mình nghe, đừng sợ.
- Đội thứ hai vào ăn.
- Chúng tôi đến từ Ozerlag, Luglag, Steplag, Peshanlag.
- Rất có thể là một nhà thơ lớn nào đó có tâm hồn thơ mộng
như Puskhin chưa được ai biết đến ở trong bộ An ninh. Nhà thơ lớn chưa được đời
biết này không thèm làm những câu thơ dài, nhưng chọn toàn những cái tên đẹp
đặt cho trại tập trung. Thấy không?
- Ha… ha… Ha. Hay lắm. Thật hay.- Pryanchikov nói.- Xin hỏi
quý vị chúng ta đang sống trong thời đại gì?
- Đừng làm ồn ào, Velentulya.
- Xin lỗi.- một tù nhân mới hỏi Rubin.- Tên bạn là gì?
- Lev Grigorich.
- Bạn cũng là kỹ sư?
- Thưa không, tôi không phải là kỹ sư, tôi là nhà ngôn ngữ
học.
- Ngôn ngữ học? Người ta giữ cả những nhà ngôn ngữ học ở đây
sao?
- Có lẽ bạn nên hỏi những ai không bị giữ trong nhà tù này
thì dễ trả lời hơn,- Rubin nói - ở đây chúng tôi có những toán học, vật lý học,
bào chế sư, kỹ sư vô tuyến, quang tuyến, kỹ sư điện, chuyên viên điện thoại,
nghệ sĩ, dịch giả, kiến trúc sư, thợ đóng sách, thợ đóng giày, thợ may, họa sĩ,
trắc lượng viên, có cả bác sĩ đỡ đẻ nữa.
- Bác sĩ đỡ đẻ làm gì trong này?
- Ổng xoay xở khéo lắm. Hiện ông làm việc trong Phòng phim
ảnh.
- Lev… Anh vẫn nhận anh là nhà duy vật nhưng anh chuyên nói
với người khác những chuyện duy tâm.- Valentin Pryanchikov nói.- Các bạn mới
đến nên nghe lời tôi: Khi họ cho các bạn vào phòng ăn, chúng tôi sẽ để sẵn cho
các bạn ba mươi đĩa thức ăn ở cái bàn cuối cùng gần cửa sổ. Các bạn tha hồ ăn,
ăn cho no, nhưng nhớ đừng ăn quá mà bội thực ạ.
- Cám ơn lắm. Nhưng… các bạn chẳng nên nhường phần ăn cho
bọn tôi.
- Không đâu. Tại tụi tui chán ngấy mấy món ấy rồi. Thời buổi
này mà còn ăn cá mòi Mezen với bánh bột kiều mạch kê nữa. Hai món đó ăn thường
quá.
- Cái chi? Bạn cho bánh bột kiều mạch kê là tầm thường ư?
Năm năm rồi tôi chưa từng được trông thấy mặt mũi cái bánh ấy ra thế nào.
- Chắc không phải là bột kiều mạch đâu, dám là bột bắp lắm
à.
- Bột bắp? Bạn điên hay sao mà nói vậy? Họ đâu dám cho bọn
mình ăn bột bắp. Nếu là bột bắp, tôi sẽ ném vào mặt họ.
- Vấn đề ăn uống trong những trại tạm trú hồi này ra sao?
- Ở trại tạm trú Chelyabinsk …
- Chelyabinsk mới hay Chelyabinsk cũ?
- Câu hỏi của bạn chứng tỏ bạn là người hiểu biết nhiều. Ở
trại mới…
- Ở đó hồi này ra sao? Họ có còn cấm các bạn không được dùng
bồn rửa mặt mà phải xách nước từng bô, rửa xong đem đi đổ ngay không?
- Vẫn vậy.
- Các bạn vừa nói nhà tù này là nhà tù đặc biệt. Như thế nào
là đặc biệt?
- Ở đây mỗi người được phát bao nhiêu bánh mì?
- Những ai chưa ăn, vào đi. Toán thứ hai vào phòng ăn.
- Bánh mì trắng ba trăm gờ ram, bánh mì đen thì tùy tiện.
- Xin lỗi, bạn nói tùy tiện nghĩa là sao?
- Tùy tiện nghĩa là tha hồ ăn. Bánh cắt sẵn để trên bàn, bạn
thích ăn thì lấy ăn, không thích thì thôi.
- Đúng vậy, nhưng nếu muốn có bơ và gói thuốc Belomor, chúng
ta phải làm việc gãy lưng mỗi ngày từ mười hai đến mười bốn tiếng.
- Làm gì mà gãy lưng? Ở đây không có ai phải làm việc đến
gãy lưng cả, nhất là anh, vì anh ngồi ở bàn làm việc. Người gãy lưng là người
làm việc với một cái rìu.
- Mẹ kiếp. Hơn gì đâu? Mình ngồi trong nhà này đâu có khác
gì mình ở giữa vùng sa mạc hay đồng lầy, mình cũng bị xa cách với cuộc đời như
thế. Các bạn nghe tôi nói đây: họ khoe họ đã tận diệt được bọn ăn trộm và móc
túi, ở bất cứ thành phố nào, bạn không còn sợ bị móc túi nữa. Tôi nghĩ rằng
nghề móc túi sở dĩ bị diệt là bởi vì đâu có ai còn gì trong túi để mà móc.
- Phần bơ phát cho giáo sư, kỹ sư ở đây là ba mươi gờ ram,
phần bơ phát cho chuyên viên là hai mươi gờ ram. Các bạn thấy không? Làm tùy
khả năng hưởng tùy… người ta cho bao nhiêu biết từng ấy.
- Như vậy là bạn từng làm việc ở Dneprostroi?
- Phải. Và tôi bị tù vì xưởng Dneprosgres.
- Bạn nói vậy là sao?
- Dễ hiểu quá. Vì tôi bán xưởng đó cho bọn Đức.
- Bán gì nổi? Xưởng đó bị bom tan tành hết mà?
- Thì tôi bán xưởng đó cho bọn Đức với tình trạng tan tành
đó chứ sao.
- Tuyệt diệu. Như một trận gió. Tôi như cánh lá bay theo
gió. Này nhé… Vô trại tạm trú, lên xe Stolypin. Xe chạy bon bon trên đường
thiên lý. Vô trại tạm trú nghỉ. Sáng sau lại lên xe đi. Du lịch như ông hoàng…
Ước gì xe chạy thẳng đến công trường Đỏ…
- Rồi lại chạy trở về…
- Bạn nói phải. Rồi lại chạy trở về. Và lần trở về, chắc
chắn là xe chạy nhanh hơn.
Một người tù mới đến nói với Rubin:
- Lev Grigorich… đầu óc tôi quay cuồng vì sự thay đổi đột
ngột này. Tôi đã sống năm mươi hai năm rồi, tôi đã đau nặng gần chết và thoát
chết mấy lần, tôi từng được ôm trong tay nhiều người đàn bà đẹp, tôi có vợ, tôi
có con, tôi từng được trao tặng nhiều giải thưởng khoa học, nhưng thực tình là
tôi chưa bao giờ sung sướng như ngày hôm nay. Hôm nay tôi được đưa đến đây.
Sáng sớm mai họ sẽ không bắt tôi ra làm việc ngoài đầm nước lạnh giá nữa. Tôi
được hưởng mỗi ngày ba mươi gờ ram bơ tươi. Tôi được ăn bánh mì đen tha hồ, ăn
no, ăn chán thì thôi. Ở đây họ không cấm tôi đọc sách. Ở đây tôi được quyền cạo
râu. Ở đây lính không đánh tù như đánh loài vật. Trời ơi, hôm nay là ngày gì?
Sao ánh sáng ở đây trong đến thế? Hay là tôi đã chết? Hay là tôi đang nằm mơ?
Có thể tôi đang ở Thiên đàng chăng?
- Không đâu ông bạn ơi,- Rubin nói - ông bạn vẫn sống ở một
nơi giống như nơi ông bạn vừa ở, tức là ở Địa ngục. Nhưng ông bạn vừa leo lên
được tầng địa ngục cao nhất, tầng địa ngục sướng nhất, tức là tầng địa ngục đầu
tiên. Ông bạn vừa hỏi nhà tù đặc biệt này có những gì đặc biệt, tôi xin trả lời
ông bạn rằng người có khái niệm đầu tiên về loại nhà tù này là Dante. Ông bạn
nhớ rằng thi hào Dante đã vò đầu, bứt tai đến rụng hết cả tóc về vấn đề ông
không biết nên cho những nhà thông thái đã chết ở vào chỗ nào dưới địa ngục.
Theo tín lý Gia Tô giáo, bổn phận của những tín đồ Gia Tô là phải tống khứ bọn
vô đạo xuống địa ngục, những nhà thông thái đời xưa cũng là bọn vô đạo, nhưng
lương tâm của nhà đại thi hào không nỡ bắt những nhà thông thái đó phải ở chung
một chỗ với bọn phạm đủ thứ tội lỗi và cũng phải chịu những hình phạt như bọn
người tội lỗi đó, nên Dante nghĩ ra một nơi đặc biệt dành riêng cho những người
hiểu biết ở dưới địa ngục. Vẫn là địa ngục nhưng được ở một tầng riêng. Nếu các
bạn cho phép, tôi xin trưng bằng chứng. Ở Ca khúc thứ tư có những câu:
Sau cùng
chúng tôi tới chân tòa
thành vĩ đại.
Chỉ cần một chút tưởng
tượng các bạn sẽ thấy đây là tòa thành!
… với bảy lần tường
cao vút bao quanh và một dòng suối chảy bên ngoài tất cả.
Các bạn tới đây trong
những chiếc xe Maria Đen (Tù nhân gọi những chiếc xe chuyên chở tù sơn đen, kín
mít là xe Maria Đen) nên các bạn chưa nhìn thấy rõ cảnh vật quanh đây.
… Tôi nhìn thấy bốn
Hiện Diện rất mạnh đi tới những Hiện Diện không vui, không buồn.
Những linh hồn nào mà
sự hiểu biết soi sáng bước đi cả ở Địa ngục kia…?” (Những câu thơ này được
trích trong chuyện thơ dài The Divine Comedy của thi hào Dante)
- Thôi, đủ rồi Lev Grigorich, anh thi sĩ quá.- Valentine
Pryanchikov nói.- Tôi có thể giải thích cho ông bạn đây hiểu về nhà tù đặc biệt
này rõ ràng hơn anh nhiều. Bạn chỉ cần nhớ lại một bài đăng báo trong đó có
câu: “Kinh nghiệm cho ta thấy ta lấy được len nhiều hay ít ở lưng cừu chính là
do việc ta nuôi cừu và săn sóc cừu”.
Chương 3 - Một lễ giáng sinh Cơ đốc
Cây Nô en của họ là một cành thông cắm vào một cái khe trên
cái bục gỗ. Một dây bóng đèn nhỏ, ánh sáng yếu ớt được quấn hai vòng quanh thân
cây, đầu dây cắm vào bình điện nhỏ đặt dưới sàn.
Cây Nô en được đặt trong một góc phòng, giữa hai dãy giường
tầng, một tấm nệm giường được dựng lên để che ánh ngọn đèn điện trên trần và
chiếu vào đó.
Sáu người đàn ông bận những bộ quần áo binh sĩ Nhảy dù dầy,
màu xanh đậm, đứng xúm xít quanh cây Nô en tí hon. Họ chụm đầu vào nhau và cúi
mặt yên lặng. Max Richman, một người trong bọn họ, đọc khẽ bài kinh cầu nguyện
đêm Giáng sinh của đạo Cơ đốc.
Không còn ai khác ngoài sáu người này trong căn phòng rộng
chỉ có những chiếc giường hai tầng đứng xếp hàng. Tất cả đều là giường sắt. Sau
bữa ăn tối và một giờ đồng hồ đi bộ ngoài sân, mọi người đều đi làm việc đêm.
Max đọc xong bài kinh và sáu người cùng ngồi xuống. Năm
người trong bọn họ đang ngẩn ngơ vì tâm hồn dạt dào những kỷ niệm vừa dịu ngọt
vừa cay đắng về quê hương họ, nước Đức mến yêu, nước Đức trật tự của họ, ở đó
dưới những mái nhà lợp ngói đá đen, cuộc lễ đêm nay được coi là lễ quan trọng nhất
trong năm, cuộc lễ được cử hành ở đó trong không khí thiêng liêng, tin tưởng
vui vẻ và ấm cúng biết là chừng nào. Người thứ sáu trong bọn họ là một người
đàn ông vóc dáng lực lưỡng với một bộ râu quai nón đen nhánh như những nhà tiên
tri trong Thánh Kinh - tên anh là Lev Rubin, anh là người Do Thái và anh là một
đảng viên Cộng sản.
Số mệnh của Lev Rubin liên hệ nhiều đến nước Đức cả trong
thời chiến và thời bình.
Trong thời bình, anh là một nhà ngôn ngữ học chuyên về Đức
ngữ, anh có thể nói tiếng Đức thông thạo không sai một âm tiết, đôi khi cần đến
anh còn có thể nói được cả những thổ ngữ của miền núi nước Đức. Anh có thể nói
đến bất cứ một văn thi sĩ người Đức có tác phẩm xuất bản như nói đến một người
bạn quen. Anh có thể tả cảnh những thị trấn nhỏ nhất hai bên dòng sống Rhin như
anh từng sống ở những nơi đó nhiều năm.
Nhưng thực ra, Lev Rubin chỉ mới đặt chân lên đất Áo – rồi
từ đó anh ra mặt trận.
Trong trận đại chiến thế giới, anh là một thiếu tá Sô Viết
trong đoàn đặc biệt mệnh danh là “Lực lượng phá hoại tinh thần chiến đấu của
binh sĩ địch”. Anh tới những trại giam tù binh tuyển chọn những tù binh Đức nào
chịu giúp anh thi hành công tác. Anh đem những tù binh này ra khỏi trại giam,
anh huấn luyện và cấp cho họ những vật dụng cần thiết. Vài người trong bọn này
vượt được chiến tuyến bằng những bộ quân phục giả, phù hiệu giả, căn cước quân
nhân giả, giấy tờ giải ngũ giả và những bánh thuốc nổ TNT thật. Họ đặt thuốc nổ
phá hoại những cây cầu ở sau lưng quân Đức Quốc xã và tìm đường về nhà để sống
cho đến ngày họ bị bắt. Với nhiều người khác, Lev Rubin thảo luận về Goethe và
Schiller và những tờ truyền đơn tuyên truyền, sau đó anh cho những người này
lên những chiếc xe phóng thanh đi ra mặt trận dùng loa kêu gọi những chiến hữu
của họ hãy quay súng bắn lại Hitler.
Với một số ít người khác, anh vượt qua mặt trận, và chỉ dùng
lời thuyết phục, anh chiếm được nhiều cứ điểm của quân Đức, cứu được nhiều tiểu
đoàn Xô Viết.
Nhưng Lev Rubin không thể thuyết phục được những người lính
Đức nếu anh không trở thành một người như họ, nếu anh không yêu thương họ chân
thành, và bắt đầu ngày quân Đức bại trận, anh không thể không thương hại họ.
Chỉ vì việc sau cùng này, anh bị bắt. Sau cuộc tấn công tháng Giêng năm 1945,
anh bị kết tội phản bội, vì anh đã chống lại chiến dịch trả thù “máu trả máu,
chết trả chết” do Hồng quân Xô Viết phát động trên đất Đức chiến bại. Lời kết
tội đúng, Lev Rubin không hề nói là anh oan. Xong sự thật phức tạp hơn, tế nhị
hơn, rắc rối hơn nhiều những gì được đăng tải trên các báo hồi đó và ghi trong
bản án kết tội anh.
Hai chiếc bàn nhỏ được kê sát vào nhau cạnh cây Nô en làm
thành bàn ăn. Họ bắt đầu thưởng thức món đồ hộp mua được từ những Hợp tác xã
thực phẩm – (tù nhân ở những nhà tù đặc biệt được quyền gửi mua thức ăn ở những
tiệm bán thực phẩm ở Mạc Tư Khoa nếu họ có tiền) – Sau đó họ chia sẻ nhau chiếc
bánh Nô en do họ làm lấy và cà phê lạnh. Cuộc nói chuyện bình thường của những
cuộc họp mặt anh em nổi lên. Max hướng dẫn cuộc nói chuyện về những đề tài hòa
bình: những phong tục, tập quán xưa cũ, những câu chuyện cảm động về đêm Giáng
sinh. Alfred, mang kính trắng, một sinh viên không được học hết khoa vật lý ở Vienna , nói chuyện rất vui
với giọng nói người Áo của anh. Gustav, một đoàn viên đoàn Thanh niên Hitler,
bị bắt một tuần lễ sau ngày chiến tranh kết liễu, một thanh niên còn quá trẻ,
má bầu, tai hồng, ngồi mở lớn cặp mắt xanh nhạt nhìn cây Nô en, không dám tham
dự vào cuộc nói chuyện của các bậc tiền bối.
Tuy vậy, cuộc nói chuyện rồi cũng quay về với chiến tranh.
Một người trong bọn nhớ lại lễ Giáng sinh năm 1944, năm năm trước đêm nay, khi
tất cả những người Đức đều kiêu hãnh vì trận tấn công ở miền rừng núi Ardennes,
y như những chuyện đã xảy ra thời thượng cổ, trong trận tấn công này, kẻ thua
đuổi theo kẻ thắng. Họ nhớ lại trong đêm Giáng sinh năm ấy, toàn thể nước Đức
đã lắng nghe tiếng nói của Goebbels.
Rubin, những ngón tay rứt nhẹ những sợi trổ ra ngoài bộ râu
đen nhánh của anh, công nhận chuyện này. Anh nhớ rõ bài diễn văn đêm Giáng sinh
năm xưa của Goebbels nói với một sự xúc động sâu xa như y đích thân gánh chịu
tất cả gánh nặng đang làm cho nước Đức gục ngã. Có thể trong đêm đó Goebbels đã
có linh tính biết trước cái chết của riêng y.
Reinhold Zimmel, cựu Quận trưởng SS, vì quá cao nên phải
ngồi khom lưng để đầu khỏi chạm thành giường, bất mãn vì câu nói lịch sự của
Rubin. Y không thể chịu nổi việc gã Do Thái kia dám lên tiếng phê bình
Goebbels. Y không bao giờ thèm ngồi chung bàn với gã Do Thái đó nhưng đêm nay
là đêm Giáng sinh, nếu y không chịu thì y sẽ không được dự cuộc họp mặt với
đồng bào của y. Y không bằng lòng nhưng bốn người Đức kia quyết định phải mời
Rubin đến dự cho bằng được. Vì với nhóm người Đức nhỏ xíu lạc lõng, chìm mất vì
số mệnh trong nhà tù này, người duy nhất có thể hiểu được họ là viên Thiếu tá
của cái quân đội đã đánh bại quân đội họ, người đã sống qua cuộc chiến với việc
gieo rắc nghi ngờ và phá hoại quanh họ. Chỉ có người này mới có thể giải thích
cho họ biết những phong tục, tập quán của giống người xa lạ ở đây, chỉ cho họ
cách xử sự như thế nào là đúng và dịch cho họ những tin tức thế giới từ tiếng
Nga sang tiếng Đức cho họ nghe.
Với mục đích nói ra một câu gì đó làm cho Rubin phải khó
chịu đến tối đa, Zimmel nói rằng Đức quốc thời đó có cả trăm diễn giả tuyệt vời
như Goebbels và y vẫn lấy làm lạ không hiểu tại sao những người Bôn Sơ Vích chỉ
thích đọc những bài diễn văn đã được viết trước và được cấp trên chấp thuận cho
đọc.
Đúng như ý muốn của Zimmel, lời nhận xét có tính cách chê
bai này làm cho Rubin khó chịu, anh càng khó chịu hơn khi thấy sự chê bai đó
đúng. Nhưng anh không thể giải thích những lý do lịch sử của việc ấy với tên
sát nhân này. Rubin ghê tởm Zimmel. Cảm giác ghê tởm vẫn mạnh như ngày đầu. Anh
nhớ lại lần đầu tiên anh nhìn thấy y đến đây từ khám đường Butyrshkaya trong
chiếc áo da đã rạn hãy còn dấu vết huy hiệu SS thường dân – bọn SS thường dân
là bọn tàn ác, dã man nhất hạng. Ngay cả nhà tù và những năm tù đày vẫn không
xóa được những nét tàn ác trên mặt Zimmel. Dấu hiệu riêng của những tên hành hạ
người đã được đóng sâu trên bộ mặt ấy. Sự có mặt của Zimmel trong bữa ăn này
làm cho Rubin mất vui nhưng nhóm người Đức lẻ loi này khẩn khoản mời anh đến
dự, và anh thương hại họ cô đơn và lạc lõng ở đây, anh thấy anh không thể nào
làm cho ngày lễ của họ trở thành đen tối vì sự từ chối của anh.
Nén giận, Rubin nói bằng tiếng Đức lời khuyên của Pushkin
cho một số người: Đừng đưa ra lời xét đoán nào cao hơn mũi giầy của mình.
Max, hoảng hốt và vội vàng dẹp sự mâu thuẫn đang nhen nhúm
như ngọn lửa sắp bốc lên. Max là người, dưới dự hướng dẫn của Lev Rubin, đã đọc
được từng vần thơ của Puskhin bằng tiếng Nga. Tại sao, Max hỏi, Reinhold lại
không ăn bánh với bơ? Và Lev Rubin ở đâu trong ngày Giáng sinh năm 1944?
Reinhold phết một chút bơ lên miếng bánh và Lev Rubin nhớ
lại rằng ngày Giáng sinh năm ấy anh ở trong một pháo đài trên chiến tuyến Narew gần Rozan.
Và trong lúc năm người đàn ông Đức tưởng nhớ, mơ về nước Đức
bị giày xéo, chia xẻ, tan nát của họ với những màu sắc rực rỡ nhất do tưởng
tượng của họ đắp lên đó, Rubin đột ngột nhớ lại tuyến đầu Narew và những khu
rừng ẩm ướt quanh hồ Ilmen.
Ánh đèn xanh đỏ trên cây Nô en sáng lên trong mắt của sáu
người ngồi dưới gốc cây.
Sau đó, Rubin được hỏi về những tin tức mới. Anh cảm thấy
xấu hổ, ngượng ngùng vì những sự kiện xảy ra trong tháng Chạp này ở trên đất
Nga cũng như trên khắp trái đất.
Nhưng anh vẫn không sao có thể xử sự như một kẻ không phải
là người Cộng sản và từ bỏ hy vọng truyền bá chủ nghĩa cho những người này.
Xong, anh vẫn không sao có thể giải thích cho họ hiểu được rằng trong chế độ xã
hội phức tạp này sự thật nhiều khi tiến diễn theo đường lối quanh co và biến
dạng. Vì vậy anh tuyển lựa cho họ – cũng như anh từng tuyển lựa cho chính anh –
những sự kiện nào có tính cách chứng tỏ chủ nghĩa xã hội sẽ thắng, anh quên đi
những sự kiện nào trái với điều ấy, kể cả những sự kiện làm cho người ta khó
hiểu.
Nhưng trong tháng Chạp đặc biệt này, ngoài cuộc hội thảo Nga
Xô Viết – Trung Hoa cộng sản vẫn kéo dài và ngày kỷ niệm sinh nhật thứ bảy mươi
của vị Lãnh đạo Nhân dân, không còn sự kiện gì đáng để nói cả. Thực ra còn có
nhiều chuyện có thể nói về vụ xử án Traicho Kostov, nhưng nếu nói đến vụ xử
này, anh sẽ bắt buộc phải kể rằng đó là một trò hề sống sượng, vụng về, rằng
những phóng viên nhà báo đến dự phiên tòa xử đã được, sau một chậm trễ khó hiểu
nhiều tiếng đồng hồ, phát một bản thú tội giả mạo nói rằng do chính tay Kostov
viét trong khám tử tội – những chuyện này làm cho Rubin cảm thấy nhục và anh
thấy rõ là chúng không thể có lợi cho việc tuyên truyền chủ nghĩa.
Do đó Rubin chỉ nói với họ về những chiến thắng lịch sử của
Đảng Cộng sản Trung Hoa.
Max chăm chú nghe Rubin nói. Thỉnh thoảng y lại gật đầu tỏ
vẻ đồng ý, tán thành. Đôi mắt nâu như trái ô liu của Max biểu lộ sự tin tưởng
ngây thơ. Trước đây Max hoàn toàn tin tưởng và trung thành với Rubin, nhưng từ
ngày xảy ra cuộc phong tỏa Bá Linh, y bắt đầu nghi ngờ về sự đứng đắn của những
nguồn tin Rubin vẫn liều mạng sống để nghe trộm những bản tin của hai đài phát
thanh BBC và Colonge phát đi bằng tiếng Đức bằng một cái máy thâu thanh tí hon
do chính tay y chế tạo bí mật. Mỗi ngày Max đều ráp cái máy thâu thanh này,
nghe tin xong lại tháo rời ra từng bộ phận cất đi dù rằng đó là một cái máy
thâu thanh. Với cái máy này không những Max chỉ biết rõ rằng Traicho Kostov đã
lên tiếng tố cáo ở giữa tòa việc mình bị bắt buộc phải ký vào những bản thú tội
viết sẵn, những kế hoạch của Liên minh Bắc Đại Tây dương và những tin tức kinh
tế của Tây Đức. Tất nhiên là Max đều nói lại tất cả những tin tức này cho những
người Đức ở tù với anh cùng biết.
Tuy vậy, tất cả năm người vẫn chăm chú nghe Rubin với những
vẻ mặt tin tưởng.
Bây giờ Rubin thấy rằng đã đến lúc anh nên từ biệt họ. Đêm
nay cũng như mọi đêm, anh vẫn phải đi làm việc đêm. Rubin thốt ra vài câu ca
ngợi cái bánh ngon và chàng sinh viên Vienna ,
người tạo ra cái bánh, sung sướng nhận lời khen ngợi. Sau đó Rubin xin kiếu từ.
Năm người Đức giữ anh lại theo phép lịch sự trước khi để anh đi. Sau khi Rubin
đi khỏi phòng, họ chuẩn bị nho nhỏ những bài ca Giáng sinh.
Lev Rubin đi ra hành lang, tay ôm một quyển từ điển Mông Cổ
– Phần Lan và một quyển tiểu thuyết của Hemingway bằng tiếng Anh.
Hành lang rộng, đường đi lát bằng những phiến gỗ lớn, hai
bên vách không có cửa sổ và ở đây đèn điện được thắp suốt đêm. Cũng trong hành
lang này trước đây hơn một tiếng đồng hồ, Rubin cùng nhiều tù nhân cũ đứng xúm
xít hỏi chuyện những tù nhân mới đến. Một cánh cửa từ chân thang lầu mở ra hành
lang này, tiếp đó là nhiều cánh cửa phòng khác.
Cửa phòng và cửa xà lim. Được gọi là phòng vì cánh cửa không
có khóa, bị gọi là xà lim vì trên cánh cửa có lỗ lắp kiếng để lính canh có thể
đứng ngoài hành lang nhìn vào bên trong. Bọn lính canh ở đây ít khi dùng đến
những lỗ nhìn này nhưng người ta vẫn cứ cho đục chúng trên những cánh cửa như
trong một nhà tù thực sự theo đúng quy chế nhà tù, vì trên giấy tờ chính thức,
nơi này vẫn được gọi là “nhà tù đặc biệt”…
Qua một lỗ nhìn một cánh cửa đó, đêm nay người đi qua hành
lang có thể nhìn thấy một cuộc lễ Giáng sinh nữa. Đó là cuộc lễ của nhóm tù
nhân Latvia ,
nhóm người này cũng xin được phép nghỉ làm việc đêm nay để hành lễ.
Tất cả những tù nhân khác đều đi làm việc. Nghĩ đến chuyện
này Rubin hơi lo lắng rằng anh có thể bị đưa tới Thiếu tà Shikin để giải thích
về sự vắng mặt của anh.
Hai đầu hành lang là hai cánh cửa lớn. Một cửa hai cánh gỗ
dẫn vào một nơi trước kia, khi tòa nhà này còn là một giáo đường miền quê chưa
bị biến thành nhà giam, là tầng lầu ở trên bàn thờ. Nơi này bây giờ trở thành
phòng giam người. Cửa thứ hai bọc sắt kín từ trên xuống dưới, có lính canh và
người đứng ngoài không thể tự mở ra để bước vào. Tù nhân gọi cửa này là “Cửa
thánh”…
Rubin đi tới trước cánh cửa bọc sắt đó và gõ nhẹ lên khung
cửa sổ nhỏ trên đó. Bên trong, khuôn mặt chăm chú, bất động của người lính canh
hiện ra sau mặt kiếng.
Chìa khóa xoay nhẹ trong ổ khóa. Người lính này là một ông
dễ tính và điều này là một may mắn cho Rubin. Người lính này có thể không cho
anh vào phòng làm việc vì đã quá giờ và đưa anh tới gặp thiếu tá Shikin.
Rubin đi lên thang lầu. Hai đường thang làm thành một vòng
cung và gặp nhau ở tầng trên. Anh rảo bước dưới cây đèn đồng cổ lỗ đã từ lâu
rồi không còn xài được nữa và tới đẩy cánh cửa phòng nghiên cứu đề hàng chữ: ÂM
THANH.
Chương 4 - Boogie - Woogie [1]
Phòng nghiên cứu âm thanh là một căn phòng rộng, trần cao có
nhiều cửa sổ. Trong phòng bừa bộn và đầy chật những dụng cụ điện tử đặt trên
những tấm ván, quầy sắt, bàn ráp máy, trong những ngăn tủ ván ép được chế tạo
từ một công xưởng ở Mạc Tư Khoa đem đến, máy móc, dụng cụ cũng đặt đầy cả trên
mặt tất cả những chiếc bàn trong phòng.
Những bóng đèn điện nằm trong những lồng kiếng mờ trên trần
tỏa một làn ánh sáng dễ chịu khắp phòng.
Trong góc phòng có một vật trông như cái tủ đứng, bốn mặt
đều có kiếng. Đó là phòng ghi âm kín, tiếng động bên ngoài không lọt vào được.
Phòng ghi âm này có vẻ như chưa được hoàn toàn. Ở dưới chân ba mặt phòng ghi âm
có xếp những bọc rơm để ngăn tiếng động. Lúc này cánh cửa kiếng dầy của phòng
được mở rộng, tấm màn len che cửa được gạt sang bên để cho phòng thoáng khí.
Bên cạnh phòng ghi âm những hàng cốt đấu dây điện bằng đống sáng lên trên một
phiến đá đen.
Một thiếu nữ nhỏ nhắn, gầy gò, khuôn mặt hơi dài có những
nét nghiêm trang, ngồi ở cái bàn gần với phòng ghi âm nhất. Lưng nàng quay vào
cửa phòng, đôi vai gầy gò của nàng được choàng một chiếc khăn len.
Ngoài thiếu nữ này, trong phòng có chừng mười người nữa, tất
cả đều là đàn ông, tất cả đều bận những bộ y phục đậm màu giống nhau. Được soi
sáng bởi những bóng đèn điện trên trần và thêm nhiều bóng đèn nữa trên bàn, họ
bận rộn làm việc. Họ đi lại, nối dây điện, ráp những bộ phận máy vào nhau, hàn
điện, vặn kềm, gõ búa, ghi chép…
Ở ba chỗ khác nhau trong phòng có ba dàn máy radio, cả ba
dàn máy thâu thanh này đều không có vỏ bao ngoài, cả ba dàn đều đang phát thanh
những chương trình nhạc khác nhau. Ba tiếng nhạc hòa lẫn, mâu thuẫn, đối chọi
nhau trong phòng; nhạc jazz, nhạc dương cầm hòa tấu và nhạc dân ca miền Đông.
Rubin bước chậm qua phòng để đi đến bàn làm việc của anh,
hai tay anh cẩn thận ôm trước ngực quyển từ điển Mông Cổ – Phần Lan và quyển
tiểu thuyết Hemingway. Trên bộ râu quai nón rậm và đen của anh còn vương những
mẩu bánh vụn.
Dù tất cả những bộ y phục phát cho tù nhân đều được may cắt
cùng một kiểu giống nhau, những người đàn ông ở đây vẫn bận chúng khác nhau. Bộ
áo trên người Rubin có một nút áo ngực bị mất, dây lưng áo không được gài chặt,
những nếp áo thùng thình quanh bụng anh. Trái lại, người thanh niên có mái tóc
màu nâu gụ dài và bồng, người đứng chặn đường đi của Rubin, lại bận bộ quần áo
trên người anh như một chàng công tử hào hoa. Dây lưng áo được chàng gài sát
vào vòng bụng thon làm nổi bộ ngực nở và đôi vai lớn của chàng. Bên trong chàng
bận chiếc áo sơ mi màu xanh, tuy màu áo đã bạc vì giặt quá nhiều lần nhưng
trông vẫn còn sang và hợp với màu chiếc ca vát chàng mang trên cổ. Người thanh
niên này chặn mất lối đi của Rubin. Tay phải
chàng cầm cây hàn điện, chân trái chàng đặt trên một cái ghế đẩu. Cúi mình trên
đầu gối, chàng đang chú tâm vào việc ráp một bộ phận thâu phát thanh theo một
đồ hình trên tờ tập san Wireless Engineer mở trên bàn, miêng chàng hát khẽ:
Boogie-woogie…
boogie-woogie
Samba! Samba!
Boogie-woogie…
boogie-woogie
Samba! Samba!
Rubin không thể đi qua được và anh đứng lại đó với vẻ mặt
giả vờ sợ hãi, bối rối. Người thanh niên có vẻ như không hay biết có anh đứng
đó.
- Valentulya… - Rubin nói - Anh làm ơn nhích giùm cho tôi đi
nhờ.
Valentine, người thanh niên tóc hạt dẻ, không nhìn lại
Rubin, chàng nói bằng một giọng nhát gừng:
- Lev Grigovich! Anh làm rộn tôi trong lúc tôi đang làm
việc. Anh làm rộn mọi người. Anh làm mất thì giờ. Anh tới đây ban đêm làm chi?
Ở đây đâu có chuyện gì cho anh làm?
Chàng quay lại và đôi mắt sáng, trẻ trung của chàng lại để
lộ ý ngạc nhiên khi chàng nhìn Rubin:
- Một nhà ngôn ngữ học có thể làm được việc gì ở đây? Ha…
Ha… Ha… Anh không phải là kỹ sư. Thật xấu hổ.
Rubin dẩu môi ra như một anh bé con bị đời chế nhạo và đôi
mắt trợn lên:
- Chú em… Chú nên biết rằng trong xã hội này kỹ sư của chú
không có giá trị gì cả. Chú không thấy có những kỹ sư đi bán nước ngọt, sô đa
ngoài đường, đi làm bồi nhà hàng đó ư?
- Những kẻ thất bại đó không liên can gì đến tôi. Tôi không
ở hạng kỹ sư đó. Tôi là kỹ sư hạng nhất. Ông già râu dê nên nhớ kỹ điều quan
trọng đó.
Valentine đặt cây hàn điện xuống bàn và đứng thẳng người
lên.
Valentine có cái vẻ sạch sẽ, tươi tắn của tuổi trẻ. Cuộc đời
chưa in hằn một vết nhăn nào trên mặt chàng. Nhìn chàng, người ta khó có thể
tin rằng chàng đã tốt nghiệp đại học trước đại chiến, chàng đã nhập ngũ chiến
đấu trên mặt trận, đã bị bắt làm tù binh và sống sót từ trại tù binh của Đức
Quốc Xã, chàng từng sống ở Âu châu và giờ đây chàng đang sống năm tù thứ năm ở
ngay trên tổ quốc của chàng.
Rubin thở dài:
- Rất tiếc. Vì đồng chí không có giấy tờ chứng minh nên tôi
không thể tin được lời đồng chí…
- Giấy tờ chứng minh là cái quái gì? Anh tin ở con người hay
anh tin ở giấy tờ? - Người hỏi câu này là Pryanchikov.- Ha… ha… - Pryanchikov
cười lớn và nói tiếp - Quên giấy tờ đi chứ. Các bạn có tin không khi tôi nói
rằng tôi yêu đàn bà lắm, tôi yêu mê đàn bà đến điên dại.
Người thiếu nữ có khuôn mặt nghiêm trang không thể ngăn môi
nàng thoáng nở nụ cười.
Một tù nhân khác ngồi ở cái bàn cạnh cửa sổ ngừng tay làm
việc để gật đầu tỏ ý tán đồng với Pryanchikov.
- Trên lý thuyết, lời bạn vừa nói có thể tin được.- Rubin
nói với vẻ mặt suy nghĩ.
- Tôi thích tiêu tiền nữa.
- Bạn có thể thích tiêu tiền nhưng bạn không tiêu được, vì
bạn không có tiền.
Pryanchikov nhún vai:
- Nếu tôi yêu đàn bà, nếu tôi thích tiêu tiền, nhất định tôi
không thể là một kỹ sư xoàng. Này nhé… để có thể yêu được đàn bà và được đàn bà
yêu – tôi nói yêu nhiều đàn bà chứ không phải yêu một ạ – tôi cần có tiền.
Không phải chỉ cần có tiền mà thôi, tôi còn cần có nhiều tiền nữa. Và để có
nhiều tiền, tôi cần làm việc nhiều. Nói cách khác, muốn có nhiều tiền, tôi phải
là tay xuất sắc, tay cự phách trong ngành chuyên môn của tôi. Tôi không thể
xuất sắc được nếu tôi không có tài, nhất là nếu tôi không yêu nghề. Ha… Ha…
Đúng chưa? Lý luận chính xác của tôi làm bạn ngán chưa? Hình như bạn xanh mặt thì
phải.
Tuy là nói rỡn chơi cho vui nhưng sự tin tưởng cũng sáng lên
trên mặt Valentine. Chàng ngừng lại chờ đợi Rubin trả lời.
- A ha…
Người tù ngồi ở cái bàn đối diện với bàn thiếu nữ mặt buồn
đột nhiên la lên:
- Lev… Lại đây nghe… Tôi vừa thâu được tiếng nói của
Valentuya. Rõ lắm, tuyệt lắm. Tiếng nói nghe như tiếng chuông. Trong như tiếng
chuông. Tôi phải ghi ngay điều này vào báo cáo của tôi mới được. Đúng là như
tiếng chuông. Ta có thể nhận ra ngay tiếng nói này của ai bất kể những tiếng
động khác.
Người tù này mở vội một quyển sổ lớn bìa cứng, trên những
trang giấy trong quyển sổ này vẽ chi chít những hình kỷ hà tượng trưng cho đặc
tính của tiếng nói từng người.
Valentulya lại cầm cây hàn điện lên, chàng chỉ nói:
- Việc của anh làm chỉ là việc lẩm cẩm, không thể tin được.
Chàng đứng sát vào bàn nhường lối cho Rubin đi qua. Rubin đi
tới đứng cạnh bàn kỹ sư Gleb Nerzhin, người vừa gọi anh đến để nghe tiếng nói
trong như tiếng chuông.
Lev Rubin và Gleb Nerzhin là hai người bạn thân, thông cảm
nhau trong nhà tù này. Họ cùng yên lặng nhìn xuống trang giấy.
- Tiến bộ nhiều rồi đấy, Gleb.- Rubin nói nhỏ đủ cho một
mình bạn anh nghe.- Cùng với ấn bản âm thanh, chúng ta sẽ có thể đi tới việc
phát hiện những đặc tính của tiếng nói qua máy điện thoại.
Chợt Rubin giựt mình:
- Cái chi vậy?
Tiếng nhạc jazz lớn nhất trong phòng nhưng giữa những âm
thanh kèn đồng rộn rịp ấy họ nghe thấy một tiếng nhạc khác. Tiếng nhạc này
trong vắt như lúc có lúc không, phát ra từ chiếc radio nhỏ do họ làm lấy đặt
trên thành cửa sổ sau lưng Nerzhin.
- Đó là một phép lạ,- Nerzhin nói - bản Sonata thứ bảy cung Rê
thứ của Beethoven. Không biết vì sao, chưa bao giờ… Nghe đi. Đừng nói.
Hai người ghé tai vào chiếc radio nhưng tiếng nhạc jazz quá
lớn làm họ khó chịu.
- Valentine… - Nerzhin nói - Làm ơn cho chúng tôi nghe. Chiều
chúng tôi một chút.
- Tôi đã chiều các anh nhiều quá rồi.- Valentine đáp - Tôi
đã ráp dây vào máy cho các anh. Nếu tôi tháo dây ra các anh sẽ không biết đường
nào mà mò.
Người thiếu nữ duy nhất trong phòng nhướng đôi lông mày:
- Valentine Martunich… Tắt máy của anh đi. Làm sao nghe được
cả ba cái radio phát thanh cùng một lúc.
Nàng nói câu này mặc dù nàng cũng thích nghe nhạc jazz như
Valentine.
- Serafima Vitalyevna… Không thể được…
Valentine buông cây hàn điện xuống bàn, chàng đứng vịn tay
lên thành ghế và nói như người đang diễn thuyết trên diễn đàn:
- Một người trẻ tuổi, yêu đời như cô nhất định phải thích
nghe nhạc jazz, điệu nhạc khỏe mạnh, bổ dưỡng tinh thần. Cô không nên thương
hại vô lý những anh già bệnh hoạn. Cô phải nghĩ đến cô trước đã. Cô chưa bao
giờ nhảy bản Blue Tango hay sao? Cô chưa bao giờ được nhìn thấy những bước lướt
đi tuyệt diệu của Arkady Raikin? Nghĩa là cô chưa được biết những cái gì đẹp
nhất mà loài người có thể tạo ra được. Đáng buồn cho cô hơn nữa là cô chưa từng
bao giờ được sống ở Âu châu. Không ở đâu trên trái đất này cô có thể học sống
thanh thoát bằng ở Âu châu. Tôi chân thành khuyên cô: cô nên yêu một người nào
đó. Thật mà. Cô yêu ai cũng được, nhưng cô phải yêu. Yêu ai tùy cô, nhưng nhất
định là phải yêu trước đã. Rồi cô sẽ thấy ánh sao sáng trong trời đêm mặc dù
đêm không có sao, tiếng nhạc êm đềm trong không gian mặc dù quanh cô không có
nhạc…
Chàng say sưa nói và không để ý gì đến vành môi cay đắng mím
chặt của người thiếu nữ.
- Hắn lại bốc đồng rồi.- Rubin nói - Mình bắt buộc phải dùng
đến sức mạnh.
Và Rubin thò tay ra vặn tắt chiếc radio sau lưng Valentine.
Valentine quay phắt lại:
- Lev Grigorich… Ai cho phép anh…?
Chàng cau mày và cố gắng làm ra vẻ đe dọa.
Tiếng nhạc bản sonata thứ bảy bay vút lên trong như tiếng
suối. Trong phòng chỉ còn tiếng nhạc dân ca phát ra từ chiếc máy ở tít đầu kia.
Rubin xịu mặt xuống trước vẻ đe dọa hung hăng của chàng
thanh niên, bộ râu đen còn vướng những vụn bánh của anh run run khi anh hỏi:
- Kỹ sư Pryanchikov. Anh có còn thắc mắc gì về Hiến chương
Liên minh Đại Tây dương không? Anh đã viết di chúc chưa? Anh từ chối không chịu
để lại cho ai đôi giày vải cũ của anh?
Lời nhắc đến cái chết chung đó là một ước lệ bất thành văn
của những tù nhân ở đây. Mỗi lần có người nổi nóng là người khác có bổn phận
hỏi y một câu tương tự. Quả nhiên câu hỏi này có mãnh lực làm cho Pryanchikov
dịu lại. Chàng nhìn vào mắt Rubin và dịu giọng:
- Anh làm tôi phát điên. Dù ở tù, ít nhất mình cũng phải có
một chút tự do chứ.
Có một người cất tiếng gọi Pryanchikov. Chàng lặng lẽ bỏ đi,
nét mặt vẫn u buồn.
Rubin cũng lặng lẽ ngồi xuống chiếc ghế sau bàn làm việc
dành riêng cho anh cạnh bạn của Gleb Nerzhin. Anh vội vã chú tâm nghe nhạc
nhưng tiếng nhạc đang êm đềm bỗng tắt ngang, mất hẳn không ngờ, như một bài
diễn văn bị cắt đứt ở giữa một tiếng. Bản sonata thứ bảy tiêu tan luôn.
Rubin thốt ra một tràng chửi thề trong bộ râu, những tiếng
chửi thề này chỉ có một mình Gleb Nerzhin nghe hiểu.
- Làm ơn đánh vần giùm, tôi nghe không kịp.
Gleb nói đùa nhưng không cười. Gleb Nerzhin và Lev Rubin
ngồi đâu lưng vào nhau. Họ quen nói nhỏ với nhau mà không ai quay lại. Họ có
thể nói với nhau cả tiếng đồng hồ mà người ngồi xa họ vẫn không hiểu.
- Tôi thật không may… - Rubin dằn giọng - Thế là tôi mất dịp
nghe bản nhạc tôi chưa từng được nghe bao giờ.
- Đó lại tại vì anh sống không có tổ chức. Đã bao lần tôi
nói với anh điều ấy?
Gleb Nerzhin nói như người nói một mình. Trước đó vài phút
anh hào hứng, hăng hái thâu tiếng nói của Pryanchikov để thí nghiệm, nhưng bây
giờ anh âu sầu và mệt mỏi:
- Bản sonata của Beethoven là một bản nhạc tuyệt vời. Nhưng
tại sao nhạc sĩ không đặt cho nó một cái tên như tất cả những bản nhạc khác?
Như “Nhạc khúc rực rỡ” chẳng hạn. Đúng lắm chứ. Tất cả những gì chứa đựng trong
nó sáng lên, long lanh, tốt và xấu, vui lẫn buồn, như trong cuộc đời. Và cũng
như cuộc đời… nó không có đoạn kết… Có thể gọi là “Nhạc đời” Anh làm gì mà đến
muộn vậy?
- Tôi dự lễ Giáng sinh với những người bạn Đức.
- Tốt.- Gleb nghĩ thầm và nói: - Tôi mến thái độ của anh đối
với bọn họ. Hay lắm. Tôi biết anh vẫn dành nhiều thì giờ để dạy chàng Max học
tiếng Nga trong lúc anh có đủ các lý do để thù hận họ.
- Thù hận? Không, tôi không thù hận gì họ nhưng tôi cũng
phải nói rằng cảm tình trước đây của tôi đối với họ đã mờ đi nhiều. Ngay cả anh
chàng Max, dù trước đây không biết gì đến chính trị, cũng phải chịu chung trách
nhiệm với bọn giết người. Ít nhất họ cũng đã không làm gì để ngăn cản bọn giết
người.
- Cũng như chúng ta giờ đây, chúng ta không làm gì hết để
ngăn cản Abakumov và Shishkin - Myshkin.
- Anh nghe tôi… lần này là lần đầu tiên và cũng là lần cuối
cùng… tôi là người Do Thái nhưng tôi cũng là người Nga. Và tôi tuy là người Nga
nhưng tôi cũng là một công dân của thế giới!
- Hay lắm. Công dân thế giới. Nghe có vẻ hiền lành và không
khát máu chút nào.
- “Vì là công dân thế giới, họ có lý khi họ bỏ tù chúng ta.
- Tất nhiên là họ có lý rồi. Vậy mà anh vẫn cứ cố gắng làm
cho Hội đồng Xô Viết tối cao thấy rằng họ sai.
Chiếc radio trên thành cửa sổ đang loan bản tin thành tích
thi đua gia tăng năng suất trong ngày. Gleb Narzhin đưa tay ra lạnh lùng vặn
nút radio, làm mất đi giọng nói khàn khàn của xướng ngôn viên. Khuôn mặt mệt
mỏi của Gleb có màu xanh tái.
Valentine Pryanchikov lúc này đã đặt hết tâm trí vào một
công việc mới. Chàng vừa làm việc vừa hát như một kẻ tự do, không ưu tư và bất
cần đời…
Boogie-woogie…
boogie-woogie
Samba! Samba!
Chương 5 - Một cuộc sống êm đềm
Gleb Nerzhin cùng tuổi với Valentine Pryanchikov nhưng trông
anh có vẻ già hơn nhiều. Mái tóc hung hung đỏ của anh không thưa và cũng chưa
bạc, song trên khuôn mặt mệt mỏi của anh đã có nhiều vết nhăn đậm, những vết
nhăn xúm xít ở hai đuôi mắt anh, ở hai bên mép anh và trên trán anh có nhiều
đường nhăn dài. Nước da anh như phai màu vì cuộc sống thiếu ánh nắng và gió.
Nhưng thực ra chính là vì vẻ hà tiện cử chỉ làm cho anh có vẻ già – tiết kiệm
cử chỉ là một thái độ mà thiên nhiên đã dạy cho những người sống lâu năm trong
tù để có thể có đủ sức chống chọi lại với chế độ tàn nhẫn của những trại tập
trung. Thực ra, sống trong nhà tù đặc biệt này, tù nhân được tương đối tự do,
được ăn thịt và năng lực không bị tiêu mất vì những công việc lao động chân tay
nặng nhọc. Nerzhin không cần phải tiết kiệm cử chỉ nhưng anh biết rõ hơn ai hết
tình trạng bấp bênh đầy bất ngờ của bạn tù của anh ở đây nên anh vẫn tiết kiệm
để đề phòng, anh muốn thái độ đó trở thành một thói quen thường trực của anh.
Từng chồng sách vở và hồ sơ dựng lên trên mặt bàn của anh,
ngay cả phần mặt bàn dành để làm việc cũng bị hồ sơ xâm lấn, lẫn vào đó là
những bản đánh máy, những tập san Nga và ngoại quốc – tất cả đều mở. Bất cứ ai
cũng có thể nhìn thấy trên cảnh hỗn độn, vô trật tự của mặt bàn này dấu vết để
lại của cơn bão lốc tư tưởng khoa học.
Nhưng thực ra, cảnh đó chỉ là một bộ mặt che đậy. Nerzhin
dàn cảnh đó mỗi ngày đề phòng những viên chức có quyền kiểm soát trong nhà tù
này bất ngờ đến bàn anh xem anh đang làm gì.
Ngay lúc này, anh không để mắt tới những gì được bày trên
bàn anh. Anh đã kéo tấm màn che cửa sổ hở ra và anh nhìn qua đó ra vùng tối đen
bên ngoài. Xa kia trong nền trời đêm âm u, ánh sáng của Mạc Tư Khoa lấp lánh,
thành phố bị che khuất vì một ngọn đồi, sáng như một cột ánh sáng mờ khổng lồ
làm cho nền trời trở thành có màu nâu sậm.
Chiếc ghế ngồi đặc biệt của Nerzhin, chiếc ghế có lò xo mắc
vào thành để người ngồi có thể ngả người được một cách thoải mái, cái bàn bằng
sắt có nhiều ô kéo không phải là kiểu bàn được chế tạo trong Liên bang Xô Viết
cùng chỗ ngồi nhìn ngay ra cửa sổ phía nam của Nerzhin có thể là những bằng
chứng cho những người quen thuộc với lịch sử biết rằng anh là một người lập nên
nhà tù này, hoặc nói một cách khác, anh là tù nhân đầu tiên trong số những tù
nhân đầu tiên được đưa tới làm việc ở đây.
*
Nhà tù đặc biệt này lấy tên làng Mavrino ở gần đây, làng này
từ lâu đã bị sáp nhập vào vùng ngoại thành Mạc Tư Khoa. Những nhà tù đặc biệt
kiểu này được lập lên vào một đêm tháng Bảy cách đây đã ba năm. Thoạt đầu,
người ta lựa trong những trại tập trung từng toán khoảng mười lăm người đưa về
sống trong một tòa nhà nào đó ở vùng Mạc Tư Khoa, chung quanh tòa nhà này đã
được rào bằng dây thép gai. Những nhà tù đặc biệt thời ấy được gọi là nhà tù
thời “Krylov” và được người ta nhớ lại như một thời dễ chịu hơn bây giờ nhiều.
Thời đó ở đây buổi tối tù nhân có thể được tự do đi quanh quẩn ở khu vực bây
giờ là “khu cấm”. Đó là khu bãi cỏ nằm giữa lối đi chung quanh nhà và hàng rào
dây thép gai. Khu này có cỏ xanh, mặc dù luật bắt phải cắt hết cỏ chung quanh
nhà tù đi vì bọn tù có thể ban đêm bò trên cỏ đến hàng rào nhưng ở đây người ta
vẫn để nguyên cỏ. Trong thời mới thành lập nhà tù đặc biệt Mavrino, ban đêm
những tù nhân đi dạo thường trông thấy Zhvakun, một trung sĩ chuyên gác đêm, mồ
hôi mồ kê vần những khúc gỗ do y lấy cắp được của đống gỗ trong nhà tù, luồn ra
dưới hàng rào dây thép gai để đem về nhà làm củi đun.
Trong thời gian đầu, không một ai, kể cả những cai ngục,
trong nhà tù Mavrino biết rõ về mục đích khoa học của nhà tù, nghĩa là không ai
biết những khoa học gia được đưa về đây sẽ làm gì, nghiên cứu gì? Suốt ngày tù
nhân bận rộn với việc tháo, mở những thùng gỗ đóng kín được hai chuyến xe hỏa
chở tới. Trong những thùng cây đó họ lấy ra những dụng cụ, máy móc về âm thanh,
vô tuyến, điện thoại, những bộ máy siêu tần số đã lạc hậu và hư hỏng, nhiều máy
thiếu mất những bộ phận quan trọng nhất. Về sau người ta được biết đó là những
dàn máy, những dụng cụ âm thanh học do quân đội Nga tịch thu được của người Đức
ở Bá Linh và gửi về, nhưng những dụng cụ điện tử tối tân nhất cùng những tài
liệu về những dụng cụ này đã bị những tù binh Đức lo việc đóng thùng, vô thùng
phá hủy, lấy đi mất trong khi gã Đại úy mật vụ được phái đến chỉ huy vụ này
suốt ngày mò mẫm đi khắp vùng Bá Linh để tìm bàn ghế, giường tủ bằng gỗ quý gửi
về cho các sĩ quan thượng cấp và cho chính nhà gã. Tất nhiên là những đồ đạc
này cũng được coi là chiến lợi phẩm. Gã đại úy này biết rành về bàn ghế, giường
tủ hơn là biết về dụng cụ âm thanh học.
Trong khoảng một năm trở lại đây, cỏ trong vườn bao quanh
nhà đã bị cắt. Khung cửa sắt từ nhà ra khu vườn nơi những tù nhân tập thể dục
luôn luôn khóa và có lính gác. Nhà tù đặc biệt Mavrino được chuyển từ quyền tài
phán của Béria sang quyền tài phán của Abokumov và mọi người trong nhà tù này
được đặt vào việc nghiên cứu âm thanh để chế tạo những máy điện thoại riêng cho
Stalin và dò xét những cuộc điện đàm bí mật. Việc nghiên cứu này được giới hạn
trong vòng một năm nhưng đã kéo dài đến hai năm mà vẫn chưa có kết quả đáng kể.
Cuộc nghiên cứu mỗi ngày một trở thành rộng hơn, phức tạp hơn kéo theo nhiều
công tác phụ thuộc khác. Giờ đây trên bàn giấy Rubin và Nerzhin, cuộc nghiên
cứu đã đi đến giai đoạn tìm cách nhận ra tiếng nói đặc biệt của một người qua
máy điện thoại và khám phá ra có những gì làm cho tiếng nói của con người không
thể lẫn lộn được với nhau.
Trước họ, chưa có ai thực hiện cuộc nghiên cứu thí nghiệm
này. Họ không tìm thấy một báo cáo, một tài liệu nhỏ nào có sẵn liên can đến
việc họ tìm tòi. Họ được cho thời hạn sáu tháng để hoàn thành và sau đó được
nới thêm sáu tháng nữa. Họ tiến triển chậm và giờ đây, thời gian còn lại của họ
đã gần hết.
Bị ám ảnh sự thúc bách này, Rubin than:
- Không biết sao đêm nay tôi không muốn làm việc chút nào.
- Lạ nhỉ?- Nerzhin nói - Anh chỉ mới tham dự chiến tranh có
bốn năm, mới ở tù có năm năm mà anh đã mệt mỏi rồi sao? Anh nên đi nghỉ vài
tháng ở Crimea [2].
Họ yên lặng.
- Phải anh đang bận làm việc riêng không?- Rubin thản nhiên
hỏi.
- Có thể.- Nerzhin trả lời mơ hồ.
- Vậy thì ai sẽ là người làm cuộc nghiên cứu tiếng nói?
- Nói thật với anh tôi trông cậy ở anh.
- Kỳ cục thật, tôi cũng đang trông cậy ở anh.
- Anh là người không có lương tâm. Anh đã mượn được bao
nhiêu sách ở thư viện Lenin nhờ công việc này? Theo tôi biết sơ thì quyển Diễn
văn của những luật sư danh tiếng. Hồi ký của Koni, quyển Người nghệ sĩ chuẩn bị
của Stanishlavky. Làm gì có người tù thứ hai nào trên khắp liên bang này được
đọc một số sách như anh.
Rubin trề môi ra, cái trề môi này luôn luôn làm cho khuôn
mặt anh trở thành khôi hài:
- Kể cũng buồn cười. Tôi đọc tất cả những quyển sách mượn
được đó cùng với một người nữa ở đây, nhiều khi người đó đọc sách ngay trong
giờ làm việc. Hình như người đó là anh, phải không nhỉ?
- Đúng là tôi. Đáng lẽ phải làm việc thì tôi bắt chước anh
ngồi lén đọc sách. Ngay cả đêm nay nữa, đáng lẽ ra tôi phải làm việc rất hăng,
nhưng đêm nay tôi không làm việc được vì có hai việc ám ảnh tôi. Một việc thuộc
về dĩ vãng. Tôi đang bận tâm vì một số những tấm ván lát nền một tòa nhà.
- Những tấm ván lát sàn tòa nhà nào?
Rubin có vẻ ngạc nhiên khi anh hỏi bạn câu trên.
- Một tòa nhà ở cổng Kaluga,- Nerzhin âu sầu đáp.- một tòa
nhà được xây dựng trên cho nhân viên chính phủ ở. Tôi nhớ rõ đó là tòa nhà hình
tròn có cái tháp cũng tròn. Năm 1945, tôi ở trong số tù nhân được đưa đến xây
tòa nhà đó. Năm đó tôi chỉ là một anh thợ học việc. Tôi phụ trách việc lát
những tấm ván làm sàn nhà. Mới hôm nay tôi được tin là Roitman đang ngụ trong
tòa nhà đó. Tôi nhớ lại những sàn phòng do tôi dựng lên ở đó và tôi thắc mắc
nhiều vì việc những sàn phòng đó bị hở, hoặc kêu khi chân người dẫm lên. Nếu
sàn phòng hở hoặc kêu là do người thợ làm sàn không được rành nghề. Tôi thắc
mắc nhưng không có cách nào được biết rõ, mà có được biết rõ, tôi càng khổ sở thêm,
vì tôi không có cách nào sửa được khuyết điểm ấy.
- Anh thắc mắc là phải. Chuyện cuả anh đúng là một cơn ác
mộng. Còn việc thứ hai?
- Việc thứ hai là: chúng ta có thể làm việc được trong đêm
thứ bảy không khi ta biết rằng chủ nhật là ngày chỉ có những người tự do mới
được nghỉ làm việc?
Rubin thở dài:
- Ngay cả lúc này, khi chúng ta ngồi đây, những viên chức tự
do đang ở những chỗ giải trí vui vẻ. Tình trạng này quả là khó chịu.
- Nhưng họ có đến được những nơi xứng đáng hay không, họ có
được hưởng gì ở cuộc đời này nhiều hơn chúng mình không? Đó mới là vấn đề.
Họ nói chuyện nồng nàn nhưng thói quen giữ bí mật của những
tù nhân vẫn làm cho họ giữ được tình trạng nói chuyện với nhau mà người ngồi
gần họ nhất là Serafima Vitalyevna, người thiếu nữ gày gò với khuôn mặt nghiêm
trọng, một viên chức tự do, vẫn không nghe được tiếng họ nói.
Bây giờ hai người bạn tù ngồi hơi nghiêng mặt về cùng một
phía. Họ cùng nhìn ra cửa sổ về khu cấm bên ngoài nhà giam, họ không nhìn thấy
nhưng cảm biết tháp canh đứng sừng sững trong vùng đêm tối, họ nhìn thấy những
ánh đèn trong sương mờ và cột sáng bốc lên nền trời đêm từ thành phố xa.
Nerzhin, mặc dù là một nhà toán học, không xa lạ gì với địa
hạt ngôn ngữ học. Kể từ ngày Viện Nghiên cứu khoa học Mavrino – một tên khác
của nhà tù đặc biệt này – bắt đầu mở cuộc nghiên cứu về âm thanh ngôn ngữ Nga,
Nerzhin đã được xếp sắp làm việc chung với Rubin, nhà ngôn ngữ học duy nhất ở
đây. Trong hai năm trời, họ đã ngồi gần nhau, đâu lưng vào nhau mười hai tiếng
đồng hồ mỗi ngày. Và cũng ngay từ những ngày đầu gần nhau, họ đã khám phá ra họ
có nhiều điểm giống nhau: cả hai cùng nhập ngũ và chiến đấu trên mặt trận, họ
cùng ở mặt trận Tây Bắc và cả hai cùng có một số huân chương giống nhau, họ bị
bắt ở trên mặt trận cùng trong một tháng và cùng do một trung đội mật vụ Smersh
– những người đi bắt Rubin cũng là những người đến bắt Nerzhin – họ cùng bị bắt
dưới tinh thần một sắc luật gồm mười điều – mười điều này có thể áp dụng trong
tất cả mọi trường hợp, có thể dùng để kết tội và để bắt tất cả mọi người. Và cả
hai người cùng bị xử tù mười năm. Thực ra, gần như tất cả mọi người bị bắt đều
bị án tù mười năm. Sự khác biệt giữa họ chỉ là việc họ hơn kém nhau sáu tuổi -
Nerzhin trẻ hơn Rubin - và Nerzhin là đại úy còn Rubin là thiếu tá khi họ bị
bắt. Họ nghĩ rằng rất có thể trước cuộc Thế chiến xảy ra Nerzhin từng đến nghe
giáo sư Rubin giảng ít nhất là một lần trong trường đại học.
Hai người im lặng nhìn ra trời đêm một lúc lâu.
Rồi Rubin buồn rầu:
- Anh không có điều kiện để trau dồi kiến thức. Đó là điều
làm tôi lo nhất.
- Tôi không cần trau dồi kiến thức như ý anh, tôi không muốn
hiểu ý nghĩa của cuộc sống, của vật chất. Ở đời này thiếu gì người hiểu biết
nhưng có ích lợi gì đâu?
- Tôi có quyển sách này, anh nên đọc.
- Hemingway? Phải chăng đó lại là một quyển sách viết về đời
sống của những con bò rừng bị người ta đẩy vào đấu trường ở Tây Ban Nha?
- Không.
- Về những con sư tử bị người ta tàn sát ở Phi châu?
- Cũng không nữa?
- Đến cả chuyện người tôi cũng còn không cần biết, tôi cần
biết làm chi đến chuyện bò rừng, chuyện sư tử?
- Anh cần phải đọc quyển sách này.
Nerzhin gằn giọng:
- Tôi không cần phải làm bất cứ việc gì hết. Anh cần nhớ như
thế. Tôi đã trả hết nợ nần của tôi đối với xã hội, với cuộc đời, như anh bạn
của bọn mình là Spiridon đã nói.
Rubin vẫn quả quyết:
- Anh phải đọc. Đây là một quyển sách giá trị nhất trong
những quyển sách giá trị nhất của thế kỷ hai mươi.
- Sách này liệu có thể đem lại cho tôi những gì tôi đích
thực cần biết không? Tác giả nó có quả thật đã giải thích được sáng tỏ những gì
đã làm cho loài người hoang mang, bối rối không?
- Hemingway là một nhà văn thông minh, tinh thần tốt và vô
cùng lương thiện. Ngoài ra, ông ta còn là một chiến sĩ, một người đi săn, một
người bắt cá giỏi, ông thích rượu và thích đàn bà, ông yêu nhiều và sống thực
bất kể những giả dối của đời, một người đàn ông đơn giản, một nhà văn rất
người, ông có cái ngây thơ của một thiên tài…
- Thôi đi bạn… - Nerzhin cười nhẹ: - Tôi đã sống qua ba mươi
năm trời không có Hemingway và tôi còn cố sống được ít năm nữa. Trước đây anh
đã thuyết phục tôi đọc Capek, rồi Fallada. Đời tôi đã tan nát đủ rồi, đừng làm
cho nó tan nát thêm. Tôi cần tự mình tìm một hướng đi cho đời tôi mà không có
sự chỉ bảo của bất cứ ai, nhất là của mấy ông văn sĩ.
Nerzhin quay lại để ngồi thẳng vào bàn.
Rubin thở dài. Anh không nói nữa nhưng anh vẫn không cảm
thấy hăng hái làm việc.
Anh nhìn lên tấm bản đồ Trung Hoa lục địa đặt trên ngăn kệ
sắt. Anh cắt tấm bản đồ này từ một tờ nhật báo và dán nó lên một miếng giấy
dầy. Suốt năm ngoái anh dùng viết chỉ đỏ ghi lên đấy bước tiến của quân đội
Trung Hoa cộng sản và giờ đây, sau khi quân đội đó thắng lợi hoàn toàn, anh để
tấm bản đồ trước mặt anh để trong những lúc thất vọng và mệt mỏi, nó làm cho
anh phấn khởi.
Nhưng đêm nay nỗi buồn rầu tràn đầy trong tâm hồn Rubin,
chiến thắng lớn ở Trung Hoa cũng không làm cho anh vui lên được.
Nerzhin, thỉnh thoảng lại đưa đoạn cuối của cây viết bằng
plastic lên môi, ngồi yên suy nghĩ, rồi anh viết những hàng chữ nhỏ, thanh
thanh lên một tờ giấy giấu trong đống giấy tờ bừa bộn trên bàn:
Tôi nhớ lại một đoạn
Marx nói (tôi khó tìm được đoạn này), rằng giai cấp vô sản chiến thắng có thể
sống mà không cần tước đoạt hết tài sản tư hữu của giai cấp tiểu địa chủ. Điều
này có nghĩa là Marx nhìn thấy một biện pháp kinh tế nào đó chấp nhận sự có mặt
của giai cấp nông dân trong chế độ xã hội mới. Tất nhiên là Người Cày đã không
chịu tìm con đường mà Marx đã nói đến đó trong năm 1929. Nhưng tại sao ta lại
hy vọng một người như hắn nghĩ ra một điều gì giá trị và tỏ ra thông minh? Khi
một anh đồ tể đi làm thầy thuốc chữa bệnh… [Marx được nói tới đây là Karx
Marx, người khai sinh ra lý thuyết chủ nghĩa cộng sản. Người Cày được nói tới
đây là một tên hiệu trong nhiều tên hiệu của Staline]
Phòng Thí nghiệm và nghiên cứu âm thanh sống với nhịp sống
thường đêm của nó. Có tiếng động cơ ngừng nổ và tiếng người ra lệnh: “Chạy máy
kia… Tắt máy này!”
Tiếng nhạc du dương phát ra từ những chiếc radio. Có người
nào đó hỏi xin một ống điện 6K7.
Nhân một lúc không có ai nhìn
mình, Serafima Vitalyevna chăm chú nhìn Nerzhin, anh này vẫn cúi xuống viết
những hàng chữ nhỏ xíu lên trang giấy.
Thiếu tá an ninh Shikin đã ra
lệnh cho nàng phải theo dõi từng cử chỉ của tù nhân này.
Chương 6 - Trái tim một người đàn bà
Serafima Vitalyevna nhỏ bé đến
nỗi người ta không thể không gọi nàng là “Simochka”. Nàng bận bộ y phục bằng
vải len dày, choàng chiếc khăn len ấm trên vai và nàng là một trung úy thuộc Bộ
An ninh quốc gia.
Tất cả những viên chức tự do làm
việc trong Viện Nghiên cứu này đều là sĩ quan an ninh.
Những viên chức tự do, theo
những đạo luật do Staline ban hành áp dụng trên khắp lãnh thổ Liên bang Xô Viết
có rất nhiều quyền lợi. Trong số này có cái quyền được làm việc. Tuy vậy, quyền
này chỉ giới hạn trong có tám tiếng đồng hồ một ngày và sự làm việc của họ
không có tính cách sáng tạo, họ chỉ có việc kiểm soát những tù nhân. Bọn
tù, để bù lại tình trạng bị tước đoạt tất cả những quyền khác, được hưởng quyền
làm việc rộng rãi hơn: quyền làm việc mười hai tiếng đồng hồ một ngày. Những
viên chức tự do thay phiên nhau có mặt tuần tự ở khắp các phòng thí nghiệm và
vì vậy, bọn tù bị kiểm soát liên tục không ngừng kể cả trong bữa ăn sáng, tức
là từ 6 giờ sáng cho đến 11 giờ đêm.
Đêm nay, Simochka đến phiên đi làm đêm. Trong Phòng Nghiên
cứu âm thanh, người thiếu nữ nhỏ bé như con chim này là nhân vật duy nhất đại
diện cho chính quyền, cho hành pháp.
Theo những điều luật, nàng có mặt để bắt bọn tù phải làm
việc chứ không được ngồi chơi, nói chuyện láo, để họ không được dùng những dụng
cụ trong phòng vào việc chế tạo vũ khí, đặt mìn phá hoại, đào đường hầm ra
ngoài và nhất là để họ không thể dùng những bộ phận truyền thanh để chế máy thu
phát thanh liên lạc với Tòa Bạch ốc. Tới mười một giờ thiếu mười phút, nàng có
bổn phận thâu lượm tất cả những tài liệu tối mật cất vào tủ sắt và sau cùng,
đóng cửa và khóa cửa phòng. Trước khi về, nàng còn phải niêm phong cửa phòng để
không một ai có thể lén vào phòng được.
Simochka mới tốt nghiệp khóa kỹ sư truyền tin được nửa năm
và nàng được phái ngay về Viện Nghiên cứu khoa học tối bí mật này để làm việc
nhờ hồ sơ an ninh trong vắt của nàng. Viện Nghiên cứu này, vì những lý do an
ninh, có một con số để gọi thay tên nhưng những tù nhân vẫn cứ gọi bậy là nhà
tù. Những viên chức được nhận làm việc ở đây lập tức được hưởng quy chế đặc
biệt, họ được lãnh lương cao hơn, nhiều phụ cấp hơn những công chức thường. Họ
được hưởng phụ cấp về cấp bậc, phụ cấp quân phục và người ta chỉ đòi hỏi họ có
sự trung thành và mẫn cán.
Sự kiện ở đây người ta không ai hỏi gì đến những khả năng
chuyên môn về khoa học của Simochka là một may mắn cho nàng. Không phải chỉ
riêng nàng mà thôi, rất nhiều cô bạn cùng tốt nghiệp với nàng đều không hiểu
biết gì hết về khoa học. Tình trạng này có nhiều nguyên nhân. Những thiếu nữ
như Simochka tuy có học hết chương trình trung học nhưng rất kém căn bản Toán
và Vật lý. Khi vào đại học, các cô được biết rằng trong những phiên họp ông
Viện trưởng thường bất mãn với các giáo sư cho sinh viên điểm kém, và các cô
còn biết rằng sinh viên chẳng cần học gì hết vẫn được chứng chỉ tốt nghiệp như
thường. Ở Viện Đại học, mỗi lần có thì giờ học về Toán và kỹ thuật vô tuyến
truyền tin, các cô lạc lõng như những người mò mẫm trong rừng rậm. Những thì
giò dành cho việc học chuyên môn này rất ít, ít đến gần như hoàn toàn không có.
Cứ mỗi một mùa các sinh viên lại rời trường để về các nông trại tập thể sinh
hoạt canh tác mất chừng một tháng. Ở những nông trại này các sinh viên đi lượm
khoai tây, cà rốt. Vì những tháng sinh hoạt canh tác này, khi trở lại trường,
họ phải ngồi nghe giảng liên tiếp từ tám giờ đến mười giờ một ngày trong suốt
năm, họ không còn thì giờ để học bài và thực tập những gì họ học được. Ngoài ra
họ phải dự những buổi học tập chính trị mỗi tối thứ hai trong tuần, mỗi tuần ít
nhất họ cũng phải dự một cuộc thảo luận về một vấn đề chính trị nào đó. Rồi họ
còn phải làm những công tác xã hội: phát truyền đơn, tổ chức hòa nhạc, diễn
kịch. Họ còn phải làm nhiều việc riêng cho họ, tắm rửa, trang điểm, đi mua
hàng, may y phục. Đó là chưa kể đến việc đi coi xi nê, đi coi hát, đi nhảy. Nếu
một người con gái không được vui chơi trong những năm còn đi học, người con gái
đó sẽ suốt đời không còn biết vui chơi là gì. Khi đi thi Simochka và những cô
bạn cùng học của nàng viết những bài giải vào những mảnh giấy dấu vào những nơi
mà đàn ông không có quyền khám và trong giờ thi, họ lấy ra những mảnh giấy nào
mà họ cần, vuốt thẳng và đàng hoàng đặt lên bàn như tờ giấy nháp. Những vị giám
khảo tất nhiên là có thể khám phá ra ngay sự ngu dốt của những nữ sinh viên,
nhưng chính họ cũng tối tăm mặt mũi vì cả trăm phiên họp ủy ban, liên ủy ban,
học tập chính sách giáo dục, kiểm thảo vì những chương trình kế hoạch, vì những
báo cáo thành tích. Họ không thể có thì giờ để kiểm soát các nữ sinh viên nhiều
hơn. Nhất là sau một cuộc thi, khi số nữ sinh viên bị đánh hỏng nhiều, không
những chỉ những giáo sư bị chỉ trích mà thôi, cả những giám khảo cũng bị kết
tội là… phá hoại. Không ai muốn nghe thấy hai tiếng phá hoại. Trong xã hội cộng
sản, chỉ có thành công chứ không có thất bại, nhất là không thể có chuyện sinh
viên dốt. Những vị giám khảo không tìm cách đánh hỏng thí sinh, ngược lại, họ
tìm cách cho thí sinh đậu thật nhiều, càng đậu nhiều chừng nào càng tốt cho họ
chừng ấy.
Trong những ngày học cuối cùng. Simochka và nhiều cô bạn
cùng học thấy rằng họ không yêu nghề chuyên môn này chút nào, họ thấy đó là một
nghề đáng nản, không chút hào hứng, nhưng lúc này đã muộn quá rồi họ không còn
có thể thay đổi được nữa. Nhiều lúc Simochka run sợ khi nghĩ đến chuyện nàng sẽ
phải làm cái nghề này suốt đời.
Rồi nàng được phái về Mavrino. Nàng sung sướng khi thấy
người ta không đặt nàng vào việc nghiên cứu, và nàng run sợ khi biết đây là một
Viện Nghiên cứu khoa học đặc biệt gồm toàn những tù nhân bị bắt buộc phải làm
việc. Cùng được biệt phái tới Mavrino với Simochka còn có chín cô bạn khác cùng
tốt nghiệp một khóa với nàng. Các cô được người ta cho biết rằng công tác mà
các cô sắp làm đầy quan trọng và nguy hiểm hơn cả những công tác trong thời chiến, các cô sẽ
phải sống trong một ổ rắn độc trong đó mỗi lỡ lầm, mỗi sơ xuất đều có hậu quả
tai hại vô cùng. Các cô được nói cho biết rằng các cô sắp tới phục vụ ở một nơi
có những tên bất lương thuộc hạng hạ tiện nhất của xã hội, những tên không xứng
đáng được nói tiếng Nga. Các cô được cảnh cáo rằng những tên phản quốc đó nguy
hiểm vô cùng vì chúng không bao giờ để lộ bộ mặt thật đê tiện, bỉ ổi của chúng
ra, trái lại, chúng giấu diếm mặt thật của chúng dưới mặt nạ lịch sự, hiền
lành, học thức. Nếu có ai hỏi chúng về những tội lỗi mà chúng đã làm – việc này
bị cấm chỉ, các nữ đồng chí tuyệt đối không được hỏi – chúng sẽ chối tội với
những lời lẽ khéo léo và nghe chúng kể lể, người ta sẽ có thể lầm tưởng rằng
chúng bị oan, chúng đóng vai nạn nhân rất giỏi. Tuy vậy, đối với những con rắn
độc ấy, các cô không nên tỏ ra ác cảm với chúng, các cô không nên trút thù hận
lên đầu chúng, thái độ đúng nhất của các cô là đối xử bình thản với chúng,
không bao giờ nói với chúng bất cứ một chuyện gì ngoài chuyện công việc đang
làm, không làm giùm chúng bất cứ một việc gì, nhất là việc nhắn tin ra ngoài
hay đưa tin từ ngoài vào cho chúng, và mỗi khi thấy có sự vi phạm, hoặc ngờ có
vi phạm, hoặc thấy có thể có sự vi phạm, các cô phải lập tực báo cáo ngay với
sĩ quan an ninh, thiếu tá Shikin.
Thiếu tá Shikin là một người đàn ông hơi thấp, vạm vỡ, tự
coi mình là quan trọng và luôn luôn quan trọng hóa mọi việc. Ông có cái đầu
lớn, mái tóc xám cắt ngắn và hai bàn chân nhỏ nằm trong đôi giầy như giầy học
sinh. Trong khi giải thích cho những nữ viên chức mới đến trách vụ của họ và
nhân cách hạ tiện của bọn tù nhân. Thiếu tá Shikin nói rằng với một người nhiều
kinh nghiệm như ông, bọn tù nhân không thể lừa dối, che đậy được ông điều gì,
ông nhìn thấu trái tim rắn độc của chúng, nhưng trong số những nữ viên chức mới
tới này rất có thể có người mủi lòng xót thương số phận của chúng, người đó sẽ
có thể dại dột phạm lỗi vì lòng nhân từ như mượn giùm cho tên tù một quyển sách
từ thư viện bên ngoài mang vào, gửi giùm một bức thư, và ông nhấn mạnh: bất kể
thư gửi cho Maria hay Tania, tất cả những lá thư đó đều được chuyển đến cho bọn
gián điệp ngoại quốc… Và bổn phận của các nữ đồng chí là… ngoài việc kiểm soát
bọn tù nếu thấy chị em nào dại dột vi phạm như trên phải lập tức báo cáo ngay.
Báo cáo như vậy tức là giúp cho đồng chí bạn khỏi sa vào lẫm lỗi nặng hơn.
Tất nhiên là họ phải báo cáo với thiếu tá Shikin.
Sau cùng, thiếu tá Shikin cũng không quên nói cho các nữ
viên chức biết rằng phạm tội tư tình với tù nhân sẽ bị trừng phạt như một trọng
tội, can phạm sẽ bị đưa ra Tòa án Quân sự và sẽ có thể bị phạt tù khổ sai hai
mươi lăm năm.
Những nữ sinh viên mới ra trường không cô nào không run khi
nghĩ đến tương lai đen tối đang chờ đợi họ. Vài cô rơm rớm nước mắt. Nhưng sự
nghi ngờ đã được gieo vào lòng họ. Sau buổi nghe giải thích ấy, không cô nào
bàn tán về những chuyện họ được nghe nói để khỏi phải bày tỏ những ý nghĩ của
mình.
Buổi sáng đầu tiên Simochka theo thiếu tá kỹ sư Roitman bước
vào Phòng Nghiên cứu âm thanh, nàng có cảm giác như nàng đi vào chỗ chết, trong
vài phút đầu nàng như người sắp ngã ngất, nàng ngẩn ngơ không ghi nhận được gì
hết ở quanh nàng.
Kể từ buổi sáng đó, sáu tháng trời đã trôi qua và có một sự
kiện khủng khiếp đã xảy đến với Simochka. Không những niềm tin rằng chế độ Xô
Viết luôn luôn bị bọn đế quốc phá hoại đã tan vỡ ở trong nàng, nàng còn không
tin rằng tất cả những nhà khoa học bị cầm tù ở đây đều là những người đê tiện
phản bội nhân dân, làm những âm mưu có hại cho tổ quốc. Thoạt đầu nàng cho rằng
chỉ những tù nhân làm việc ở những phòng khác mới là bọn đê tiện, bọn phản bội.
Mỗi ngày, nàng ở gần mười hai tù nhân trong Phòng Nghiên cứu âm thanh và nàng
thấy họ lạnh lùng, thản nhiên với tự do và tù đày, nhận chịu số mệnh của họ,
bình tĩnh sống trước những hạn tù mười và hai mươi lăm năm, nàng thấy họ đều là
những khoa học gia, kỹ sư, chuyên viên, và họ chỉ chú tâm vào công việc, dù đó
không phải là việc họ tự ý làm, việc không có nghĩa lý gì đối với họ, việc
không đem lại cho họ một đồng thù lao hay một chút vinh quang nào, nàng cố gắng
nhưng nàng vẫn không sao có thể nhìn họ như những tên phản bội đê hèn mà nàng
từng thấy trong những tuồng hát, những phim ảnh, những tên sau cùng bao giờ
cũng bị những nhân viên phản gián thông minh và can đảm lột mặt nạ.
Sống giữa họ Simochka không thấy sợ hãi chút nào. Nàng cũng
không sao có thể thù ghét được họ. Những người này chỉ làm cho nàng kính trọng
họ, vì họ có tài, vì họ hiểu biết, vì họ can đảm thẳng thắn chịu đựng số mệnh
không may của họ. Và mặc dù lương tâm trách nhiệm của nàng, tình yêu tổ quốc
của nàng đòi hỏi nàng phải báo cáo tất cả những vi phạm dù nhỏ nhít, dù vô tình
hay hữu ý, của những tù nhân này với sĩ quan an ninh, rất sớm Simochka đã thấy
rằng trách nhiệm, cũng như bổn phận, là một cái gì đáng ghét và không nên làm
tròn.
Đặc biệt là nàng không sao làm tròn trách nhiệm dò xét và
báo cáo những hành vi của Gleb Nerzhin, người ngồi gần nàng nhất.
Simochka làm việc dưới sự chỉ dẫn chuyên môn của Nerzhin.
Nàng thực hiện những cuộc nghiên cứu, thí nghiệm nhỏ về tiếng nói. Ở Mavrino
người ta tìm mức độ trung thực của tiếng nói khi được truyền đi qua điện thoại
với nhiều máy điện thoại khác nhau.
Nerzhin nghiên cứu về tiếng nói trên bình diện toán học.
Cuộc nghiên cứu và thí nghiệm chung của Nerzhin và Simochka đem lại kết quả
tốt. Nerzhin đã viết được một báo cáo nhiều trang ghi lại kết quả này. Mỗi khi
hai người bị đưa vào tình trạng có quá nhiều việc phải làm. Nerzhin quyết định
thật nhanh chóng và sáng suốt những việc gì cần phải làm trước và những việc gì
có thể hoãn lại. Trong những giây phút phải quyết định đó, khuôn mặt Nerzhin
trở lại trẻ trung và Simochka tưởng tượng lại những cảnh chiến tranh mà nàng
thấy trên màn bạc, nàng thấy hiện ra trước mắt hình ảnh Nerzhin trong bộ quân
phục với cấp bậc đại úy trên cổ áo, mái tóc hung của chàng tung bay, chàng đứng
hiên ngang giữa làn khói súng hô lớn lệnh khai hỏa.
Nhưng Nerzhin chỉ muốn làm việc nhanh để sau khi làm hết
phần việc được người ta trao cho chàng, chàng khỏi phải làm gì hết. Có lần
chàng nói với Simochka: “Tôi chỉ hoạt động vì tôi ghét hoạt động”. Nàng e lệ
hỏi chàng: “Vậy thì anh thích cái gì?”. “Tôi thích nhìn ngắm, thích suy
tưởng…”, Nerzhin đáp. Và đúng như lời chàng nói sau khi đã làm đủ phần việc
phải làm trong ngày chàng thường ngồi hàng giờ không thay đổi tư thế. Làn da
mặt chàng những lúc ấy trở thành xanh xám, già đi và những nếp nhăn hiện rõ
trên đó. Vẻ tự tin của chàng biến đi đâu mất hết. Chàng trở thành chậm chạp và
do dự. Chàng suy nghĩ rất lâu trước khi hạ bút viết những hàng chữ nhỏ li ti
trên tờ giấy chàng giấu giữa đống hồ sơ, báo cáo và báo chí lộn xộn, trên bàn
chàng, cũng như đêm nay, nàng thấy chàng vừa mới viết. Nàng còn nhận thấy
Nerzhin cất tờ giấy mới viết đó ở đâu đó trên bàn chứ không bỏ vào ngăn kéo.
Nàng tò mò muốn biết chàng viết gì và viết cho ai. Nerzhin hoàn toàn không
biết, không ngờ rằng chàng đã trở thành một người chiếm trọn cảm tình và thán
phục của Simochka.
Cuộc đời con gái của Simochka đã trôi qua không có một chút
hạnh phúc. Nàng không xinh, không đẹp. Khuôn mặt nàng hư vì cái mũi quá dài,
quá nhọn. Tóc nàng thưa và được búi lại thành một búi nhỏ sau ót. Nàng không
chỉ bé nhỏ không mà thôi – nhiều người đàn bà thân thể bé nhỏ nhưng vẫn đẹp,
vẫn quyến rũ được đàn ông – cái bé nhỏ của nàng còn có sự gày gò, khẳng khiu
nữa. Nàng giống một cô học trò tiểu học hơn là một thiếu nữ sắp trở thành thiếu
phụ về tuổi tác. Đã thế nàng lại ít nói, ít đùa cợt, nét mặt lúc nào cũng ủ ê.
Và sự ít nói, ít đùa cười này làm cho những người thanh niên trẻ tuổi không ai
muốn gần nàng. Và năm nay nàng đã hai mươi lăm tuổi, Simochka vẫn chưa được một
người đàn ông nào tán tỉnh nàng, chưa người đàn ông nào ôm nàng, chưa người đàn
ông nào hôn nàng.
Nhưng cách đây không lâu, đúng ra là một tháng trước đây,
chiếc micro trong phòng ghi âm bị hư và Nerzhin gọi Simochka vào để sửa. Nàng
vào đó tay cầm cây dùi mở đanh vít và trong căn phòng hẹp không thể đủ chỗ cho
hai người đứng, nàng cúi mặt nhìn xuống chiếc micro trong lúc Nerzhin cũng đang
cúi nhìn và trước khi Simochka kịp biết, má nàng chạm vào má chàng. Cái chạm ấy
làm cho Simochka tưởng nàng chết ngất ngay tại chỗ. Đáng lẽ ra nàng phải lùi
lại nhưng lúc ấy toàn thân nàng như tê liệt, nàng cứ đứng chết trong tư thế â ấy,
mắt mở lớn nhìn ngây vào chiếc micro. Giây phút đó là giây phút dài nhất, kinh
dị nhất trong đời nàng, hai má họ nóng ran như bốc lửa, như dính liền vào làm
một. Và Nerzhin cũng không nhích ra. Đột ngột, chàng đưa hai tay lên nâng hai
bên đầu nàng và nhẹ hôn lên môi nàng. Toàn thân Simochka như chảy ra thành
nước. Lúc ấy, nàng không nói gì về luật lệ, và vi phạm, nàng chỉ thều thào:
“Cửa không đóng!...”
Một tấm màn nhung xanh đậm, lung lay, đu đưa, ngăn cách họ
với hoạt động ồn ào bên ngoài, với những người đang đi lại, làm việc, cười nói
bên ngoài, những người có thể vén tấm màn lên để nhìn vào bất cứ lúc nào. Tù
nhân Nerzhin, nếu bị bắt gặp, chỉ bị phạt nhiều lắm là mười ngày nằm xà lim. Nữ
viên chức Serafima Vitalyeyna, nếu bị bắt gặp, sẽ mất sự trong trắng của hồ sơ
lý lịch, mất chức vụ và có thể mất cả tự do. Nhưng nàng không có đủ sức để gỡ
nàng ra khỏi đôi bàn tay đang nâng đầu nàng.
Đây là lần thứ nhất trong đời nàng một người đàn ông hôn
nàng.
Và như vậy là sợi dây xích tàn nhẫn, vô tình bị đứt một mắt
xích. Mắt xích đó là mắt xích được làm bằng trái tim một người đàn bà.
Chương 7 – Ồ, thời gian, xin ngừng lại
- Cái đầu hói của vị nào ở sau đầu tôi đây?
- Này bạn, tôi đang ở trong một trạng thái tinh thần thơ
mộng. Chúng ta có thể nói chuyện với nhau được lắm.
- Trên nguyên tắc, tôi đang làm việc.
- Bận việc, bậy nào. Để tôi kể lại với anh câu chuyện đáng
kể này. Hồi nãy, tôi ngồi dưới cây Giáng sinh nghèo nàn của mấy người bạn Đức
của tôi và trong lúc tôi đang nói với họ về một đêm Giáng sinh năm xưa tôi sống
dưới một pháo đài ở chiến tuyến phía bắc Pulutsk, bỗng dưng tôi thấy rõ ràng là
tôi đang sống ở mặt trận. Mặt trận trở lại bao quanh tôi, thật sống, thật thực.
Phải chăng là cả chiến tranh rồi cũng trở thành một kỷ niệm đẹp của con người?
- Tôi nghĩ anh không nên để cho tình trạng ấy xảy ra. Đạo
Đức Kinh của Lão Tử có câu: “Võ khí là dụng cụ của đau khổ, không phải là vật
để con người tự hào. Người khôn chinh phục mà không cần tỏ ra muốn chinh phục”.
- Chi vậy? Bộ anh đã chuyển từ chủ nghĩa hoài nghi sang đạo
Lão rồi ư?
- Có chuyển nhưng chưa chuyển xong.
- Trước hết, tôi nhớ lại chú lính Đức cộng tác hữu hiệu nhất
thời ấy của tôi, tôi và chú ta cùng viết truyền đơn và ra ý cho họa sĩ vẽ
tranh: bức tranh bà mẹ Đức ôm con và người thiếu phụ Đức đứng khóc trước cảnh
căn nhà đổ nát còn nghi ngút khói là những tuyệt tác phẩm của hai chúng tôi.
Hai bức tranh đó có cả bài thơ bằng tiếng Đức đi kèm.
- Tôi biết. Tôi có nhặt được một tờ.
- Tôi nhớ lại những buổi chiều êm, chúng tôi ngồi trong xe
phóng thanh đi lên mặt trận.
- Và giữa những bản nhạc tango, những người bạn Đức của anh
đọc những lời kêu gọi những người lính Đức chiến hữu của họ quay súng bắn lại
Hitler. Nhiều lần chúng tôi cũng leo lên miệng hầm để nghe nhờ những bản nhạc.
Vô tư mà nói, tôi thấy những lời kêu gọi của anh có hơi… ngớ ngẩn.
- Ngớ ngẩn? Xin lỗi… Anh nhớ cho rằng chỉ nhờ những lời kêu
gọi ấy, chúng tôi đã chiếm được hai thị trấn Graudenz và Elbing không phải bắn
một viên đạn nào.
- Đúng. Nhưng cũng xin anh nhớ cho rằng chuyện ấy xảy ra vào
năm 1945. Vào thời gian đó, khỏi cần phải anh kêu gọi, nước Đức cũng sắp đầu
hàng.
- Bậy nào. Những chiến thăng nhỏ họp thành chiến thắng lớn
chứ. Nếu không mở đầu bằng những cuộc đầu hàng nhỏ làm sao có cuộc đầu hàng
lớn? Không biết đã có lần nào tôi kể cho anh nghe chuyện nàng Milka chưa nhỉ?
Nàng là một sinh viên Viện Ngoại ngữ, tốt nghiệp năm 1941. Vừa ra khỏi trường
nàng được điều động ngay đến đại đội của tôi để làm thông dịch viên. Một thiếu
nữ mũi hin, nhanh nhẹn…
- Chờ chút. Phải nàng là người cùng đi với anh đến tiếp thu
một căn cứ quân Đức đầu hàng không?
- Phải đó. Nàng tự kiêu lắm. Nàng rất thích được người ta ca
ngợi. Tôi không dám trách nàng nửa tiếng. Nàng thích được tuyên dương để được
trao tặng huy chương. Anh có nhớ cảnh mặt trận Tây Bắc khúc ngay cạnh bờ sông
Lovat không? Đoạn ở giữa Rahklits và Novo-Svinukhovo, phía nam Podtsepchiya đó.
Chỗ ấy có một khu rừng.
- Chỗ ấy nhiều rừng lắm. Chỗ ở xa hay ở gần sông Redya?
- Ở gần.
- Tôi biết.
- Nàng và tôi đi chơi lang thang suốt một ngày trong khu
rừng ấy. Lúc đó đang là mùa xuân, chưa hẳn là mùa xuân, hãy còn là tháng Ba.
Chúng tôi lội trong những vũng bùn ngập đến ngang đôi giày bốt cao cổ chúng tôi
đi dưới chân, cổ áo và mũ lông của chúng tôi ướt đẫm mồ hôi. Mùi mùa xuân hồi
sinh tràn đầy trong không khí. Anh biết không… chúng tôi dắt tay nhau đi như
hai người yêu nhau, hai người yêu lần đầu, như một cặp vợ chồng mới cưới. Không
biết tại sao với một người đàn bà mới, mình lại cảm thấy mới tinh như đây là
lần đầu mình yêu, mình lại yêu lại từ đầu. Yêu như một đứa trẻ. Ôi… cánh rừng
dài như vô tận. Đây đó bốc lên những đám khói từ những khẩu đại bác quân mình
đặt ở bìa rừng… Chúng tôi tránh đến gần những ổ súng đó. Chúng tôi đi lang
thang như thế cho đến sẩm tối, người ướt đẫm mồ hôi và chứa chan hạnh phúc.
Nàng làm tôi điên lên suốt một ngày. Rồi đến lúc tối mịt, chúng tôi tìm thấy
một pháo đài bên trong không có đại bác, không có lính…
- Pháo đài nổi?
- Anh nhớ không? Chắc là anh phải nhớ. Có rất nhiều pháo đài
như thế được dựng lên ở đấy trong năm đó. Như những hang thú rừng. Bên trong
lát ván, trên sàn gỗ có những đống củi thông, và mùi nhựa thông tiết ra từ
những thân cột, mùi khói bốc ra từ đống lửa. Trong đó không có bếp, chúng tôi
đốt lửa ngay trên mặt đất để sưởi. Trên mái có một cái lỗ nhìn thấu lên nền
trời. Không có ánh đèn, chỉ có ánh lửa bập bùng. Lửa chiếu bóng chúng tôi lên
vách. Anh nghĩ sao, Gleb? Đó là những giây phút đáng sống chứ?
- Tôi nhận thấy rằng trong những câu chuyện kể ở trong tù,
bao giờ cũng có một người con gái. Người con gái bao giờ ở đầu chuyện cũng hoàn
toàn trinh trắng và đến cuối chuyện, bao giờ cũng hết còn trinh trắng. Hình như
với những tù nhân, điểm đó là điểm chính, điểm quan trọng nhất trong câu chuyện
của mình. Anh có nghĩ rằng như vậy là chúng mình đòi hỏi công lý với điểm đặc
biệt ấy không? Một người không mù ngay từ khi lọt lòng mẹ, nghĩa là một người
mắt đã nhìn thấy trời xanh, mây trắng, nắng vàng rồi bị mù luôn luôn cần được
những người còn nhìn thấy xác nhận với họ rằng trời vẫn xanh, mây vẫn trắng,
nắng vẫn vàng. Một tù nhân cần được biết chắc rằng cuộc đời này vẫn còn những
người đàn bà đẹp, sống thực, quyến rũ, đáng yêu… tự nguyện cho những anh đàn
ông may mắn yêu họ. Anh chỉ nhớ lại có cái đêm đó trong chiến tranh vì đêm đó
có anh là người đàn ông may mắn được yêu một người con gái đẹp trong một ổ súng
giữa rừng vắng, không có kẻ thù nào chĩa súng bắn vào anh. Nhưng đêm đó cũng là
đêm mà vợ anh khổ sở đếm đi đếm lại mãi những tấm phiếu mua đường, bánh mì,
lòng lo âu không biết phải làm sao để con anh có thể tạm no được trong suốt một
tháng. Và đêm đó cũng là đêm ở khám đường Bytyrskaya, xà lim số 73…
- Ở từng thứ hai, cuối cùng của một lối đi hẹp…
- Đúng. Ông giáo sư trẻ tuổi chuyên về Sử ở Mạc Tư Khoa tên
là Razvodovsky, người vừa bị bắt và chưa từng sống ở mặt trận ngày nào, đã
thành công rực rỡ trong việc chứng minh với những luận cứ xã hội, lịch sử một
cách thông minh và hùng hồn rằng chiến tranh cũng có mặt tốt. Và ở xà lim đó có
những tù nhân cũng còn trẻ như ông giáo sư nhưng đã từng chiến đấu ở khắp các
mặt trận, trong tất cả những binh chủng… thiếu chút nữa đã ăn thịt sống ông ta.
Những người này tức giận và họ nói rằng, không, chiến tranh không có gì tốt đẹp
hết. Tôi ngồi ngậm miệng nghe họ nói. Razvodovsky cũng có những lý lẽ khá vững.
Có lúc tôi cho rằng hắn đúng. Nhưng tôi không dám ra mặt cãi lại những người
lính kia. Sự kiện làm tôi đồng ý với ông giáo sư thường dân cũng chính là sự
kiện đã làm cho tôi khác với những người lính này. Đó là việc tôi là một sĩ
quan pháo binh phục vụ trong một đơn vị pháo chuyên bảo vệ Bộ Tư lệnh. Lev,
thực ra trong suốt thời gian ở mặt trận, tôi không làm gì ngoài việc ngồi yên
trong những ổ súng, thỉnh thoảng ra lệnh bắn vài phát vu vơ thị oai. Tôi không
phải dự một cuộc tấn công nào, tôi không phải đẩy binh sĩ dưới quyền tôi vào
chỗ chết, tôi cũng không phải rút lui, không phải ra lệnh cho người khác ở lại
để chết. Chiến tranh của tôi là như thế, và do đó tôi có thể thấy chiến tranh
tốt, chiến tranh đẹp…"
- Tôi không muốn nói đến chuyện ấy…
- Tất cả những gì đẹp, vui, êm đềm nổi cả lên trên. Chúng ta
thường quên đi những gì làm cho chúng ta khó chịu. Những lần đoàn Junker nhào
xuống thả bom làm thân xác tôi suýt nữa tan tành ở Orel , tôi thấy không có gì thú vị cả. Không,
Lev… chiến tranh tốt chỉ là trận chiến tranh đã qua, đã chấm dứt.
- Tôi không nói là chiến tranh tốt đẹp, tôi chỉ nói là những
gì chúng ta nhớ lại đều tốt đẹp.
- Đúng. Và tôi hy vọng rồi sẽ có ngày chúng ta nhớ lại những
ngày sống trong những trại tập trung là đẹp. Cả trong những trại tạm trú.
- Trại tạm trú? Như Gorky? Girov? Không? Không đời nào…
- Đó là bởi vì ở những nơi đó anh bị tước đoạt nhiều thứ quá
nên anh không còn vô tư nữa. Xong anh cần nhớ rằng ngay ở những nơi đó cũng có
những người sung sướng chứ? Ở đó vẫn có những tù nhân no đủ như là những người
giữ nhà tắm, ở đó có những người có thể ăn nằm với những nữ tù nhân, những
người đó có thể chân thành nói rằng ở trên trái đất này không có đâu sướng bằng
ở trong những trại giam tạm trú. Hạnh phúc của con người ta là một cái gì tùy
thuộc từng người, một giả tưởng.
- Tiếng “hạnh phúc” phát sinh từ một tiếng có nghĩa là giờ
đây, lúc này…
- Xin lỗi giáo sư. Ông nên đọc Vladimir Dahl. “Hạnh phúc”
phát xuất từ một tiếng có nghĩa là số phận của người ta, là những gì người ta
muốn có ở đời…
- Ấy… lời giải thích của tôi cũng là của Dahl.
- Lạ vậy. Lời giải thích của tôi cũng thế.
- Mình phải tìm nguyên nghĩa tiếng hạnh phúc ở khắp các thứ
tiếng nói trên thế giới mới được. Tôi sẽ thực hiện cuộc truy nguyên này.
- Anh thì cái gì cũng phải… Phải thế này, phải thế nọ…
- Anh có đọc phần thứ hai tác phẩm Faust chưa nhỉ?
- Anh nên hỏi tôi đã đọc phần thứ nhất chưa. Ai cũng nói
rằng đó là một tuyệt phẩm, một sáng tạo của thiên tài, nhưng chẳng ai chịu đọc
cả. Hoặc người ta chỉ biết nó nhờ Gounod. [Gounod
là một nhà soạn nhạc người Pháp ở thế kỷ XIX, ông soạn vở nhạc kịch Faust theo
tác phẩm văn chương Faust của Goethe, văn hào Đức. Người ta biết đến Faust
nhiều nhờ vở nhạc kịch của Gounod hơn là coi chính bản].
- Phần đầu không có gì khó hiểu hết. Phần đầu của Faust có
những câu như:
Tôi không có gì để nói
về mặt trời và trái đất
Tôi chỉ nhìn thấy sự
đau khổ của con người.
- Hai câu đó nghe
được.
- Hoặc:
Những gì chúng ta cần,
chúng ta không biết.
Chúng ta biết những gì
chúng ta không cần.
- Hay.
- Phần thứ hai nặng hơn, tôi nhận là nặng. Nhưng dù vậy, tư
tưởng chứa đựng ở đó cũng kỳ diệu biết là chừng nào. Anh biết về bản hợp đồng
ký kết giữa Faust và Mephistopheles. Mephistopheles chỉ được nhận lãnh linh hồn
của Faust khi nào Faust kêu lên: “Ồ… Thời gian, xin ngừng lại…”. Nhưng bất kể
Mephistopheles đem lại cho Faust những gì – sự trở lại của tuổi trẻ, tình yêu
của Marguerite, những cuộc chiến thắng rực rỡ của Faust trước những kẻ thù, sự
giàu sang vô tận, sự hiểu biết những bí mật của cuộc sống – nhưng vẫn không có
gì có thể làm cho Faust thốt lên câu nói ấy. Năm tháng qua. Chính
Mephistopheles cũng mệt mỏi vì việc đuổi theo mãi con người không bao giờ chán
sống ấy. Y thấy không cách nào có thể làm cho con người sung sướng hoàn toàn và
y đã có ý định từ bỏ cuộc theo đuổi. Thế rồi Faust lại già đi một lần thứ hai,
trở thành mù, ra lệnh cho Mephistopheles tụ họp cả trăm ngàn công nhân lại để
đào sông và tháo nước từ những cánh đồng lầy. Trong bộ óc hai lần già của
Faust, bộ óc mà Mephistopheles cho là đã trở thành điên khùng, nẩy ra một tư
tưởng lớn: làm cho nhân loại sung sướng, hạnh phúc. Theo lệnh của
Mephistopheles, bọn quỷ sứ dưới Địa ngục đem cuốc xẻng lên để đào huyệt chôn
Faust. Mephistopheles lúc ấy chỉ muốn chôn Faust cho xong chuyện và không còn
chờ đợi bắt linh hồn của Faust nữa. Faust nghe thấy tiếng động của những lưỡi
cuốc trong lòng đất nên hỏi: “Chi đó?”. Mephistopheles, trung thành với bản
tính đùa giỡn của y, trả lời Faust rằng những cánh đồng lầy đã hết nước đọng.
Những nhà phê bình văn nghệ của chúng ta vẫn thường phân tích đoạn này theo
quan niệm chủ quan, họ cho rằng lúc ấy Faust sung sướng vì nghĩ rằng mình đã
đem lại được hạnh phúc cho mọi người nên hài lòng kêu lên: “Ồ… Thời gian… xin
ngừng lại…”. Nhưng nếu phân tích khách quan hơn, ta có thể thấy rất có thể chủ
ý của Goethe là chế nhạo ảo ảnh hạnh phúc của con người. Bởi vì thật ra, Faust
tuy sống lâu và nhiều quyền lực là như thế, vẫn chẳng làm được chuyện gì đem lại
hạnh phúc cho nhân loại. Sau khi thốt lên câu nói đó, bọn quỷ sứ đẩy Faust
xuống mồ ngay. Như vậy nghĩa là gì? Một bản nhạc ngợi ca hạnh phúc hay là chế
nhạo ảo ảnh hạnh phúc?
- Ồ… Lev, bạn tôi. Tôi thích bạn trong những lúc thế này,
khi bạn tranh luận với trái tim và diễn tả tư tưởng một cách thông mình, khi
bạn không dán những nhãn hiệu lên những sự kiện.
- Tôi biết tôi chưa bao giờ làm anh hài lòng cả. Nhưng anh
nghe chuyện này: Có một lần trước chiến tranh, tôi đứng trong một giảng đường
đại học, giảng cho các sinh viên nghe về quan niệm hạnh phúc trong tác phẩm
Faust. Tôi bỗng buồn rầu cảm thấy rằng cuộc đời này không có hạnh phúc, không
có cái gì có thể gọi là sung sướng. Tôi nói như thế và có một sinh viên đưa lên
cho tôi một mảnh giấy nhỏ xé từ một cuốn sổ. Mảnh giấy đó có hàng chữ: “Nhưng
tôi đang yêu, và tôi đang sung sướng. Giáo sư trả lời sao?”
- Và anh trả lời sao?
- Làm sao có thể trả lời được?
Chương 8 - Năm thứ năm sống trong lao tù
Họ để hết tâm trí vào cuộc nói chuyện tay đôi ấy đến nỗi họ
không còn nghe thấy những tiếng động trong phòng hoặc tiếng nhạc phát ra từ
chiếc radio ở góc phòng đằng kia. Một lần nữa Nerzhin xoay cái ghế anh ngồi để
quay lưng vào phòng nhìn ra cửa sổ. Rubin cũng ngồi nghiêng, tay khoác lên
thành ghế, bộ râu đặt trên cánh tay anh.
Nerzhin nói bằng một giọng nồng ấm, chân thành, như người
nói ra những ý tưởng đã được suy nghĩ rất chín trong một thời gian rất lâu:
- Khi tôi còn tự do, tôi thường đọc những quyển sách trong
đó có những người hiểu biết viết về ý nghĩa của cuộc sống và bản thể của hạnh
phúc. Khi đó tôi chẳng hiểu gì nhiều về những vấn đề được viết trong những
quyển sách dày đó. Tôi nghĩ: những người hiểu biết phải suy nghĩ. Suy nghĩ là
nghề của họ. Nhưng còn ý nghĩa của cuộc sống? Chúng ta sống – đó là ý nghĩa
cuộc sống. Còn hạnh phúc? Hạnh phúc là khi nào mọi việc xảy ra như ý mình mong
muốn, ai cũng hiểu như thế. Xin cảm tạ Thượng đế đã sinh ra nhà tù. Nhà tù giúp
cho tôi cơ hội và điều kiện để suy nghĩ. Để có thể hiểu được bản thể của hạnh
phúc, ta cần phải phân tích tình trạng no đủ, thừa thãi, chán mứa trước. Hãy
nhớ lại Lubyanka. Hãy nhớ lại những tô súp loãng không có lấy được một giọt mỡ
ở đó. Anh có thể nói được rằng anh ăn thứ súp đó được không? Không, anh hòa
mình với nó. Anh đưa nó vào cơ thể như một thứ bánh thánh, như hạt mè của những
vị tịch cốc tu tiên. Anh đưa nó vào miệng anh chậm chạp, từng tí một, anh thận
trọng khi cho nó vào miệng, thành kính như anh đang làm một hoạt động có tính
cách thiêng liêng, anh ăn và nghĩ đến ăn và nó thấm trong cơ thể anh như một
thứ nước hồi sinh. Anh run rẩy vì mùi vị ngọt đậm của những hạt lúa mì trôi
trong chất nước sền sệt đó. Thế rồi, gần như không được ăn uống gì cả, anh tiếp
tục sống sáu tháng, mười hai tháng. Anh có thể so sánh việc ăn ngấu ăn nghiến,
ăn mà không biết là đang ăn, không cảm thấy mùi vị, một miếng bít tết lớn với
tô súp ấy?
Rubin không thể ngồi im để nghe người khác nói lâu được.
Trong bất cứ cuộc nói chuyện nào, anh cũng là người hướng dẫn, đưa ra những đề
tài mới, những nhận xét chưa được phát biểu. Giờ đây anh cũng nóng nảy tìm cách
cắt ngang nhưng Nerzhin nắm lấy ngực áo anh và lắc mạnh bắt anh phải nghe:
- Vì vậy, nhờ sống ở trong tù, nhờ những đồng chí khốn nạn
của chúng ta, chúng ta được biết thế nào là no đủ. No đủ không được quyết định
trên sự kiện ăn nhiều chừng nào mà là ở trên việc ta ăn như thế nào. Hạnh phúc
cũng thế. Lev, hạnh phúc không căn cứ trên việc chúng ta được hưởng những gì ở
cuộc đời, mà là nằm ở thái độ của chúng ta đối với việc hưởng thụ những tiện
nghi đó. Kinh của Đạo lão có câu: “Kẻ nào biết đủ bao giờ cũng hài lòng”.
Rubin nở nụ cười mỉa mai:
- Anh trở thành chuyên viên chiết trung rồi đó. Anh nhổ
những sợi lông bóng bẩy ở khắp nơi.
Nerzhin lắc đầu. Tóc anh xõa xuống trán. Anh đang say sưa
nói. Trong lúc này, trông anh giống một thiếu niên mười tám tuổi.
- Đừng lộn xộn trật tự, Lev. Tôi không phải là kẻ chuyên đi
thu nhặt những tư tưởng rải rác ở khắp nơi để đúc kết lại thành của riêng tôi
đâu. Tôi đi đến những kết luận không căn cứ trên những quyển sách triết học tôi
đã đọc mà là căn cứ trên những chuyện về những người sống thực mà tôi gặp trong
những nhà tù. Trong thế giới triết học, tất cả mọi địa hạt đều đã có người khai
thác, khám phá. Tuy vậy, tôi vẫn có những phát kiến mới của riêng tôi. Đừng
ngắt lời, nghe tôi nói đã. Tôi sắp cho anh một tỉ dụ. Nếu trong một nhà tù –
như nhà tù đặc biệt này chẳng hạn – có một sự lạ xảy ra như là một ngày chủ
nhật tự do, một ngày chủ nhật không phải làm việc. Trong ngày đó tâm hồn chúng
ta sẽ không bị đông đặc như đá. Và dù rằng đời sống bên ngoài của tôi không có
gì thay đổi nhiều, nghĩa là tôi vẫn bị quản thúc như mọi ngày, gông cùm ngục tù
cũng nới lỏng được đôi chút trên cổ tôi, tôi có thể nói chuyện được thỏa thích
với một người bạn nào đó, đọc một trang sách lương thiện, và tôi có thể thả hồn
tôi trên làn sóng tư tưởng. Tôi đã không được sống thực sự là sống trong nhiều
năm nhưng tôi đã quên mất tình trạng đó. Tôi nằm ngửa trên giường, mắt nhìn lên
trần. Trần phòng rất gần tôi, nó trơ trụi, nó long lở – và tôi run rẩy vì cuộc
sống bên trong tôi. Tôi sẽ ngủ đi trong sung sướng, hoan lạc. Dám chắc không
một ông Quốc trưởng, một Tổng trưởng nào có thể ngủ ngon và hài lòng như tôi
trong ngày chủ nhật ấy của tôi.
Rubin lại cười. Nụ cười này không mỉa mai, chế nhạo nữa. Đó
là nụ cười bao dung trong đó có ý chấp nhận của một người đàn ông đối với người
bạn ít tuổi hơn mình:
- Kinh Vệ đà nói gì về vấn đề này? [2]
Rubin hỏi, môi anh trề ra như người đang vui.
- Tôi không biết gì về kinh Vệ đà.- Nerzhin trả lời bằng một
giọng quả quyết - Nhưng tôi biết có một triết thuyết Ấn Độ nói rằng: “Với những
ai hiểu biết, hạnh phúc của nhân loại là đau khổ”.
Rubin nói trong bộ râu:
- Tôi chắc anh đã sắp sẵn tất cả những câu anh vừa nói. Phải
anh nghe được câu đó từ Sologdin không?
- Có thể. Không tưởng? Duy tâm? Đúng? Sai? Anh còn đợi gì
nữa mà không dán nhãn hiệu? Anh râu dê. Nghe cho kỹ này – hạnh phúc vì chiến
thắng, hạnh phúc vì ước ao mà được, vì thành công và vì no đủ – tất cả đều là
khổ não. Đó là sự tiêu diệt của linh hồn, một thứ đau khổ tinh thần không bao
giờ ngừng. Đó không phải là những triết gia Ấn Độ cổ xưa đã nghĩ ra điều ấy, đó
là do tôi, do chính tôi, Gleb Nerzhin, một tù nhân chịu gông cùm trong năm thứ
năm, người mà tinh thần đã vượt lên đến tình trạng thấy rằng những cái gì xấu
đã bắt đầu trở thành tốt. Và tôi nắm vững quan niệm là người đời không biết rõ
họ muốn thích cái gì, không biết họ mong ước gì. Họ tiêu pha đời sống của họ
trong việc tranh chiếm một số những của cải vô giá trị và họ chết mà hoàn toàn
không hay biết gì về đời sống tinh thần phong phú của họ. Khi Lev Tolstoy mơ
đến chuyện được ở tù, đó là lúc ông lý luận như một người thực sự hiểu biết và
tinh thần ông đang mạnh mẽ vô kể.
Rubin cười thành tiếng. Anh vẫn cười thành tiếng mỗi khi anh
không chấp nhận một quan niệm nào của đối tượng trong cuộc thảo luận.
- Thôi đi, chú nhỏ,- Rubin nói.- đó là cái tinh thần còn
non, chưa trưởng thành ở trong chú nói lên những câu đó. Chú cho những kinh
nghiệm riêng của chú đúng hơn kinh nghiệm chung của cả nhân loại? Chú đã bị
lệch lạc vì đời sống ở trong tù và chú nhìn xã hội qua cảnh tù đày. Đâu có phải
chỉ vì cuộc đời của chúng ta tan nát, vì số mệnh của chúng ta không may mà loài
người phải thay đổi quan niệm về cuộc sống?
- Anh mới là người kém trưởng thành. Đáng lẽ ra anh phải học
được nhiều sự thật ở trong tù, trong lúc anh có thể nhìn thẳng vào đời sống và
học thẳng được ở đó…
- Anh nói đời sống nào? Đây là tù, đây đâu phải là sống?
Nerzhin vẫn nồng nàn với ý nghĩ:
- … anh đã tự tay buộc cái khăn bịt mắt lên che kín hai mắt
anh, tự đút nút lỗ tai anh, anh chọn một thái độ và anh cho đó là thông minh?
Theo anh, thông minh là việc không cần biết gì thêm, không cần học hỏi nữa?
- Thông minh là khách quan.
- Anh… Anh mà khách
quan à?
Rubin nghiêm giọng đáp:
- Phải. Khách quan tuyệt đối.
- Chưa bao giờ tôi gặp một người nào thiếu khách quan như
anh.
- Anh hãy nhấc đầu anh ra khỏi cát. Hãy nhìn sự kiện theo
kiến trúc lịch sử của chúng. Đáng lẽ ra tôi không nên nói những lời của chính
tôi như những bằng chứng, nhưng:
Cuộc sống của con bọ
nước chỉ có một ngày.
Cuộc sống của cây tùng
dài một trăm năm.
Luật thiên nhiên – anh có hiểu nghĩa danh từ đó không? Những
điều luật thiên nhiên không sao có thể tránh được. Tất cả những gì có ở đời đều
đi theo một con đường nhất định. Thật là vô ích khi chúng ta nghĩ rằng ta có
thể ở lại được nếu ta hoài nghi.
- Lev… Đừng bao giờ anh nghĩ rằng hoài nghi là một việc dễ.
Với tôi, hoài nghi có thể là một chiếc quán bên đường để tôi có thể vào nghỉ
khi trời dông bão. Nhưng hoài nghi là một cách để dứt tinh thần con người ra
khỏi những ràng buộc của giáo điều. Chỉ cần làm việc đó, ta đã thấy nó có giá
trị đáng kể rồi.
- Giáo điều? Anh thật là bậy. Tôi mà lại là người tin giáo
điều hay sao?- Đôi mắt mở lớn của Rubin nặng những hờn trách: - Tôi cũng là một
tù nhân cùng loại với anh. Tôi cũng bị bắt năm 1945: Tôi cũng sống bốn năm trên
mặt trận, một mảnh đạn trọng pháo nằm ở mạng sườn và năm năm ở tù. Vì vậy tôi
nhìn cuộc đời cũng giống hệt anh. Cái gì phải có là phải có. Quốc gia không thể
tồn tại được nếu không có một hệ thống trừng phạt có tổ chức.
- Tôi không chịu. Tôi không chấp nhận điều ấy.
- Tất nhiên. Vì anh hoài nghi. Nhưng thái độ hoài nghi của
anh cũng không đúng. Tại sao anh lại xúc động dữ vậy? Người hoài nghi đâu có
bao giờ xúc động? Người hoài nghi không bao giờ đưa ra những quyết đoán. Người
hoài nghi bất cứ trong trường hợp nào cũng thản nhiên.
- Anh nói đúng…- Nerzhin nói bằng một giọng buồn rầu, thê
thảm như người tuyệt vọng: - Tôi muốn có những tư tưởng thoát tục, nhưng thực
tế vẫn giữ tôi lại…
- Thoát tục? Vậy mà hồi ở Dzhezkagan, anh nổi điên lên vì
nơi đó thiếu nước uống…
- Lẽ ra anh phải sống ở đấy suốt đời anh mới phải. Anh là
người duy nhất trong cả bọn nghĩ rằng Người Cày làm đúng, rằng những việc hắn
làm đều rất thường và cần thiết. Nếu anh sống ở Dzhezkazan, anh sẽ thay đổi ý
kiến ngay lập tức…
- Anh phải nghe tôi…- Bây giờ đến lượt Rubin nắm lấy tay áo
Nerzhin.- Ông ấy là người vĩ đại nhất. Rồi sẽ có ngày anh thấy, sẽ có ngày anh
hiểu. Ông ấy là Robespierre và Napoleon nhập lại làm một của cuộc cách mạng của
chúng ta. Ông ấy khôn ngoan, thực sự khôn ngoan. Ông ấy nhìn xa, thấy rộng hơn
tầm mắt của chúng ta rất nhiều…
- Anh chỉ nên tin những gì mắt anh nhìn thấy được…- Nerzhin
ngắt lời.- Anh cũng nghe tôi… Hồi tôi còn là một chú bé, tôi đọc những cuốn
sách hắn viết khi tôi đọc Lenin. Tuy ham đọc lắm nhưng tôi không sao có thể đọc
hết được những gì hắn viết. Sau bút pháp của Lenin: sáng sủa, rõ rệt, nồng nàn,
đi thẳng vào trái tim người đọc, bút pháp của hắn như một đống bùn. Tư tưởng
nào của hắn cũng thô tục và ngu ngốc. Hắn còn tỏ ra hắn không biết hắn cần nhấn
mạnh những gì, phớt qua những gì, những gì là quan trọng và những gì là phụ
thuộc…
Rubin tỏ vẻ nghi ngờ:
- Anh biết được những điều ấy khi anh còn là một chú bé?
- Tôi biết như thế khi tôi đã học khá cao. Khi còn nhỏ, tôi
mới chỉ hoang mang không hiểu. Anh không tin tôi ư? Những người thẩm vấn và làm
bản tội trạng của tôi cũng không tin như anh. Thái độ kiêu căng phách lối,
những luận điệu kẻ cả, bề trên trong những lời tuyên bố của hắn làm tôi điên
lên vì khó chịu. Hắn có vẻ thực sự nghĩ rằng hắn thông minh hơn tất cả những
người Nga khác.
- Và sự thật đúng như thế.
- … và hắn tin rằng hắn làm cho chúng ta sung sướng bằng
cách cho chúng ta chiêm ngưỡng hắn, thán phục hắn.
Trong cơn nồng nhiệt của cuộc tranh luận, hai người bạn trở
thành quên đề phòng. Những lời họ nói lúc này có thể lọt vào tai Simochka,
người ngồi gần họ nhất và cũng là người đang lắng tai nghe họ nói gì với nhau.
Thỉnh thoảng Simochka lại liếc nhìn Nerzhin, đôi mắt biểu lộ sự hờn trách. Nàng
hờn dỗi vì nàng thấy rõ rằng không những là Nerzhin không tỏ vẻ gì là lợi dụng
sự có mặt của nàng ở cạnh chàng đêm nay, chàng còn không cả nhìn nàng, chàng
như không hề biết là đêm nay có nàng ở trong phòng này.
Rubin nói bằng cái giong của người muốn kết thúc cuộc tranh
luận:
- Anh lầm, anh lầm vì anh mò mẫm trong những vấn đề mà anh
hoàn toàn không biết rõ. Anh là một nhà toán học, anh không hiểu biết gì về
lịch sử và triết học. Sao anh dám đưa ra những lời buộc tội nặng đến như thế?
- Nghe đây… Những huyền thoại về những người khám phá ra
tiểu hòa tử và cân được Beta Sirius mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy nó nhưng con
nít đến nỗi không biết giải quyết những vấn đề thường ngày của cuộc sống đã trở
thành những chuyện lẩm cẩm không làm cho ai tin. Chúng tôi không còn cách nào
khác. Nếu sử gia các anh không chịu tự hạn chế trong phạm vi lịch sử, còn có gì
sót lại để cho chúng tôi, những nhà toán học, những chuyên viên, làm nữa? Tôi
thấy những người lãnh những giải thưởng, những người được hưởng quy chế lương
bổng dành cho học giả… Những người đó không viết sử, họ chỉ quỳ gối, khom lưng
ở một chỗ nào đó. Vì vậy chúng tôi, những nhà trí thức khoa học, chúng tôi bắt
buộc phải nghiên cứu lịch sử.
- Ồ… Sao anh nói có vẻ thê thảm quá…
Trên mặt bàn không người ngồi của thiếu tá kỹ sư Roitman,
máy điện thoại reo chuông. Simochka đứng dây đi tới nhấc máy trả lời.
- Gleb Vikentich…
Simochka gọi về phía Nerzhin nhưng đang mải tranh luận với
Rubin, chàng này không nghe tiếng.
Simochka gọi lớn hơn:
- Gleb Vikentich…!
- Có tôi…
Nerzhin quay lại nhìn.
- Anh không nghe tiếng gì ư? Có điện thoại.
Simochka nghiêm khắc nói. Nàng đứng sau bàn của nàng, đôi
lông mày nhíu lại, hai tay khoanh trước ngực, chiếc khăn choàng kéo sát xuống
trên vai nàng:
- Anton Nikolayevich cần gặp anh trong văn phòng của ổng.
- Vậy ạ?
Trên khuôn mặt Nerzhin những nét nồng nhiệt của cuộc tranh
luận đã biến đi, những nếp nhăn đã trở lại:
- Cám ơn Serafima Vitalyevna. Anh nghe gì không, Lev?
Yakonov muốn gặp tôi. Không biết là chuyện gì đây.
Việc ông giám đốc Viện gọi một tù nhân lên văn phòng mình
vào lúc mười giờ đêm thứ bảy là một sự kiện kỳ lạ. Mặc dù Simochka cố gắng giữ
vẻ bình thản của một viên chức, ánh mắt nàng, ngay cả Nerzhin cũng nhận thấy,
vẫn có vẻ lo âu.
Thế rồi, như giữa họ chưa từng bao giờ xảy ra tranh luận và
bất đồng ý kiến hết, Rubin nhìn bạn bằng đôi mắt đầy những quan ngại. Khi đôi
mắt của Rubin không sáng lên vì tranh luận sôi nổi, chúng trở lại dịu hiền như
mắt đàn bà.
- Tôi không hào hứng khi thấy thiên hạ để ý đến mình.- Rubin
nói.- Người xưa có câu: “Đừng dại dột mà làm nhà cạnh cung điện của ông Hoàng”.
- Nhưng chúng mình có gì đáng được để ý đâu? Công việc của
chúng mình chỉ là một việc phụ ở đây: nghiên cứu tiếng nói.
- Vậy mà Anton vẫn để ý đến mình… Rất có thể mình sẽ bị
khiển trách về việc tập Hồi ký của Stanisvsky và quyển Diễn văn của luật sư…
Rubin cười và nói tiếp:
- Cũng có thể là vì bản báo cáo anh vừa gửi lên không được
rõ ràng…
Nerzhin lắc đầu:
- Chắc không phải vì báo cáo đâu. Báo cáo mình gửi lên đã
lâu rồi, êm ru không nghe thấy thiên hạ phàn nàn gì hết. Nếu không thấy tôi trở
lại nữa, anh…
- Đừng có vớ vẩn…
- Vớ vẩn là thế nào? Đời là như thế. Chuyện thường xảy ra.
Nerzhin cúi xuống như để thu xếp lại những giấy tờ trên bàn,
anh nói nhỏ và nhanh với bạn:
- … đốt hết những cái đó đi giùm tôi.
Nerzhin khóa ngăn kéo bàn và đưa chìa khóa cho Rubin. Rồi
anh đi ra khỏi phòng với dáng điệu khoan thai của một người tù đã sống đến năm
thứ năm trong tù, người tù không bao giờ vội vã vì luôn luôn chỉ chờ đợi những
gì bất hạnh hơn xảy đến.
Chương 9 - Hai nhà toán học
Nerzhin đi lên thang lầu lớn, rộng, trải thảm đỏ, dưới những
cây đèn bằng đồng và trần nhà bằng thạch cao đắp vòng cung. Vào giờ khuya này,
thang lầu vắng tanh. Anh cố gắng trấn tĩnh để bước đi với một vẻ thản nhiên khi
anh đi ngang người sĩ quan trực ở phòng gác bên ngoài và tới gõ lên cánh cửa
văn phòng của ông giám đốc Viện Nghiên cứu khoa học Mavrino: Đại tá kỹ sư Bộ An
ninh quốc gia Anton Nikolayevich Yakonov.
Văn phòng rộng thênh thang, trên sàn có trải thảm, bàn ghế
bằng gỗ quí đánh bóng. Ở giữa phòng là một chiếc bàn họp dài trải khăn xanh. Ở
trong góc phòng xa tít kia mới là bàn làm việc của Yakonov. Nerzhin từng vài
lần đặt chân vào phòng này, nhưng anh chỉ đến đây với nhiều người khác để dự
những phiên họp nghe chỉ thị, đây là lần thứ nhất anh một mình tới đây.
Đại tá kỹ sư Yakonov đã ngoài năm mươi nhưng trông vẫn còn
trẻ và tráng kiện. Y cao lớn, khuôn mặt y thoa phớt một làn phấn sau khi y cạo
râu. Y không mang kính trắng mà chỉ dùng một chiếc pince-nez bằng vàng. Y có
cái vẻ vạm vỡ của một vương tử Obolensky hay Dolgorukov. Những cử chỉ kiểu
cách, quan dạng làm cho y nổi bật lên giữa những viên chức khác trong Bộ An
ninh.
- Mời ngồi, Gleb Vikentich…
Yakonov nói lớn và thừa thãi. Y ngồi dựa lưng trên chiếc ghế
bành da quá lớn sau mặt bàn rộng, một tay mân mê cây viết chì đỏ thật lớn trên
bàn.
Việc gọi tên riêng và tên thánh của Nerzhin chứng tỏ sự lễ
độ và thiện chí của Yakonov, nhưng thực ra y không cần phải cố gắng chút nào để
có thể nhớ được tên riêng của những nhà khoa học bị tù ở đây, bởi vì dưới mặt
tấm kính trên bàn y có một bản danh sách ghi tên riêng của tất cả những tù
nhân. (Những ai không biết y có bản danh sách này đều ngạc nhiên về khả năng
nhớ được tên riêng cả trăm người của Yakonov). Nerzhin cúi đầu chào lại y và
không đứng nghiêm chào, anh lặng lẽ ngồi xuống chiếc bàn nhỏ gần đó, đôi mắt
anh chăm chú nhìn Yakonov, chờ đợi y nói. Giọng nói của Yakonov có những âm
thanh trầm bổng như giọng một kép hát sân khấu. Người ta không hiểu sao con
người có vẻ quý phái này lại không uốn lưỡi chữ “r” như kiểu nói những nhà quý
phái thời xưa.
Yakonov lên giọng:
- Gleb Vikentich… Trước đây nửa tiếng đồng hồ, tôi có dịp
nói đến anh. Tôi nghĩ đến những nguyên nhân đã đưa anh tới Phòng Âm thanh, tới
làm việc với Roitman?
Yakonov cố tình nói đến tên Roitman với một vẻ khinh mạn
không cần che giấu. Y không cần cả gọi Roitman là thiếu tá trước mặt một tù
nhân. Tình trạng ác cảm hỗ tương giữa viên giám đốc viện và viên phụ tá giám
đốc đã đi đến điểm không cần phải che giấu nữa.
Nerzhin cảm thấy thần kinh mình căng thẳng. Linh tính cho
anh biết cuộc hội kiến đêm nay đã mở đầu bất lợi cho anh. Trước đây nhiều ngày,
anh đã thấy nét mỉa mai này hiện trên vành môi Yakonov khi y nói với anh rằng
mặc dù anh vẫn chăm chỉ làm việc, y biết anh coi thường những kết quả thâu lượm
được ở Phòng Nghiên cứu số bảy. Phòng Nghiên cứu này là niềm kiêu hãnh của
Yakonov, y đặt tất cả lòng tin của y vào đấy. Nhưng sự việc ở đó lại không tiến
triển như ý muốn của Yakonov.
- …Tất nhiên là tôi phải nhận rằng kết quả nghiên cứu của
anh về tiếng nói rất có giá trị…
Nerzhin nghĩ thầm: “Hắn chế nhạo mình”.
- … Và tôi rất buồn khi thấy bản báo cáo của anh không được
công bố cho cả thế giới khoa học được biết, làm anh mất cơ hội trở thành một
George Fetcher của Nga Xô Viết…
Nerzhin nghĩ thầm: “Hắn nhạo mình quá sỗ sàng…”.
- Tuy vậy, tôi vẫn nghĩ cách làm sao cho anh có cơ hội làm
những việc hợp với khả năng của anh hơn, để cho có lợi hơn. Chắc anh biết tôi
là người rất kính trọng những khoa học trừu tượng nhưng tôi cũng là một người
rất thực tế…
Đại tá kỹ sư Yakonov tuy giữ một địa vị cao song y không ở quá
gần Lãnh tụ đến nỗi phải che giấu sự thông minh của y hoặc luyện thành thói
quen không có ý kiến riêng.
- Tôi muốn thành thật hỏi anh… hiện anh đang làm gì ở Phòng
Âm thanh?
Yakonov không thể nào đặt với Nerzhin một câu hỏi tàn nhẫn
hơn. Y không thể có thì giờ xét kỹ đến tất cả mọi trường hợp, để ý đến riêng
từng tù nhân. Nếu y chịu xét đến tình trạng của Nerzhin. Y đã có trả lời từ
lâu.
- Anh mất thì giờ với việc nghiên cứu vớ vẩn ấy làm chi? Anh
là một nhà toán học, một người xuất thân đại học. Quay lại nhìn coi…
Nerzhin quay lại nhìn và anh vội đứng dậy. Trong phòng còn
một người thứ ba nữa. Một người đàn ông trông có vẻ rất thường, bận bộ y phục
thường dân màu đen đứng lên từ chiếc ghế dài và đi đến gần Nerzhin. Khung kính
mắt tròn của ông này sáng lấp lánh. Dưới vầng ánh sáng rọi xuống từ bóng đèn
điện trên trần. Nerzhin nhận ra giáo sư Pyotr Trofimovich Verenyov. Trước chiến
tranh, giáo sư Verenyov dạy ở trường đại học anh học. Tuy vậy, theo thói quen
của cuộc sống trong nhà tù, Nerzhin vẫn đứng yên, không nói, không làm một cử
chỉ. Anh đoán rằng giáo sư Verenyov cũng là một tù nhân và anh có thể làm hại ông
bằng những câu nói vội vã. Verenyov mỉm cười, nhưng ông cũng có vẻ bối rối.
Yakonov nói bằng một giọng vừa trấn an vừa khuyến khích:
- Thật hay… những nhà toán học có khả năng tự chế ngự hơn
người thật. Suốt đời tôi, tôi vẫn nghĩ là những nhà toán học đều ở trong một
đạo giáo bí mật nào đó và tôi vẫn ân hận vì không có dịp khám phá sự bí mật ấy.
Xin nhị vị cứ tự nhiên. Hãy bắt tay nhau và coi đây là một nơi riêng của quý
vị. Tôi sẽ vắng mặt ở đây vào khoảng nửa giờ để nhị vị nhắc lại với nhau những
kỷ niệm xưa và để giáo sư Verenyov nói với anh Nerzhin về công tác mà cả ba
chúng ta cùng phải làm.
Yakonov đứng lên từ chiếc ghế da. Cặp cầu vai nền bạc và
xanh trên hai vai áo y càng làm cho khổ người vạm vỡ của ý thêm to lớn. Y đi
nhanh và nhẹ nhàng ra cửa phòng. Khi Verenyov và Nerzhin đến gần hơn để bắt tay
nhau, họ chỉ còn có hai người ở trong phòng.
Người đàn ông xanh xao này, người mang đôi mắt kiếng trắng
phản chiếu ánh đèn sáng lấp lánh, với tù nhân Nerzhin, như một bóng ma trở về
từ một thế giới đã bị quên lãng. Giữa thế giới xưa cũ đó với thế giới đêm nay
có những khu rừng ở bên hồ Hmen, những ngọn đồi và những thung lũng ở vùng
Orel, những trang trại trù mật ở Ba Lan, những mái nhà ngói trong những thị
trấn nước Đức. Trong khoảng thời gian chín năm chia đôi hai thế giới ấy có
những xà lim nhà tù trơ trọi sáng rực ánh đèn điện đến chói lòa hai mắt, những
“thùng gỗ” của khám đường Bolshây Lubyanka, những trại giam tạm trú sặc mùi hôi
thối, tanh tưởi, những toa xe chở tù Stolopyn chật ních, có những cơn gió cắt
da trên những cánh đồng cỏ bao la. Tất cả những cái đó làm cho Nerzhin không
sao có thể trở lại được là anh sinh viên đứng viết một phương trình đại số trên
bảng đen.
Và Nerzhin cảm thấy bối rối nhiều hơn là vui.
Hai người cùng đốt thuốc lá và cùng ngồi xuống mặt bàn nhỏ
ngăn cách họ.
Đây không phải là lần thứ nhất Verenyov gặp lại một sinh
viên cũ của ông từng học ông ở Đại học Mạc Tư Khoa. Nhưng cuộc gặp gỡ đêm nay
có những yếu tố đặc biệt làm cho ông cũng cảm thấy bối rối: sự cô lập của Viện
Nghiên cứu khoa học nằm ở ngoại ô Mạc Tư Khoa, nơi bí mật bao trùm, nơi có hàng
rào dây thép gai bao quanh và người học trò cũ ít nói bận bộ y phục xanh đậm
này thay vì bận y phục thường dân.
Sự bất ngờ xảy ra là Nerzhin, người trẻ nhất trong hai
người, người thất bại không có danh vị học giả lại là người đặt những câu hỏi.
Những nếp nhăn quanh miệng anh hằn sâu hơn, hiện rõ. Và người đàn ông nhiều
tuổi hơn trả lời từng câu hỏi, như ông ngượng ngùng vì cuộc sống vô sự của một
nhà khoa học không có gì xuất sắc lắm: cuộc di tản trong thời chiến, cuộc di
tản lần thứ nhất, ba năm làm việc với K., một luận án về toán học trắc đồ. Và
Nerzhin trở thành lơ đãng đến độ gần như vô lễ, quên không hỏi rõ hơn về luận
án khô khan của môn học cằn cỗi mà ngày xưa anh từng học này. Bỗng nhiên, anh
cảm thấy thương hại Verenyov. Vào thế kỷ hai mươi tư may ra luận án của
Verenyov có thể có ích cho vài người, còn bây giờ thì vô phương.
Tôi không còn gì để
nói với mặt trời và trái đất
Tôi chỉ nhìn thấy sự
đau khổ của con người.
Bằng cách nào Verenyov vào tổ chức này? Tại sao ông lại bỏ
đại học? Tôi được biệt phái đến đây. Ông có thể từ chối được không? Được, có
thể từ chối được nhưng lương bổng ở đây gấp đôi. Ông có con không? Bốn đứa.
Vì một nguyên nhân nào đó họ kiểm lại danh sách những sinh
viên cùng khóa với Nerzhin, những người cũng như Nerzhin, thi ra trường cùng
một ngày với ngày chiến tranh bắt đầu. Những người xuất sắc nhất đều đã chết
trên mặt trận hoặc bị tiếng đạn, tiếng bom làm cho ngớ ngẩn. Họ là những người
luôn luôn đi trước, những người không bao giờ dừng lại để nhìn mình xem mình ra
sao. Và những người thời đó không ai thèm để ý, những kẻ thời đó không đáng gì
cả nay đã hoàn tất được việc học cao hơn, đã giữ những chân giảng sư quan trọng
ở những Viện Khoa học lớn. Còn người làm cho chúng ta sung sướng và kiêu hãnh,
anh Dmitri Dmitrich Goryainov-Shakhovsky bây giờ ra sao?
Goryainov-Shakhovsky! Con người thấp nhỏ, bê bối trong tuổi
già, người suốt đời mang vết phấn trắng trên tay áo, người bỏ túi chiếc khăn
lau bảng vì tưởng rằng đó là khăn mùi soa. Ông là một huyền thoại sống của
trường đại học, một huyền thoại được xây dựng bằng không biết bao nhiêu chuyện
khôi hài về “nhà thông thái đãng trí” điển hình. Ông là linh hồn của đại học
đường Warsaw .
Một nửa thế kỷ làm việc cho khoa học làm ông nhận được những điện văn ca ngợi
gửi đến từ Milwaukee , Captown, Yokohama . Để rồi ông bị thanh trừng trong
cuộc phát động gọi là “trẻ trung hóa hàng ngũ”. Ông đi về Mạc Tư Khoa và trở
lại với mệnh lệnh của Kalinin :
“Đừng động đến ông già này”. Người ta đồn rằng trước đây ông già của Kalinin là tá điền của ông
thân sinh ra giáo sư Goryainov-Shakhovsky.
Và không động đến ông thật. Họ để mặc ông muốn nói gì thì
nói, muốn làm gì thì làm. Ông có thể viết một luận án về khoa học thiên nhiên
trong đó ông đưa ra những bằng cứ chứng minh bằng toán học về sự có mặt của
Chúa. Hoặc trong những cuộc giảng thuyết của ông về Newton , nhân vật mà ông thích nói đến nhứt,
ông có thể sỉ mũi trong chòm râu vàng võ của ông và nói:
“Có người vừa đưa lên tôi câu hỏi như sau: Marx viết rằng Newton là một nhà duy vật.
Sao giáo sư lại nói rằng Newton
duy tâm? Tôi trả lời: Marx lầm. Newton
tin ở Chúa, như tất cả những nhà khoa học lớn khác”.
Ghi chép những lời ông nói trong những buổi thuyết giảng ấy
là một việc làm khủng khiếp. Cả đến những tốc ký viên cũng phát điên vì không
sao ghi chép kịp. Vì hai chân ông yếu nên ông ngồi ngay trước bảng đen, quay
lưng vào cử tọa, tay phải ông cầm phấn viết lên bảng trong khi cùng một lúc tay
trái ông cầm khăn tay lau đi. Không ai có thể hiểu được tư tưởng của ông trong
khi nghe ông giảng nhưng khi Nerzhin, cộng tác với một số bạn học, thành công
trong việc ghi lại được trọn vẹn những lời ông nói và họ đọc, họ nghiền ngẫm
những tư tưởng ấy suốt một đêm dài, họ xúc động đến nghẹn ngào khi họ thấy lấp
lánh ánh sao của thiên đường.
Có chuyện gì đã xảy đến với ông? Khi thành phố R. bị oanh
tạc nặng, ông già bị tiếng bom làm cho ngớ ngẩn. Ông được di tản đến Kirghizia
trong tình trạng chết dở. Sau đó ông đã trở lại nhưng ông không còn dạy đại học
nữa, ông dạy ở Viện Sư phạm. Vậy là ông vẫn còn sống ư? Còn sống. Hay thật.
Thời gian qua, đã qua, và sẽ qua…
Vì sao anh lại bị bắt?
Nerzhin cười nhẹ:
- Còn vì sao nữa? Vì tư tưởng của tôi. Ở Nhật Bản, họ có một
đạo luật cho phép người ta có thể kết tội một người chỉ vì những ý nghĩ chưa
từng được nói ra của người này…
- Ở Nhật Bản thì nói làm chi? Ở đây chúng ta đâu có luật nào
như thế?
- Có chứ. Chúng ta có. Đó là Điều 68, Khoản 10.
Nerzhin chỉ nghe loáng thoáng những lời giải thích của
Verenyov về mục đích của Yakonov khi y cho hai người gặp nhau. Verenyov được
đặc phái tới Mavrino để xúc tiến và hệ thống hóa cuộc nghiên cứu ám số ở đây.
Họ cần thêm nhiều nhà toán học và Verenyov mừng rỡ khi biết rằng ngay ở đây có
sẵn một nhà toán học từng là học trò của ông, người sinh viên mà ngày xưa ông
cho là có một tương lai tươi sáng.
Nerzhin lơ đãng đặt những câu hỏi liên can đến cuộc nghiên
cứu và giáo sư Verenyov, hào hứng và hoạt bát khi nói đến những vấn đề toán
học, trình bày những việc phải làm và ông nói đến cả những cuộc thí nghiệm nào
cần phải làm, những công thức nào phải kiểm soát lại. Nhưng trong lúc ấy
Nerzhin nghĩ đến những tờ giấy nhỏ anh viết đầy những dòng li ti, những ý tưởng
anh đã ghi lại với sự thanh thản của tâm hồn sau chiếc bàn dàn cảnh của anh,
dưới những tia mắt canh gác chan chứa tình ái của Simochka, với những tiếng thì
thầm đầy khuyến khích của Rubin. Những tờ giấy nhỏ đó là những ghi chép đầu
tiên trong ba mươi lăm năm làm người của anh.
Tất nhiên anh sẽ vui và dễ chịu nếu anh được trưởng thành
trong địa hạt chuyên môn của anh. Tại sao, người ta có thể hỏi, anh lại tự đưa
đầu anh vào hàm răng mở rộng và nhọn hoắt của thời gian xưa cũ khi mà ngay cả
những sử gia cũng bỏ trốn đến những nơi an toàn hơn? Sức mạnh gì đã thúc đẩy
anh xét đoán hành động và giá trị của Người Khổng Lồ quyền uy ghê gớm đó, chỉ
một cái chớp mắt của người đó cũng đủ làm cho đầu Nerzhin lìa khỏi cổ.
Và anh, anh có nên đầu hàng trước những cánh tay dài như vòi
bạch tuộc của Ám số – để làm việc mười bốn giờ một ngày, không một ngày nghỉ,
đầu óc đầy nặng những lý thuyết về xác suất, lý thuyết về đại số, lý thuyết về
lầm lẫn, một bộ óc chết, một linh hồn khô héo?
Anh sẽ còn lại những gì để suy nghĩ? Sẽ còn những gì để anh
học hỏi về cuộc đời?
Vẫn còn Viện Nghiên cứu Mavrino. Đây không hẳn là một nhà tù
thuần túy. Ở đây có thịt trong bữa trưa, có bơ trong bữa sáng. Ở đây hai tay
không bị rã rời vì mỏi, những ngón tay không đông cứng vì lạnh, không phải nằm
ngủ trên những tấm ván, thân thể chết cứng như khúc gỗ. Ở đây anh được nằm trên
giường có nệm đàng hoàng, nằm ngủ với cảm giác thoải mái.
Nhưng tại sao phải sống suốt cả một đời dài? Sống chỉ để mà
sống? Sống chỉ là việc giữ cho thân thể khỏi chết? Nếu sống chỉ có thế thôi và
không còn gì khác cả, chúng ta cần sống để làm gì?
Sự khôn ngoan thúc giục: “Chịu đi” nhưng trái tim nói:
“Satan, đem những thứ đó đi khỏi mặt ta”.
- Ông có biết đóng giày không?
- Anh nói chi?
- Tôi hỏi: Ông có thể dạy tôi thuật đóng giày không?
- Xin lỗi, tôi không hiểu.
- Ông sống trong một cái vỏ. Còn tôi, sau khi sống hết hạn
tù của tôi ở đây, tôi sẽ đi tới những miền rừng núi xa, tôi sẽ sống ẩn dật suốt
đời. Tôi không biết cách làm việc bằng hai tay, làm sao tôi có thể sống? Ở
những nơi tôi sẽ đến sống đầy loài báo rừng. Ở đấy tôi sẽ không cần đến lý
thuyết, công thức, đến toán học…
- Nerzhin, anh nói gì vậy? Là một chuyên viên ám số, nếu
công tác đạt thành quả tốt, anh sẽ được trả tự do trước hạn kỳ, án tích sẽ có
thể xóa bỏ trong hồ sơ lý lịch của anh, anh sẽ có một căn nhà ở Mạc Tư Khoa.
- Họ sẽ xóa án tích trong hồ sơ lý lịch của tôi?- Nerzhin
giận dữ kêu lên, đôi mắt anh cau lại.- Tại sao ông lại nghĩ rằng tôi mong họ
ban cho tôi món quà nhỏ đó? “Vì anh làm việc tốt nên chúng tôi trả lại tự do
cho anh, chúng tôi tha tội cho anh”. Không… Không thể như thế được…
Những ngón tay Nerzhin gõ mạnh xuống mặt chiếc bàn nhỏ:
- Ông đi ngược… Họ phải nhận trước rằng họ không đúng, họ
không có quyền bắt người khác vào tù chỉ vì người khác không nghĩ như họ. Đến
lúc đó chúng tôi sẽ xét xem chúng tôi có tha thứ cho họ hay không?
Cánh cửa mở và viên chức chính quyền vạm vỡ với chiếc
prince-nez vàng trên sống mũi bước vào.
- Sao? Nhị vị toán học gia? Các vị đã đi đến thỏa thuận rồi
chứ?
Nerzhin không đứng lên, anh nhìn thẳng vào mặt Yakonov khi
anh nói:
- Ông có quyền quyết định. Riêng tôi, tôi nghĩ rằng công
việc tôi đang làm ở Phòng Âm thanh hãy còn dở dang.
Vài phút sau đó trong phòng chỉ còn có một mình Yakonov đứng
sau cái bàn lớn. Chỉ những ai biết rõ Yakonov mới biết rằng lúc đó y đang cáu
giận. Y lẩm bẩm: “Đồ ngu. Có dịp tốt để khá hơn mà không biết. Cho mi chết…”
Cầm cây viết chì đỏ y viết lên quyển sổ trên bàn:
“Nerzhin sẽ phải đi”.
Chương 10 - Tòa lâu đài huyền diệu
Trong nhiều năm – trong thời gian chiến tranh và sau đó –
Yakonov ngồi vững với địa vị kỹ sư trưởng Sở Tiếp liệu đặc biệt. Y mang với một
vẻ trang trọng đáng kính đôi cầu vai nền bạc viền xanh ở giữa có ba ngôi sao mà
sự hiểu biết của y đã đem lại cho y. Chức vụ của y đặc biệt đến nỗi y có thể
hoạt động trên một địa bàn rất rộng: đôi khi đọc một báo cáo đầy những danh từ
khoa học trước những nhân viên cao cấp trong guồng máy nhà nước, đôi khi thảo
luận một cách thông minh với một ngôn ngữ đầy những danh từ chuyên môn với
những kỹ sư về những phát minh mới nhất. Nhìn chung, y tự tạo cho y cái uy tín
là một nhà chuyên môn nhưng không phải lãnh trách nhiệm về bất cứ một chuyện
gì, và mỗi tháng y được lãnh vài ngàn đồng ruble. Yakonov chủ tọa cuộc lễ khai
sinh ra tất cả những phòng chuyên môn, những cuộc phát động thực hiện kế hoạch,
y biến mất trong giai đoạn khó khăn của kế hoạch để rồi lại xuất hiện trước
quan tài của những kẻ thất bại hoặc để choàng vòng hoa chiến thắng lên đầu
những kẻ thành công.
Anton Nikolayevich Yakonov không còn đủ trẻ và đủ tự tin để
mơ tưởng đến chuyện có ngày đoạt được huân chương Sao vàng hoặc giải Stalin,
hoặc mỗi khi có dịp là vồ lấy dự án lớn, quan trọng do Tổng thống hay do chính
Thủ lãnh tối cao đưa ra. Y đã có đủ kinh nghiệm và tuổi đời để khôn ngoan lẩn
tránh hệ thống rắc rối, phức tạp những xúc động, sợ hãi, âu lo do tham vọng
thái quá gây ra.
Với những quan điểm đó về cuộc đời, y sống an nhàn, đầy đủ,
sung sướng cho đến tháng Giêng năm 1948. Trong tháng Giêng ấy có một kẻ nào đó
đề nghị với Cha Chung của dân tộc Nga La Tư ý kiến chế tạo một dàn máy điện thoại
đặc biệt chỉ để dành riêng cho Lãnh Tụ Tối Cao dùng mà thôi. Dàn máy điện thoại
đó sẽ được chế tạo sao cho không một kẻ nào có thể hiểu được Lãnh tụ nói gì, dù
cho máy có bị nghe trộm. Với ngón tay thần thánh, ngón tay vàng vì khói thuốc
lá, vị Cha Hiền Dân Tộc chỉ lên tấm bản đồ. Ngón tay đặt đúng lên Mavrino. Lúc
ấy Mavrino là một xưởng chế tạo máy truyền thanh xách tay cho cảnh sát dùng.
Câu nói lịch sử của Người trong dịp này là “Ta cần những máy truyền thanh này
để làm gì? Để bắt kẻ trộm à? Ai thèm để ý đến bọn ăn trộm?”
Người ra thời hạn: ngày mùng một tháng Giêng 1949. Người suy
nghĩ rồi nói: “Thôi được. Cho đến mùng một tháng Năm”.
Công tác này được đặt vào hàng ưu tiên số một và quan trọng
số một. Thời hạn của công tác quá chặt chẽ, quá gấp rút. Ở Bộ An ninh, người ta
thảo luận kỹ và người ta chọn Yakonov để trao cho việc đích thân đốc xuất công
tác này. Yakonov cố gắng một cách vô ích để trình bày rằng y đã phụ trách quá
nhiều việc và y không thể nào làm tròn được hai việc cùng một lúc. Nhưng Foma
Guryanovich Oskolupov, giám đốc Nha Kế hoạch Bộ An ninh, thượng cấp trực tiếp
của Yakonov, chiếu cặp mắt xanh như mắt mèo nhìn thẳng vào mắt Yakonov – và
Yakonov nhớ lại vết đen trên hồ sơ an ninh của y. Chính y cũng đã từng phải ở
tù sáu năm. Vì vậy, y ngậm miệng lại không dám nói gì nữa.
Từ đó – đã gần hai năm trời trôi qua – văn phòng Trưởng
Phòng Kỹ sư ở Tổng bộ An ninh vẫn để trống không có ai ngồi. Trưởng Phòng Kỹ sư
Yakonov sống suốt ngày đêm ở Viện Nghiên cứu Mavrino nằm ở ngoài thành Mạc Tư
Khoa, nơi có một tầng tháp hình lục lăng nổi cao trên mái tòa giáo đường xưa
cũ.
Thoạt đầu, việc một mình có toàn quyền quyết định mọi việc
là một lạc thú, Yakonov cảm thấy khoái lạc trong việc đóng cánh cửa chiếc xe
hơi Pobeda dành riêng cho y di chuyển với cử chỉ mệt mỏi. Y khoan khoái ngồi
trong chiếc xe êm đưa y tới Mavrino, đi ngang người binh sĩ chào nghiêm với cây
súng trên tay ở vọng gác ngoài cổng để vào tòa nhà chung quanh có dây thép gai.
Cuộc sống thật dễ chịu trong mùa xuân, khi cảnh vật đều trẻ trung và tươi mởn,
đi bộ dưới những hàng cây dẻ từng sống cả trăm năm bao quanh Mavrino với một
đám thiếu tá, đại úy tùy tùng. Trong thời gian đầu, những vị thượng cấp của
Yakonov không ai đòi hỏi gì ở Mavrino – Yakonov chỉ có việc đều đặn gửi về Tổng
bộ một lô những chương trình kế hoạch, sơ đồ và lời hứa sẽ làm trọn những “bổn
phận đối với chế độ”. Và vật dụng đủ thứ được tới tấp đổ xuống Viện Nghiên cứu
khoa học Mavrino: những bộ phận máy radio do Nga Xô chế tạo và những bộ phận do
ngoại quốc chế tạo, máy điện, dụng cụ nghiên cứu, bàn ghế, tủ, tủ sắt, một tủ
sách gồm ba mươi ngàn quyển sách chuyên khoa kỹ thuật, những tù nhân chuyên
viên được lấy ra từ những trại tập trung, những sĩ quan mật vụ ưu tú nhất được
phái đến, những viên chức lưu trữ hồ sơ được biệt phái tới làm việc và sau
cùng, một đại đội binh sĩ phòng vệ đặc biệt kéo đến. Cũng trong thời gian đầu,
Yakonov phải cho sửa lại tòa nhà, làm thêm phòng, chuyển những căn phòng trong
nhà y thành phòng thí nghiệm và văn phòng, xây hầm đặt máy điện. Cho đến khi
những hàng cây dẻ nở hoa vàng và tỏa ngát hương thơm, tiếng nói buồn rầu của
những tù binh Đức được gửi đến làm lao công vang lên trong vườn tòa nhà.
Những tên Phát xít lười biếng đang sống năm tù thứ tư sau
chiến tranh ấy không muốn làm bất cứ một việc gì. Trước mắt những người Nga,
cảnh bọn tù binh Đức chuyển những viên gạch từ trên những chiếc xe vận tải
xuống là một cảnh chướng mắt chịu không nổi: chúng xếp hàng một từ xe vào đến
chỗ xếp gạch, chúng chuyền tay nhau từng viên gạch chậm chạp, cẩn thận, như đó
là những khối vàng nén. Chúng cố tình làm chậm như thế và chúng chỉ chuyển hết
số gạch trên một chiếc xe xuống là hết ngày. Trong lúc những công nhân đặt máy
thông hơi, máy sưởi ở cửa sổ và lát ván lại những căn phòng trong nhà, bọn tù binh
Đức đi lang thang khắp nhà, chúng vào cả những căn phòng tối mật và đứng nhìn
những thùng đồ ghi chữ Đức và chữ Anh. Bất cứ một chú học sinh người Đức nào
cũng có thể đoán biết phòng thí nghiệm gì được lập lên ở đó. Rubin đã ghi tất
cả những chi tiết này trong một bản báo cáo gửi đến đại tá kỹ sư Yakonov, báo
cáo này ghi nhận đúng nhưng cũng rất phiền cho hai sĩ quan phụ trách an ninh ở
đây – Shikin và Myshkin – (bọn tù nhân gọi hai nhân vật này bằng cái tên chung
là Shishkin và Myshkin) – bởi vì lúc đó, người ta chẳng còn sửa chữa gì được
nữa. Họ không thể gửi báo cáo đó lên thượng cấp vì sự sơ xuất đó là lỗi của họ.
Và đến lúc đó bọn tù binh Đức đã được trở về Đức quốc. Yakonov rùng mình kinh
sợ khi nghĩ rằng nếu trong bọn tù binh ấy có tên nào trốn sang Tây Đức, tên đó
sẽ có thể kể lại vị trí Viện Nghiên cứu này với bọn gián điệp đế quốc tư bản.
Sau đó, những biện pháp bảo vệ bí mật đến tối đa được áp dụng ở Mavrino: tù
nhân làm việc ở phòng thí nghiệm này không được đặt chân sang phòng thí nghiệm
khác, các tù nhân không được tiết lộ những công tác nghiên cứu với nhau, trừ
khi nào được ban giám đốc cho phép. Việc Yakonov được cử đi điều hành Viện
Nghiên cứu khoa học Mavrino cũng được giữ kín ở Tổng bộ An ninh. Ở trong Bộ, ai
hỏi đến đại tá kỹ sư Yakonov đều được yêu cầu ghi tên, cấp bậc và lý do cần gặp
lên giấy và sẽ được trả lời sau. Nếu cần phải gặp những người này, bao giờ
Yakonov cũng về Bộ để gặp. Y không tiếp bất cứ ai ở Mavrino.
Khi bọn tù bình Đức được gửi về nước, họ đưa tới Mavrino đám
tù khác để làm lao công. Đám tù này giống hệt những tù nhân làm việc chuyên môn
trừ điểm quần áo của họ dơ dáy hơn, rách rưới hơn và họ không được quyền ăn
bánh mì trắng. Đám tù Nga này làm việc khác hẳn bọn tù binh Đức: họ vừa làm
việc vừa chửi rủa tục tĩu, những viên gạch bay tới tấp từ trên xe vận tải xuống
sân và kết quả là gần như không còn viên gạch nào lành lặn hoàn toàn. Với
tiếng: “Một… hai… ba…”, bọn tù Nga quăng tấm mui xe bằng vải bạt chùm lên xe và
chúng chui vào đó để đi về nhà giam, trên đường đi chúng đùa giỡn với những nữ
tù nhân. Buổi sáng chúng được đưa đến làm việc, buổi chiều đưa trả về nhà giam.
Và tòa lâu đài huyền diệu đó, nằm riêng rẽ ở một khu ngoài
thành phố, một khu tuy không thấy có gì khác lạ nhưng bọn thường dân không dám
tới gần, được thay đổi gần như toàn diện: lâu đài có một bồn chứa nước, một hệ
thống đốt rác tối tân, một nhà máy điện riêng, những căn phòng cửa sắt được
sưởi ấm vào mùa đông và những bồn hoa tươi trong vườn cỏ. Cũng trong thời gian
đó, Viện Nghiên cứu khoa học được ưu đãi đặc biệt này mỗi ngày một phát triển
lớn hơn, đông nhân viên hơn. Viện tiếp nhận cả một Viện Nghiên cứu khác với
toàn thể nhân viên của viện này. Đó là Viện Nghiên cứu được trao cho thiếu tá
kỹ sư Roitman chỉ huy. Viện này cũng được lập lên để nghiên cứu về điện thoại
và truyền tin. Thiếu tá kỹ sư Roitman trở thành vị phụ tá của đại tá kỹ sư
Yakonov. Người khai sinh và bảo vệ Viện Nghiên cứu bị sáp nhập này là đại tá
Yakov Ivannovich Mamurin, nguyên Trưởng Sở Liên lạc đặc biệt và nguyên là một
viên chức cao cấp, quan trọng của chính phủ Xô Viết. Trước đó ít lâu, đại tá
Mamurin đã biến mất trong một trường hợp bi thảm.
Số là có một lần vị lãnh đạo Nhân Loại Tiến Bộ nói chuyện
bằng điện thoại với một người ở tỉnh Yerevan
và Lãnh Tụ bất mãn vì đường dây rè rè khó nghe, khó nói quá. Người bèn gọi
Beria tới và nói bằng tiếng địa phương Georgia : “Lavrety… Anh để cho thằng
ngu nào giữ Sở Liên lạc đặc biệt vậy? Tống cổ nó đi”.
Và như thế là Mamurin bị tống đi. Bị tống đi có nghĩa là đi
tù. Họ giam Mamurin vào nhà tù Lubyanka. Họ tống y đi nhưng họ không biết sau
đó phải giải quyết tình trạng của y ra làm sao, phải đối xử với y như thế nào.
Họ không có chỉ thị phải làm về vụ Mamurin, không có lệnh phải xử tù Mamurin và
nếu xử tù thì cho tù bao nhiêu năm. Nếu Mamurin không phải là anh em đồng chí
của họ, họ đã xử y “một phần tư thế kỷ và năm năm khóa mõm”, nghĩa là tù khổ
sai hai mươi lăm năm và năm năm mất quyền công dân, và tống y đi Norilsk. Nhưng
họ bị ám ảnh bỏi lời nguyền: “Hôm nay tôi, mai đến bạn”, những người bạn đồng
nghiệp cũ của Mamurin ngấm ngầm bảo vệ y. Khi họ biết chắc rằng Stalin đã quên
Mamurin, họ dàn xếp cho Mamurin đến sống ở Viện Nghiên cứu khoa học Mavrino.
Vì vậy, trong một đêm mùa hạ năm 1948, họ đưa một tù nhân
mới đến Mavrino. Tất cả mọi sự kiện liên can đến tù nhân này đều khác thường: Y
được đưa tới trên một chiếc xe hơi du lịch chứ không phải trên một chiếc xe
Maria Đen như tất cả những tù nhân khác. Y được viên quản đốc nhà tù đích thân
đi đón về, và y được mời ăn bữa đầu tiên trong nhà tù ở trong văn phòng của
viên quản đốc, bàn ăn của y đêm đó có trải khăn trắng đàng hoàng.
Những tù nhân có trước trong nhà tù này nghe biết – trên
nguyên thể, họ không được nghe, thấy, biết gì hết nhưng trên thực tế, họ vẫn
nghe, vẫn thấy và vẫn biết hết mọi chuyện – tù nhân mới đến này nói rằng y
không thích ăn xúc xích và viên quản đốc lễ phép mời y chịu khó ăn nhiều cho
khỏe. Một tù nhân bị đau trên đường đi tới phòng khám bệnh nghe lỏm được những
lời trao đổi này. Anh trở về kể sự lạ ấy với các bạn và đám tù nhân bán tán xôn
xao một lúc về sự lạ ấy. Họ đi đến kết luận là dù sao đi nữa, kẻ mới đến cũng
chỉ là một anh tù. Sau đó, họ ngủ.
Những sử gia của Nhà tù đặc biệt Mavrino không bao giờ xác
định được rằng đêm đầu tiên ấy kẻ mới đến ngủ ở đâu. Sáng sớm hôm sau, ở một
khu mà các tù nhân bị cấm không được đặt chân đến, một tù nhân chuyên viên thợ
tiện, tình cờ chạm trán với một kẻ mới đến trong đêm qua.
- Ê bạn… - người tù thợ tiện hỏi vội với ngón tay thô chọc
mạnh vào ngực kẻ mới tới. - Bạn từ đâu đến? Bị vồ ở đâu? Vì sao? Ngồi đây, hút
thuốc không?
Nhưng kẻ mới đến lùi xa người tù thợ tiện với vẻ kinh hãi,
khinh mạn hiện rõ trên mặt. Người tù thợ tiện trợn mắt nhìn cái đầu hói và đôi
mắt trắng của kẻ mới đến, anh giận dữ nói:
- Đồ phách chó. Để rồi khi anh vào ở chung với chúng tôi anh
có chịu nói chuyện với chúng tôi hay không.
Nhưng “Phách chó” không bị nhốt vào phòng ngủ chung với tù
nhân. Bên cạnh hành lang đưa tới những phòng thí nghiệm, ở tầng thứ ba, ban
quản đốc làm được cho y một căn phòng nhỏ, trước đây phòng này được dùng làm
phòng tối rửa hình, họ khiêng vào đó một cái giường, một cái bàn, một cái tủ,
một chậu cây cảnh và một cái bếp điện. Họ gỡ những tấm ván ra khỏi khung cửa
sổ, cửa sổ này không mở ra ngoài trời mà nhìn ra một cầu thang nhỏ. Vì vậy ngay
cả những buổi trưa trời nắng nhất, ánh sáng cũng không lọt được tới khung cửa
sổ căn phòng nhỏ này. Cửa sổ còn có chấn song sắt. Những chấn song này có thể
gỡ ra được nhưng ban quản đốc nhà thù, sau nhiều do dự, quyết định để nguyên.
Những người có quyền ở đây cũng không ai hiểu rõ về tình trạng rắc rối bao
quanh tù nhân này và họ cũng không biết phải xử sự làm sao cho đúng.
Từ đó, tù nhân mới tới được đặt tên là “Người mặt nạ sắt”.
Trong một thời gian rất lâu sau đó không ai biết tên y là gì. không ai có thể
nói chuyện được với y. Qua khung cửa sổ, những tù nhân đi lại trên cầu thang
nhỏ trông thấy y ngồi cúi đầu trong căn phòng cô đơn, hoặc đi vất vưởng như
bóng một cô hồn dưới hàng cây đề trong những giờ tù nhân bị cấm ra khỏi phòng
giam. Mặt nạ sắt cũng gầy gò, xanh xao như bất cứ một tù nhân nào sau hai năm
bị giam cầm nhưng việc y từ chối không chịu ăn xúc xích cho người ta biết rằng
không phải y gầy xanh vì thiếu ăn hay vì bị thẩm vấn.
Lại qua một thời gian rất lâu sau nữa, khi Mặt nạ sắt làm
việc với phòng Số bảy, tù nhân được những viên chức tự do cho biết rằng y chính
là đại tá Mamurin, người khi còn là giám đốc Sở Liên lạc đặc biệt, đã cấm không
cho bất cứ ai đi ngang cửa văn phòng của y được đặt gót giày xuống sàn, nghĩa
là tất cả mọi người đi qua cửa văn phòng y đều phải đi kiễng chân, nhón gót để
khỏi gây ra tiếng động. Nếu không, y sẽ từ trong phòng hầm hầm chạy ra, quát
lớn: “Đồ thô tục. Có biết văn phòng ai đây không? Tên là gì?”.
Về sau, người ta được biết rằng sự khổ sở của Mamurin thuộc
về tinh thần. Thế giới những người tự do hắt hủi, chê bỏ y và y không thể gia
nhập thế giới của những người bị tù đày. Thoạt đầu, trong cảnh cô đơn, y đọc
sách. Y đọc những tác phẩm bất hủ như quyển “Chiến đấu cho hòa bình” của Panferov,
quyển “Chàng kỵ sĩ sao vàng” của Babayevsky. Y đọc Sobolev, Nikulin, rồi đọc
thơ của Prokofiev và Gribachev. Và trong tâm hồn y một sự chuyển biến kỳ diệu
xảy ra: y bắt đầu làm thơ. Người ta biết rằng sự bất hạnh và tình trạng đau khổ
về tinh thần thường sản xuất ra những nhà thi sĩ và sự đau khổ của Mamurin sắc
nhọn hơn sự đau khổ của nhiều tù nhân khác. Sống trong nhà tù đã hai năm nhưng
không bị thẩm vấn cũng không bị đưa ra tòa xử, không có án, y vẫn sống giống
hệt như y sống trước khi bị tù, nghĩa là tuân theo đúng những chỉ thị của Đảng,
tôn thờ Lãnh tụ Tối cao. Mamurin thú thật với Rubin rằng không phải thức ăn
trong nhà tù tồi tàn – (những bữa ăn của y được nấu riêng) – cũng không phải vì
tình trạng phải xa những người thân trong gia đình – (mỗi tháng y được bí mật
đưa về nhà riêng của y, nơi y ngủ lại một đêm) – y khổ sở và cay đắng chính là
vì tình trạng Yosif Vissarionovich Stalin không còn tin cẩn y nữa. Y đau đớn vì
y không còn là một vị đại tá, vì y bị thất sủng. Chính vì vậy mà những người như
Rubin và Mamurin sống khổ sở trong tù hơn là những người tù khác thù hận, chống
đối chế độ.
Vốn là một đảng viên Cộng sản. Nhưng sau khi nghe những lời
thở than, tâm sự của Mamurin và nhất là sau khi đọc tập thơ của y. Rubin trở
thành lẩn tránh y. Rubin vui vẻ sống với những người chỉ trích anh một cách bất
công nhưng chịu chung cảnh ngộ với anh.
Về phần Mamurin, y bị thôi thúc vì một ý muốn, ý muốn này
cũng làm cho y nhức nhối, khó chịu như những cơn đau răng da diết: ý muốn chứng
tỏ giá trị con người của y qua việc làm. Nhưng than ôi, những hiểu biết chuyên
môn của Mamurin về liên lạc và truyền tin, mà y từng là một viên chức cao cấp
trong ngành, chỉ là việc nhấc ống điện thoại lên quay số và nói. Do đó y không
sao có thể tự y làm việc được, y chỉ có thể sai khiến người khác làm việc mà
thôi. Nhưng việc điều khiển một dự án nào đó do người khác làm ra không bao giờ
có thể làm cho y chiếm lại được sự tin cẩn của Người Bạn Thân Nhất của công
nhân truyền tin [3], y cần phải nghĩ ra một dự án riêng để đệ trình lên Lãnh
tụ.
Trong thời gian Mamurin phát minh ra được điều này, Viện
Nghiên cứu Mavrino đang sửa soạn thực hiện hai dự án đáng kể, hứa hẹn nhiều
vinh quang. Đó là dự án chế tạo máy Vocoder, một máy đo tiếng nói, và thiết lập
Phòng Nghiên cứu số Bảy.
Vì những nguyên nhân sâu xa nhưng vô lý nào đó, người ta
thường có cảm tình hay ác cảm với nhau, chịu nhau hay không sao chịu nổi nhau,
ngay từ giây phút gặp gỡ đầu tiên, từ cái nhìn thấy mặt nhau thứ nhất. Yakonov
và Roitman có ác cảm với nhau và không chịu nhau. Thời gian trôi qua, sự ác cảm
này càng nặng nề, họ như hai con vật cùng bị một bàn tay mạnh hơn đưa vào kéo
chung một cái gông, họ như hai con ngựa bị ghép chung vào một cái xe, hai con
ngựa không sao thoát ra được nhưng kéo đi về hai hướng khác nhau. Khi công tác
chế tạo máy điện thoại bí mật được thực hiện ở Mavrino, Roitman quy tụ tất cả
những tù nhân chuyên viên xuất sắc mà y có thể quy tụ được vào làm việc trong
Phòng Âm thanh. Để trả đũa, Yakonov cũng nhặt nhạnh tất cả những chuyên viên
tài giỏi trong nhà tù về làm việc trong Phòng số bảy do y lập ra và điều khiển.
Yakonov còn đem tất cả những dụng cụ khoa học tốt nhất tập trung về Phòng số
bảy. Trong trận tranh chấp quyết liệt và tàn nhẫn này, Roitman có vẻ yếu thế
hơn.
Yakonov bắt buộc phải lập lên Phòng Nghiên cứu số bảy vì y
không thể để cho Roitman làm hết mọi việc ở ngay Viện Nghiên cứu mà y được cử
làm giám đốc. Y phải chứng tỏ cho thượng cấp biết là y mẫn cán, y có khả năng.
Kể từ ngày đó Yakonov có thể có mặt trong Viện ban đêm hay không tùy ý. Và
người tù cô đơn với đôi mắt nhiều tròng trắng hơn tròng đen, viên cựu đại tá
từng giữ chức giám đốc Sở Liên lạc đặc biệt, người tù từ chối không chịu ăn xúc
xích, tạm đè nén hứng thơ để làm việc như một tên nô lệ cho đến hai giờ sáng trong
Phòng số bảy. Chỉ có một mình Mamurin có thể làm việc được nhiều giờ như thế vì y là tù nhân duy nhất không bị viên chức canh gác trong nhà tù này.
-------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét