Trái tim chó
Tác giả: Mikhail Bulgacov
Dịch giả: Đoàn Tử Huyến
Nhà xuất bản Văn Học - Hà Nội - 1989
Chương 1
Ư-ư-ư-ư-hư-hư-hư-ư!
Ôi khốn nạn thân tôi, tôi chết mất đây! Dưới vòm cổng, bão
tuyết đang gào rít bản nhạc tống biệt tôi, và tôi cũng tru lên cùng với gió
tuyết.
Đời tôi thế là hết, thế là hết thật rồi. Một thằng súc sinh
đội mũ không vành cáu bẩn, cái lão đầu bếp ở nhà ăn bình dân của các nhân viên
thuộc Hội đồng Kinh tế Quốc dân Trung ương ấy, đã hất nước sôi làm bỏng cả một
bên sườn trái của tôi. Cái đồ đểu giả đến vậy, mà lại còn là vô sản nữa chứ !
Trời đất ơi, đức Chúa của tôi ơi, đau quá ! Nước sôi bỏng thấu tận xương.
Bây giờ tôi chỉ biết tru lên, nhưng tiếng tru nào phỏng giúp
được gì.
Tôi đã làm gì động đến hắn? Chẳng lẽ nếu để tôi đào bới
trong đống thức ăn thải thì cái Hội đồng Kinh tế Quốc dân kia sẽ khánh kiệt đi
sao? Đồ súc sinh bần tiện! Có khi nào đó các người thử nhìn cái mặt của hắn
xem: Chiều ngang rộng hơn chiều dọc!
Một thằng ăn cắp mặt dầy. Ôi, bàn dân thiên hạ ôi! Giữa
trưa, hắn dội cho tôi một gầu nước sôi, còn bây giờ trời đã nhập nhoạng tối, cứ
ước theo mùi hành phi bay ra từ khu nhà ở của đội cứu hoả phố Pretnstenka thì
chắc đã khoảng bốn giờ chiều rồi. Như các người biết đấy, bữa tối lính cứu hoả
thường ăn cháo. Đấy là một món mạt hạng. cũng giống như nấm ấy. Thế nhưng mấy
thằng chó đực quen trên phố Pretristenka lại kể rằng, dường như ở nhà hàng
“Bar” trên đại lộ Neglinnưi người ta thường chén món nấm dầm nước sốt cay giá
ba rúp bảy mươi lăm kôpếch một suất. Tuy nhiên đó là chuyện khẩu vị từng người,
nó cũng chẳng khác gì việc liếm giày cao su vậy...
Ư- ư- ư- ư- ư...
Hông đau không chịu nổi, và tôi đã thấy rõ mồn một cái viễn
cảnh của tôi: ngày mai sẽ bắt đầu những vết loét, và thử hỏi lúc đó tôi lấy gì
để chữa chạy? Mùa hè thì còn có thể dông tuốt lên công viên Sokoniki, ở đấy có
một loại cỏ đặc biệt làm thuốc hết sẩy; ngoài ra đến đó còn được chén đẫy không
mất tiền các mẩu lạp xường thừa, tha hồ liếm láp những tờ giấy gói đẫm mỡ mà
quý vị công dân vứt tứ tung khắp nơi. Và nếu như không gặp phải một mụ già cáu
bẳn nào đó hát trong dàn đồng ca dưới trăng - “ôi Aiđa yêu dấu” - đến rụng tim,
thì cuộc đời thật sự hết ý. Còn bây giờ tôi biết đi đâu? Người ta có thường
phết giày vào đít các người không? Có chứ. Các người đã được nếm món gạch chọi
vào sườn chưa? Từng xơi đủ. Tôi đã trải qua tất cả, tôi nhẫn nhục cam chịu cái
số kiếp của mình.
Nếu bây giờ tôi khóc rên thì cũng chỉ là bởi thân xác của
tôi lạnh cóng và đau đớn, vì linh hồn tôi hãy còn chưa tắt... Linh hồn loài chó
vốn sống dai.
Nhưng thân thể tôi thì đã bị tàn giập, xơ xác, cái giống
người hành hạ giày vò nó kể cũng gớm ghê. Nhưng khủng khiếp nhất là từ khi cái
lão kia hắt nước sôi làm tôi bỏng chín đến tận chân lông, bên sườn trái của tôi
thế là không còn gì bảo vệ nữa. Tôi có thể rất dễ dàng bị viêm phổi; mà một khi
đã viêm phổi thì, kính thưa các quý công dân, tôi sẽ chết đói nhăn răng. Bởi vì
bị viêm phổi rồi thì phải nằm dưới cầu thang ở lối cổng chính, nhưng nếu thế
hỏi ai sẽ thay tôi, một con chó đực độc thân nằm bẹp một chỗ, chạy đi bới các
thùng rác để kiếm miếng ăn? Sưng phổi rồi, tôi sẽ phải bò lê bò lết, sẽ kiệt
sức, và bất kỳ một tay chuyên viên thu dung nào cũng có thể dùng gậy đập tôi
đến chết. Còn bọn quét sân mang những tấm biển trên áo đồng phục sẽ túm lấy
chân tôi mà quẳng lên xe ngựa chở rác. Trong toàn bộ thế giới vô sản thì bọn
người quét sân là loại khốn nạn nhất. Các phế vật của con người ấy là thuộc
giống hạ đẳng tột cùng. Dân đầu bếp thì còn có ba bảy loại. Chẳng hạn, như ông
Vlas vừa quá cố ở phố Pretristenka. Ông ta đã cứu bao nhiêu là mạng chó. Bởi
vì, cái quan trọng hàng đầu khi ốm đau là kiếm được miếng ăn khơ khớ. Vậy mà,
như các lão chó già kể lại, nhiều khi ông Vlas ném cho chúng những miếng xương,
mà dính trên miếng xương đó có đến hàng nửa lạng thịt. Cầu mong cho linh hồn
ông cụ được yên nghỉ. Ông cụ mới thật là một nhân cách chân chính, một đầu bếp
quý tộc của các bá tước Tolstoi, chứ đâu phải của Hội đồng ăn uống bình dân. Mà
không biết người ta làm cái gì ở trong ngành ăn uống bình dân ấy, cái đầu óc chó
này thật chẳng làm sao hiểu nổi? Bởi vì họ, cái bọn người đểu cáng đó, chuyên
nấu xúp bằng thịt ngựa muối thối, còn những kẻ được phục vụ tội nghiệp kia thì
không hề biết gì cả. Cứ kéo đàn, kéo lũ đến húp sạch, ngốn láo!
Có cô nhân viên đánh máy nọ nhận lương bậc chín, bốn mươi
lăm rúp một tháng, tuy thực ra cô ta còn được người tình bao cho đôi tất dài
dệt kim. Nhưng vì cái món dệt kim này mà cô ta phải chịu đựng bao nhiêu là sự
khinh nhục. Cái gã người tình cứ bắt cô ta phải làm tình theo kiểu Pháp chứ
không phải bằng một cách bình thường nào khác. Tôi xin nói riêng giữa chúng ta
với nhau, bọn Pháp là một lũ chó chết. Mặc dù họ ngốn toàn những thứ sang, bữa
nào cũng nốc rượu vang đỏ. Thế đấy... cô
đánh máy nọ hàng ngày chạy đến nhà ăn này, bởi vì với bốn mươi lăm rúp thì
không thể vào nhà hàng “Bar” được. Thậm
chí đi xem xinê cô ta cũng không đủ tiền, mà đối với đàn bà thì xinê là thứ
giải trí duy nhất trong cuộc đời. Run rẩy, nhăn nhó, nhưng vẫn phải nuốt...
Thử nghĩ mà xem: bốn chục xu hai món, mà thực ra cả hai món
này chưa đáng giá mười lăm xu, vì hai mươi lăm xu còn lại đã bị lão trưởng
phòng quản trị ăn bớt mất rồi. Mà chẳng lẽ cô ta lại cần một bữa ăn như vậy?
Hai lá phổi của cô ta đã có vấn đề rồi còn căn bệnh phụ khoa kiểu Pháp, mà ở cơ
quan thì bị trừ lương, vào nhà ăn thì bị người ta thí cho thịt thối.
Cô ta kia, đấy cô ta kia kìa... Đang chạy ra cổng, đi đôi
bít tất dài của người tình cho. Chân lạnh cóng; gió thổi lọt vào bụng, vì áo
len trên người cô ta cũng chẳng khác gì lông trên người tôi, còn quần thì mỏng
tanh; chỉ là một vòng đăng ten? Phải xé tươm ra cho người tình. Nếu cô ta mặc
vải phlanen, cứ thử xem, gã sẽ gào toáng lên: Sao cô thô thiển thế! Mỗ đã chán
ngấy cái cô ả Matrena của mỗ rồi, mỗ đã chịu bao nhiêu khốn khổ với cái quần vải
phlanen, bây giờ đến thời đại của mỗ. Bây giờ mỗ là chủ tịch, cóp được bao
nhiêu mỗ xài hết cho món đàn bà, thịt tôm càng và rượu Abrau Durso. Bởi vì thời
trẻ mỗ đã phải nếm quá nhiều những đói khát, với mỗ thế là đủ, mà cuộc sống ở
thế giới bên kia thì không tồn tại.
Tôi thật cám cảnh cô ta, ôi thật cám cảnh! Nhưng tôi còn cám
cảnh bản thân mình hơn.
Không phải vì ích kỷ mà tôi nói như vậy, ồ không đâu, mà vì
hoàn cảnh giữa tôi và cô ta thật sự không như nhau. Cô ta ít ra còn được ấm áp
khi về nhà, còn tôi, còn tôi... Tôi biết đi đâu?
Bị đánh đập, bị dội bỏng, bị hắt hủi, tôi còn biết đi đâu?
ư-ư-ư-ư-ư?
- Chúc, chúc, chúc! Sarik, à Sarik! Gì mà mày rên rỉ thế, hở
con chó tội nghiệp? Ai đánh mày hả? Ôi...
Con mụ phù thủy bão tuyết khô, xô quật cánh cổng ầm ầm, cưỡi
chổi tông thẳng vào tai cô gái, hất ngược váy cô ta lên quá đầu gối, để lộ ra
đôi bít tất mầu kem sữa và một dải hẹp của chiếc quần lót bằng đăng ten giặt
không sạch, bóp nghẹn lời nói cửa cô ta, phủ tuyết lên người chó.
- Trời đất ôi... Thật là thời với tiết thế này... Ôi Bụng
đau quá! Đây là do thịt ngựa thối, cái món xúp ngựa thối? Biết đến bao giờ thì
hết những cảnh này hở trời?!
Chúi đầu xuống, cô gái xông vào chịu trận cùng bão tuyết,
tiến ra phía cổng; ở ngoài phố gió bắt đầu quay tròn, xô nghiêng ngả, rồi vây
cô ta trong một cột tuyết mù mịt; và cô gái biến mất.
Còn con chó thì nằm dài dưới vòm cổng, đau đớn rên rỉ với
bên sườn bị bỏng, nép mình vào sát bức tường lạnh giá, thở dốc lên và thầm chắc
rằng sẽ không rời nơi này đi đâu nữa, sẽ chết bỏ xác tại đây, dưới cái vòm cổng
này. Sự tuyệt vọng làm nó gục hẳn. Trong lòng nó đau đớn và cay đắng cùng cực,
cô đơn và kinh hoàng đến nỗi những giọt nước mắt chó nhỏ tí như những chiếc mụn
cơm ứa ra trên tròng mắt rồi lập tức khô ngay. Lông bên sườn trái bết lại thành
từng búi đông cứng, và ở giữa chúng là những mảng da bỏng đỏ bầm đáng sợ. Cái
bọn đầu bếp mới vô nghĩa, mới ngu độn và tàn ác làm sao? Còn cô ta gọi nó là
“Sarik”... Tại sao lại “Sarik” được? Sarik thì phải tròn trĩnh, béo tốt, đần độn,
ăn cháo kiều mạch, dòng giống quý tộc; còn nó chỉ là một con chó vô chủ, xơ
xác, gầy còm, bẩn thỉu.
Nhưng mà thôi, dẫu sao cũng cảm ơn cô nương vì những lời tốt
đẹp!
Cánh cửa của một cửa hàng mua bán ánh điện sáng rực rỡ ở
phía bên kia đường bật mở, và từ trong đó bước ra một quý ông. Chính là quý ông
chứ không phải đồng chí, và nếu nói một cách chính xác nhất - là quý ngài. Càng
đến gần càng thấy rõ đúng là quý ngài. Các người nghĩ rằng đó là tôi đoán qua
áo bành tô chứ gì? Vớ vẩn. Bành tô thì bây giờ rất nhiều người vô sản cũng mặc.
Thật ra, cổ áo có khác nhau, điều đó chẳng cần phải nói, nhưng dù sao đứng xa
vẫn có thể nhầm. Còn qua cặp mắt thì dù gần, dù xa cũng không thể nào nhầm lẫn
được: ôi, con mắt là vật rất có giá trị. Nó giống như một chiếc gương, một máy
đo độ, qua đó có thể thấy ai là người tâm hồn cao cả, ai là người vô căn vô cớ
có thể thọc mũi giày vào mạng sườn, còn ai là kẻ thấy người nào cũng sợ. Chính
cái loài đầy tớ hèn nhát đó tôi thường thích đớp cho một phát vào bắp chân. Đã
sợ thì cho chết. Một khi đã sợ thì đáng lắm...
gâ - gâ - gâ... gâ u - gâ u...
Quý ngài nọ tự tin đi qua mặt đường ngập trong bão tuyết và
tiến vào cổng. Đúng, đúng, trông dáng quý ngài này có thể thấy được tất cả. Quý
ngài đây thì sẽ không bao giờ chén thịt ngựa thối; còn nếu ở đâu đó người ta
mang thịt thối đến cho quý ngài, thì quý ngài sẽ quát tháo ầm ĩ, sẽ viết lên
báo: người ta dám cho tôi, Philip Philippôvich, ăn thịt thối!
Quý ngài mỗi lúc một đến gần, đến gần hơn. Ông này luôn luôn
được ăn uống đầy đủ và chẳng bao giờ ăn cắp. Ông này không thượng cẳng chân hạ
cẳng tay với ai, nhưng tự mình cũng đếch sợ ai cả, và đếch sợ là vì bao giờ
cũng no đủ. Ông này là một quý ngài lao động trí óc, với bộ râu nhọn kiểu Pháp,
hàng ria bạc trắng, mềm mại và ngang tàng như ria của những hiệp sĩ Pháp, nhưng
từ người quý ngài toả ra trong gió tuyết một thứ mùi kinh tởm - mùi bệnh viện.
Và mùi thuốc lá nữa.
Thử hỏi ma quỷ nào lôi quý ngài vào cái hợp tác xã mua bán
ấy của Hội đồng Kinh tế Trung ương? Nó ở kia... Quý ngài tìm cái gì ở đó?
Ư- ư- ư- ư... Quý ngài có thể mua gì trong cái cửa hàng tẹp
nhẹp kia, chẳng lẽ phố Okhotnưi Riad đối với quý ngài còn chưa đủ sao? Cái gì
kia nhỉ? Giò- ò- ò? Thưa quý ngài, nếu như quý ngài được thấy giò này người ta
làm bằng gì, thì chắc quý ngài đã không đến gần cái cửa hàng kia. Hãy để nó lại
cho tôi đi?
Con chó dồn hết chút sức lực còn lại, và trong cơn mất trí
nó bò từ vòm cổng ra mặt hè. Bão tuyết gào như súng quét trên đầu, giật ngược
những hàng chữ cái đồ sộ của tấm biểu ngữ bằng vải “Có thể làm con người trẻ
lại được không?”. Hiển nhiên là có thể. Mùi thơm của thức ăn đã làm cho tôi trẻ
lại, nâng tôi đứng lên, những luồng sóng nóng bỏng chảy đầy cái dạ dày của tôi
đã hai ngày đêm trống rỗng, nó đánh bạt cả mùi bệnh viện!
- Ôi cái mùi thiên đường của giò băm với tỏi và ớt! Tôi cảm
thấy, tôi biết rõ - quý ngài mang giò trong túi bên phải của chiếc áo choàng
lông. Quý ngài ở ngay phía trên tôi. Ôi, ông chủ của con. Hãy nhìn con một tí.
Con đang chết mất đây. Ôi, cái linh hồn nô lệ của chúng tôi, ôi cái số phận đểu
giả của chúng tôi!
Con chó trườn lê bụng như rắn, nước mắt đầm đìa. Hãy nhìn
xem công tích của lão đầu bếp đây? Tuy nhiên quý ngài chẳng bao giờ chịu cho
đâu. Ôi, tôi đã quá biết những người giàu có rồi! Nhưng thực ra mà nói - quý ngài
cần nó để làm gì? Cái thứ thịt ngựa thối ấy thì quý ngài dùng làm gì? Không ở
đâu ngoài cửa hàng nông nghệ phẩm Moskva quý ngài có thể kiếm được cái bả độc
ấy đâu. Mà quý ngài thì hôm nay đã ăn sáng rồi, quý ngài là một nhân vật có tên
tuổi thế giới nhờ những tuyến sinh dục đực.
Ư-ư-ư-ư... Cái gì đang diễn ra trên đời thế này? Chết bây
giờ thì hẳn còn sớm quá, tuyệt vọng là một tội lỗi thật sự. Phải liếm tay quý
ngài thôi, ngoài ra không còn cách nào khác.
Quý ngài bí ẩn cúi xuống bên con chó, cặp kính gọng vàng lấp
lánh, rồi rút từ túi phải ra một gói giấy trắng dài. Không bỏ bít tất tay, quý
ngài cởi tờ giấy gói ra - nó lập tức bị gió cuốn lấy - bẻ một mẩu giò có cái
tên là “Giò Cracov đặc biệt”. Và ném mẩu giò đó cho con chó.
Ô, một tấm lòng hào hiệp?
Ư-ư-ư!
- Chi - iu - chi - iu, - quý ngài huýt gió và nói thêm bằng
giọng nghiêm khắc:
- Ăn đi! Sarik, Sarik!
Lại Sarik. Người ta đã đặt tên cho rồi đấy. Mà quý ngài muốn
gọi thế nào cũng được, vì cái cử chỉ đặc biệt khác thường của quý ngài.
Con chó lập tức xé lớp giấy bóng bọc ngoài, vừa nấc vừa
ngoạm vào khúc giò Cracov và ngốn chửng nó trong chớp nhoáng.
Miếng giò lẫn tuyết mắc nghẹn lại nơi cổ họng làm chảy nước
mắt, vì quá tham ăn nên nó suýt nuốt luôn cả sợi dây buộc.
Nữa.
Con xin hôn gấu quần của ngài nữa, con còn xin liếm tay ngài
nữa, hỡi ân nhân của con!
- Bây giờ chừng ấy hẵng... - quý ngài nói ngắt quãng từng
tiếng một như thể hô khẩu hiệu, cúi xuống bên Sarik, tò mò nhìn vào mắt nó, rồi
đột ngột đưa bàn tay đi găng âu yếm và thân mật vuốt dọc bụng chó.
- A ha,- quý ngài thốt lên đầy ngụ ý,- không có vòng cổ, như
vậy là rất tốt, ta đang cần đúng nhà ngươi đây. Đi theo ta.
Quý ngài bật ngón tay.
- Chiu-chiu!
Đi theo quý ngài ư? Dù cho đến tận cùng trời cuối đất! Hãy
cứ đá con bằng đôi ủng phớt của quý ngài đi, con sẽ chẳng hé răng kêu ca lấy
một lời nào đâu.
Đèn sáng rực rỡ khắp phố Prétristenka. Bên sườn đau khủng
khiếp, nhưng Sarik thỉnh thoảng lại quên nó đi, bị cuốn hút bởi một ý nghĩ làm
sao để giữa phố đông người không lạc mất cái hình bóng thần thánh trong chiếc
áo choàng lông và bằng cách nào có thể bày tỏ lòng yêu kính và trung thành với
quý ngài. Và nó đã bày tỏ được điều đó bảy lần trên suốt quãng đường từ
Pretristenka đến ngõ Obukhov. Hôn vào ủng; ở Ngõ Chết, trong khi rẽ đường, bằng
tiếng sủa điên dại đã làm cho một bà hoảng sợ đến ngã ngồi xuống ghế đá; hai
lần tru lên để duy trì lòng thương hại đối với mình.
Một con mèo hoang chết tiệt nào đó, làm bộ như thuộc giống
Siberi, từ phía sau ống dẫn nước chui ra, và bất chấp bão tuyết vẫn đánh hơi
được mùi giò Cracov. Sarik thấy trời đất như tối sầm lại khi thoáng nghĩ, biết
đâu quý ngài kỳ quặc giàu có đi lượm những con chó bị thương dưới các vòm cổng
này lại nhặt luôn cả cái đồ chuyên ăn cắp kia đi theo mình, và như vậy có nghĩa
là phải chia bớt cho con mèo chết tiệt món hời của cửa hàng nông nghệ Moskva.
Nghĩ vậy chó ta mới đánh dập hai hàm răng vào nhau dữ tợn đến nỗi con mèo rít
lên như tiếng phì của ống dẫn khí bị thủng và theo cột máng lao vọt lên tận
tầng hai.
Gừ-ư-ừ-gâu? Cút! Cả cửa hàng nông nghệ Moskva cũng không đủ
cho những loại bẩn thỉu lang thang trên phố Pretristenka như mày đâu!
Quý ngài đã đánh giá sự trung thành đó và khi đến cạnh khu
nhà của đội cứu hỏa, ngay dưới cửa sổ nơi từ phía trong phát ra tiếng kèn co êm
tai, lại thưởng thêm cho chó mẩu giò thứ hai, lần này nhỏ hơn, chừng một phần
tư lạng.
Ấy sự việc hoá ra thật ngược đời. Quý ngài lại đi lấy lòng
mình! Xin quý ngài đừng lo! Con sẽ chẳng chạy đi đâu. Con sẽ theo quý ngài, dù
cho quý ngài có ra lệnh đi tới chốn nào.
- Chiu-chiu? Đi đường này.
Đến Obukhov ạ? Xin vâng! Cái ngõ này thì chúng con biết rất
rõ.
- Chiu-chiu!
Đi đường này ạ? Sẵn sà... Ô, không đâu, xin phép ngài! Không
thể ạ. Ở đây có lão gác cửa.
Mà trên đời này không có gì tồi tệ hơn bọn người gác cửa.
Nguy hiểm hơn lũ quét sân gấp nhiều lần.
Một giống đáng ghét tuyệt đối. Tồi tệ hơn cả giống mèo. Quân
đồ tể mặc chế phục thêu kim tuyến.
- Kìa, ngươi đừng sợ, đi nào.
- Xin chào ông Philip Philippovich.
- Chào ông Pheđor.
Đây mới là một con người chứ! Lạy chúa! Người đã xui khiến
cho ta được gặp ai thế này, hỡi số phận loài chó của ta! Phải là một nhân vật
tầm cỡ nào mới có thể mang chó hoang ngoài phố vào nhà của Công ty nhà ở ngay
trước mũi người gác cửa chứ? Các người hãy trông kìa - cái lão đểu cáng kia cứ
im thin thít, không dám ho he gì! Thực ra, trong mắt lão ta có vẻ ảm đạm, nhưng
nói chung mặt lão khá thản nhiên dưới vành mũ thêu kim tuyến.
Dường như chuyện đưa chó hoang vào nhà là được phép ấy. Lão
ta tỏ vẻ tôn kính làm sao, các ngài ơi, mới tôn kính làm sao! Thế đấy, còn tôi,
tôi đi cùng với quý ngài, tôi đi theo quý ngài. Sao, dám chạm đến ta à? Bây giờ
thì đừng có hòng. Giá như đớp được một miếng vào cái ống chân vô sản chai sần
kia. Để trả thù tất cả những nhục mạ của bè lũ các người dành cho ta. Đã bao
nhiêu lần quật chổi vào mõm ta, hả?
- Đi nào, đi nào!
Con hiểu, con hiểu rồi, xin quý ngài đừng lo lắng gì cả. Quý
ngài đi đâu, chúng con đi đấy.
Chỉ cần quý ngài chỉ đường, con sẽ không tụt lại đâu, mặc dù
bên sườn của con còn đau không thể nào chịu nổi.
Từ trên cầu thang vọng xuống:
- Tôi không có thư à, Phêđor?
Từ phía dưới hướng lên cầu thang đầy kính cẩn:
- Không ạ, thưa ông Philip Philippovich (thì thầm tin cẩn
nói đuổi theo): Còn căn hộ số ba, người ta đã phân người đến ở tập thể.
Vị ân nhân quan trọng của chó quay phắt lại trên bậc cầu
thang và cúi gập người qua hàng lan can, kinh hoàng hỏi:
- Sao, sao?
Mắt quý ngài mở tròn xoe và ria dựng ngược lên.
Lão gác cửa ở phía dưới ngửa mặt, lấy bàn tay hứng vào dưới
môi và khẳng định:
- Đúng thế đấy ạ, những bốn nhân mạng đến.
- Trời đất. Tôi không hình dung nổi bây giờ khu nhà sẽ như
thế nào. Thế họ thì sao?
- Thưa, không sao cả ạ.
- Còn Phedor Pavlovich?
- Đang đi lấy gỗ và gạch. Sẽ xây vách ngăn.
- Có quỷ biết thế này là thế nào nữa!
- Trừ căn hộ của ông, tất cả các căn hộ sẽ có người đến ở,
thưa ông Philip Philippovich. Vừa rồi có cuộc họp, bầu ra hội đồng nhà cửa mới,
còn hội đồng cũ thì bị đá đít rồi.
- Lắm chuyện thế đấy. Ai-ai-ai... Chiu chiu.
Con đi đây, con chạy đây. Sườn trái của con, quý ngài có
thấy không, nó làm con đau lắm, xin phép được liếm ủng quí ngài.
Chiếc mũ thêu kim tuyến của lão gác cửa đã khuất ở phía
dưới. Trên chiếu nghỉ đầu cầu thang lát đá hoa, hơi ấm toả ra từ những ống lò
sưởi. Một lần quặt nữa - và gác hai đây rồi.
------------------
Tiếp chương 2:
http://bloggenguoixuthanh.blogspot.com/2016/05/trai-tim-cho-mikhail-bulgacov-chuong-2.html
------------------
Tiếp chương 2:
http://bloggenguoixuthanh.blogspot.com/2016/05/trai-tim-cho-mikhail-bulgacov-chuong-2.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét