Chương 16 - Không có nước sôi pha trà
Đêm đó theo lệnh của Abakumov và do Sevastyanov truyền lại,
Yakanov được gọi đến Bộ An ninh từ Viện Mavrino. Sau đó, có hai lệnh mật được
gọi bằng điện thoại tới Viện Mavrino, mỗi lệnh tới cách nhau mười lăm phút,
lệnh trước là lệnh đưa tù nhân Bobynin, lệnh sau là lệnh đưa tù nhân
Pryanchikov về Bộ. Bobynin và Pryanchikov được đưa về trên hai chiếc xe khác
nhau và được để ngồi chờ ở hai phòng đợi khác nhau, đề phòng họ đụng mặt nhau.
Nhưng dù hai tù nhân này có gặp mặt nhau, họ cũng không thể
nói gì được với nhau, không thể hiểu ngầm nhau. Nói rõ hơn, Pryanchikov sẽ
không sao có thể hiểu được Bobynin muốn gì ở chàng.
Linh hồn Pryanchikov đang rung động vì ánh đèn đêm ở Mạc Tư
Khoa, những ánh đèn sáng lòa, lấp lánh, rực rỡ ở hai bên cửa chiếc xe Podeba.
Đi từ vùng ngoại thành tối tăm quanh Mavrino vào trung tâm thành phố,
Pryanchikov ngây ngất khi nhìn thấy hiện ra những đại lộ sáng choang, những cửa
nhà ga xe điện ngầm đầy người, những cửa hàng rực ánh đèn néon. Pryanchikov
quên mất người lái xe và hai nhân viên mật vụ bận thường phục ngồi hai bên
chàng, dường như không phải là không khí mà là lửa được hít vào và thở ra từ
lồng ngực chàng. Không lúc nào chàng rời mắt nhìn qua cửa xe. Chưa bao giờ họ
đưa chàng vào Mạc Tư Khoa ngay cả ban ngày, và trong lịch sử Nhà Tù Đặc Biệt
Mavrino, chưa từng có một tù nhân nào được nhìn thấy Mạc Tư Khoa ban đêm.
Tới cửa Sretenka, chiếc xe chở Pryanchikov phải dừng lại chờ
đám người vừa từ nhà hát bóng cuồn cuộn đi ra và sau đó, dừng lại ở ngã tư
đường chờ đèn hiệu.
Tất cả những người tù trên cõi đời này đều chẳng ít thì
nhiều nghĩ rằng mọi cái bên ngoài, vì không có họ, đã dừng lại, bên ngoài đã
hết nhẵn đàn ông và những người đàn bà cô đơn vì thiếu họ, hết còn vui vẻ, đàn
bà đau khổ, âu sầu hết còn trưng diện vì tình yêu họ và lòng trung thành với
họ. Và đây, trước mắt Pryanchikov hiện ra đám đông no đủ, rộn rịp gồm những
người đang sống ở thành phố – mũ, mạng che mặt, nữ trang, áo lạnh lông thú – và
mùi hương của những người đàn bà qua đường tràn đầy cảm xúc run rẩy của người
thanh niên ba mươi mốt tuổi, mùi đàn bà ấy đi qua sương đêm, qua thanh sắt của
chiếc xe, đến đập vào chàng như những nhát búa. Chàng có thể nghe được tiếng họ
nói, nhưng vang vang không rõ, chàng muốn lao đầu qua làn kiếng cửa xe ra ngoài
để nói lớn với họ, với những người đàn bà đang đi trước mặt chàng, rằng chàng
còn trẻ, chàng đang cần yêu, chàng bị người ta nhốt vào tù không chút xót
thương, chàng bị tù nhưng không có tội gì cả. Sau cuộc sống cô đơn khổ sở trong
tòa nhà đá ở Mavrino, cảnh sắc này là một giấc mơ thần tiên. Ngay cả thời còn
tự do Pryanchikov cũng chưa bao giờ được sống cuộc sống thanh lịch mà chàng
thấy trước mắt kia, khi còn là sinh viên, chàng quá nghèo, rồi chiến tranh đến
chàng nhập ngũ và bị bắt làm tù binh, rồi hết chiến tranh và chàng bị tù ở
chính trên quê hương chàng.
Sau đó, trong khi ngồi trong phòng đợi, Pryanchikov vẫn còn
mê mẩn, chàng không nhìn rõ những cái bàn, cái ghế quanh chàng, những cảm giác
ngây ngất vẫn chưa chịu từ bỏ chàng.
Một Trung tá gọn ghẽ, sáng sủa bảo chàng đi theo.
Pryanchikov, với cần cổ ngẳng và đôi cổ tay khẳng khiu, đôi vai hẹp, đôi chân
gầy chưa bao giờ trông tang thương bằng khi chàng bước vào căn phòng rộng do
người sĩ quan đưa chàng tới. Người sĩ quan này dừng lại ở cửa và chỉ một mình
Pryanchikov bước vào phòng.
Căn phòng rộng đến nỗi Pryanchikov không nhận ra đó là một
văn phòng, chàng cũng không nghĩ rằng người đàn ông với đôi cầu vai dát vàng
ngồi tít ở tận xa kia là chủ nhân căn phòng này. Chàng cũng chẳng nhìn thấy bức
hình Stalin cao tới mười thước choán hết một bức tường. Mạc Tư Khoa ban đêm và
những người đàn bà đi trong đêm Mạc Tư Khoa vẫn còn chập chờn ẩn hiện trước
chàng. Chàng như người say rượu. Chàng như người hoang mang không biết tại sao
mình lại đi vào căn phòng rộng thênh thang này và phòng này là phòng gì? Chuyện
lạ và khó hiểu hơn nữa là trong một căn phòng hình cánh quạt chật ních những
chiếc giường hai tầng và giường nào cũng có người nằm ở một nơi nào đó được
chiếu sáng bằng một bóng đèn xanh – dù chiến tranh đã chấm dứt từ năm năm trước
– có một ly nước trà nguội còn chờ đón chàng trở lại.
Chân chàng đi trên tấm thảm rộng. Thảm dầy và êm và chàng
muốn nằm lăn xuống đó. Ở bên tường bên phải gian phòng có nhiều khung cửa sổ,
bên tường trái gian phòng có một tấm gương lớn cao từ mặt sàn tới tận trần.
Những người ở bên ngoài không biết được giá trị của vật
dụng. Với một người tù quanh năm chỉ được dùng cái gương soi mặt lớn không quá
lòng bàn tay, có khi cả năm sáu tháng không được nhìn thấy mặt trong gương,
việc được nhìn ngắm toàn thân mình trong một tấm gương lớn là cả một việc quan
trọng.
Pryanchikov như bị nam châm hút lại, đứng sững trước tấm
gương. Chàng nhìn chàng hiện ra trong đó rồi chàng đến sát gương, ngắm nghía
với vẻ hài lòng hiện rõ trên khuôn mặt tươi trẻ, sạch sẽ của chàng. Chàng sửa
lại cổ áo và xốc lại hai tay áo. Rồi vẫn nhìn vào gương, chàng từ từ đưa chân
lùi lại rồi chàng nghiêng người sang bên và cố liếc mắt nhìn xem mặt nghiêng
của chàng hình dáng ra sao. Chàng quay sang trái rồi quay sang phải. Hai chân
chàng di chuyển như đi vài bước khiêu vũ và chàng lại đến sát gương, nhìn ngắm
mặt chàng kỹ hơn trong đó. Sau cùng, thấy rằng mặc dù bộ y phục màu xanh bạc
màu quá cũ này, mình vẫn thanh nhã và cân đối lắm, với sự hài lòng, phấn khởi
trong tâm hồn, Pryanchikov đi tới – chàng đi tới không phải vì chàng biết rằng
trong gian phòng này có người chờ đợi chàng mà chỉ là vì chàng cần đi để xem
xét hết phòng.
Người đàn ông có thể nhốt vào tù bất cứ ai trong một phần
nửa thế giới, nhà Tổng trưởng độc tài từng làm những vị tướng lãnh, thống chế
sợ đến xanh mặt, ngồi nhìn gã tù nhân gầy gò với một vẻ chú ý tò mò. Lâu rồi y
không có dịp nhìn kỹ một người trong số nhiều triệu người y đã bắt, đã kết án,
đã cho vào nhà tù, vào những trại tập trung.
Với dáng điệu của một chàng công tử đi dạo phố, Pryanchikov
đi đến trước bàn và nhìn như dò hỏi vào mặt Abakumov như chàng không ngờ có
người ngồi ở đó.
- Anh là kỹ sư Pryanchikov?
Abakumov lên tiếng hỏi, tay y xếp lại những giấy tờ trên
bàn.
- Phải,- Pryanchikov lơ đãng đáp.- Phải, tôi.
- Anh là người cầm đầu toán chuyên viên ở Mavrino làm việc
về… về…
Abakumov xem lại tờ giấy:
- Về máy Phân-Hóa Âm Thanh Nhân Tạo?
- Cái gì là máy phân hóa âm thanh nhân tạo?- Không trả lời
vào câu hỏi, Pryanchikov nói sang chuyện khác,- Ai bày đặt ra cái tên gọi ngớ
ngẩn vậy? Chúng tôi không dùng cái tên đó. Chúng tôi gọi nó là giàn máy Ám-Hiệu
Âm-Thanh nhân tạo. Gọi tắt là Âm Thanh cho tiện.
- Nhưng anh là kỹ sư trưởng toán?
- Trên nguyên tắc thì là tôi, nhưng có chuyện gì vậy?
Đột nhiên Pryanchikov trở thành đề phòng.
- Ngồi xuống.
Không chờ mời đến câu thứ hai, Pryanchikov ngồi ngay xuống
ghế, chàng cẩn thận kéo cho ống quần thẳng nếp.
- Tôi muốn anh nói thật, nói thật hoàn toàn, anh không sợ
rắc rối vì những người có quyền ở đó. Bao giờ cái máy Âm Thanh được chế tạo
xong? Tôi muốn nói là bao giờ dùng được? Cứ nói thật. Một tháng nữa hay hai
tháng? Cứ nói, đừng sợ gì hết.
- Máy Âm Thanh? Sắp dùng được? Ha ha ha.
Tiếng cười tươi trẻ và trong như tiếng chuông của Pryanchikov
vang lên. Chưa bao giờ giữa những bức tường này lại rộn ràng tiếng cười như
thế. Chàng ngồi dựa lưng lên thành ghế và giơ hai bàn tay ra trước mặt:
- Ông nói cái gì? Ông nghĩ gì mà lại hỏi như thế? Rõ ràng là
ông không hiểu máy Âm Thanh là cái gì. Để tôi giảng cho ông nghe…
Chàng nhẹ nhàng đứng bổng lên từ lòng ghế và nhô người trên
mặt bàn của Abakumov:
- Ông có tờ giấy trắng không? Đây rồi.
Pryanchikov xé một tờ giấy trắng, vớ lấy cây viết màu thật
tươi của Abakumov và bắt đầu vẽ vội và vụng những đường cong queo tượng trưng
cho những làn sóng âm thanh.
Abakumov không chút sợ hãi – trong thái độ, cử chỉ và giọng
nói của người kỹ sư trẻ tuổi lạ kỳ có một cái gì thành thật, hồn nhiên và ngây
thơ làm cho y chịu đựng cuộc tấn công này. Y nhìn ngây Pryanchikov nhưng không
ghi nhận những lời chàng nói.
- Ông phải biết rằng tiếng nói của con người có rất nhiều
hòa âm,- Pryanchikov gần như nghẹn lời vì muốn nói ra tất cả những gì chàng cần
nói trong một thế gian ngắn nhất,- và sáng kiến căn bản của máy Âm Thính là
biến tiếng nói ra những âm thanh khác hẳn rồi lại kết hợp trở thành tiếng nói.
Biến hóa cách nào tùy người sử dụng máy. Trời đất, sao ông có thể viết được với
cây bút tồi như vầy? Ông biết rõ về tọa độ Cartesie chứ hả? Cái này chú học
sinh nào cũng biết mà – và phương pháp Fourier?
- Chờ chút,- Abakumov cố tự trấn tĩnh để nói.- Chú chỉ cần
nói cho tôi biết: Bao giờ thì xong? Bao giờ thì máy dùng được? Bao giờ?
- Bao giờ xong? Hừm, tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện ấy.
Giờ đây Pryanchikov không còn ngây ngất vì những hình ảnh
chàng vừa nhìn thấy ngoài đường phố nữa, chàng bị tràn ngập bởi niềm yêu dấu
công việc chàng đang làm và một lần nữa, chàng không sao có thể ngừng nói.
Không trả lời câu hỏi của Abakumov, chàng tiếp:
- Vấn đề quan trọng bây giờ là nếu mình chịu biến cải giọng
nói đi. Trong trường hợp ấy, số đơn vị…
- Nhưng ngày nào? Ngày nào, tháng nào? Ngày một tháng ba?
Ngày một tháng tư?
- Trời đất… ông nói chi vậy? Tháng tư? Không kể đến những
việc về Ám Số chưa làm xong, chúng tôi chỉ có thể hoàn thành dàn máy này vào…
Coi nào, không thể sớm hơn được,- Pryanchikov nắm tay áo Abakumov, kéo mạnh.-
Ông để tôi giải thích tất cả cho ông nghe. Ông sẽ hiểu và sẽ đồng ý với chúng
tôi rằng việc đó không thể vội mà được…
Nhưng Abakumov, mắt nhìn ngay xuống những hình vẽ vằn vèo vô
nghĩa với y trên tờ giấy, đã đưa ngón tay ra tìm thấy nút chuông điện cạnh bàn.
Người sĩ quan mang cấp bậc Trung tá gọn ghẽ hồi nãy lại xuất
hiện và mời Pryanchikov đi ra.
Pryanchikov đi xa bàn với vẻ bối rối hiện rõ trên mặt, miệng
chàng hé mở. Chàng thất vọng vì chàng chưa giải thích được gì hết. Và khi đã đi
ra được nửa phòng, bỗng dưng chàng nhận biết người đàn ông to lớn ngồi kia là
ai. Chàng nhớ lại rằng những người bạn tù của chàng đã dặn chàng phải khiếu
nại, phải cố gắng đòi hỏi. Chàng quay phắt lại và nói lớn:
- Ê, tôi quên chưa nói cho ông biết.
Nhưng người sĩ quan chặn không cho chàng đi trở lại, đồng
thời y đẩy chàng ra cửa. Và Pryanchikov thấy rõ là người đàn ông ngồi ở bàn kia
không nghe chàng nói. Trong một khoảnh khắc, tất cả những hành động phạm pháp,
tàn ác của bọn cai ngục trở lại với chàng nhưng chàng chỉ có thể còn kêu lớn
một câu:
- Nước sôi, chúng tôi làm việc khuya nhưng không có nước sôi
pha trà. Chúng tôi không có trà nóng uống ban đêm.
- Không có nước sôi?
Một người nào đó đứng ở ngoài cửa phòng, dường như là một vị
tướng lãnh, nói với Pryanchikov:
- Được rồi. Để chúng tôi lo.
Chương 17 - Đũa thần hóa phép đi
Bobynin đi vào phòng. Anh cũng bận bộ quần áo màu xanh đậm y
hệt bộ quần áo của Pryanchikov, người vừa đi ra. Bobynin là một người đàn ông
to và cao, quắc thước, mái tóc hung hung cắt ngắn theo kiểu tóc tù nhân.
Anh tỏ ra ít chú ý đến cảnh gian phòng và những đồ bày biện,
bài trí ở đây như anh đã từng ra vào nơi đây cả trăm lần mỗi ngày. Anh đi thẳng
tới trước bàn và đĩnh đạc ngồi xuống ghế không thốt ra nửa lời chào hỏi. Rồi
anh rút chiếc khăn tay không được sạch lắm vì ít có dịp được giặt trong túi ra
hỉ mũi.
Abakumov, sau khi thất vọng vì sự nói nhiều nhưng không đi
đến đâu của Pryanchikov, tỏ ra yên tâm hơn khi thấy Bobynin điềm tĩnh và có vẻ
nghiêm trang. Y không quát lên với Bobynin “Đứng lên” như y vẫn thường quát với
những đám ngồi khi chưa được y cho phép. Nghĩ rằng người tù này không biết y là
ai, và gã cũng không đoán ra gã đang ở đâu, y cất giọng gần hiền lành hỏi:
- Tại sao anh lại ngồi khi chưa được phép?
Bobynin nghiêng mặt nhìn vị Tổng trưởng quyền uy, anh vẫn
dùng khăn chùi mũi và trả lời bằng một giọng thản nhiên:
- Có một câu cách ngôn Trung Hoa nói rằng: “Đứng tốt hơn đi,
ngồi tốt hơn đứng và tốt hơn cả là nằm.
- Anh có biết tôi là ai không?
Ngồi thoải mái với hai cánh tay đặt trên thành ghế, bây giờ
Bobynin mới nhìn thẳng vào mặt Abakumov, anh chậm chạp đưa ra lời đoán:
- Ông là ai? Hừ… Tôi thấy ông giống như Thống chế Goering.
- Giống ai?
- Thống chế Goering. Có lần ông ấy đến thăm xưởng chế tạo
phi cơ ở gần Halle ,
nơi tôi làm việc. Bọn tướng lãnh ở đó đều sợ xanh mặt, không tên nào dám đi
mạnh, nhưng tôi không thèm cả nhìn xem ông ta ra sao. Ổng đến, đứng nhìn một
hồi rồi đi. [1]
Có một vẻ gì gần giống như nụ cười thấp thoáng trên vành môi
Abakumov, nhưng y vội nghiêm mặt lại vì ngụ ý hỗn hào trong câu nói của tên tù.
Y chớp mắt và hỏi, giọng bực dọc:
- Anh không thấy có sự khác biệt ư?
- Khác biệt giữa ông và hắn? Hay khác biệt giữa ông và tôi?
Giọng nói của Bobynin có những âm thanh lạnh, cứng như thép.
- Giữa tôi và ông, tôi thấy sự khác biệt rõ lắm: Ông cần
tôi, còn tôi không cần ông.
Abakumov cũng có giọng nói có thể gầm lên như sấm sét, và y
biết cách lợi dụng nó để đàn áp người khác. Nhưng lúc này y thấy y có gầm lên
cũng vô ích. Y hiểu rằng người tù này là một gã khó chế ngự được.
Vì vậy, y chỉ cảnh cáo:
- Anh tù, nghe đây. Đừng thấy rằng tôi dễ dãi mà anh có thể…
Bobynin vẫn thản nhiên:
- Công dân Tổng trưởng, nếu ông làm dữ với tôi, tôi sẽ không
nói gì với ông nữa. Ông chỉ có thể quát tháo, chửi mắng, đe dọa bọn đại tá với
tướng lãnh quân hầu của ông. Họ có nhiều thứ mà họ sợ mất trong đời.
- Tôi có thể bắt anh phải nói.
- Ông lầm đấy, Công dân Tổng trưởng.
Đôi mắt cương cường của Bobynin sáng lên ánh lửa thù hận:
- Ông không làm gì được tôi hết vì tôi chẳng còn gì hết, ông
hiểu không? Ông không thể làm hại được vợ con tôi vì một trái bom đã làm vợ con
tôi tiêu tan lâu rồi. Ông cũng không thể hành hạ được cha mẹ tôi vì cha mẹ tôi
đã chết. Tất cả những gì tôi có bây giờ chỉ là cái khăn tay dơ này, bộ quần áo
cũ này và cái quần cụt rách.
Như để chứng minh lời nói, Bobynin vạch áo để trần ngực:
- Tất cả những thứ này đều do chính phủ phát. Ông đã tước
đoạt tự do của tôi lâu rồi, và ông không có khả năng trả lại tự do cho tôi vì
chính ông, ông cũng không có tự do. Tôi đã bốn mươi hai tuổi và ông đã giáng
cho tôi cái án tù hai mươi lăm năm. Tôi đã từng là tù khổ sai, từng sống với
những con số thay tên trên ngực áo, từng bị còng tay, từng sống giữa bầy chó
dữ, từng chết dở sống dở trong những trại giam tàn ác nhất của bọn ông. Ông còn
gì nữa để mà dọa tôi? Ông chẳng còn tước đoạt ở tôi thêm cái gì nữa. Ông có thể
cấm tôi hành nghề kỹ sư? Cũng được. Nhưng cấm tôi thì ông thiệt nhiều hơn là
tôi. Tôi hút thuốc.
Abakumov mở nắp hộp đựng những điếu thuốc đặc biệt mang nhãn
hiệu Troika ra mời:
- Đây, hút thuốc này.
- Cám ơn. Tôi không thích đổi thuốc. Thuốc của ông làm tôi
ho.
Bobynin lấy ra một điếu thuốc Belommor từ hộp đựng thuốc do
anh làm lấy. Anh nói tiếp:
- Ông nên hiểu điều này, và ông nên nói lại điều này với
những người trong bọn ông rằng các ông chỉ mạnh khi nào các ông không tước đoạt
của người khác hết tất cả mọi thứ. Bởi vì khi một người đã bị các ông lấy mất
hết tất cả, người đó sẽ không còn ngán sợ các ông nữa. Người đó lại trở thành
tự do.
Bobynin lặng im, anh chú tâm vào điếu thuốc. Anh cảm thấy
thú vị đã làm được cho Tổng trưởng Abakumov hoang mang, anh khoan khoái ngồi
trong chiếc ghế da quá êm này. Anh chỉ hơi hối có một điều là với mục đích tỏ
ra bất cần, anh đã từ chối điếu thuốc thơm hiếm có kia.
Tổng trưởng Abakumov kiểm soát trên giấy:
- Kỹ sư Bobynin, anh là kỹ sư Trưởng toán làm việc ở Phòng
Số Bảy?
- Phải.
- Tôi yêu cầu anh trả lời thật rõ rệt: Bao giờ giàn máy điện
thoại đặc biệt được hoàn thành? Bao giờ thì máy dùng được?
Bobynin ngước đôi lông mày đen rậm lên:
- Chuyện này hơi lạ đó. Sao ông không hỏi Đại tá Yakanov mà
lại hỏi tôi?
- Tôi muốn hỏi chính các anh. Đến tháng hai này máy có thể
dùng được chưa?
- Tháng hai? Ông có giỡn chơi không đó? Ông muốn chúng tôi
chế tạo ra một thứ có thể dùng được hay là làm bậy cho xong rồi muốn ra sao thì
ra? Coi nào, sớm nhất cũng phải là nửa năm nữa. Còn muốn cho máy thật hoàn hảo
thì phải một năm.
Abakumov như người bị búa tạ nện xuống đầu. Y điếng hồn nhớ
lại bộ ria mép rung động, giận dữ của Lãnh Tụ mỗi khi gặp điều gì trái ý hoặc
phải chờ đợi, và y nhớ lại những lời y đã long trọng hứa với Lãnh Tụ, những lời
hứa căn cứ trên lời hứa của bọn Oskolupov, Yakanov. Y có cái cảm giác rụng rời
chân tay của kẻ đi đến bệnh viện xin thuốc cảm cúm để hốt nhiên được biết mình
bị ung thư cuống họng.
Và y cố gắng gằn giọng:
- Bobynin, tôi muốn anh suy nghĩ kỹ trước khi nói: anh có
thể hoàn thành cái máy đó nhanh hơn được không? Nếu được, anh cho tôi biết: Cần
phải làm những gì, cần phải có những gì?
- Nhanh hơn? Không thể được.
- Nhưng tại sao? Vì nguyên nhân nào? Kẻ nào có lỗi? Nói cho
tôi biết, đừng có sợ gì cả. Cho tôi biết kẻ nào có lỗi, bất cứ kẻ đó ở cấp bậc
nào, tôi cũng tống nó xuống làm lính trơn.
Bobynin ngồi vắt chân, dựa lưng và ngửa mặt nhìn lên trần
nhà. Abakumov nói như rít lên qua hàm răng nghiến lại:
- Dự án này đã kéo dài hơn hai năm mấy tháng rồi còn gì? Hai
năm rưỡi trong lúc các anh chỉ được quyền làm trong thời hạn một năm.
Cơn giận trong Bobynin nổ ra:
- Ông nói cái gì? Thời hạn là cái gì? Ai lại ngu si ra hạn
cho một dự án khoa học bao giờ? Ông quan niệm khoa học như thế nào? Khoa học
đâu có phải là cây đũa thần của bà tiên để ông có thể ra lệnh: Xây cho ta tòa
lâu đài trước sáng mai và sáng mai ngủ dậy, ông thấy tòa lâu đài mới tinh hiện
ra trước mắt? Ông phải biết là vấn đề đã được đặt ra sai ngay từ đầu. Ai có thể
biết trước được có bao nhiêu hiện tượng bất ngờ xảy đến trong một dự án khoa
học. Thời hạn! Ông tưởng chỉ cần ra thời hạn phải làm xong đã giải quyết được
tất cả hay sao? Ông có biết rằng ngoài việc ra lệnh ông còn cần phải có những
người được ăn uống đầy đủ, những người thoải mái về tinh thần, những người tự
do để làm công việc ấy? Không ai có thể làm việc được trong không khí nghi ngờ
vô lý ở đấy. Ông đâu có biết chúng tôi chỉ có một cái máy tiện cổ lỗ sĩ để dùng
và chúng tôi phải khiêng cái máy hạng bét đó hết chỗ này sang chỗ khác. Vì máy
quá cũ nên nó bị hư, cần trục gãy phải hàn lại mất ba mươi ruble. Cái máy tiện
đó sống đã một trăm hai mươi năm trời rồi. Nó nhão hết mọi bộ phận. Vậy mà vì
nó hư, anh Thiếu tá Shikin ngu đần, sĩ quan an ninh ở đó, bắt tất cả chúng tôi
tới để thẩm vấn liền trong hai tuần lễ. Hắn muốn tìm cho ra kẻ phá hoại để gán
thêm án tù vì tội phá hoại. Tên đó là sĩ quan an ninh trong Viện, một gã ăn
hại. Lại còn một tên nữa cũng là sĩ quan an ninh. Tên Shikin phụ trách an ninh
trong các phòng thí nghiệm, tên kia giữ an ninh trong nhà giam. Gã làm cho bọn
tôi điên đầu vì những báo cáo ti tiện của gã. Mà các ông làm cái gì phải có tới
hai tên sĩ quan giữ an ninh ở đấy chứ? Ai cũng biết là chúng tôi chế tạo máy
điện thoại cho Stalin, và chính Stalin đích thân ra lệnh làm máy này. Vậy mà
với một công tác như thế các ông cũng không cung cấp cho chúng tôi đủ vật liệu
cần thiết. Khi chúng tôi cần bóng đèn thì không có hoặc là có nhưng không đúng
thứ chúng tôi cần dùng, cả đến những bàn dao-động-đồ cũng không đủ. Thật là xấu
hổ. Vậy mà ông còn hỏi rằng ai có lỗi. Ngoài ra, các ông đâu có nghĩ gì tới
những người làm việc cho các ông ở đó. Họ đều làm việc mỗi ngày mười hai tiếng
có ngày tới mười sáu tiếng, nhưng các ông chỉ cho những kỹ sư trưởng toán ăn
thịt còn những người khác ăn xương. Tại sao các ông không cho họ được gặp thân
nhân họ? Đáng lẽ mỗi tháng họ được gặp vợ con họ một lần thì các ông chỉ cho họ
mỗi năm được gặp một lần. Việc đó giúp tinh thần họ lên cao để họ có thể làm
việc cho các ông hữu hiệu hơn hay sao? Hay là các ông không có đủ xe Maria đen
để đưa tù đi gặp vợ con. Hay là thiếu tiền trả cho bọn lính canh để đi làm
những ngày nghỉ? Trước kia trong ngày chủ nhật chúng tôi được đi lại suốt ngày
ở ngoài sân vườn, bây giờ cấm. Tại sao lại cấm? Để chúng tôi làm việc nhiều hơn
ư? Các ông phải biết chúng tôi làm cho các ông những công việc gì và chúng tôi
cần có những gì để làm công việc ấy chứ? Nhốt người ta suốt đêm trong phòng kín
đâu có phải là công việc sẽ làm nhanh hơn. Mà tôi có nói với ông cũng vô ích.
Như ông chẳng hạn, tại sao ông lại gọi tôi tới đây vào lúc nửa đêm như thế này.
Bộ ban ngày không có đủ thì giờ hay sao? Tôi còn có việc phải đi làm ngày mai.
Tôi cần ngủ.
Bobynin đứng thẳng người, giận dữ, to lớn.
Abakumov thở phì phò, nhấn mạnh nút chuông điện.
Lúc đó đã mười một giờ hai phút. Trong một tiếng đồng hồ
nữa, vào lúc hai giờ ba mươi sáng, Abakumov phải tới báo cáo với Stalin trong
biệt xá ở Kuntsevo.
Nếu tên kỹ sư này nói đúng, bằng cách nào y có thể thoát
được tai họa này?
Stalin không bao giờ tha thứ.
Sau khi Bobynin đi khỏi, Abakumov nhớ lại bộ tam-đầu-chế dối
trá Sevastyanov, Oskolupov và Yakanov, cơn giận như một tấm màn đen phủ xuống
mắt y.
Abakumov cho gọi ba tên dối trá đó trở lại.
Chương 18 - Sinh nhật của người hùng
Căn phòng nhỏ hẹp và trần phòng thấp. Phòng có hai cửa ra
vào nhưng không có cửa sổ, tuy vậy không khí trong phòng vẫn mát và dễ chịu.
Một kỹ sư đặc biệt thường trực chịu trách nhiệm giữ cho không khí trong phòng
này lưu thông và trong sạch. Một phần lớn của căn phòng bị choán vì chiếc ghế
dài có thành tựa bọc da nâu trên có những chiếc gối dựa bọc vải hoa. Trên
tường, hai bóng đèn điện hồng nằm trong lồng kiếng mờ soi sáng căn phòng.
Trên chiếc ghế dài có một người đàn ông nửa nằm nửa ngồi.
Người đàn ông này là người mà khuôn mặt, dáng người đã được điêu khắc trên đá,
vẽ bằng dầu, bằng màu nước, bằng phấn, bằng sơn, bằng bột, bằng chì, bằng than
với đủ thứ màu sắc, được đắp bằng những viên đá, viên sỏi, bằng vỏ sò vỏ ốc,
bằng gạo, bằng những hạt đậu nành, bằng ngói, được chạm trổ trên ngà, trên gỗ
quý, trên sừng, được đan bằng sợi, trồng bằng cỏ, được hợp lại bằng những đoàn
phi cơ bay trên trời, được chụp hình, được quay phim. Trong khoảng ba tỷ năm
dài của trái đất này chưa có người nào được người đời tạo hình nhiều đến như
người đàn ông này.
Y nằm đó hai chân để trên cao, hai chân y đi đôi giày da cao
cổ, kiểu giày của người Caucase, làn da mềm như giày chỉ là đôi vớ dày. Y bận
chiếc áo làm việc có bốn túi lớn, hai túi ở ngực, hai túi bên dưới, chiếc áo đã
cũ, đã được mặc nhiều lần, một trong những chiếc áo bốn túi được y mặc kể từ
thời nội chiến và từng được y thay bằng bộ quân phục Thống chế kể từ sau trận
Stalingrad.
Tên người đàn ông này được đăng trên báo chí, được cả ngàn
xướng-ngôn-viên của cả ngàn đài phát thanh trên thế giới nhắc đến bằng hàng
trăm thứ tiếng, được hô lớn bởi những diễn giả ở đầu và cuối những bài diễn
văn, được hát bởi những giọng ca trong trẻo của những em nhi đồng, được thốt
lên từ miệng những vị Giám mục. Tên người đàn ông này thấp thoáng trên môi
những tù binh hấp hối, giữa những hàm răng tê cóng của những người tù rạc trong
những trại tập trung. Tên người đàn ông này cũng được đặt cho vô số những thị
trấn, những công viên, đường phố và đại lộ, những lâu đài, những đại học đường,
trường học, bệnh viện, núi, sông, xưởng máy, hầm mỏ, nông trường, công xã,
chiến hạm, tàu phá băng, tàu đánh cá, ấu trĩ viện và được một nhóm ký giả báo
chí Mạc Tư Khoa đề nghị đặt cho sông Volga và dùng để gọi mặt trăng.
Y chỉ là một người đàn ông hơi già với một cái cằm chẻ đôi
hơi xệ – trong những bức hình chụp y người ta không bao giờ thấy cái cằm xệ này
– với cái miệng đượm mùi thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ, những ngón tay y mập và có dầu
thường để lại những vết như vết mỡ trên những trang giấy mỏng. Hôm qua và hôm
nay y không được dễ chịu và khoẻ lắm: Ngay cả trong bầu không khí ấm áp của căn
phòng y vẫn cảm thấy lành lạnh ở lưng và hai vai, trên vai y choàng chiếc khăn
lông lạc đà màu nâu.
Y không bận rộn vì bất cứ chuyện gì. Y ngồi đó lật giở từng
tờ một quyển sách nhỏ bìa da nâu với vẻ hài lòng hiện trên nét mặt. Y nhìn với
một vẻ chú ý lên những tấm hình in trong quyển sách và thỉnh thoảng, y đọc vài
đoạn trong sách mặc dù y đã dần thuộc lòng trọn quyển sách này. Và y lần giở
từng trang. Quyển sách này càng thêm tiện lợi vì khuôn khổ của nó nhỏ bỏ vừa
vào túi áo ngoài của mọi người, nó có thể đi theo người ta bất cứ đâu trong
suốt cả một đời. Nó gồm hai trăm năm mươi trang và được in bằng chữ khá lớn và
rõ để cho những người đã già mắt kém hoặc những người ít học cũng có thể đọc
được dễ dàng. Nhan đề của nó được in trên bìa bằng chữ vàng: Tiểu sử Iosif
Vissarionovich Stalin.
Những dòng chữ rất thường, dễ hiểu và lương thiện trong
quyển sách này tất nhiên là phải có tác động đến trái tim người đọc. Tài ba về
chiến thuật - chiến lược thần kỳ của Stalin, sự nhìn xa thấy rộng của Stalin…
tất cả đều được ghi lại trong quyển sách này. Kể từ năm 1918, y đã trở thành
một phụ tá đắc lực của Lênin. (Đúng,
đúng, chuyện này đúng). Người lãnh đạo cuộc cách mạng bị bối rối vì tình
trạng lộn xộn tưởng như không sao giải quyết nổi, chính là nhờ Stalin mà cách
mạng đã toàn thắng. (Đúng, thật đúng)
Chúng ta may mắn vô cùng nên mới có được một vị lãnh tụ tài ba và giàu kinh
nghiệm – Đại Lãnh Tụ Stalin – dẫn dắt trong những ngày khó khăn, bi thảm đó. (Đúng vậy, dân tộc này quả là may mắn)
Tất cả chúng ta đều có dịp thấy rõ sự sáng suốt vô biên của người, tinh thần
quang minh tuyệt vời của người. (Đúng
vậy, không nên khiêm tốn giả dối, ta phải nhận đó là sự thực) Tình yêu
thương đồng bào của người. Lòng nhân ái của người. Khả năng thông cảm sâu xa
của người. Bản tính khiêm tốn kỳ diệu của người. (Khiêm tốn –phải đấy, mình khiêm tốn thật)
Tốt.
Và họ nói sách này bán chạy lắm. Ấn bản thứ hai này in năm
triệu cuốn. Nhưng với một nước rộng như thế này thì con số đó vẫn còn là quá
nhỏ. Ấn bản thứ ba phải in ít nhất là mười triệu cuốn, hoặc hai mươi triệu
cuốn. Sách phải bán thẳng cho các xưởng máy, trường học, nông xã.
Y cảm thấy hơi lợm giọng. Đặt quyển sách xuống, y bóc vỏ một
trái cam tươi trên mặt bàn tròn và cắn vào trái cam. Nếu y mút chất nước của
trái cam, y sẽ hết lợm giọng và miệng y sẽ dễ chịu vì chất nước chua chua ngọt
ngọt của trái cam để lại.
Y nhận thấy, nhưng y sợ không dám nhìn nhận, là sức khoẻ của
y mỗi tháng một kém đi. Y có những phút quên lãng. Y khổ sở vì chứng lợm giọng
buồn nôn. Y không đau đớn gì rõ ràng cả nhưng một sự mệt mỏi khó chịu thường
giữ y ngồi dính xuống ghế nhiều giờ đồng hồ trong một ngày. Ngay cả việc ngủ
cũng không làm cho y dễ chịu. Sau giấc ngủ, y tỉnh dậy và vẫn bải hoải, rã
rượi, bần thần như trước khi ngủ, đầu y vẫn nặng và y không còn muốn đi lại,
làm việc.
Ở miền Caucase, một người đàn ông bảy mươi tuổi vẫn còn là
trẻ, vẫn còn leo núi, cưỡi trên lưng ngựa, trên bụng đàn bà. Và xưa kia, y mạnh
khoẻ biết chừng nào. Y vẫn tin chắc là y sẽ sống đến chín mươi tuổi. Có chuyện
gì đã xảy ra? Vì sao y lại thay đổi, lại yếu đi đến thế này? Trong khoảng những
năm gần đây Stalin không còn có thể hưởng thụ cái khoái lạc lớn nhất trong đời
y nữa - cái khoái lạc đó là việc ăn uống. Nước cam tươi làm cho lưỡi y rát,
caviar dính vào kẻ răng y, và y ăn với một vẻ lãnh đạm không thấy gì là ngon cả
những món ăn nhiều ớt, nhiều tiêu của miền Georgia . Y cũng không còn khoái
uống rượu như xưa nữa – mỗi lần uống rượu y lại nhức đầu. Và chỉ cần nghĩ đến
đàn bà thôi cũng đã đủ làm cho y kinh tởm.
Vì đã quyết định sẽ sống đến năm chín mươi tuổi, Stalin buồn
rầu nghĩ rằng những năm sắp tới sẽ không đem lại cho y được một nỗi vui riêng
nào, y sẽ phải chịu đựng hai mươi năm trời nữa vì hạnh phúc của nhân loại.
Một ông bác sĩ đã cảnh cáo y như thế – (và ông này đã bị bắn
chết chính vì thế) – Những ống nghe run rẩy trong bàn tay của những nhân vật
nổi tiếng nhất trong giới y khoa ở Mạc Tư Khoa. Những ông này không bao giờ
tiêm thuốc cho Stalin. (Chính Stalin đã ra lệnh không được dùng thuốc chích).
Họ chỉ dùng khoa chạy điện và khuyến cáo y dùng nhiều trái cây hơn.
Ba ngày trước đây là ngày kỷ niệm sinh nhật thứ bảy mươi rực
rỡ của y. Họ đã thực hiện lễ kỷ niệm này từng giai đoạn: Trong đêm hai mươi
Traicho Kostov đã bị đánh đến chết, chỉ sau khi ánh mắt của tên hèn hạ ấy đã mờ
đi, lạc thần, những cuộc liên hoan mới thực sự bắt đầu. Trong ngày hai mươi mốt
có một cuộc lễ lớn được tổ chức ở Đại Hí viện Bolshoi, Mao Tse-Tung và Ibarruri
cùng nhiều đồng chí khác đọc diễn văn mừng thọ ở đây. Và sau đó là một bữa tiệc
lớn, rồi tiếp ngay sau đó là một bữa tiệc nhỏ. Họ uống những chai rượu quý được
cất trong hầm rượu Y Pha Nho để dành vào những dịp đặc biệt này. Y uống rượu
với sự thận trọng, vừa uống vừa để ý quan sát ngầm những khuôn mặt đỏ khé quanh
y. Sau nữa, y và Lavrenty uống rượu Kathetinskoye và hát những bài ca miền
Goergia. Trong ngày hai mươi hai có một cuộc tiếp tân ngoại giao đoàn vĩ đại.
Trong ngày hai mươi ba, y ngồi coi hai cuốn phim “Trận chiến Stalingrad” của
Đạo diễn Virta (phần hai) và phim “Năm 1919 khó quên” của Đạo diễn Visnhevsky.
Cả hai phim này đều có hình ảnh y do hai diễn viên điện ảnh đóng.
(Traicho Kostov Djunev
( Bungari : Трайчо Костов Джунев) (17-6-1897 – 16-12-1949) là một chính trị gia
Bungari, cựu Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Tổng thư ký Uỷ ban Trung ương Đảng
Cộng sản Bungari .
Traicho Kostov, 52
tuổi, bị Tòa án tối cao Bungari kết án tử hình trong 1 phiên tòa xét xử ông
cùng với mười người khác với tội danh “chống Đảng và chống Liên Xô”. Phiên tòa
diễn ra từ ngày 07 tháng 12 cho đến 14 tháng 12, 1949. Hai ngày sau đó, ông bị
giết).
Mặc dù việc ngồi coi phim làm cho y mệt mỏi y vẫn thích hai
cuốn phim này. (Cả hai đạo diễn đều được lãnh giải Stalin). Hiện giờ vai trò
của y trong cuộc nội chiến cũng như trong trận đại chiến Thế giới thứ hai, đã được
diễn tả đúng và đầy đủ. Người ta đã thấy rõ ngay từ xưa y đã là một nhân vật vĩ
đại đến là chừng nào. Y nhớ rằng y từng nhiều lần cảnh cáo và sửa lỗi cho
Lênin. Lênin quá cả tin và đôi khi khờ khạo. Và đạo diễn Visnhevsky đã làm đúng
khi để cho y nói trong phim: “Bất cứ người công nhân nào cũng có quyền nói lên
ý kiến của mình. Có ngày chúng ta sẽ ghi điều ấy vào hiến pháp”. Việc đó có ý
nghĩa gì? Ý nghĩa của việc đó là trong khi ở Yudenich để chỉ huy cuộc bảo vệ Petrograd , Stalin đã nghĩ đến việc soạn thảo một hiến
pháp dân chủ trong tương lai. Thời đó tình trạng xã hội được gọi là “vô sản
chuyên chế” – nhưng đâu có quan hệ gì, chỉ biết là chế độ đó đúng, chế độ đó
mạnh.
Và trong cuốn phim “Trận chiến Stalingrad” của Virta, đoạn
phim ban đêm Stalin tâm sự với một người bạn là đoạn phim tốt, thành công. Thực
ra, suốt đời Stalin, y chưa từng bao giờ có một người bạn nào lý tưởng như vậy
cả, bởi vì loài người xảo trá và không bao giờ thành thực, nhưng khi ngồi coi
đoạn phim cảm động đó chiếu trên màn ảnh, Stalin vẫn cảm thấy nghẹn ngào trong
cổ họng và nước mắt ứa ra trên mi – (tâm hồn y còn là tâm hồn nghệ sĩ nữa) – và
y thèm khát được có một người bạn thẳng thắn, không ích kỷ, một người bạn mà y
có thể nói hết tất cả những gì y nghĩ ngợi trong những đêm dài.
Nhưng dù không có cũng không sao. Quần chúng bình dân yêu
mến Lãnh Tụ, hiểu y và yêu y, vậy là đủ rồi – và đó là tình trạng có thật. Y
nhìn thấy sự yêu mến và thông cảm ấy hiển hiện trên những trang báo, trên phim
ảnh, qua những tặng phẩm sinh nhật. Ngày sinh nhật của y đã trở thành một ngày
quốc khánh, và đó là một điều làm cho y ấm lòng. Không biết bao nhiêu là điện
văn chúc thọ được gửi đến. Từ những viện, những cơ sở, những tổ chức, những
xưởng máy và những tư nhân. Nhật báo Pravda đã xin phép được đăng tải mỗi ngày
hai cột báo những điện văn này. Họ có thể đăng hết năm này qua năm khác mà vẫn
không bao giờ hết được điện văn. Được lắm, đó cũng là một ý kiến hay.
Và những tặng phẩm chất đầy mười gian phòng trong Viện Bảo tàng
Cách mạng. Để khỏi ngăn cản những công dân Mạc Tư Khoa đến đó chiêm ngưỡng
những tặng phẩm ban ngày, Stalin đã tới đó coi vào ban đêm. Đó là tác phẩm, chế
tạo phẩm của cả ngàn tay thợ khéo, đó là những tặng phẩm đẹp nhất thế giới,
những tặng phẩm hằng hà sa số được đặt, bày, treo, dựng trước mắt y. Nhưng ở đó
y cũng cảm thấy lãnh đạm, chán chường. Những tặng phẩm này có ích gì cho y? Y
coi thường tất cả và chán ngán tất cả. Khung cảnh Viện Bảo tàng này gợi trong
ký ức y một kỷ niệm khó chịu nào đó, một khó chịu mơ hồ thường ám ảnh y ít lâu
nay. Y không sao biết rõ được nguyên nhân nó, y không nắm được nó, y chỉ thấy
nó mơ hồ ẩn hiện và làm cho y khó chịu. Y đi qua ba gian phòng đầy tặng phẩm
nhưng không chọn qua một món nào hết. Rồi y đứng lại trước một giàn máy Tivi
lớn với hàng chữ khắc “Nhân viên Cheka kính tặng Đồng chí Stalin vĩ đại”.
(Giàn Tivi này được chế tạo ở Viện Mavrino – đây là giàn
Tivi duy nhất, lớn nhất được chế tạo ở Liên bang Xô Viết.)
Rồi y quay gót và đi ra.
Những ngày liên hoan trôi qua như thế. Y chẳng cảm thấy có
gì là vui, là phấn khích hết.
Có một cảm giác gì đó nặng nề trong lồng ngực làm cho Stalin
lo âu và thắc mắc, cảm giác đó có từ lúc y đứng trong Bảo tồn viện, có một cái
gì trong đó đã gây cho y cái cảm giác khó chịu ấy nhưng y vẫn không biết rõ vì
cái gì.
Quần chúng muốn y, điều đó đúng, đúng lắm nhưng quần chúng
không biết nhìn xa. Làm cách nào sửa được khuyết điểm ấy? Chế độ cộng sản sẽ
được thực hiện nhanh chóng và hoàn hảo biết chừng nào nếu không có những tên
công chức vô hồn, nếu không có những tên cán bộ cao cấp ngu dốt, nếu không có
những sơ hở, yếu kém trong công tác giáo dục và hướng dẫn quần chúng. Ngay cả
bọn đảng viên cũng lầm lạc và xao lãng nhiệm vụ lịch sử của chúng. Lại còn
những chậm trễ trong những kế hoạch xây dựng, những chậm trễ trong kế hoạch sản
xuất, sự thiếu thốn những hóa phẩm tốt, những chương trình sai lầm, sự lãnh đạm
của tất cả trước những cố gắng áp dụng kỹ thuật mới và dụng cụ mới, sự từ chối
của bọn trẻ lười biếng không chịu xung phong đi công tác ở những miền xa để mở rộng
biên cương, năng suất nông phẩm tụt dốc, tình trạng hoang phí của bọn cán bộ
thuế, tình trạng trộm cắp trong những kho chứa, tình trạng tham nhũng, biển
thủ, chiếm công vi tư của bọn ủy viên, bọn tù nhân phá hoại ngầm, rồi lại còn
bọn công an chủ trương tự do, bọn hành nghề chợ đen hỗn xược, bọn đàn bà nội
trợ tham lam, đòi hỏi, bọn trẻ con hư vì được quá nuông chiều, bọn chuyên bàn
tán nhảm trên xe buýt, bọn văn nghệ sĩ đòi tự do sáng tác, bọn “phê bình, chỉ
trích” láo lếu, bọn làm điện ảnh phá phách không còn biết đến kỷ luật là gì.
Thật vậy, quần chúng có quá nhiều lỗi lầm cần phải sửa đổi.
Như trong năm 1941 chẳng hạn, cái gì đã làm cho họ rút lui?
Họ đã được lệnh ở lại đó cho tới chết. Tại sao họ không chịu làm thế? Năm đó,
ai đã rút lui, ai đã bỏ chạy, nếu không phải là quần chúng?
Nhưng nhớ lại năm 1941, Stalin cũng không sao tránh thoát
được việc nhớ lại những yếu đuối và lầm lẫn của chính y – y đã vội vã đi khỏi
Mạc Tư Khoa trong tháng mười năm ấy, sự bỏ đi của y là không cần thiết. Tất
nhiên đó không phải là y bỏ trốn, bởi vì trước khi đi, Stalin đã để lại nhiều
người có trách vụ. Y đã ra lệnh cho những người phải ở lại chiến đấu bảo vệ thủ
đô đến giọt máu cuối cùng, nhưng hỡi ơi, chính những đồng chí được tin cẩn này
lại yếu tinh thần, trước sức tấn công của quân Đức Quốc Xã, họ bỏ chạy và sau
cùng Stalin lại phải trở về và tự lực bảo vệ thủ đô.
Y đã cho đi tù tất cả những kẻ nào không may được chứng kiến
và nhớ lại cơn hoảng loạn trong ngày 16 tháng mười năm đó. Nhưng y cũng tự
trừng phạt chính y – y đã đứng duyệt cuộc diễn binh trong tháng mười ấy. Khoảnh
khắc thời gian đó cũng giống như y bị ngã xuống một hố băng đá ở Turukhansk,
nơi y bị lưu đày. Ở Turukhansk thời đó chỉ có băng giá và tuyệt vọng, nhưng từ
băng giá tuyệt vọng đã trồi lên sức mạnh. Đó không phải là một sự kiện đáng
cười – một cuộc diễn binh trong khi quân địch đã đến sát chân thành.
Nhưng muốn trở thành nhà Lãnh Tụ Vĩ Đại Nhất của muôn đời,
nhà Lãnh Tụ Vĩ Đại Nhất của những nhà Lãnh Tụ Vĩ Đại, người ta phải hy sinh,
chịu đựng nhiều. Lẽ tự nhiên rồi.
Mệt mỏi vì bất động, vô tình Stalin để cho tâm trí y bị tràn
ngập bởi những tư tưởng hắc ám nặng nề. Y không chú tâm đến bất cứ vấn đề gì rõ
rệt trong lúc này. Y nhắm mắt lại và nằm đó trong khi những mẩu ký ức rời rạc
theo nhau trở về trong óc y. Không biết vì sao mỗi khi y hồi tưởng, y không nhớ
được những kỷ niệm tốt đẹp, êm đềm, chỉ có những kỷ niệm xấu, khó chịu hiện ra.
Nếu y nhớ lại những cảnh vật miền Gori, nơi y ra đời, những ngọn đồi cỏ xanh ở
đó không hiện ra, những dòng sông Medzhuda, Liakhva nước trong cũng không thấy
hiện ra. Y chỉ nhớ lại toàn những gì đáng thù ghét ở đó, những gì đã ngăn cản
không cho y trở lại thăm nơi đó, dù chỉ là thăm trong một tiếng đồng hồ ngắn
ngủi, nơi y đã ra đời, đã sống những ngày thơ ấu. Không một lần nào y trở về đó
để thăm lại mái nhà xưa. Nếu y nhớ lại năm 1917, y chỉ nhớ có sự kiện Lênin từ
ngoại quốc trở về với mớ chủ nghĩa chủ quan và sự kiện Lênin đảo lộn tất cả
những thành quả gặt hái được từ trước, và nhớ sự kiện thiên hạ đã cười ồ chế
nhạo, khinh khi ra sao khi Stalin đề nghị thành lập một đảng hợp pháp và chung
sống hòa bình với chính phủ lâm thời. Họ đã cười nhạo y hơn một lần – nhưng tại
sao họ lại cứ trút những việc khó khăn, nguy hiểm, tối tăm cho y làm? Họ cười y
nhưng cũng chính y chứ không phải người nào khác, trong ngày mùng 6 tháng bảy
năm ấy được họ sai đi từ Lâu đài Kshesinskaya đến đồn Petropavlovsk để thuyết
phục đám thủy thủ ở đây trao đồn này lại cho Kerensky và rút lui về Kronstadt,
đám thủy thủ ném đá đuổi y về. Người ta phải biết cách nói chuyện với những
người dân Nga. Y nhớ lại năm 1920 và lập tức hình ảnh Tukhachevsky hiện ra khi
gã, với đôi mắt long lên, với vành môi nhăn nhúm, tố cáo lớn tiếng rằng chính
là lỗi ở Stalin nên mới không chiếm được Warsaw. Gã ngu dại ấy chết vì lời tố
cáo bậy bạ ấy.
Trong suốt đời y dường như không có qua một chuyện gì êm
đẹp. Đời y không được êm đẹp bởi vì luôn luôn bị người khác can thiệp. Và khi
kẻ này bị thanh toán đi, lại có những kẻ khác hiện ra. Cứ thế và cứ thế người
ta quấy rầy y mãi không thôi.
Y nghe tiếng gõ cửa. Những tiếng này không hẳn là tiếng gõ
cửa, chúng như tiếng cào nhẹ của một con chó bên ngoài cánh cửa gỗ dày.
Stalin xoay một nút điện bên tay ghế, đó là nút điện mở khóa
cửa từ xa. Khóa cửa bật ra với một tiếng “cách” khẽ và cánh cửa mở hé. Cửa này
không có màn che vì Stalin không thích quanh y có màn cửa, rèm che giường, bất
cứ món gì người khác có thể ẩn nấp được. Cánh cửa hé mở đủ để cho một con chó
len vào nhưng thay vì con chó, cái đầu hói nhẵn bóng của Poskrebychev rồi bộ
mặt lúc nào cũng có vẻ trung thành lương thiện của gã hiện ra.
Chú ý đến tình trạng sức khoẻ đêm nay của Lãnh tụ,
Poskrebychev thấy Stalin nằm dài trên ghế với chiếc khăn lông lạc đà đắp trên
vai, nhưng gã không hỏi thăm đêm nay Lãnh tụ có mạnh khoẻ hay không – sức khoẻ
Stalin bao giờ cũng được coi là hoàn hảo – gã chỉ nói nhỏ đủ nghe:
- Iosif Vissarionovich, Abakumov sẽ có mặt vào lúc hai giờ
rưỡi. Ông có tiếp hắn không? Có thể cho hắn về?
Iosif Vissarionovich mở nút túi áo ngực rút ra chiếc đồng hồ
– (cũng giống như những người sống theo kiểu cách cũ, y không chịu nổi loại
đồng hồ đeo cổ tay).
Chưa đến hai giờ sáng.
Y không muốn thay y phục và rời căn phòng này để vào văn
phòng. Nhưng y cũng không thể để cho kỷ luật bị lỏng lẻo. Nếu y lỏng tay cương
một chút, chỉ cần một chút thôi, bọn họ sẽ biết ngay tức khắc.
Stalin trả lời với vẻ mệt mỏi và đôi mắt chớp luôn mấy cái:
- Để coi. Ta chưa biết.
- Dạ. Vậy thì cứ để cho hắn tới, cho hắn chờ.
Poskrebychev nói và gật đầu liền ba cái. (Gã biết rằng càng
tỏ ra con nít và khờ khạo chừng nào địa vị của gã càng vững chắc chừng ấy). Rồi
nét mặt gã nghiêm lại, gã chú ý nhìn Lãnh tụ:
- Xin ông cho lệnh về đêm nay?
Stalin nói dưới chòm ria mép:
- Sasha, đi đi. Để ta yên.
Poskrebychev gật đầu thêm một lần nữa và lùi ra, khép chặt
cánh cửa lại.
Iosif Vissarionovich nhấn nút điện khóa cửa lại và kéo chặt
chiếc khăn đắp lên vai, xoay mình nằm nghiêng qua phía bên kia.
Y nhìn thấy trên mặt chiếc bàn nhỏ ở đầu ghế có một quyển
sách nhỏ, in trên giấy báo thường, bìa màu đen và đỏ.
Đột nhiên y nhận ra cái gì đã làm cho y khó chịu, cái gì đã
đè nặng tim y, đã cháy âm ỉ trong ngực y và làm cho lễ sinh nhật của y mất hứng
thú: Cái đó là một người, một người đã can thiệp bậy vào đời y mà y vẫn chưa
thanh toán được, người đó là Tito. Tito!
Tại sao chuyện này lại có thể xảy ra được? Sao y lại có thể
lầm lẫn đến như thế về con bọ cạp đó? Những năm 1936, 1937 là những năm vinh
quang rực rỡ nhất trong đời y. Trong hai năm đó y đã trừ khử được những kẻ khó
trừ khử nhất, không biết bao nhiêu đầu người đã rơi trong hai năm ấy nhưng vậy
mà y đã để cho Tito lọt qua kẽ tay y.
Với một tiếng gừ, Stalin buông hai chân xuống sàn. Y ngồi
thẳng lên và giơ tay lên vuốt nhẹ mái tóc hung hung, xám xám, mái tóc đã có một
miếng hói thấy rõ. Những sự bất-như-ý, những bất mãn chất chứa trong dĩ vãng ào
ào trở lại làm cho y choáng váng. Như một người hùng trong huyền thoại, suốt
đời Stalin đã bận rộn với việc chặt đầu con quái long, nhưng vừa chặt xong đầu
này con vật lại mọc ngay đầu khác. Trong những năm qua y đã chặt đầu kẻ thù
chất lên thành núi, nhưng y đã vấp phải một cái rễ cây.
Iosif đã ngã vì Iosif.
[Tito, Thống chế và nguyên
là Thủ tướng chính phủ Nam Tư, cũng tên là Iosif (Joseph) như Stalin. Ra đời
năm 1891, Tito cũng theo chủ nghĩa xã hội nhưng chống lại chính sách của
Stalin, ly khai với Nga Xô. Stalin rất thù vì Tito chống lại ãnh tụ Cộng sản
Nga. Có thể nói Tito là mối hận sâu cay nhất của Stalin. Stalin chết không nhắm
mắt nổi là vì không hạ được Tito]
Kerensky, tuy trước đây cũng là kẻ thù của Stalin, vẫn còn
sống ở đâu đó nhưng Kerensky không đáng cho y để ý đến nữa. Với Stalin, dù bây
giờ Nicholas Đệ nhị hay Kolchak có sống lại cũng vậy thôi, y không thấy thù hận
gì với hai người này, họ là những kẻ thù công khai của y, họ không lẩn tránh để
rồi bày đặt thực hiện một chế độ xã hội tốt đẹp hơn chế độ xã hội của Đại Lãnh
Tụ Stalin.
Một chế độ xã hội tốt đẹp hơn? Một chế độ xã hội khác với
chế độ xã hội của Stalin? Mẹ kiếp. Ai có thể thành lập được chế độ xã hội mà
không có Stalin? Vô lý.
Đó không phải là vấn đề Tito có thành công hay không. Làm
sao tên ngu đần đó có thể thành công cho được. Nhất định là thế rồi. Stalin
nhìn Tito như một ông bác sĩ già ở đồng quê, đầy kinh nghiệm, từng mổ không
biết bao nhiêu là bộ phận trong cơ thể những người bệnh, trong những túp lều
không có lò sưởi, trên những tấm ván đặt ngay bên cạnh đường đi, nhìn một chú y
sĩ tập sự bận áo trắng loay hoay giải phẫu.
Những công trình do Lênin để lại đã được đổi mới ba lần,
những lý thuyết của Marx và Engels đã được sửa lại hai lần. Tất cả những kẻ
không đồng ý với Stalin, những kẻ được nhắc đến từ thời Lênin còn sống, những
kẻ đòi thực hiện xã hội chủ nghĩa theo những đường lối khác với chủ trương của
Stalin đều ngủ yên dưới đáy mồ, đều đã bị quên lãng, khi từ cả những cánh rừng
xa xôi nhất ở miền Bắc không còn vang lại qua một hoài nghi, một chỉ trích nào,
đột nhiên Tito từ trong bóng tối chui ra với lão lý thuyết gia – tín điều
Kardel và tuyên bố chủ nghĩa xã hội cần được thực hiện theo một lối khác.
Nghĩ tới đây Stalin nhận thấy con tim y đập mạnh hơn, mắt y
mờ đi và toàn thân y có những cái co giật bắp thịt khó chịu.
Y cố gắng điều hòa nhịp thở. Y đưa tay vuốt mặt và sờ nhẹ bộ
ria mép. Y không thể bỏ qua được. Nếu y chịu bỏ qua, Tito sẽ làm cho y mất hoan
lạc trong những năm cuối cùng của đời y, sẽ làm cho y ăn mất ngon ngủ mất yên.
Khi mắt y đã nhìn rõ lại, một lần nữa Stalin lai nhận thấy
cuốn sách bìa hai màu đen đỏ nằm trên bàn. Cuốn sách này không có tội gì cả.
Stalin với tay cầm cuốn sách mở ra xem và y tỏ vẻ hài lòng, y đặt lại cái gối
dựa để thoải mái hơn, và y lại nửa nằm, nửa ngồi với cuốn sách mở trên tay
trong nhiều phút.
Đây là cuốn sách được ấn hành nhiều chục triệu cuốn, được
dịch ra 10 tiếng Âu Châu, nhan đề của nó là: “Tito, tên phản bội” và tác giả
của nó là Renaud de Jouvenel – (Nội dung cuốn này giá trị ở chỗ tác giả, một
người Pháp, một người có cái tên quý phái, đã đứng ngoài cuộc tranh chấp, đã tỏ
ra hoàn toàn vô tư và khách quan) - Stalin đã đọc kỹ cuốn sách này trước đó ít
ngày và cũng như đối với những cuốn sách làm y khoan khoái, y vẫn để nó quanh
quẩn bên mình y. Cuốn sách này sẽ làm cho tên độc tài tàn ác, hèn nhát, gian
trá đó phải mở mắt. Tên phản bội dơ dáy. Tên ngu đần đệ nhất thiên hạ. Điều
đáng giận nữa là cả những đảng viên Cộng sản ở Tây Âu cũng có nhiều người bị
tên phản bội này làm hoang mang. Lão André Marty - già đầu rồi mà còn ngu si,
lão đã bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Pháp - đã lên tiếng bênh vực Tito.
Y lật dần những trang sách. Những sự thực được ghi rõ ở đây.
Sau khi đọc cuốn này, không ai còn có thể ca tụng được tên phản bội Tito nữa:
Sự thực là đã hai lần vì hèn nhát, Tito đã muốn đầu hàng quân đội Đức Quốc Xã,
nhưng Arso Jovanovich, Tổng trưởng Bộ Nhân viên, đã ép buộc Tito phải ở lại
chức vụ Tổng Tư lệnh. Arso đã bị giết, Petrichevich cũng bị giết: “Bị giết vì
yêu mến Stalin”. Sách ghi như thế. Ở khắp nơi người ta giết lẫn nhau, những
người tốt nhất bị giết chết trước nhất, bọn người xấu xa nhất được để dành cho
Stalin giết.
Tất cả sự thật đều nằm trong sách này, tất cả – Tito rõ ràng
là một tên gián điệp của bọn Ăng-lê, bằng chứng là hắn tỏ ra kiêu hãnh với
những chiếc quần soọc trắng đi vớ cao tới đầu gối bắt chước bọn Ăng-lê của hắn,
hắn tỏ vẻ vênh vang với những huy hiệu hoàng gia thêu trên ngực áo, trên mũ
hắn, người ngợm, mặt mũi hắn trông ghê tởm, y như là tên Goering, hắn còn khoái
phô trương lòe loẹt, nào là cả trăm huy chương trên ngực, nào là nhẫn kim cương
đeo ở ngón tay (với một gã dốt nát về binh pháp như hắn còn có cái gì để mà
kiêu căng nữa?)
Một cuốn sách vô tư đứng đắn. Không rõ Tito có tật xấu nào
về tình dục chăng? Chuyện đó cũng cần viết vào đây chứ!
“Đảng Cộng sản Yugoslav nằm trong tay bọn sát nhân và bọn
gián điệp. Tito chỉ có thể nắm được quyền lãnh đạo nhờ có Béla Kun và Traicho
Kostov ủng hộ.”
Kostov! Cái tên này làm cho Stalin khó chịu đến là chừng
nào. Cơn giận cuồn cuộn chảy trong máu y. Y đá mạnh chân y ra như y đá vào mặt
tên khốn kiếp Kostov. Và đôi mi mắt xám của Stalin rung động vì cảm giác công
lý đã được thi hành.
Tên Kostov đốn mạt, tên chó đẻ dơ dáy.
Và giờ đây khi hồi tưởng, Stalin thấy rõ những thủ đoạn của
bọn khốn kiếp đó. Y đã tự hóa trang một cách tài tình, khéo léo. Y đã thắng
được Bela Kun vào năm 1937 nhưng mới trước đây có mười ngày, Kostov đã làm ô
danh tòa án Xô Viết, bằng thủ đoạn tráo trở thâm độc của hắn. Stalin từng thành
công rực rỡ trong nhiều vụ kết án ly kỳ, không biết bao nhiêu kẻ thù của y đã
bị y làm cho thành hèn hạ, tự hạ và thú nhận những tội lỗi đểu giả nhất – vậy
mà y đã thất bại trong vụ kết án Kostov. Đó là một xấu xa nhục nhã cho chế độ
xã hội vì vụ này bị cả thế giới biết. Kostov trong lúc bị thẩm vấn đã lừa được
cả những chuyên viên thẩm vấn kinh nghiệm nhất, hắn khóc lóc, van xin, hắn lê
gối lạy lục – để rồi khi ra trước phiên tòa xử công khai, trước mắt những thông
tín viên ngoại quốc được mời đến nghe hắn thú tội, Kostov đã chối tất cả, chối
hết. Hắn không còn biết gì đến liêm sỉ. Lương tâm đảng viên cộng sản của hắn để
đâu? Còn đâu là tình đoàn kết vô sản thiêng liêng? Hắn chết nhưng hắn phải biết
chết có lợi gì cho đảng mới phải chứ?
Stalin ném cuốn sách xuống bàn. Không, y không thể nằm yên ở
đây được. Y phải tiếp tục chiến đấu.
Một quốc gia không lo âu có thể ngủ yên nhưng vị Cha Hiền
của dân tộc không thể ngủ được, Stalin đứng dậy nhưng không đứng thẳng hẳn
người. Y mở cánh cửa thứ hai trong phòng – cánh cửa này không phải là cánh cửa
hồi nãy Poskrebychev thò đầu vào – bước qua và khóa cửa lại. Y lê chân đi qua
một hành lang hẹp, quanh co, không có cửa sổ, hành lang được soi sáng bởi những
miếng kiếng lợp bên trên, y đi ngang những tấm gương soi chỉ thông suốt có một
chiều: Y có thể nhìn qua gương ra bên ngoài nhưng người bên ngoài không thể
nhìn được vào trong, để vào phòng ngủ. Phòng ngủ này cũng hẹp, trần thấp, không
cửa sổ, cũng có máy điều hòa không khí. Phòng này có những tấm thép dày gắn
trong vách gỗ dát kín bốn bức tường và bên ngoài là đá tảng.
Dùng chiếc chìa khóa nhỏ xíu đeo ở dây lưng Stalin mở nắp
kim khí của một bình đựng rượu và rót chất rượu kích thích mà y thích uống nhất
vào một chiếc ly nhỏ, y uống cạn ly rượu ấy rồi lại khóa nắp bình rượu lại.
Đi tới đứng trước gương, y soi mặt y trong gương. Đôi mắt y
trong, sắc và nghiêm kinh khủng. Ngay cả những vị Chủ tịch Hội đồng Nội các
cũng không sao giữ được trầm tĩnh trước đôi mắt này. Vẻ ngoài của y nghiêm
trang, đơn giản, đúng là vẻ ngoài của một lãnh tụ.
Y nhấn chuông gọi tên hầu cận người miền Georgia của y vào sửa soạn y phục
cho y thay.
Ngay cả trước mắt những kẻ hầu hạ luôn luôn ở sát bên y,
Stalin cũng tỏ ra trang nghiêm y hệt hình ảnh của y trong lịch sử.
Lúc nào y cũng là con người thép. Tinh thần, ý chí lúc nào
cũng như thép.
Chương 19 - Ngôn ngữ là dụng cụ của sản xuất
Đêm là thời gian làm việc tốt nhất của Stalin.
Bản tính đa nghi của y như một cuộn dây mở dần vào buổi
sáng. Trong những buổi sáng âu sầu, y nghi ngờ tất cả mọi người. Y cách chức
những tên cần bị cách chức, y cắt giảm những ngân khoản dự chi, y ra lệnh cho
hai hoặc ba Bộ tổ hợp làm một. Ban đêm, tinh thần y sáng suốt và mềm dẻo, y
quyết định việc gia tăng một số Bộ trong chính phủ lên bằng cách đem một Bộ
chia ra thành hai, thành ba Bộ mới, y tìm tên đặt cho những Bộ mới lập, y ký
chấp thuận những ngân khoản dự chi mới và y ký sắc lệnh công nhận những nhân
viên mới được đặt vào những chức vụ mới.
Những tư tưởng giá trị nhất thường đến với Stalin vào khoảng
từ nửa đêm đến bốn giờ sáng. Vào thời gian này, y nghĩ ra cách phát hành
quốc-trái-phiếu mới thay thế những quốc-trái-phiếu cũ để tránh phải trả tiền
lời cho những kẻ có quốc-trái-phiếu, y quyết định đạo luật trừng phạt những kẻ
trốn lao động, y nghĩ ra những biện pháp kéo dài số giờ làm việc trong ngày và
số ngày làm việc trong tuần, biện pháp buộc chặt bọn nông dân và công nhân vĩnh
viễn vào những công việc họ đang làm, những đạo luật về tù khổ sai và cấm cố,
cũng trong khoảng thời gian đêm khuya này, y quyết định giải tán Đệ Tam Quốc Tế
và đặt kế hoạch lâu dài lưu đày bọn phản bội đến Tây Bá Lợi Á.
Kế hoạch lưu đày một số người gồm đủ mọi quốc tịch lên vùng
băng tuyết ấy để cho họ tạo thành một chủng tộc riêng là một thí nghiệm trong
những thí nghiệm tàn bạo nhất của Stalin, một đóng góp trong những đóng góp lớn
nhất của Stalin cho nhân loại, nhưng giờ đây y chẳng còn gì để làm cho kế hoạch
đó nữa. Suốt đời y, Stalin là người nhìn xa, thấy rộng nhất trong lịch sử Xô
Viết.
Y còn là cha đẻ ra nhiều đạo luật giá trị đáng kể khác nữa.
Tuy vậy, y thấy còn những nhược điểm trong toàn thể hệ thống cơ cấu tổ chức xã
hội và những đạo luật mới vẫn tiếp tục thành công trong việc đóng chặt, khóa kỹ
tất cả, mọi chống đối đều bị tận diệt, mọi dị biệt đều bị san bằng, mọi kẽ hở
đều bị bịt kín, tất cả 200 triệu người đều biết họ phải làm gì, nghĩ gì – chỉ
còn có bọn trẻ tuổi trong những nông xã sản xuất là thoát ra khỏi vùng kiểm
soát mà thôi.
Tất nhiên là mọi chuyện đều tốt đẹp trong những nông xã. Rất
tốt đẹp nữa là khác. Stalin biết chắc như thế sau khi xem phim Nông dân miền Kuban và đọc tiểu thuyết Người kỵ mã sao vàng. Tác giả
của cuốn phim và cuốn sách trên đều tới sống ở những nông xã. Họ đã nhìn, đã
thấy và ghi lại những gì họ nhìn, họ thấy trong tác phẩm của họ, và rõ ràng là
tất cả những gì được ghi lại đó chứng tỏ sự tốt đẹp trong những nông xã. Chính
Stalin cũng từng nói chuyện với những nông xã viên khi y đến chủ tọa những đại
hội của họ.
Nhưng vì là một nhà cai trị sâu sắc và có đức tính tự chỉ
trích, tự kiểm thảo, Stalin đã đào sâu vào vấn đề hơn những nghệ sĩ kia. Một
viên bí thư đảng ủy cấp Tỉnh có lần đã lỡ miệng tiết lộ với Stalin rằng (viên
bí thư mau mồm mau miệng này chắc đã bị bắn sau đó) – không phải tất cả đều tốt
đẹp ở những nông xã: Những người đàn ông, đàn bà từng ghi tên làm việc trong
những nông xã từ năm 1930 đều hăng hái làm việc, nhưng bọn trẻ – tất nhiên
không phải là tất cả bọn trẻ, chỉ có một thiểu số vô trách nhiệm mà thôi – sau
khi học hết cấp trung học, đua nhau xin sổ thông hành bằng đủ mọi cách bất
lương để bỏ nông xã ra thành phố, Stalin nghe chuyện này và lập tức trong óc y
sắp đặt kế hoạch sửa chữa.
Giáo dục! Chương trình học bảy năm rồi mười năm chung cho
tất cả, con cái bọn bồi bếp cũng vào được trường đại học này đã tạo ra một tình
trạng lộn xộn, bê bối. Lênin lầm lẫn lớn về điểm này nhưng bây giờ hãy còn quá
sớm, chưa phải là lúc nên nói cho quần chúng biết như thế. Lênin chủ trương bất
cứ anh bếp nào, chị đàn bà nội trợ nào cũng có thể điều khiển tốt guồng máy nhà
nước! Lênin tưởng tượng ra sao mà lại có thể chủ trương kỳ cục như thế? Lại còn
cho bọn bồi bếp cái quyền nghỉ làm bồi bếp trong ngày thứ sáu mỗi tuần để đi dự
hội thảo trong Ủy ban hành chánh tỉnh! Một chị bếp chỉ là một chị bếp, công
việc của chị ta chỉ là việc nấu ăn. Còn việc cai trị cần phải có những người có
biệt tài, việc cai trị chỉ có thể trao cho một số người đặc biệt nào đó đã được
chọn lọc kỹ và được thử thách trong nhiều năm. Và việc điều khiển số người đặc
biệt này chỉ có thể nằm trong tay một người. Người đó là Lãnh Tụ.
Quy chế tổ chức nông xã phải có ghi điều đó, cũng như điều
đất đai vĩnh viễn thuộc về những xã viên, bất cứ ai ra đời trong một làng quê,
ngay từ lúc vừa lọt lòng mẹ, đã là một xã viên. Và chỉ có ủy ban hành chánh của
nông xã mới có quyền cho phép một người đi khỏi nông xã.
Dường như có một kẻ nào đó trong số những kẻ gọi là khuynh
tả đã có nói đến vấn đề như thế sẽ xảy ra ở các nông xã. (Thực ra, nhóm gọi là
“khuynh tả” không hề có thực, chính Stalin bày ra chuyện gọi một số người bằng
cái tên đó để khi cần đến thanh toán họ cho dễ).
Không biết vì sao người ta thường thấy bọn kẻ thù của
Stalin, bọn chủ trương khác với Stalin, hay nói đúng về nhiều chuyện. Những kẻ
ấy đều đã chết. Nhưng Stalin như vẫn nghe thấy tiếng họ nói từ dưới đáy mồ vọng
về.
Mặc dù việc ban hành những sắc luật mới về nông xã là cần
thiết, cũng như rất nhiều sắc luật mới cần ban hành trong mọi địa hạt, đêm nay
khi bước vào văn phòng, Stalin cảm thấy tâm trí y bị lôi cuốn vì một vấn đề mơ
hồ hơn.
Trên ngưỡng cửa những năm sắp tám mươi tuổi, Stalin thấy
rằng y không có quyền hoãn lại những việc cần làm này lâu hơn nữa.
Người khác có thể nghĩ rằng tất cả mọi việc có thể làm được
để giữ cho Stalin bất tử đều đã được làm, nhưng với Stalin – mặc dù đã được
những người đồng thời suy tôn là Lãnh Tụ Vĩ Đại Nhất, người anh minh nhất, tài
ba nhất – những suy tôn đó, những lời ca ngợi đó vẫn chưa đủ, y còn xứng đáng
được suy tôn hơn thế nhiều. Y thấy sự thán phục của mọi người đều nông cạn, họ
vẫn chưa thấy rõ thiên tài bao la của y.
Trong những ngày gần đây, một ý nghĩ thường ám ảnh Stalin:
Thực hiện một thành công vĩ đại nào đó trong địa hạt khoa học để có thể nổi
tiếng ngoài địa hạt triết học và lịch sử. Tất nhiên là y có thể thành công rực
rỡ trong địa hạt sinh vật học nhưng y đã trao việc này cho Lysenko, một người
lương thiện và cương nghị. Ngoài ra, toán pháp và vật lý hấp dẫn Stalin nhiều
hơn. Mỗi lần đọc những bài thảo luận về Số Không và Kém-Số-Không đăng trong tập
Biện chứng luận về thiên nhiên, y lại cảm thấy ước ao cũng viết được như thế.
Cũng trong thời gian gần đây, sự tìm tòi làm cho Stalin chú
ý đến trường hợp của giáo sư Chikobava, trường hợp này làm cho y chú ý đến ngôn
ngữ học. Giáo sư Chikhobava vừa viết một cuốn khảo luận về ngôn ngữ với nội
dung chống chủ thuyết Mác-xít, ông chứng minh rằng ngôn ngữ chỉ là tiếng nói
của một quốc gia, một dân tộc, ngôn ngữ tự nó không có đặc tính, rõ hơn, ngôn
ngữ không thể là “ngôn ngữ vô sản” hoặc “ngôn ngữ tư sản”. Nhiều học giả đã lên
tiếng chỉ trích nặng nề Chikhobava và vào giờ này, nhà ngôn ngữ học hỗn xược đó
chỉ còn có nước ngồi chờ nhân viên Mật vụ KGB đến nhà gõ cửa đưa đi.
Không còn gì có thể cứu được Chikhobava nếu Stalin không
đích thân nhấc điện thoại lên và ra lệnh để cho ông ta sống. Stalin để cho
Chikhobava sống không phải là không có mục đích: Chính y sẽ lấy ý kiến của nhà
ngôn ngữ học này, y sẽ khai triển ý kiến tầm thường đó thành một chủ thuyết rực
rỡ với hy vọng chủ thuyết đó sẽ giúp y trở thành bất tử.
Nếu y có thể đập tan được những lý thuyết phản động của bọn
phản cách mạng, như lý thuyết về luật tương đối chẳng hạn, y sẽ làm cho dư luận
thế giới rung động hơn, nhưng y đã làm quá nhiều việc, trách nhiệm của y đối
với nhân dân thế giới đã quá nặng nề, y không sao còn thì giờ để làm việc đó.
Thay y phục xong Stalin ngồi vào bàn viết. Y dự định viết
một thiên khảo luận về tính chất của ngôn ngữ. Viết chưa được nửa trang y đã
thấy mệt. Y ngáp dài và vươn vai. Rồi y đứng dậy đi tới ô kiếng nhỏ nhìn ra
vườn. Tấm kiếng này đạn bắn không thủng. Bên ngoài là một khu vườn chỉ có người
làm vườn được phép đặt chân vào với một binh sĩ gác. Vào giờ này y chỉ nhìn
thấy có sương mù. Y không nhìn thấy những vì sao trên nền trời, cũng không thấy
qua một vật gì.
Ở một mình trong căn phòng kín này Stalin không chút lo âu,
y cũng không chút băn khoăn, lo ngại mỗi khi nghĩ tới nửa trái đất kia – nửa
trái đất mà y vẫn chưa đặt tay lên được – y cảm thấy y có đủ sức để nắm lấy nửa
trái đất đó, bẻ cong nó theo như ý muốn. Y chỉ cảm thấy e ngại mỗi khi y phải
đến dự những đại tiệc, khi y phải đi trên khoảng cách từ cửa xe hơi tới cửa tòa
nhà, đi một mình lên cầu thang và đi qua hai dãy người – những người đứng kính
cẩn đến nhiều khi trở thành khúm núm – quá đông, quá xa lạ. Những lúc ấy Stalin
cảm thấy y yếu đuối, không được bảo vệ, y không biết phải dùng hai tay y như
thế nào, hai bàn tay đã quá lâu không còn được dùng đến nên đã trở thành vô
dụng. Y đặt hai tay lên bụng và mỉm cười. Người ta tưởng nhà độc tài cười vì
nhân từ, vì mến họ, nhưng sự thật y cười vì sợ.
Chính Stalin từng nói rằng không gian là điều kiện căn bản
cho đời sống của vật chất, nhưng sau khi đã làm chủ được một phần sáu đất đai
toàn trái đất, y bắt đầu kinh sợ không gian. Vì vậy mà y thoải mái sống trong
văn phòng chật hẹp này: Ở đây không có không gian.
Stalin đóng cánh cửa thép sau tấm kiếng và chầm chậm đi trở
lại bàn ngồi. Đêm đã khuya quá rồi, ngay cả một thiên tài cũng không còn làm
việc được nữa.
Những sự kiện xảy ra trong cuộc đời không giúp y, không làm
y hài lòng, nhưng y vẫn cứ phải làm việc. Những thế hệ sắp tới rồi sẽ biết công
trạng của Stalin vĩ đại.
Tất cả mọi người đều trông cậy vào Stalin. Quần chúng lạ kỳ
và nhát sợ quá đáng. Mất bao nhiêu công lao dạy cho họ biết thế nào là dân chủ,
nhưng họ vẫn ỷ lại. Nhai sẵn thức ăn mớm cho họ, việc của họ chỉ là việc nuốt
vậy mà họ cũng không nuốt nổi.
Khuôn mặt nâu xám, làn da gợn những vết sẹo đậu mùa cúi
xuống những tờ giấy trắng trên bàn, Stalin muốn viết nhưng cảm hứng không đến,
y không biết nên viết gì.
Có tiếng gõ nhẹ ở cửa, Stalin nhấn nút điện mở khóa.
Bộ mặt anh hề của Sasha hiện ra giữa hai cánh cửa, gã hỏi
nhỏ như tiếng thì thào:
- Iosif Vissarionovich, ông cho phép tôi gọi Abakumov vào
hay cho hắn về?
- À, Abakumov.
Mải mê sáng tác Stalin đã quên mất Abakumov
- Được rồi. Cho hắn vào.
Y rút chìa khóa ở dây lưng ra mở nắp kim khí một bình rượu
khác để sẵn trong ngăn bàn viết và uống một ly rượu nhỏ.
Lúc nào y cũng phải tỉnh táo, sáng suốt và mạnh như một con
chim ưng.
Chương 20 - Iosif Vissarionovich, xin cho lại chúng tôi án tử hình
Gần như trên cõi đời này không có ai dám mơ đến chuyện gọi
gã bằng cái tên Sasha - trừ Đại Lãnh Tụ ra, tất cả mọi người đều gọi gã bằng
tên Aleksandr Nikolayevich - cũng ít ai dám gọi gã bằng cái tên dài ấy ngay
trước mặt gã. “Poskrebychev gọi” có nghĩa là “Ổng gọi”, hoặc “Lãnh tụ gọi”, và
“Poskrebychev ra lệnh” có nghĩa là “Ổng ra lệnh”, hoặc “Lãnh tụ ra lệnh”.
Aleksandr Nikolayevich Poskrebychev giữ chức vụ Bí thư
Trưởng Đặc biệt của Stalin đã hơn mười lăm năm. Thời gian đó là một thời gian
dài, và những người không được biết rõ con người thật của Poskrebychev thường
ngạc nhiên vì sau từng ấy năm ở cạnh nhà độc tài, đầu của gã vẫn còn nguyên ở
trên hai vai. Nhưng sự bí mật thật là đơn giản. Trong tâm hồn, anh chàng Thú y
sĩ ở miền Penza
là một tên đầy tớ hầu vặt, và chính bản chất đầy tớ ấy đã bảo đảm an ninh cho
Poskrebychev. Ngay cả sau khi gã đã được ban cấp bậc Trung tướng, được là ủy
viên của Trung ương Đảng và giữ chức vụ Chính ủy Sở Kiểm soát mật Nhân viên
Trung ương Đảng Bộ, Poskrebychev vẫn tự coi gã là một cái gì nhỏ hơn cả con số
không ở trước mặt Lãnh tụ Tối cao. Linh tính đa nghi của Stalin không bao giờ
phát giác được sự nghi ngờ hoặc ý muốn chống đối ở Poskrebychev.
Nhưng khi gã tiếp xúc với hạ cấp, anh đầy tớ trán hói có vẻ
khờ khạo ấy có đủ khả năng để tự làm cho gã trở thành quan trọng ghê gớm. Với
những kẻ dưới quyền gã, Poskrebychev nói vào điện thoại nhỏ đến nỗi người nghe
phải áp chặt ống nghe vào tai để có thể hiểu gã nói gì. Đôi khi người ta cũng
có thể nói đùa với gã về những vấn đề lặt vặt nhưng không một ai dám hỏi thẳng
gã: “Hôm nay ở đó ra sao?”. Ngay cả đến cô con gái của Lãnh tụ cũng không bao
giờ được biết rõ tình hình ở đó ra sao? Mỗi lần cô gọi điện thoại tới hỏi thăm,
cô chỉ được cho biết mơ hồ: “Người hoạt động” hoặc “Người tĩnh dưỡng”… tùy theo
Poskrebychev có nghe thấy tiếng chân của Người hay không.
Đêm nay Poskrebychev nói với Abakumov:
- Iosif Vissarionovich đang làm việc. Người có thể tiếp ông.
Người bảo ông chờ.
Gã cầm chiếc cặp da của Abakumov, đưa y vào phòng đợi và bỏ
y ngồi một mình ở đó.
Và cũng như mọi lần Abakumov không dám hỏi câu hỏi mà y cần
hỏi nhất: “Hôm nay tinh thần Lãnh tụ ra sao?”. Y ngồi trong phòng đợi và nghe
tiếng trái tim đập mạnh.
Người đàn ông vạm vỡ, to lớn, khoẻ mạnh này vẫn đứng cứng
người ra vì sợ mỗi lần y đến gặp Stalin để báo cáo y hệt như những công dân
trong thời gian phát động những cuộc bắt bớ tập thể khi nghe tiếng chân người
rầm rập lên cầu thang ban đêm. Trước hết hai vành tai y lạnh như đá vì sợ, sau
đó biến thành rát như bị lửa đốt. Và trong những giờ kinh khủng ấy, Abakumov
kinh hoàng nghĩ đến chuyện Lãnh tụ có thể nghi ngờ cả đến những sự kiện nhỏ
nhất. Tỉ dụ như Stalin không thích thấy ai thò tay vào túi trước mặt mình. Vì
vậy trước khi tới đây Abakumov đã cẩn thận chuyển hết ba cây bút vẫn dắt trong
túi áo ngực bên trong của y ra hết túi áo ngoài, lát nữa đây y sẽ cần dùng đến
chúng để ghi những chỉ thị của Lãnh tụ. Những chỉ thị thường ngày được truyền
xuống cho Abakumov từ Beria, nhưng mỗi tháng một lần nhà Cai Trị Tối Cao muốn
đích thân gặp để kiểm soát kẻ mà Người trao cho trách nhiệm bảo vệ an ninh cho
chế độ do Người lãnh đạo.
Những cuộc hội kiến dài hàng giờ đồng hồ này là cái giá đắt
mà Abakumov phải trả để đổi lấy những sức mạnh uy quyền mà y mơ ước. Y chỉ sống
và chỉ hưởng thụ cuộc đời trong khoảng thời gian ở giữa hai cuộc hội kiến. Mỗi
lần đến gặp Stalin xong, khi yên ổn ra về, Abakumov thơ thới hân hoan nhưng
càng gần đến ngày phải đi gặp vị chúa tể y càng lo sợ. Tất cả những dây thần
kinh đều chùng xuống, hai tay y lạnh giá và mỗi lần đưa cái cặp da mang theo
cho Poskrebychev, y lại hoang mang không biết lát nữa đây y có còn được cầm lại
nó hay không. Y cúi đầu như đầu trâu trước cánh cửa văn phòng của vị chúa tể
trước khi bước vào đó với cảm nghĩ đen tối là không biết y có còn được ngẩng
đầu cao để đi ra khỏi đây hay không.
Stalin làm cho người ta khiếp sợ bởi vì một lỗi lầm nhỏ
trước mặt y có thể là lỗi lầm của cả một đời, lỗi lầm đó dù nhỏ cũng có thể làm
nổ ra một trận lôi đình với hậu quả ghê gớm không ai có thể lường trước được.
Stalin làm người ta khiếp sợ bởi vì y không bao giờ chấp nhận những lời xin
lỗi. Y cũng không bao giờ mở miệng kết tội, ánh mắt cọp vàng của y chỉ sáng rực
lên và đôi mắt y chỉ khép nhỏ hơn đôi chút – và như vậy là trong óc y, sự kết
tội đã thành hình, những trừng phạt đã được quyết định, nhưng người bị kết án
vẫn không hay biết gì hết. Nạn nhân ra về để rồi nửa đêm bị nhân viên mật vụ
đến bắt đi, bị bắn chết vào lúc mờ sáng ở một nơi nào đó.
Sự im lặng và cái nheo mắt của vị chúa tể biểu lộ tình trạng
đáng sợ nhất. Nếu Stalin nổi giận quát mắng, nếu người ta bị y nhổ vào mặt,
giẫm lên chân, chửi rủa thô tục, người ta vẫn còn hy vọng được sống, vì cơn
giận đó sẽ tiêu tan. Abakumov sẽ mừng rỡ nếu được Stalin chửi rủa, vì chửi y
như thế tức là Stalin vẫn còn hy vọng rằng y có thể sửa đổi và vẫn để cho y giữ
trách vụ y đang giữ.
Trong những giây phút kinh hoàng trước mặt Stalin, đôi khi
Abakumov cũng hiểu rằng y đã trèo quá cao. Nếu y ở dưới hàng thấp hơn, y sẽ ít
bị nguy hiểm hơn. Stalin thường tỏ ra dễ tính, vui vẻ với những người ở xa y,
những người cả đời chỉ được gặp y một lần, nhưng khi người ta đã được gần
Stalin rồi, người ta không còn có thể tự rút lui được nữa.
Người ta chỉ còn có thể chết. Cái chết của chính mình. Hoặc…
Trước mặt Stalin, Abakumov luôn luôn run rẩy vì sợ vị chúa
tể sẽ khám phá ra được một tội lỗi gì đó ở y.
Trong vài ngày qua, Abakumov đã ăn không ngon, ngủ không yên
vì cuộc hội kiến này. Y lo sợ cái tội mà y đã phạm ở nước Đức trước đây có thể
đến tai vị chúa tể.
Y từng làm giàu ở Đức quốc. Ở đoạn cuối cuộc đại chiến thế
giới thứ hai, Abakumov giữ chức Tổng Giám đốc cơ quan SMERSH kiêm Sở Phản gián
Mặt trận, phạm vi quyền lực của y bao trùm toàn thể quân đội. Khi ấy có một
thời gian các binh sĩ Nga hành quân trên đất Đức được tha hồ cướp bóc, vơ vét tài
sản của dân Đức. Để đánh một đòn quyết liệt tối hậu xuống nước Đức đang chiến
bại, Stalin áp dụng đòn độc của Hitler là cho phép binh sĩ cướp bóc, chấp thuận
cho toàn thể binh sĩ được quyền gửi đồ cướp được từ mặt trận về nhà riêng.
Quyết định này đặt căn bản trên sự biết rõ tâm trạng người lính chiến của
Stalin, nếu y là người lính, y cũng nghĩ như thế: Chiến đấu cho quê hương, tổ
quốc, dân tộc là một lý tưởng cao đẹp, rất nên – chiến đấu và hy sinh cho
Stalin lại càng cao đẹp hơn nữa – xong khi đòi hỏi người lính phải liều mạng
trong lúc chiến tranh sắp kết liễu, người ta cần phải cấp cho người lính một
động lực thúc đẩy nào đó mạnh hơn, thực tế hơn, hấp dẫn hơn. Vì vậy y cho phép
mỗi người lính hành quân trên lãnh thổ Đức mỗi tháng được gửi từ mặt trận về
nhà 20 ký đồ vật không phải kiểm soát, mỗi sĩ quan được gửi về 50 ký, mỗi tướng
lãnh được gửi về 100 ký. Quyết định cho phép gửi đồ về nhà đó tỏ ra đúng, vì
người lính không phải vất vả mang theo những món đồ họ lấy được trên khắp các
mặt trận, hành lý của họ không bao giờ quá nặng và do đó họ vẫn tấn công được,
họ còn hăng hái tấn công để chiếm những đất mới, lấy những đồ vật mới. Được
phép gửi đồ về nhà như thế, những quân xa vẫn còn được dùng để chở lính chứ
không đầy ắp những đồ vật.
Trong số những người tiến sang lãnh thổ Đức có quyền cướp đồ
và gửi đồ về nhà, những kẻ trong cơ quan SMERSH có nhiều điều kiện để vơ vét
nhất. Bọn này cũng ở trên mặt trận nhưng luôn luôn ở ngoài tầm súng của địch, không
sợ bị phi cơ địch tấn công, họ ở những nơi mà cán bộ hành chánh, bọn công an
chưa kịp tới. Những sĩ quan SMERSH lại hoạt động bí mật. Không ai dám kiểm soát
những quân xa được niêm phong của họ, họ có quyền xung công những tài sản lớn
của địch để giữ cho chính phủ và họ tha hồ chiếm công vi tư. Từng đoàn quân xa,
từng đoàn tàu, từng đoàn phi cơ chuyển đồ của SMERSH từ mặt trận về. Các sĩ
quan ấp úy chỉ cần tinh khôn một chút là có thể gửi về cả ngàn ký, sĩ quan cấp
tá có thể gửi về cả chục ngàn ký và Abakumov gửi về cả triệu ký.
Abakumov hiện có nhiều vàng, y gửi số vàng này ở Thụy Sĩ
nhưng y cũng biết rõ hơn ai hết là số vàng lớn này vẫn không thể cứu được y
thoát chết nếu y mất chức Tổng trưởng Bộ An ninh. Vàng bạc không còn giá trị gì
cả khi người ta đã bị mất đầu. Trong cơn say sưa vơ vét tài sản của những ngày
chiến tranh gần kết liễu ấy, Abakumov không thể điềm nhiên khoanh tay nhìn bọn
sĩ quan thuộc cấp thi nhau gửi đồ về nhà cho vợ con chúng, y đặc phái những đội
đặc biệt đi tìm đồ vật quý giá. Y cũng bị làn sóng tham lam ấy cuốn đi.
Nhưng cái tài sản vơ vét được đó cũng là một tai họa cho
Abakumov. Nó vô dụng đối với y và lúc nào y cũng sợ tội trạng của y bại lộ.
Thực ra chẳng có ai dám tố cáo Tổng trưởng Bộ An ninh nắm quyền sinh quyền sát
trong tay nhưng nếu vị chúa tể biết tội đó thì tình hình khác hẳn. Nếu Abakumov
gửi những vật quý ấy về cho Beria hay Stalin thì không sao, nhưng y lại giấu đi
làm của riêng. Đó là một tội trạng không thể tha thứ được. Nhiều lúc Abakumov
hối hận vì đã quá tham lam nhưng bây giờ muộn quá mất rồi.
Abakumov đến vào lúc 2 giờ 30 sáng tới 3 giờ 30 sáng y vẫn
còn đi đi lại lại quanh quẩn ở phòng đợi, hai bàn tay ướt đẫm mồ hôi nắm quyển
sổ mới tinh y mang theo để ghi chỉ thị, sự hồi hộp mỗi lúc tăng mạnh hơn trong
y, hai vành tai y bắt đầu bỏng cháy. Đêm nay, đặc biệt là đêm nay, Abakumov ước
mong Stalin sẽ đừng hỏi đến giàn máy điện thoại đặc biệt và y chưa nghĩ được
lời nói dối nào cho xuôi cả.
Nhưng cánh cửa gỗ dày đã mở, nhưng chỉ mở hé. Poskrebychev
từ trong thò đầu ra, giơ tay vẫy y. Abakumov bước vào, cố gắng đi cho thật nhẹ.
Không dám mở cánh cửa lớn hơn, y lẻn tấm thân hộ pháp của y qua khe cửa. Chưa
qua hẳn cửa, y đã hỏi vào:
- Kính chào Iosif Vissarionovich, cho phép tôi được vào.
Vì quá hấp tấp y đã quên hắng giọng trước từ bên ngoài.
Giọng nói của y khàn khàn nghe thiếu âm thanh trung thành.
Stalin bận bộ áo khuy vàng chói và nhiều huy chương trên
ngực, nhưng không có cầu vai đang ngồi viết ở bàn. Viết xong hàng chữ Stalin
mới ngẩng lên chiếu đôi mắt cú vọ nhìn người vừa vào phòng.
Người không nói gì cả.
Một dấu hiệu xấu. Người không nói nửa tiếng.
Người lại cúi xuống viết.
Abakumov đóng cánh cửa sau lưng lại nhưng không dám tiến lên
khi chưa nhận được một cái gật đầu hoặc một cử chỉ cho phép đến gần. Y đứng đó
người hơi cúi về đằng trước, hai tay để xuôi bên mình, nụ cười chào mừng kính
cẩn nở trên môi. Hai tai y như bị lửa đốt.
Abakumov từng đến cả hai văn phòng của Lãnh tụ – văn phòng
chính thức để làm việc ban ngày và căn phòng nhỏ ban đêm này.
Văn phòng chính thức ở trên lầu rộng lớn hơn nhiều, sáng sủa
hơn, có ánh nắng và nhiều cửa sổ như mọi cửa sổ, có những tủ sách trong xếp đầy
những quyển sách bìa màu ghi lại những tư tưởng của nhân loại cùng những nền
văn minh do loài người tạo được kể từ ngày trái đất có loài người. Ở đó trên
bức tường cao có bức hình được Lãnh Tụ ưa thích nhất, trong hình Lãnh Tụ bận bộ
quân phục Thống chế mùa đông. Ở đó có nhiều ghế lớn ghế nhỏ, đi văng, bàn
vuông, bàn tròn. Đó là nơi Lãnh tụ tiếp những phái đoàn ngoại giao hoặc mở hội
nghị. Đó cũng là nơi Lãnh Tụ ngồi chụp hình.
Ở đây, trong nhiều văn phòng ban đêm này, đồ vật không có
nhiều, không có hình treo trên tường và những ô cửa sổ đều nhỏ xíu. Bốn kệ sách
thấp kê sát vào những tấm vách lát gỗ và một bàn viết kê ở cuối phòng. Góc
phòng đối diện với bàn viết kê một giàn máy hát và một giá đựng đĩa hát. Ban
đêm Stalin thích nghe lại những bài diễn văn của chính y được thâu vào đĩa.
Abakumov kính cẩn cúi mình và chờ đợi.
Stalin vẫn tiếp tục viết. Y viết với sự nhận thức là những
dòng chữ này sẽ đi thẳng vào lịch sử. Ánh đèn đặt bàn chỉ chiếu sáng những
trang giấy, những bóng đèn giấu trong tường trên cao chỉ soi lờ mờ. Stalin
không viết luôn tay, thỉnh thoảng y ngừng viết và đưa mắt nhìn lên trần, hoặc
nhìn vào tường, hoặc nhìn Abakumov với vẻ mặt như khó chịu vì sao gã này lại
đứng đó. Nhiều lúc Stalin ngừng viết, nghiêng tai như đang nghe như một tiếng
gì đó mặc dù trong phòng không có qua một tiếng động nhỏ.
Không ai biết vì sao, lúc nào, từ bao giờ Stalin bắt đầu có
thái độ chỉ huy này? Mỗi cử chỉ nhỏ nhặt của y đều mang một ý nghĩa, một hiệu
lệnh. Ngày xưa chú Koba – ở miền Caucase người ta gọi Stalin bằng cái tên ấy –
chắc cũng giơ tay, cũng nhíu mày, cũng nhìn người ta y như bây giờ nhưng ngày
xưa những cái đó chẳng làm cho ai kính sợ, không ai nhìn thấy những mệnh lệnh
nằm trong những cử chỉ ấy. Chỉ sau khi số người bị bắn chết lên tới một con số
nào đó người ta mới bắt đầu nhìn thấy ở những cử chỉ này những ý nghĩa ghê gớm
của chúng. Người ta thấy chúng là những mệnh lệnh, những quyết định, những cảnh
cáo, những hài lòng hoặc bất mãn. Và nhận thấy mọi người nhận thấy như thế về
mình, Stalin tự nhận xét y, và y cũng thấy trong cử chỉ, trong mắt nhìn của y
có những ý đe dọa ngầm, y tìm cách kết thúc chúng, do đó mỗi ngày những cử chỉ
của y càng ảnh hưởng mạnh hơn đến những người quanh y.
Sau cùng Stalin nghiêm khắc nhìn Abakumov. Y ra lệnh bằng
tẩu thuốc gắn trên miệng cho biết Abakumov được ngồi trên chiếc ghế nào.
Abakumov run lên, đi tới và ngồi xuống, nhưng y chỉ ngồi mớm
trên mép ghế để có thể đứng dậy được ngay khi cần đến.
- Sao?
Stalin miệng hỏi, tay xếp lại những tờ giấy trên bàn.
Giây phút chờ đợi đã đến.
Đây là lúc Abakumov biết y phải nắm lấy cơ hội đừng để vuột
mất, y phải nói, nói nhiều, nói liên tiếp để cho Lãnh tụ không còn đủ thì giờ
đặt câu hỏi. Y hắng giọng và bắt đầu nói, giọng y, đúng với giọng để báo cáo,
không lên bổng xuống trầm, nó đều đều, trơn tru, như học trò đọc bài. (Sau đó
Abakumov có thể tự sỉ nhục y vì thái độ quỵ lụy, khiếp nhược quá đáng của y
trước mặt Stalin, nhất là những lời hứa bừa bãi của y, nhưng y không biết rằng
Nhà Độc tài càng có vẻ lãnh đạm với y chừng nào, càng không đòi hỏi gì ở y, y
càng sốt sắng phơi bày gan ruột, càng hứa hẹn nhiều và càng ngày y càng rơi sâu
hơn trong vực thẳm khiếp nhược và hèn hạ).
Trong những cuộc báo cáo ban đêm này của Abakumov, Stalin có
vẻ chú trọng nhất đến tình trạng những nhóm chống đối được phát giác. Abakumov
biết như thế và trọng tâm bản báo cáo của y đặt vào việc phát giác những nhóm
chống đối. Đêm nay y báo cáo với nhà độc tài về nhóm sĩ quan chống đối chế độ
trong Trường Võ bị Frunze .
Y có thể nói nhiều và nói vào chi tiết vụ này.
Nhưng thoạt đầu, y trình bày những thắng lợi, những tiến
triển như ý, khách quan – chính y cũng không biết chắc những thắng lợi, tiến bộ
này có thật hay chỉ là những chuyện bày đặt do bọn thuộc viên báo cáo lên y –
đa số những tiến bộ này nằm trong kế hoạch ám sát Tito. Y nghiêm trọng báo rằng
một trái bom nổ chậm sẽ được đặt dưới du thuyền của Tito trước khi du thuyền này
rời bến đưa Tito đến hải đảo Brioni.
Stalin ngẩng đầu lên, đưa tẩu thuốc tắt vào miệng, hút vài
hơi không có khói. Người không tỏ vẻ gì là chú ý đến âm mưu này nhưng Abakumov
cũng đủ thông minh và đủ biết về người để biết rằng y đã nói đúng vào chuyện phải
nói.
- Còn Rankovich?- Stalin hỏi.
- Thưa, chúng ta sẽ lo cho bọn Rankovich, cả tên Kardel, tên
Moja Pijade… Cả bọn chúng sẽ tan xác. Việc đó sẽ xảy ra vào cuối mùa xuân năm
nay.
(Trái bom nổ chậm được cho là sẽ giết Tito trên nguyên tắc
cũng làm tan xác cả thủy thủ đoàn của chiếc du thuyền, nhưng Abakumov không đề
cập gì đến chuyện và Người Bạn Thân Nhất của Các Thủy Thủ cũng không hỏi gì
đến.)
Nhưng ngay lúc này người đang nghĩ gì trong lúc người ngậm
tẩu thuốc tắt trên miệng, nhìn mà như không thấy vào bộ mặt kính cẩn của
Abakumov qua đầu mũi khoằm của Người?
Tất nhiên là lúc đó Người không nghĩ đến sự kiện Đảng đã
công khai lên tiếng không chấp nhận, không sử dụng những hành động khủng bố cá
nhân. Chính Người nữa, Người cũng từng tuyên bố là không bao giờ Người dùng đến
thủ đoạn khủng bố. Trong lúc nhìn bộ mặt no đủ, đôi má phị và đỏ hồng của gã
đàn ông hãy còn trẻ ngồi trước mặt, Người bận nghĩ đến cái chuyện vẫn làm Người
suy nghĩ mỗi khi Người nhìn một tên dưới quyền.
Ý nghĩ thứ nhất của Người luôn luôn là câu hỏi: Tên này đáng
cho mình tin đến chừng nào?
Và ý nghĩ thứ hai là: Đã đến lúc mình phải thanh toán tên
này chưa?
Stalin biết rõ tội trạng của Abakumov trong chiến tranh,
biết Abakumov rất giàu và gửi tài sản ở ngoại quốc, nhưng chưa thấy cần trừng
phạt y. Stalin không bất mãn vì chuyện Abakumov làm giàu cho cá nhân y, trái
lại là khác, nhà độc tài thích dùng những tên tham lam như thế. Bọn tham lam
bao giờ cũng dễ sai khiến hơn, dễ trừng phạt hơn nữa. Những kẻ không tham,
không cần gì cả luôn luôn là bọn khó trị. Stalin đã chán ngấy những kẻ cam phận
chịu nghèo. Lý tưởng của những kẻ chịu nghèo này là một cái gì Stalin không bao
giờ hiểu.
Tuy vậy Stalin cũng vẫn không thể tin được Abakumov. Đa nghi
là bản tính của Iosif Djugashvili. Không tin ai hết là phương châm xử thế của
Stalin.
Người không tin cả bà mẹ đẻ ra người. Người không tin ở vị
Chúa Trời mà Người từng cúi đầu dưới chân trong suốt mười một năm trời khi
Người còn trẻ. Sau đó, Người không tin những đồng chí cùng đảng với Người, nhất
là những kẻ giỏi nói, nói hay. Người không tin ở bọn nông dân trừ trường hợp họ
bị cưỡng bách lao động và năng suất của họ được kiểm soát chặt chẽ. Người không
tin bọn công nhân trừ khi năng suất của họ có tiêu chuẩn và thời hạn nhất định
phải đạt được. Người không tin bọn trí thức: Bọn này luôn luôn chống đối và phá
hoại. Người không tin bọn tướng lãnh và binh sĩ: Bọn này chỉ chịu chiến đấu vì
sợ những tiểu đoàn trừng giới và những giàn súng máy bắn bỏ ở hậu tuyến. Người
không tin những người thân. Cả vợ Người, những tình nhân của Người, cũng không
được Người tin. Người không tin con cháu. Và luôn luôn những sự kiện xảy ra cho
Người thấy rằng Người không tin như vậy là đúng.
Trong suốt cuộc đời đa nghi ấy, Stalin chỉ tin có một người,
một người mà thôi, một người có thể là bạn tri kỷ cũng có thể là kẻ thù bất đội
trời chung. Một mình trong số những kẻ tử thù của Stalin, trước sự nhìn xem đầy
hồi hộp, kích động của toàn thế giới, người ấy đã quay mặt lại với Stalin, đã
long trọng mời Stalin làm bạn.
Và Stalin đã tin người đó.
Người đó là Adolf Hitler.
Stalin đã ngồi yên nhìn ngắm một cách thích thú khi quân đội
của Hitler chiếm Ba Lan, Pháp quốc, Bỉ quốc, khi những đoàn phi cơ của Hitler
bay đen kịt trên bầu trời Anh quốc, Molotov sợ hãi bay về từ Bá Linh. Những sĩ
quan tình báo tới tấp báo cáo Hitler đang tập trung quân đội để mở mặt trận
miền Đông. Hees bay sang Anh quốc. Churchill khuyến cáo Stalin về một trận tấn
công vào lãnh thổ Nga sắp xảy ra. Mọi người la hoảng chiến tranh sắp đến, Đức
sắp tấn công Nga. Bọn đàn bà đi chợ bàn tán về chiến tranh. Riêng một mình
Stalin vẫn thảnh thơi vô tư lự.
Stalin tin tưởng ở Hitler.
Lòng tin ấy, chỉ còn thêm chút nữa, là làm cho Stalin mất
đầu.
Sau lần tin người duy nhất ấy, Stalin hoàn toàn không tin
bất cứ ai, không bao giờ còn tin ai.
Abakumov có thể tỏ ra cay đắng vì tình trạng không được tin
cẩn ấy, nhưng y không dám. Theo y, Stalin đã hành động không đứng đắn khi cho
gọi Petro Popivod, gã nhà báo khù khờ ấy đến để ra chỉ thị mở chiến dịch báo
chí đả kích Tito, Stalin không nên từ chối trao công tác ám sát Tito cho những
đặc viên của Abakumov đã khổ công tuyển chọn chỉ vì lý lịch của bọn này không
mấy minh bạch. Lẽ ra Stalin phải tin mới phải. Kế hoạch ám sát Tito mà y đang
báo cáo đây là do chính Stalin đặt ra. Do đó y không thể biết chắc được kết quả
sẽ ra sao nhưng y vẫn cứ phải trả lời về sự thành công hay thất bại của kế
hoạch.
Nhưng Abakumov cũng biết rõ tính tình ông chủ của y. Y biết
người ta không nên làm việc hết mình cho Stalin, không nên trổ hết tài ba, bản lãnh
với Stalin. Stalin không chấp nhận thất bại nhưng cũng không chấp nhận cho
người khác thành công. Người khác càng thành công rực rỡ chừng nào càng bị
Stalin thù ghét và càng sớm chết chừng ấy. Sự thành công của người khác làm cho
Stalin cảm thấy giá trị cùng tài ba của mình kém đi. Không ai khác có quyền
thành công trừ Stalin. Với Stalin, chỉ có Stalin mới có thể thành công mà thôi.
Vì vậy, mặc dù luôn luôn tỏ ra cố gắng tận tình, Abakumov
thực sự chỉ làm nửa vời, tất cả mọi người khác cũng đều như thế.
Như ông vua Midas trong truyện Ngụ ngôn Thần thoại sờ tay
vào vật gì là vật đó biến ra vàng, Stalin làm cho tất cả biến thành tầm thường.
Nhưng đêm nay Abakumov thấy rằng nét mặt Stalin có vẻ tươi
lên khi nghe y báo cáo. Trình bày xong những chi tiết về kế hoạch ám sát Tito,
Abakumov chuyển ngay sang nhóm chống đối ở Trường Võ bị Frunze , rồi đến nhóm chống đối ở Trường Thần
học, y nói liên tiếp, nói tới tấp. Y tránh không nhắc đến hai tiếng điện thoại
và tránh nhìn cả vào chiếc máy điện thoại để cho Lãnh Tụ khỏi nhớ đến.
Nhưng Stalin đang nhớ…. Ngay lúc đó người đang nhớ đến một
chuyện gì đó và chuyện ấy có thể là giàn máy điện thoại đặc biệt. Trán người
nhăn lại vì nhiều nếp răn và gân mũi người chun lại. Người chiếu cặp mắt sắc
nhìn vào mặt Abakumov (ông Tổng trưởng làm ra vẻ thẳng thắn, lương thiện) nhưng
rồi người không nhớ được. Ý nghĩ mơ hồ trôi tuột đi trong óc người. Rồi những
nếp nhăn trên trán người mờ đi.
Stalin thở dài, nhồi thuốc vào tẩu và đốt hút.
- À,- người nói cùng với làn khói thở ra đầu tiên. Người đã
nhớ, nhưng mà là nhớ một chuyện khác chứ không phải chuyện Người muốn nhớ lại
hồi nãy.- Gomulka bị bắt chưa?
Mới đây Gomulka đã bị cách chức và lập tức rơi ngay vào vực
thẳm.
- Thưa, đã.
(Władysław Gomulka,
khi đó là 1 lãnh tụ đảng Cộng Sản Ba Lan)
Abakumov nói ra như người vừa trút được gánh nặng, y nhô
người trên ghế (việc bắt Gomulka đã được báo với Stalin, chắc là người chỉ hỏi
để kiểm soát). Bắt người là công tác dễ nhất trong những công tác mà Bộ An ninh
phải làm.
Ấn một nút điện trên bàn, Stalin bật sáng đèn phòng. Những
bóng đèn điện trong tường sáng lên. Stalin đi xa bàn viết và với tẩu thuốc thả
khói sau lưng, bắt đầu đi đi lại lại trong phòng. Abakumov hiểu rằng cuộc báo
cáo của y đã đến lúc Lãnh Tụ ra chỉ thị. Y mở quyển sổ ghi mới tinh để trên
lòng và rút viết máy ra chờ sẵn. Lãnh Tụ ưa thấy những chỉ thị của mình được
cẩn thận ghi lại.
Nhưng Stalin đi tới chỗ đặt giàn máy hát đĩa rồi đi trở lại,
vừa đi vừa hút thuốc, không có câu nào. Người như đã hoàn toàn quên Abakumov.
Khuôn mặt có làn da xám, điểm những vết sẹo đậu mùa của Stalin nhăn lại trong
một cố gắng nhớ lại thiểu não. Khi Người đi ngang mặt Abakumov, y nhìn thấy hai
vai Người gù xuống làm cho có vẻ thấp hơn, nhỏ bé hơn. Và – mặc dù Abakumov vẫn
sợ hãi gạt bỏ những ý nghĩ tương tự ra ngay khỏi óc, vì sợ có thứ máy móc bí
mật nào giấu trong tường ghi nhận được chăng – khi nhìn thấy Lãnh Tụ gù xuống
như thế, Abakumov nghĩ rằng Người chưa chắc đã sống được nổi mười năm nữa.
Người sắp chết. Abakumov mong mỏi cái chết của Người đến thật nhanh. Tất cả
những người sống gần Lãnh Tụ đều thầm nghĩ rằng sau khi Người chết, họ sẽ được
sống một đời tự do, dễ dãi và sung sướng.
Stalin cảm thấy khó chịu nhiều vì sự quên lãng này. Người
vừa nhớ rằng có một chuyện gì đó cần hỏi Abakumov nhưng không sao nhớ ra đó là
chuyện gì. Bộ óc của Người dường như đã từ chối không chịu làm việc. Trong cơn
bất lực, Stalin không biết phải ra lệnh cho phần óc nào làm việc để có thể nhớ
lại.
Bỗng dưng Stalin ngẩng đầu nhìn lên bức tường. Người vừa nhớ
lại một chuyện, nhưng chuyện này vẫn không phải là chuyện Người cần nhớ. Chuyện
nhớ lại đó có liên hệ đến Viện Bảo tồn Cách mạng. Ở Viện này từng xảy ra một vụ
làm cho Người khó chịu.
Vụ này xảy ra năm 1937, nhân lễ Kỷ niệm Cách mạng lần thứ
Hai mươi. Đó là thời gian Đảng đang bận rộn với việc diễn tả lại lịch sử, đem
lại cho những sự kiện lịch sử một ý nghĩa mới. Năm ấy Stalin đến Viện Bảo tồn
Cách mạng xem người ta có để ở đó vật nào phản cách mạng hay không. Trong một
căn phòng rộng – cũng là căn phòng bày giàn máy Tivi người vừa đứng lại coi hai
hôm trước đây – Stalin nhìn thấy khi vừa đặt chân vào hai bức họa chân dung lớn
treo ở bức tường trước mặt. Đó là chân dung của Zhelyabov và Perovskaya [1].
Hai khuôn mặt này hồn nhiên, hiên ngang, và họ như la lớn với tất cả những ai
bước vào phòng:
- Giết tên độc tài!
Stalin, bị tia nhìn của họ đánh trúng như hai viên đạn, đứng
sững lại, khúc khắc ho. Rồi ngón tay của Stalin đưa lên, điểm điểm vào hai tấm
chân dung.
Lập tức hai tấm họa đó được mang đi.
Cùng lúc đó di vật thứ nhất của cuộc Cách mạng – những mảnh
vụn còn lại của chiếc xe ngựa của Nga Hoàng Alexander Đệ nhị – được mang đi
khỏi Cung điện Kshesinskaya.
Từ ngày đó và ngay ngày đó, Stalin ra lệnh xây những hầm bí
mật và những nhà riêng ở khắp nơi. Người mất cái thích sống trong những khu
đông dân cư ở thành phố để về sống trong căn nhà nhỏ ở vùng ngoại ô hiu quạnh
này với bọn vệ sĩ, hầu cận thân tín nhất.
Càng làm mất cuộc sống của người chừng nào, Stalin càng lo
âu, sợ hãi về cuộc sống của chính mình. Người nghĩ ra nhiều biện pháp tinh vi
để đề phòng ngay cả bọn lính có nhiệm vụ canh gác bảo vệ an ninh cho người, như
việc những binh sĩ đến gác chỉ được biết trước phiên gác của mình một tiếng
đồng hồ, binh sĩ gác được tuyển từ khắp các đơn vị và được thay đổi luôn luôn
để tránh những cuộc âm mưu. Người tự vẽ lấy những tòa nhà đường đi rắc rối như
những mê cung, những tòa nhà có ba hàng rào bao quanh, có những khung cổng
thông thẳng với nhau. Và người có nhiều phòng ngủ ngay trong một nhà, ngay cả
bọn hầu cận cũng không thể biết trước đêm nay người sẽ ngủ ở phòng nào.
Với Stalin, những biện pháp đề phòng ấy không phải là triệu
chứng của sự khiếp nhược. Đó chỉ là những việc hợp lý cần làm. Giá trị cá nhân
của người vô giá. Nhưng có nhiều kẻ khác vẫn không biết như thế. Để cho đồng
đều tất cả, Stalin ra lệnh cho tất cả lãnh tụ lớn nhỏ dù ở bất cứ đâu cũng phải
đề phòng như thế: Người cấm họ không được vào nhà vệ sinh nếu không có vệ sĩ đi
theo, ra lệnh cho họ mỗi khi di chuyển phải có ba chiếc xe hơi giống hệt nhau chạy
nối đuôi nhau
Đêm nay, chợt nhớ lại hai bức họa chân dung, Stalin dừng lại
ở giữa phòng, quay lại nhìn Abakumov và múa tẩu thuốc trong không khí:
- Đồng chí đã làm những gì để bảo vệ an ninh cho những lãnh
tụ Đảng?
Nghiêng đầu hẳn về một phía, người nheo mắt nhìn vị Tổng
trưởng của người với vẻ hiểm độc.
Với quyển sổ ghi mở trên lòng, Abakumov ngồi thẳng lưng, mắt
nhìn lên Lãnh tụ – y không đứng lên, cũng không múa tay, vì y biết Stalin thích
thấy những thuộc viên ngồi im, y nói ngay vào những vấn đề y không hề chuẩn bị
tới đây để nói. Với Stalin, người được hỏi phải trả lời ngay và rõ ràng, đích
xác, người coi do dự là một bằng chứng tội trạng mà người nghi ngờ có ở kẻ được
người hỏi.
- Iosif Vissarionovich,- Abakumov nói bằng cái giọng xúc
động của kẻ trung thành mà bị chủ nghi oan,- đó chính là lý do sự hiện diện của
chúng tôi, tất cả Bộ chúng tôi, chúng tôi phải ngày đêm lo gìn giữ an ninh để
Lãnh tụ có thể yên tâm suy nghĩ đến những biện pháp dẫn đường cho dân tộc.
Stalin nói đến “an ninh của những lãnh tụ Đảng”, nhưng
Abakumov hiểu rằng Stalin chỉ muốn nói đến cá nhân mình và chỉ muốn nghe câu
trả lời liên can đến mình.
- Mỗi ngày tôi đều kiểm soát, bắt giam, tầm nã, thẩm vấn
không biết bao nhiêu là vụ…
Với cái đầu vẫn nghiêng như con gà gãy cổ, Stalin vẫn chăm
chú nhìn thẳng xuống mặt Abakumov:
- Vẫn còn những tên âm mưu ám sát, phá hoại sao? Bộ chúng
vẫn chưa sợ hay sao? - Lãnh Tụ hỏi.
Abakumov thở dài như người đang cay đắng nhất đời:
- Tôi rất muốn thưa là chúng đã sợ, đã hết dám. Nhưng sự
thật là vẫn còn. Chúng tôi bắt được những võ khí giấu ở trong bếp, ở cả các
chợ.
Stalin nhắm một mắt lại, mắt kia mở và sáng lên sự hài lòng.
Lãnh Tụ phán:
- Vậy là tốt. Việc đó chứng tỏ là các anh có làm việc.
Abakumov không còn có thể ngồi trước mặt Lãnh Tụ Vĩ Đại của
y lâu hơn nữa, y nhổm dậy, nhưng y vẫn không đứng thẳng người, y cúi khom khom
để cho đầu y khỏi cao hơn đầu lãnh tụ:
- Nhưng kính thưa Chủ tịch, chúng tôi không bao giờ để cho
những âm mưu đó có thể thành hình, chúng tôi bóp nát chúng khi chúng mới nhen
nhúm. Chúng chỉ mới có ý định là đã bị chúng tôi bắt rồi. Chúng tôi diệt chúng
theo tinh thần Điều luật số 19.
- Tốt, tốt lắm.
Stalin ra hiệu cho Abakumov ngồi xuống, người không thú vị
gì khi thấy tên hộ pháp ấy đứng sừng sững trước mặt.
- Như vậy tức là đồng chí nhận thấy có sự bất mãn trong quần
chúng?
Abakumov lại thở dài và trả lời như tiếc hận:
- Dạ. Tôi nhận thấy có một thiểu số nào đó.
Y rất muốn nói là: Không, hết thảy quần chúng đều hài lòng,
mọi người đều sung sướng. Nhưng nếu nói như vậy Bộ An ninh của y còn bày ra để
làm gì?
- Đồng chí nhận xét đúng đấy,- Stalin gật đầu.- Chỉ vì thế
mà các người ở Bộ An ninh còn có việc mà làm. Có nhiều người nói với tôi rằng
không còn ai bất mãn nữa, tất cả mọi người đều hài lòng.
Tới đây Lãnh tụ nở một nụ cười mỉa mai:
- Nói như thế là mù tịt về chính trị. Bọn kẻ thù của chúng
ta có thể luôn miệng nói… đồng ý, tán thành, chúng có thể hoan hô ta nhưng đó
là chúng giả dối, đó chỉ là chúng ẩn nấp trong những cái vỏ. Trong lòng chúng
vẫn chống đối. Chừng năm phần trăm? Đúng không, hay là tám phần trăm?
Stalin đặc biệt kiêu hãnh vì khả năng nhận thức sâu sắc của
mình, khả năng tự chỉ trích và sáng suốt trong mọi việc. Người cũng tự cho mình
là Lãnh Tụ Không Ưa Nịnh.
Abakumov trở thành can đảm hơn, đôi vành tai y không còn
bỏng rát nữa:
- Thưa Chủ tịch, sở dĩ còn tình trạng ấy là do lỗi của chúng
tôi. Chúng tôi chưa làm tròn bổn phận.
Stalin không công nhận nhưng cũng không phủ nhận lời nhận
tội đó. Người gõ nhẹ tẩu thuốc lên thành đĩa gạt tàn:
- Còn bọn trẻ? Đồng chí thấy sao?
Những câu hỏi theo nhau đến với Abakumov như những lưỡi dao
nhọn. Y phải làm sao hóa giải được những lưỡi dao ấy mà không bắt lấy cũng
không được né tránh. Chỉ một câu trả lời bậy là hỏng hết. Nếu y trả lời: “Bọn
trẻ có tinh thần tốt. Bọn trẻ hăng hái, bọn trẻ không có gì đáng trách”, đó là
y ngu ngốc, y mù tịt về chính trị, nếu y trả lời: “Bọn trẻ bậy bạ, lười biếng,
bọn trẻ chống đối”, đó là y không tin tưởng ở tương lai. Abakumov làm một cử
chỉ bằng tay và không nói gì cả.
Stalin cũng không chờ đợi y trả lời. Người nói bằng một
giọng biết chắc chắn, biết đúng:
- Chúng ta cần phải chú ý hơn nữa đến bọn trẻ. Phải đặc biệt
nghiêm khắc với những lỗi lầm của bọn trẻ.
Abakumov chợt nhớ và hí hoáy viết.
Stalin như bị lôi cuốn, bị thôi miên vì những ý nghĩ của
chính mình. Đôi mắt sáng lên một thứ ánh sáng như mắt cọp ban đêm. Stalin nhồi
thuốc vào tẩu và đi đi lại lại trong phòng:
- Chúng ta phải gia tăng việc kiểm soát tinh thần bọn sinh
viên. Không những chỉ cần diệt từng cá nhân mà thôi, phải diệt cả nhóm. Chúng
ta phải sử dụng đến tối đa những biện pháp trừng phạt mà luật pháp cho phép ta
- hai mươi lăm năm tù chứ không phải là mười năm. Mười năm tù - đó là chúng đi
học chứ không phải là đi tù. Bọn thiếu niên có thể được hưởng án mười năm nhưng
tên nào có râu là phải tù hai mươi lăm năm. Chúng nó còn trẻ, chúng nó có thể
sống sau đó.
Abakumov viết như máy. Bánh xe đầu tiên trong một guồng máy
vĩ đại vừa được quay.
- Đã đến lúc phải chấm dứt những tiện nghi trong những nhà
giam chính trị phạm. Chúng đi tù chứ không phải chúng đi nghỉ mát. Beria cho
tôi biết những gói thực phẩm vẫn còn được phép gửi từ ngoài vào những nhà giam
chính trị phạm. Đúng không?
- Chúng tôi sẽ chấm dứt ngay tình trạng ấy. Chúng tôi sẽ
cấm. Tuyệt đối cấm.
Abakumov nói với một giọng đau đớn trong khi tay y vẫn viết.
Lẽ ra y phải biết chấm dứt tình trạng đó trước, y phải cấm từ trước.
- Đó là lỗi của chúng tôi. Xin tha lỗi cho chúng tôi.
- Biết bao nhiêu lần tôi đã giải thích kỹ những gì phải làm
cho các người? Đã đến lúc các người phải hiểu. Đừng có bất cứ cái gì cũng chờ
tôi ra lệnh.
Người khiển trách nhưng người không giận dữ. Người dịu dàng
khuyên răn vì người biết rằng Abakumov sẽ hiểu, sẽ làm được việc. Đã lâu lắm
rồi Abakumov mới lại được đấng Từ Phụ dạy bảo như thế. Y đã hết hẳn sợ hãi. Bộ
óc y hoạt động như bộ óc của một người thường trong một trường hợp rất thường,
với những điều kiện thường. Và vấn đề từ lâu đã ám ảnh y, làm cho y khổ sở như
cục xương mắc nghẹn trong cổ họng, giờ đây được diễn tả thành lời.
Khuôn mặt sáng lên Abakumov nói:
- Thưa, chúng tôi hiểu. Cuộc đấu tranh giai cấp sẽ được đẩy
mạnh hơn nữa. Nhưng thưa chủ tịch, xin chủ tịch xét lại cho, tay chúng tôi bị
trói chặt vì việc bãi bỏ án tử hình. Chúng tôi như những kẻ lao đầu vào tường
từ hai năm rưỡi nay. Bây giờ chúng tôi không còn được quyền công khai xử tử
những tên đáng phải chết nữa. Chúng tôi phải giết chúng. Không có ngân khoản
nào để thanh toán tiền công cho những người làm việc ấy. Việc trả tiền trở
thành rắc rối. Các trại tập trung, những nhà giam không còn làm cho họ sợ nữa.
Chúng tôi cần có án tử hình. Xin cho lại chúng tôi án tử hình!
Abakumov van xin với tất cả sự chân thành, y đặt hai tay
trước ngực và ánh mắt tràn đầy hy vọng, nhìn lên khuôn mặt khô khan của Lãnh
Tụ.
Dường như là Stalin mỉm cười – mỉm cười nhưng không để lộ,
chỉ hàng ria là rung động. Và Người nói thản nhiên, thông cảm:
- Tôi biết. Tôi đã suy nghĩ nhiều về chuyện ấy.
Kỳ diệu, tuyệt vời. Người biết tất cả mọi việc, Người suy
nghĩ đến tất cả mọi vấn đề. Ngay cả trước khi người khác hỏi đến, Người đã
biết. Người như một vị thánh sống, như bậc đại giác, đại trí tuệ, người biết
trước ý nghĩ của kẻ khác.
- Sẽ có ngày tôi trả lại cho các người án tử hình. Cũng
không lâu lắm đâu.- Người nhìn thẳng ra trước mặt với vẻ suy tư, như người đang
nhìn vào tương lai.- Việc đó sẽ là một biện pháp giáo dục tốt.
Quả thật người đã suy tư nhiều lắm về vấn đề này. Trong vòng
hai năm trở lại đây Người đã khổ tâm nhiều với việc thi đua xây dựng xã hội với
Tây phương. Người từng tin tưởng rằng con người không đến nỗi quá tồi tệ, quá
sa đọa.
Quan niệm sau đây là đặc tính của Người: Loại trừ, tẩy chay
cho đi đày, bỏ tù chung thân vẫn chưa đủ để đối phó với những kẻ bị Người coi
là thành phần nguy hiểm. Chỉ có cái chết, chỉ có giết đi mới có thể trừ tiệt
được tai họa tận gốc. Và khi mí mắt Người rung động, án lệnh ánh lên trong mọi
người là án tử hình. Bao giờ cũng là án tử hình.
Ở kích thước của Người không thể có tội nào nhẹ hơn là tội
phải chết. Không có sự trừng phạt nào thấp hơn là phải giết.
Từ khoảng không sáng rỡ mắt Người đang nhìn, Người chuyển
đôi mắt về bộ mặt nở nang của Abakumov và bỗng dưng, mắt Người nheo lại, đe
dọa:
- Anh không sợ anh là người thứ nhất sẽ bị bắn sao?
Người không nói lớn tiếng “bắn”. Người để nó rơi nhẹ qua
vành môi như đó là một tiếng cố ý bắt người nghe phải đoán.
Nhưng tiếng đó xoáy vào da thịt Abakumov như một luồng gió
mạnh. Vị Lãnh Tụ Anh Minh và Duy Nhất đứng đủ xa tầm tay của Abakumov và chăm
chú nhìn vào mặt y xem phản ứng của y với câu hỏi đùa này ra sao.
Không dám đứng lên nhưng cũng không còn dám ngồi, Abakumov
nửa đứng nửa ngồi, toàn thân y lom khom trên cặp giò đang run.
- Iosif Vissarionovich, nếu tôi đáng bị…. Nếu cần…
Stalin nhìn, thông cảm sâu sắc. Ngay lúc này, óc Người đang
nghĩ trở lại sự thắc mắc hồi nãy: Đã đến lúc mình cần thanh toán tên này chưa?
Từ lâu rồi Người vẫn sử dụng phương sách thâm độc tuyệt vời là: Trước hết
khuyến khích kẻ khác làm tới, và sau đó, chờ đúng lúc, kết tội kẻ khác đã đi
quá mức, làm quá trớn. Người từng áp dụng thủ đoạn này nhiều lần và lần nào
cũng hữu hiệu, cũng thành công. Như vậy nghĩa là đến một lúc nào đó nhất định
Abakumov cũng sẽ phải chịu chung số phận với những kẻ bị trừng phạt.
- Đúng lắm,- Stalin nở nụ cười đầy thiện cảm như để ca ngợi
Abakumov.- Khi nào anh đáng bị, chúng tôi sẽ bắn anh.
Người lại ra hiệu cho Abakumov ngồi xuống, Người suy nghĩ
một lúc rồi bằng một giọng ấm áp, thân thiện mà Tổng trưởng Bộ An ninh chưa
từng bao giờ được nghe thấy Người nói:
- Abakumov. Anh sắp có nhiều việc phải làm. Chúng ta sẽ phát
động một chiến dịch thanh trừng cũng lớn rộng như năm 1937. Trước một cuộc
chiến tranh lớn, một cuộc thanh trừng lớn là cần thiết.
- Nhưng thưa Chủ tịch,- đây là lần thứ nhất Abakumov dám
thốt ra tiếng “nhưng”,- Chủ tịch nghĩ rằng chúng tôi đã ngừng thanh trừng tụi
kẻ thù hay sao?
- Anh gọi đó là thanh trừng ư? Bậy. Thanh trừng đâu phải là
việc bắt bớ lẻ tẻ mỗi ngày vài chục tên. Rồi anh sẽ thấy, chúng ta phải củng cố
tổ chức, kiện toàn nội bộ. Anh sẽ có thêm nhân viên, thêm ngân khoản. Đủ thứ.
Tôi sẽ không từ chối anh bất cứ cái gì.
Rồi người buông thả Abakumov bằng câu:
- Xong rồi, đi đi…
Abakumov không biết rõ là y đi bằng hai chân hay y bay ra
khỏi văn phòng, qua phòng đợi, đỡ cái cặp da trong tay Poskrebychev và ra khỏi
nhà. Không những là y còn được sống yên lành trong một tháng trời nữa mà thôi,
cuộc hội kiến đêm nay dường như là đã mở đầu một kỷ nguyên rực rỡ mới trong đời
y, dường như y vừa được Lãnh tụ tỏ ý tin cẩn và thương mến hơn ai hết.
Lãnh tụ có nói đến chuyện bắn y – nhưng đó chỉ là Lãnh tụ
nói đùa.
-----------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét