Aleksandr
Isaevich Solzhenitsyn (sinh 1918), nhà văn Nga, giải thưởng Nobel Văn chương
1970.
Ngôi nhà của
Matriona là một trong những truyện nổi tiếng nhất của ông.
Phần 1
Tại km 184 tuyến đường sắt Matxcơva - Murom và
Kazan, có đến hơn nửa năm sau ngày xảy ra sự cố, tất cả các chuyến tàu đều giảm
tốc, chạy thật chậm. Hành khách cứ dán mũi vào cửa kính, kéo ra cửa lên xuống:
đang sửa đường hay sao vậy? Hay tàu chạy sai giờ?
Không. Qua khỏi đoạn đường này, tàu lại bắt đầu tăng
tốc, hành khách trở về chỗ. Riêng cánh lái tàu là biết rõ ngọn ngành. Và cả tôi
nữa.
Mùa hè 1956, từ sa mạc nóng bỏng và bụi bặm, tôi trở
về nước Nga mà chưa biết đi đâu. Chẳng một nơi nào trên đất nước có người đang
đợi hay vẫy gọi tôi - tôi biệt tích đã mười năm. Tôi đơn giản muốn về miền
Trung cho đỡ nóng, có tiếng lá rừng xào xạc. Những muốn đi, đi mãi để rồi mất
hút vào nơi sâu kín nhất của nước Nga, nếu có nơi nào như vậy.
Một năm trước ngày xảy ra sự cố, ở bên này dãy Ural,
tôi không kiếm được việc làm, chẳng lẽ lại đi làm phu phen tạp dịch. Đến một
chân thợ điện ở một công trường tử tế cũng đừng hòng xin được. Thực lòng tôi
chỉ muốn đi dạy học. Những người am hiểu bảo tôi đừng phí công đi lại, mất tiền
tàu xe vô ích.
Nhưng rồi cũng có chuyển biến. Lên hết cầu thang
Phòng Giáo dục Nhân dân tỉnh..., tôi hỏi thăm Phòng Tổ chức và ngạc nhiên khi
thấy cán bộ ở đây không ngồi bên trong cánh cửa bọc da màu đen mà lại ngồi sau
vách kính như trong hiệu thuốc. Tôi rụt rè đến bên ô cửa, cúi xuống hỏi:
- Anh cho biết Phòng có cần giáo viên dạy toán ở một
trường nào cách xa đường sắt không? Tôi muốn định cư luôn ở một nơi như vậy.
Người ta soát xét từng câu từng chữ trong hồ sơ của
tôi, chạy hết phòng này sang phòng khác và gọi điện đi đâu đó. Kể cũng là sự lạ
ở đây: ai cũng cố xin về thành phố, nhất là thành phố lớn, càng lớn càng hay.
Và tôi được xếp luôn một chỗ: Đồng Cao. Riêng cái tên cũng đã làm tôi vui
sướng.
Cái tên đã không đánh lừa tôi. Trên một ngọn đồi nằm
giữa những khe nước nhỏ, rồi lại những ngọn đồi nhỏ khác, có rừng vây quanh,
bên một đầm nước và một con đập nhỏ, Đồng Cao chính là nơi mà sống chết đều rất
đỗi thanh bình. Tôi đã ngồi rất lâu trên một gốc cây rừng và ước chi ngày ngày
không cần ăn sáng ăn trưa, miễn sao được lưu lại nơi này, đêm đêm nghe tiếng
cành lá xào xạc trên mái nhà, không bao giờ nghe thấy tiếng loa đài từ bất cứ
đâu và tất cả thế gian đều im lặng.
Nhưng than ôi, ở đây người ta không sản xuất bánh
mì! Không buôn bán thực phẩm! Cả làng phải lên tận thị xã khuân về hàng bao tải
đồ ăn thức uống.
Tôi quay lại Phòng Tổ chức để nài nỉ bên ô cửa nhỏ.
Thoạt tiên người ta còn không muốn tiếp chuyện tôi nữa. Nhưng rồi họ lại chạy
hết phòng này phòng nọ, gọi điện, than phiền và cuối cùng, đánh máy vào Lệnh
điều động của tôi: “Torfoproduct”.(1)( Ở
đây hai từ sản phẩm (product) và than bùn (torfo...) được viết liền để tạo địa
danh, một lối “sản xuất” từ hơi “mới”).
Torfoproduct? Chữ nghĩa như thế thì đến Turghenev
cũng chào thua!
Tại ga xép Torfoproduct, ngay trước cái lán gỗ sơ
sài có treo tấm biển quy định dứt khoát:
“Chỉ lên tàu từ ga chính”. Bên cạnh là dòng chữ vạch
thêm bằng mũi đinh: “Và miễn vé”.
Còn ở quầy vé, cũng với cái cười chua chát như vậy
là dòng chữ khắc hẳn bằng dao: “Không có vé”. Sau này tôi mới hiểu được ý tứ
thâm trầm của những phụ đề trên. Đến Torfoproduct thì dễ, nhưng đi thì khó đấy.
Ở vùng này cũng đã từng ngự trị những cánh rừng vắng
lặng, thâm u, sau cách mạng vẫn còn nguyên. Rồi rừng bị tàn phá bởi bàn tay của
đạo quân khai thác than bùn và một nông trang tập thể kế bên. Chủ tịch nông
trang là Gorscov đã đốn trụi nhiều hecta rừng, đem gỗ xuống tỉnh Odessa bán hái ra tiền,
nông trang nhờ đó mới phất lên.
Giữa những khu đất thấp ở Torfo đã hình thành một
khu lao động lộn xộn gồm những lán gỗ đơn điệu, vách trát thô sơ, mẫu nhà ở
thịnh hành vào những năm ba mươi và những ngôi nhà nhỏ có chạm trổ ở mặt tiền,
vách hiên lắp kính - mẫu nhà thập kỷ năm mươi. Nhưng trong nhà lại không có
vách ngăn chạm trần nên tôi chẳng tìm đâu ra được một chỗ trọ kín đáo.
Bên trên khu lao động, khói nhà máy bốc lên nghi
ngút. Cắt ngang khu là một dải đường sắt khổ hẹp, và những chiếc đầu máy cũng
phụt khói mù mịt, rú còi inh ỏi, kéo những toa tàu chở than bùn đóng bánh màu
nâu tái vùn vụt lao đi. Rất có thể tối nay, bên trên cửa sổ ra vào câu lạc bộ,
tiếng máy quay đĩa lại ầm vang, còn dọc phố thì những gã say mặc sức làm trò,
kể cả nói chuyện với nhau bằng đao búa.
Tôi lại mơ về một góc khuất của nước Nga. Phải chăng
ở nơi tôi vừa từ bỏ ấy, tôi đã có thể sống trong một túp khata (2) bằng đất nện, ngoảnh mặt ra sa mạc.
Ở đó đêm về gió thật trong lành tươi mát, và chỉ một trời sao rộng mở trên đầu.
(Kiểu nhà phổ
biến trước đây của nông dân ở Ucraina, Belaruxia và miền Nam nước Nga)
Trên chiếc ghế dài trong ga, tôi không tài nào chợp
mắt được. Trời hửng sáng là tôi đã cất bước tha thẩn trong khu lao động. Tôi
gặp một cái chợ rất nhỏ. Có mỗi một người đàn bà đứng bán sữa lúc tinh mơ. Tôi
uống ngay một chai.
Giọng nói của người phụ nữ khiến tôi sửng sốt. Nó
ngân nga như hát, còn lời lẽ của chị lại khiến tôi nhớ về châu Á xa xôi.
- Uống đi à, uống đi cho ngọt cho ngon. Bộ anh từ
đâu đến phải không?
- Thế chị người ở đâu? - Tôi tươi tỉnh hẳn lên.
Và rồi tôi được biết quanh đây không phải ai cũng là
thợ mỏ than bùn, rằng bên kia đường sắt có một gò cao, bên kia gò cao là một
ngôi làng, đó là làng Talnovo cổ kính từ thời Zigan phu nhân với những cánh
rừng hùng vĩ. Tiếp đó là làng mạc trải dài: Tsaslisy, Ovintxy, Xputni,
Severtni, Sestimirovo - càng ra xa đường xe lửa, thôn làng càng hẻo lánh hơn
cho đến tận vùng hồ.
Những tên đất tên làng vang lên bên tai tôi như
những lời an ủi. Những địa danh đã gieo vào lòng tôi niềm hy vọng còn tìm lại
được một nước Nga có tự bao giờ.
Tôi nhờ người phụ nữ mới quen hễ bán xong hàng thì
dẫn tôi đến Talnovo và tìm giúp một nơi ở trọ.
Tôi là khách sộp rồi thôi: ngoài lương bổng ra, nhà
trường còn hứa cho tôi một ôtô than bùn để chống chọi với ngày đông tháng giá.
Vẻ lo lắng vừa xóa đi những nét dịu dàng trên gương mặt chị bỗng tiêu tan. Vợ
chồng chị hiện nay còn phải chăm sóc mẹ già cao tuổi nên nhà không có chỗ cho
thuê, chị đưa tôi đi khắp các nơi trong họ ngoài làng. Nhưng rồi cũng không sao
tìm được chỗ kín đáo, đâu đâu cũng ồn ào chật chội.
Chúng tôi đi mãi đến một con sông nhỏ, nước đã cạn
khênh, có cầu bắc qua. Khắp làng chưa thấy ở đâu có cảnh sắc nên thơ đến thế:
vài ba cây liễu, một ngôi nhà cũ kỹ, vịt tung tăng bơi lội dưới ao, mấy con
ngỗng kéo đến bên bờ, giũ lông giũ cánh.
- Chúng ta ghé vào nhà bà Matriona một tí vậy, - người
dẫn đường của tôi chừng như đã nản. - Nhà này thì chẳng được gọn gàng đâu, bà
ấy có một mình, lại còn đau ốm nữa.
Nhà bà Matriona ở ngay gần đấy, mái hai độ dốc, lợp
ván, một dãy bốn cửa sổ nhỏ ở phía sau và một cửa sổ trang trí nhỏ trên gác
thượng, ngay dưới một tầng nóc con con. Nhà cao đến mười tám súc gỗ tròn, nhưng
mái đã mục, những súc gỗ vốn chắc khỏe ở vách nhà và cổng chính đều bạc phếch
bạc phơ, nẹp gỗ cũng bong dần.
Cánh cổng đã cài then, nhưng người dẫn đường của tôi
không gõ cửa mà luồn tay vào kéo then ra - cổng đóng chỉ để ngăn súc vật và
người lạ thôi mà. Sân thì không có mái che nhưng nhà thì có nhiều phần, đều gắn
kết với nhau, có mái tiếp nối. Vào nhà qua cửa chính, khách gặp ngay những bậc
thang dẫn lên các nhà cầu rộng rãi có mái che cao. Bên trái có cầu thang dẫn
lên nhà phụ - một gian tách biệt không có lò sưởi, và cầu thang dẫn xuống các
buồng kho. Bên phải là nhà chính có gác bên trên và hầm bên dưới.
Ngôi nhà được cất từ lâu, rộng rãi đàng hoàng, dành
cho cả một gia đình lớn, vậy mà giờ đây chỉ còn mỗi một bà già cô đơn đã lục
tuần.
Khi tôi bước vào nhà thì bà đang nằm trên bệ chiếc
lò sưởi Nga ngay cạnh cửa chính, trên người đắp một tấm vải rách nhem nhuốc,
không rõ vải gì nhưng chắc chắn là đồ bỏ đối với người làm ăn tử tế.
Ngôi nhà khá rộng và đặc biệt là phần sáng sủa cạnh
cửa sổ có đặt những chậu cây cảnh bằng gốm, bằng gỗ trên những chiếc ghế đẩu,
ghế dài. Chúng khỏa lấp nỗi cô đơn của bà chủ bằng cả một đám đông câm lặng
nhưng tràn đầy sức sống. Chúng góp nhặt từng tia sáng nghèo nàn bên hướng bắc
mà vươn lên tươi tốt. Từ sau ống khói lò sưởi, trong ánh chiều tà, khuôn mặt
bầu bầu của bà chủ hiện ra rõ ràng, đau đớn trước mắt tôi. Qua ánh mắt mờ đục
của bà, tôi có thể thấy được bệnh tật đã làm bà kiệt sức.
Tiếp chuyện khách, bà vẫn cứ nằm sấp trên bệ bếp lò,
không kê gối, đầu hướng ra cửa, còn tôi đứng ở phía dưới. Bà không tỏ vẻ vui
mừng khi có người đến thuê nhà mà chỉ than phiền về căn bệnh quái ác mà lúc này
bà vừa mới dứt cơn đau: không phải tháng nào bà cũng đau, nhưng mỗi lần đau -
... là cứ phải hai ba ngày, mà lúc đã nằm bẹp một nơi thì còn lo chuyện ăn uống
cho anh thế nào được nữa. Còn nhà cửa thì tôi nào có tiếc, anh đến ở càng vui.
Bà mách tôi tìm đến những nhà có chỗ ở tiện hơn, đỡ
phiền toái cho tôi hơn. Nhưng tôi đã thấy cái số tôi là phải ở trong ngôi nhà
này, ngôi nhà tối tăm có chiếc gương mờ soi không rõ mặt, hai tờ áp phích sặc
sỡ rẻ tiền quảng cáo bán sách và cổ động cho vụ gặt treo trên tường với mục
đích trang trí. Tôi còn thích ở đây vì Matriona quá nghèo không có máy thu
thanh, quá cô đơn chẳng có người trò chuyện.
Và mặc dù Matriona Vaxilievna đã bắt tôi đi khắp
làng, khi tôi quay lại còn một mực thác:
- Tôi vụng lắm, chả biết nấu nướng gì cả thế này thì
phục dịch làm sao? - Nhưng bà đã xuống đón tôi, thậm chí còn sáng mắt lên khi
thấy tôi quay lại.
Chúng tôi đã thỏa thuận với nhau về giá cả, về khoản
than bùn mà nhà trường sẽ cho chở đến.
Mãi sau này tôi mới được biết là đã nhiều năm nay
Matriona Vaxilievna chẳng kiếm được rup nào. Bà không có lương hưu. Họ hàng
thân thích trợ giúp chẳng được là bao. Ở nông trang tập thể thì đi làm chỉ lĩnh
thẻ, làm gì có tiền. Thẻ công nhật được gã thống kê vào sổ ở một cuốn sổ chấm
công nhem nhuốc.
Vậy là tôi đến trọ ở nhà Matriona Vaxilievna. Chúng
tôi không ngăn buồng. Giường của bà đặt ở một xó cửa cạnh bếp lò, còn tôi thì
mở chiếc giường gấp ra bên cửa sổ và dồn gọn đám cây cảnh con cưng của Matriona
lại, dành một phần ánh sáng cho chiếc bàn con kê dưới một cửa sổ khác. Điện
trong làng đã được kéo từ Satura tới từ những năm hai mươi. Báo chí hồi đó gọi
đèn điện là “đèn của Ilits”, còn cánh mugic thì cứ trố mắt ra kêu “Lửa Sa
hoàng!”.
Có thể đối với dân giàu có trong làng thì ngôi nhà
của Matriona chẳng nghĩa lý gì nhưng đối với chúng tôi thì nhà khá tốt vào cả
mùa thu lẫn mùa đông năm ấy: có mưa nhà vẫn không bị dột, gió buốt thì gần về
sáng mới phụt ra từ miệng bếp lò, kể cả những ngày gió thổi từ phía thời tiết
đang cơn tệ hại.
Ngoài Matriona và tôi, trong nhà còn có một con mèo,
một lũ chuột, gián.
Con mèo cũng đã già, nhưng điều đáng nói là nó thọt
một chân. Matriona thương tình nhặt nó về và nó cũng đã quen. Nó thì vẫn đi bốn
chân nhưng là đi tập tễnh đến vẹo cả người: nó gượng nhẹ cái chân đau. Khi nó
nhảy từ trên bệ lò sưởi xuống sàn nhà thì tiếng động phát ra không nhẹ không êm
như tiếng mèo nhảy mà là một tiếng đập mạnh của cả ba chân một lúc:
Hập! - Tiếng đập mạnh đến nỗi tôi phải giật mình,
chưa quen ngay được. Những lúc đó cả ba chân nó dộng xuống sàn, chân thứ tư co
lại.
Nhưng nhà có chuột không phải vì mèo què không bắt
được chuột: nó lao như tên bắn vào đám chuột trong góc và tha ngay ra một con,
cắn chặt giữa hai hàm răng. Nhưng mèo không làm gì được chuột vì không biết tự
bao giờ, vị chủ nhân phong lưu nào đó đã dán lên vách nhà Matriona loại giấy
bồi tường màu xanh lá mạ, có rãnh, mà không chỉ một lớp - những năm lớp liền.
Các lớp giấy thì dính chặt vào nhau, riêng lớp dán vào vách thì nhiều chỗ bị
bong keo, tạo nên một lớp áo của vách nhà. Giữa những súc gỗ làm vách và giấy
bồi tường, chuột tạo cho chúng những lối đi và ngang nhiên chạy loạt soạt. Con
mèo đưa mắt giận dữ dõi theo tiếng loạt soạt kia, nhưng chẳng làm gì được.
Thỉnh thoảng mèo cũng ăn cả gián, nhưng rồi nó chán.
Cái duy nhất mà lũ gián còn nể trọng là giải phân cách giữa miệng chiếc lò sưởi
Nga và nhà bếp với nhà trên. Gián không bò lên nhà trên. Ngược lại trong nhà
bếp, gián nhung nhúc cả đêm. Những lần đêm khuya tôi xuống bếp uống nước, cứ
bật đèn lên là thấy hầu như toàn bộ mặt sàn, mặt ghế và thậm chí mặt vách hiện
lên dưới một màu cánh gián lấp la lấp lánh. Tôi mang borac từ phòng hóa nghiệm
về trộn với bột để trừ gián. Gián giảm đi, nhưng Matriona lại sợ chết mất mèo.
Chúng tôi ngừng rắc thuốc, gián lại sinh sôi nảy nở.
Đêm đêm, khi Matriona đã ngủ, còn tôi ngồi bên bàn
thì tiếng chuột chạy nhanh thỉnh thoảng vang lên sột soạt cũng chìm đi trong
tiếng gián lạo xạo lào xào dưới bếp nghe như tiếng sóng biển rì rào từ xa vọng
tới. Nhưng tôi đã quen với bản hợp âm này vì trong đó có gì là độc ác và giả
trá đâu. Tiếng lạo xạo của gián là sự sống của loài vật mà thôi.
Và tôi cũng đã quen với người đẹp kệch cỡm trên tờ
áp phích suốt ngày lẳng lặng chìa ra trước mặt tôi những trước tác của
Belinxki, Panfiorov và cả một chồng sách gì đó nữa. Tôi đã quen với tất cả
những gì hiện hữu trong ngôi nhà của Matriona.
Matriona thường dậy vào bốn, năm giờ sáng. Chiếc
đồng hồ quả lắc của Matriona đã được hai mươi bảy năm kể từ ngày mua ở cửa hàng
hợp tác xã tiêu thụ. Nó thường xuyên chạy nhanh nhưng Matriona không hề áy náy:
còn hơn là chạy chậm, sáng ra rất dễ muộn giờ. Bà bật ngọn đèn con dưới bếp lên
rồi rón rén, nhẹ nhàng để khỏi phát ra tiếng động, bà nhóm lò, đi vắt sữa dê
(gia súc của bà có độc một con dê cái sừng con lông màu trắng đục thôi), sau đó
đi lấy nước và nấu ăn bằng ba cái nồi gang: một cho tôi, một cho bà và một cho
dê. Bà lấy khoai tây dưới hầm nhà lên, chọn những củ bé nhất cho dê, bé vừa cho
mình, khoai của tôi bằng quả trứng gà. Khoai nhà trồng chẳng bao giờ được to
củ: đất thì đất cát, từ những năm trước chiến tranh đến giờ vẫn chẳng có phân,
chỉ trồng khoai tây hết năm này sang năm khác.
Tôi hầu như không nghe thấy tiếng động nào từ trong
bếp. Mùa đông tôi dậy muộn, mãi mới vươn người, thò đầu ra khỏi chăn và áo
lông. Hai chân còn được đắp thêm một chiếc áo bông dã chiến, giường trải đệm
rơm. Bao nhiêu thứ đã ủ ấm cho tôi ngay giữa những đêm băng giá từ phương bắc
tràn xuống áp đảo những chiếc cửa sổ tồi tàn của chúng tôi.
Nghe tiếng động nhẹ từ phía sau vách bếp, lần nào
tôi cũng cất tiếng chào khe khẽ:
- Chúc buổi sáng tốt lành, Matriona Vaxilievna!
Và bao giờ tôi cũng được đáp lại bằng chính lời chúc
đó, bắt đầu bằng tiếng ậm ừ trầm ấm như tiếng những người bà trong cổ tích:
- Ừ, ừ... tôi cũng chúc anh như vậy!
Và một lát sau:
- Bữa sáng có rồi đấy.
Bữa sáng có những gì thì bà không nói, nhưng cũng dễ
đoán thôi: khoai tây luộc hoặc xúp khoai tây, không thì cháo đại mạch (năm ấy ở
Torfoproduct không thể mua được các loại ngũ cốc khác và ngay cả đại mạch người
ta cũng tranh nhau khuân hàng bao tải về nuôi lợn, loại lương thực rẻ tiền mà).
Các món không phải lúc nào cũng được nêm muối vừa vặn, thường bị quá lửa, tôi
thường bị cặn bám chân răng và rát cổ.
Nhưng lỗi không phải ở Matriona: ở Torfoproduct
không có bơ, dầu thực vật thì khách hàng phải tranh nhau, chỉ có mỡ hỗn hợp là
sẵn. Hơn nữa, theo quan sát của tôi, cái bếp lò Nga không thật đắc dụng trong
nấu nướng, nhiệt từ các phía tiếp cận chiếc nồi gang không đều đặn. Nhưng có lẽ
nó đã đến với tổ tiên chúng ta từ thời đồ đá vì chỉ cần nhóm một lần là lò cháy
suốt đêm, giữ được đồ ăn thức uống nóng suốt cả ngày cho người và gia súc. Ngủ
cạnh bếp lò thì ấm.
Tôi ngoan ngoãn chén hết các món được chế biến cho
mình, chịu khó nhặt bỏ rác rưởi chẳng may lẫn vào, chẳng hạn một sợi tóc, mẩu
than bùn, cái cẳng gián. Tôi không dám trách Matriona. Nói cho cùng, chính bà
đã chặn trước: “Tôi vụng lắm, chả biết nấu nướng gì cả thế này thì phục dịch
làm sao?”
- Cám ơn bà, - tôi nói rất chân thành.
- Có gì mà cám ơn? Vì anh đối tốt với tôi ư? - Nụ
cười rạng rỡ của bà đã khiến tôi quên hết những điều nhỏ nhặt. Rồi bà đưa cặp
mắt màu xanh nhạt nhìn tôi, vẻ thật thà: - Nào, anh ăn gì vào bữa sau nào?
Bữa sau đây là bữa tối! Hàng ngày tôi vẫn ăn hai bữa
như ở ngoài mặt trận. Thì cũng chỉ là các món khoai tây.
Tôi cam chịu cảnh này, vì cuộc sống đã dạy tôi rằng
ý nghĩa của sự tồn tại hàng ngày không nằm ở miếng ăn. Đối với tôi, điều đáng
quý hơn chính là nụ cười kia - nụ cười hiển hiện trên gương mặt bầu bầu của
người phụ nữ kia, nụ cười mà rút cục tôi đã không tài nào ghi lại được bằng máy
ảnh. Trước con mắt lạnh lùng của chiếc ống kính đang chĩa thẳng vào mình, dáng
vẻ của Matriona rất khác, không gượng gạo thì cũng ra điều nghiêm nghị.
Duy mỗi một lần tôi ghi lại được hình ảnh bà đang
nhìn qua cửa sổ xuống đường, cười rất tự nhiên.
Mùa thu năm ấy Matriona có lắm chuyện bực mình. Số
là mới có chế độ hưu bổng mới, chị em hàng xóm cứ khuyên bà cố gắng xin trợ
cấp. Bà là người hoàn toàn không nơi nương tựa, vậy mà mới bắt đầu ốm nặng, đã
bị nông trang tập thể thải hồi. Matriona phải chịu quá nhiều nỗi bất công: bà
bị bệnh như thế mà vẫn không được coi là người mất sức; bà đã làm việc ở nông
trang đến một phần tư thế kỷ nhưng chỉ người làm việc ở nhà máy mới được hưởng
lương hưu. Như vậy bà chỉ còn biết đi xin tiền tuất của chồng: gia đình bà bị
mất người lao động chính, người nuôi dưỡng gia đình. Nhưng chồng bà đã mất mười
hai năm rồi, ngay từ hồi đầu chiến tranh, thành thử bây giờ mà đi xin chứng
nhận về ngạch bậc của ông ở những đơn vị khác nhau là rất khó. Vấn đề đặt ra là
phải xin được đủ giấy tờ có ghi rõ mức lương, dù chỉ 300 rup/tháng; lại phải có
giấy chứng nhận về tình trạng không nơi nương tựa của bà; rồi giấy khai sinh;
sau đó mang đủ giấy tờ lên Phòng Bảo hiểm xã hội; rồi còn phải làm lại giấy tờ
vì sai sót. Nộp xong giấy còn phải đi lại hỏi thăm kết quả.
Công việc khó khăn ở chỗ Phòng Bảo hiểm xã hội cách
nhà bà đến 20 km về phía đông, Xô viết xã - 10 km về phía tây, Xô viết khu -
một giờ đi bộ về phía bắc. Bà đã chạy khắp các văn phòng hai tháng, tốn nhiều
thời gian vào thủ tục nhiêu khê. Mỗi bận bị mất đứt một ngày. Đến Xô viết xã
thì hôm nay thư ký đi vắng - đi vắng là đi vắng, vậy thôi, ở các xã bao giờ chả
thế. Vậy thì hôm sau lại đến. Bấy giờ thư ký có mặt nhưng lại không mang dấu
đến.
Hôm sau nữa vậy. Nhưng lại đành để đến hôm khác vì
giấy vẫn chưa xong, bị ký nhầm sang giấy khác - giấy tờ của Matriona ghim cả
thành một tệp mà.
- Họ hành tôi quá xá, Ignatitr ạ, - bà than phiền
với tôi sau bấy nhiêu phen công cốc công cò.
- Mất bao công sức!
Nhưng bà cũng chỉ nhăn nhó một lúc thôi. Tôi đã phát
hiện ra phương thuốc đặc hiệu giúp bà lấy lại khí thế, ấy là công việc. Có chán
chường thất vọng đến đâu thì rồi cũng ngay sau đó, hoặc là vớ lấy cái xẻng đi
dỡ khoai tây, hoặc kẹp lấy cái bao tải vào nách đi kiếm than bùn, không thì
xách cái giỏ đan đi sâu vào rừng hái quả kim anh, việt quất... Công việc xong
xuôi, Matriona khẽ cúi chào tạm biệt, nhưng không phải là tạm biệt những chiếc
bàn giấy văn phòng, mà là tạm biệt những lùm cây bụi trong rừng, trở về nhà với
vẻ mặt rạng rỡ, nụ cười tươi tắn trên môi, cho dù lưng có gập lại vì mang vác.
- Tôi yên chí từ nay biết chỗ lấy rồi, Ignatitr ạ, -
bà nói về than bùn. - Chỗ này thì miễn chê luôn!
- Kìa Matriona Vaxilievna, chả lẽ chỗ than bùn của
tôi còn chưa đủ dùng hay sao? Cả một xe đầy.
- Ờ, chỗ ấy thì ăn thua gì! Bằng ấy nữa, lại phải
bằng ấy nữa thì mới gọi là đủ. Mùa đông ở đây ghê gớm lắm, đốt bao nhiêu cũng
không vừa. Than bùn thì xưa nay chúng tôi vẫn đi kiếm hàng ngày, đống tướng!
Bây giờ mà có than tôi lại không cõng hết ba ôtô ư? Nhưng thế thì sẽ bị bắt ngay.
Có một mẹ ở đây sắp phải ra tòa đấy.
Phần 2
Vâng, đúng là như vậy. Hơi thở dữ dằn của mùa đông
đang phả đến khiến lòng người hoảng sợ. Xung quanh những rừng là rừng, nhưng
chất đốt vẫn chẳng kiếm đâu ra được. Cần cẩu vẫn quay tròn trên các đầm than nhưng
than bùn thì không bán cho dân mà chỉ chở về cho thượng cấp cùng cánh ăn theo:
nhà giáo, thầy thuốc, công nhân nhà máy thì được cấp phát từng ô tô một. Chẳng
có quy định gì về nhiên liệu cả, mà cũng không nên hỏi về chuyện đó.
Chủ tịch nông trang đi lại trong làng đôn đốc kiểm
tra, trao đổi, nói đủ thứ chuyện, riêng chuyện chất đốt thì chẳng bao giờ đề
cập đến. Thì chính ông ta cũng tích trữ mà. Trước sau mùa đông cũng sẽ về, dù
chẳng có ai mong đợi.
Trước đây mọi người ăn cắp gỗ của lãnh chúa, bây giờ
thì ăn cắp than bùn của liên hiệp xí nghiệp, thế thôi. Phụ nữ kéo nhau từng tốp
năm người, mười người cho đỡ sợ. Họ đi ngay giữa ban ngày. Mùa hè than bùn được
khai thác khắp nơi trong vùng mỏ, được dồn lại thành từng đám để phơi. Than
cháy tốt còn có nguyên nhân là liên hiệp không thể vận chuyển đi ngay được.
Than khô dần cho đến tận mùa thu, có khi còn phải chờ tuyết nếu đường vẫn còn
nát, xe chưa chạy được hoặc liên hiệp vẫn còn bí về phương tiện. Đây sẽ là thời
cơ cho các bà các chị. Than mà ẩm thì bao tải than vơi, than khô thì đầy, gần
gấp đôi than ẩm. Mỗi bao tải cỡ 2 put (1
put = 16,38 kg) với hành trình có lúc đến 3 km vừa đủ cho một bận nhóm lò.
Mùa đông thì những hai trăm ngày. Đốt lò thì sáng
nhóm lò Nga, tối nhóm lò Hà Lan. Lò Nga thì chỉ được nhóm buổi sáng, lò Hà Lan
buổi tối.
- Chỉ nói nhăng nói cuội! - Matriona nổi xung với
một người nào đó trong tưởng tượng. - Ngựa không có mà không è cổ ra mà kéo thì
hỏi lấy đâu ra! Tớ không quen sõng lưng! Mùa đông thì kéo xe trượt tuyết, mùa
hè thì vác củi, đúng thế đấy giời ạ!
Các bà các chị mỗi ngày đi mấy chuyến liền. Những
ngày đẹp trời Matriona vác về đến sáu bao tải. Than của tôi thì bà để phơi ra
đấy, còn than của mình thì cất kỹ dưới gậm nhà cầu, tối tối mang ván xuống che
che đậy đậy.
- Chúng nó đoán già đoán non kệ nó, - bà mỉm cười,
đưa tay quệt mồ hôi trán, - mình cất thế này thì có mà tìm vào mắt!
Liên hiệp xí nghiệp đã hành động ra sao? Họ không đủ
biên chế cho phép rải quân ra canh giữ tất cả các đầm than. Về phần thể hiện
trên sổ sách, sản lượng khai thác lớn buộc phải khấu trừ phần thất thoát, phần
hao hụt do mưa. Thi thoảng, đội tuần tra tập trung ra quân và chộp được một “đối
tượng” bên cổng làng. Các bà các chị vứt hết bao tải chạy tán loạn. Thi thoảng,
theo tin cáo giác, họ cho người đến nhà dân khám xét, lập biên bản ghi rõ khối
lượng than phi pháp và dọa đưa ra tòa. Các bà các chị đành tạm nghỉ, nhưng mùa
đông rục rịch đến gần buộc họ đêm đêm lại phải lên đường cùng những chiếc xe
trượt tuyết.
Để ý quan sát Matriona, tôi nhận thấy ngoài công
việc nội trợ, hàng ngày bà còn phải giải quyết khá nhiều việc khác. Vì đã sắp
xếp sẵn trong đầu nên cứ sáng ra vừa ngủ dậy bà đã biết hôm ấy phải làm gì.
Ngoài việc kiếm than bùn, ngoài việc thu gom những gốc cây cổ thụ đã được máy
kéo đánh bật lên trên đầm, ngoài món việt quất dầm trong những chiếc thùng lớn
(Nếm thử cho nó ê răng một cái xem nào, Ignatitr! - Bà thường mời tôi), ngoài
việc dỡ khoai tây, ngoài việc chạy tiền tuất, bà còn phải đi kiếm ở đâu đó một
ít cỏ khô cho con dê duy nhất có bộ lông màu trắng đục của mình nữa.
- Sao bà không nuôi lấy một con bò cái, Matriona
Vaxilievna?
- Ờ, ờ, Ignatitr, - Matriona giải thích, bà đang
đứng trong cửa bếp, người quay về phía chiếc bàn viết của tôi, trước ngực đeo
chiếc tạp dề hơi bẩn. - Tôi dùng sữa con dê cũng tạm đủ rồi. Tôi mà nuôi bò thì
có mà chẻ xác ra cho nó ăn! Hai bên nền đường sắt cũng có chủ cả đấy, ra đấy mà
cắt cỏ! Cỏ trong rừng cũng miễn cắt, lâm nghiệp quản hết rồi. Còn ở nông trang
thì người ta chẳng khiến tôi đi cắt cỏ, người ta bảo tôi bây giờ không còn là
nông trang viên nữa. Mà ngay cả nông trang viên cũng phải cắt bằng hết về cho
nông trang, muốn có cỏ thì đục xuống tuyết mà lấy, còn cỏ giả quái gì nữa?...
Giữa vụ hè đã từng sôi lên về cỏ đấy rồi còn gì, từ Petrov đến Ilits. Cỏ mà cứ
như Sâm Cao Ly ...
Vậy là đối với Matriona, riêng việc lo cỏ cho mỗi
mống dê còm cũng đủ hết hơi.
Ngay từ sáng bà đã tay tải tay liềm đi đến những nơi
mà bà nhớ là có cỏ mọc bên mép đường, bờ ruộng, quanh những hồ nước nhỏ trong
đầm. Lèn chặt một bao tải cỏ tươi nặng trịch, bà tha về đổ một đống tướng ở
sân. Rồi bà gẩy cỏ khô dần bằng nạng gẩy rơm.
Ông chủ tịch nông trang mới, một cán bộ mới được
điều động từ thành phố xuống, đã triển khai công việc đầu tiên là giao đất
trồng rau cho tất cả những người mất sức. Matriona được nhận mười lăm xotka (1 xotka bằng100m2) đất cát, trong đó có
mười xotka hoang hóa vì chưa có kênh mương.
Tuy nhiên, với bằng ấy đất, Matriona đã được thu
dụng, lại là quân của nông trang. Những lúc thiếu người, các bà các chị cứ kiếm
cớ để vắng mặt thì bà vợ ông chủ tịch lại đến gặp Matriona. Bà ta cũng là người
thành thị, tác phong cương quyết. Với chiếc bành tô ngắn và ánh mắt gườm gườm,
trông bà ta như một nữ quân nhân.
Bà ta bước thẳng vào nhà, không chào, đưa mắt nghiêm
nghị nhìn Matriona khiến bà chột dạ.
- Thế-ế! - Vợ ông chủ tịch nói rành rọt. - Đồng chí
Grigorievna nhỉ? Phải giúp đỡ nông trang! Mai phải ra đồng rải phân!
Matriona nở một nụ cười ngượng ngùng như đang ngượng
thay cho vợ ông chủ tịch khi bà này không có tiền để trả công cho bà.
- Vâng, đấy, - Matriona rề rà. - Tôi đang ốm, đúng
thế. Thành thử lúc này không tham gia được.
Nhưng bà lại vội vàng nói chữa:
- Mai mấy giờ hở bà?
- Nhớ mang theo cái cào răng! - Chủ tịch phu nhân
dặn xong bỏ đi, chiếc váy vải cứng quèo kêu sột soạt.
- Thế cơ đấy! - Matriona nói với theo người vừa đi
khỏi. - Mang cào đi nữa đấy! Nông trang chỉ thế thôi: xẻng không, cào chẳng có.
Thế nhà tôi không có đàn ông thì ai tra cán cho tôi đây?
Rồi bà ngẫm nghĩ suốt cả buổi tối:
- Chán hết chỗ nói, Ignatitr ạ! Làm ăn cái kiểu như
thế thì phỏng nước non gì? Cứ việc đứng chống xẻng mà ngóng còi nhà máy mười
hai giờ trưa. Thế mà còn lôi thôi đủ thứ, những là tập hợp, điểm danh. Chứ như
ngày trước cứ việc ai người ấy làm thì đúng là cắm đầu cắm cổ mà làm, loáng cái
đã trưa, vèo cái đã tối.
Dù sao sáng hôm sau bà cũng vác cào đi làm.
Có điều là khi có việc thì không chỉ người của nông
trang mà bất cứ chị em nào, dù chỉ là người có họ xa hay đơn giản là hàng xóm,
cũng đến gặp Matriona từ tối và nói:
- Matriona, mai sang giúp tôi với nhé. Dỡ nốt khoai
tây ấy mà.
Và Matriona không thể từ chối được. Bà đành gác việc
nhà lại để đi giúp hàng xóm và khi về đến nhà còn khoe rất vô tư, không hề ghen
tị với ai:
- Ignatitr này, khoai nhà cô ấy to củ thế chứ lị! Dỡ
sướng cả tay, không muốn về nữa, đúng thế đấy, giời ạ!
Không một buổi cày nương nào là thiếu mặt Matriona.
Phụ nữ Talnovo đã xác định được rằng làm đất nương mà cứ một mình một xẻng mà
bao giờ cũng tốn công mất sức nhiều hơn so với việc sáu người cùng kéo một lưỡi
cày, cày cả sáu nương. Việc này người ta cũng gọi Matriona đến giúp.
- Thế các bà có trả tiền công cho bà ấy không?
Về sau tôi buộc lòng phải hỏi mọi người.
- Bà ấy không lấy đâu. Bà ấy không cần ai phải băn
khoăn.
Matriona còn rất mệt mỗi lần đến lượt phải lo chuyện
ăn uống cho hai cậu chăn dê: một cậu thì to khỏe, vừa câm vừa điếc, cậu kia thì
mới lớn, môi lúc nào cũng đưa đẩy một mẩu xì gà ướt nhoét. Một tháng rưỡi một
ngày thôi, nhưng Matriona cũng phải chi tiêu tốn kém. Bà đến cửa hàng hợp tác
xã tiêu thụ mua nào cá hộp, nào đường, nào bơ, những thứ mà bà chẳng dám ăn.
Thì ra các bà thường sĩ diện với nhau, ai cũng muốn cho các cậu chăn dê ăn uống
tươm tất trên tài thiên hạ.
- Phải biết sợ gã thợ may với thằng chăn gia súc, -
bà giải thích. - Mình mà có gì trái ý bọn này là chúng nó rêu rao khắp làng
trên xóm dưới ngay thôi.
Vậy mà trong cuộc sống lao đao lận đận của bà, thỉnh
thoảng Matriona còn ốm nặng, nằm liệt giường đến hai ngày hai đêm. Bà không rên
rỉ kêu ca, thậm chí hầu như không nhúc nhích. Những ngày đó thì bà Masa, bạn
thân của Matriona từ hồi trẻ thường đến chăm sóc con dê và nhóm hộ lò. Bản thân
Matriona thì không ăn không uống, không đòi hỏi tí gì. Ở Talvono mà mời bác sĩ
trạm xá khu đến nhà thì bị coi la cao ngạo, coi khinh hàng xóm. Có lần người ta
đã mời được một bà bác sĩ đến khám cho Matriona. Bà này tỏ ra quái ác, lệnh cho
Matriona bao giờ dậy được thì phải tự dẫn xác lên trạm xá. Matriona buộc phải
lên trạm xá, người ta lấy mẫu xét nghiệm của bà gửi lên bệnh viện quận rồi mất
hút luôn, chẳng có tin tức gì nữa. Cũng tại Matriona cả.
Công việc vẫy gọi con người trở lại với cuộc sống.
Matriona nhanh chóng gượng dậy được, lúc đầu cử động chậm chạp, sau hoạt bát
dần.
- Anh chưa được thấy tôi ngày trước đấy, Ignatitr ạ,
- Matriona tự hào kể lại. - Bao tải than của tôi toàn năm put hết, không là cái
đinh gì! Bố chồng tôi quát: “Matriona! Sụm lưng con bây giờ!” Rồi thì chở gỗ
súc... Con Voltsok của chúng tôi là một con ngựa chiến, khỏe...
- Sao lại là ngựa chiến?
- Người ta đổi con ngựa bị thương này lấy con ngựa
của chúng tôi để lên đường ra trận. Hóa ra con này là con ngựa đốc chứng. Có
lần nó tự nhiên phát hoảng, kéo thẳng chiếc xe trượt tuyết xuống hồ, cánh đàn
ông nhảy hết ra ngoài thế mà tôi chộp lấy dây cương ghì lại được, đúng thế đấy.
Con ngựa được ăn thóc kiều mạch. Ngựa ăn kiều mạch ấy à, không biết nặng là gì
đâu nhé.
Nhưng Matriona cũng chẳng gan góc gì cho lắm. Bà sợ
đám cháy, sợ chớp, sợ nhất là xe lửa, không rõ vì sao.
- Tôi đang muốn đi Treruxti thì đoàn tàu từ Netxaevka
trờ tới, trố hai con mắt to thô lố ra, đường ray rên xiết, khiếp, người tôi
nóng ran, hai đầu gối run bần bật. Đúng thế đấy, giời ạ!
Matriona tự lấy làm ngạc nhiên và nhún vai.
- Tại người ta không bán vé chăng, Matriona
Vaxilievna?
- Ở quầy vé ư? Chỉ bán vé ghế mềm thôi. Mà tàu thì
sắp chuyển bánh rồi! Chúng tôi bắt gặp một cánh cửa không khóa, thế là nhảy đại
lên, chẳng vé vung gì cả, cũng may là toàn toa hạng bét, cứ việc nằm dài ra
ghế. Vì thế chúng nó mới không bán vé, quân ăn hại ấy mà, chúng nó thì cần biết
đến ai...
Vậy mà đến mùa đông năm ấy, cuộc sống của Matriona
đã trở nên dễ thở hơn bao giờ hết.
Bà bắt đầu được hưởng trợ cấp lâu dài tám mươi
rup/tháng. Nhà trường và tôi trả cho bà hơn một trăm.
- Hừm! Bây giờ thì Matriona không nên chết một tí
nào! - Một số người hàng xóm đã bắt đầu ghen tị. - Già rồi, tiền vào nữa để đâu
cho hết.
- Cái gì, trợ cấp lâu dài ư? - Những người khác phản
bác. - Nhà nước thì có gì là chắc chắn đâu. Nay thế này mai thế khác.
Matriona đặt đóng một đôi ủng dạ, mua một cái áo
khoác mới. Bà còn chữa một cái áo capốt cũ thành một chiếc bành tô. Chiếc áo
capốt đó, đồ đồng phục của nhân viên ngành đường sắt, là của chồng Kira, con
gái nuôi của bà, tặng cho bà. Anh ta là tài xế xe lửa ở Treruxti.
Ông thợ may gù trong làng đã lót vào chiếc áo dạ đó
một lớp bông để có một chiếc bành tô tuyệt hảo mà sáu mươi tuổi đầu bà mới được
xỏ tay.
Đến giữa mùa đông Matriona đã khâu vào trong lớp lót
bành tô hai trăm rup dành cho tang lễ. Bà vui vẻ nói:
- Từ nay tôi cũng được yên lòng một chút, Ignatitr
ạ.
Tháng chạp trôi qua, tháng giêng trôi qua - hai
tháng liền bà không bị ốm. Càng ngày bà càng hay sang nhà bà Masa vào buổi tối,
ngồi cắn hạt quì với nhau. Bà không rủ ai đến nhà vào buổi tối, sợ ảnh hưởng
đến công việc của tôi. Mãi đến Lễ Ba Vua, về đến nhà tôi thấy mọi người đang
nhảy múa. Tôi làm quen với ba bà em ruột của Matriona. Thời gian qua ở đây tôi
rất ít nghe nói về các bà em của bà, hay họ sợ Matriona nhờ vả họ?
Lễ hội năm đó, có mỗi chuyện không hay làm phiền
lòng Matriona: bà đã đi năm dặm (1 verxta
(dặm Nga) = 1,06 km) đến nhà thờ để xin nước thánh, đã đặt bình nước xin
ban phép của mình giữa những bình nước khác. Lễ ban phép kết thúc, các bà các
chị xúm vào tranh nhau lấy nước. Matriona chậm chân tụt lại, cuối cùng chẳng
thấy bình nước của mình đâu nữa. Cũng chả thấy bình nước nào để lại. Mất thế
này hẳn là ác quỷ đã lấy đi.
- Chị em ơi! - Matriona đi giữa những người đang cầu
nguyện. - Có ai lấy nhầm nước thánh của tôi không? Bình nước thánh ấy?
Không ai nhận là đã lấy nhầm. Hay là trẻ con nó
nghịch? Trong nhà thờ lúc này cũng có mấy đứa con trai nhỏ tuổi. Matriona về
nhà mà lòng buồn rười rượi: năm nào cũng xin được nước thánh, năm nay thì
không.
Tuy nhiên cũng không thể nói rằng Matriona là một
con chiên ngoan đạo. Thậm chí bà còn mang màu sắc một tín đồ Ngẫu tượng giáo
nhiều hơn: bà một mực tin rằng cứ vào lễ Thánh Ivan Poxny mà bước vào nương
vườn thì năm sau sẽ bị mất mùa; bão tuyết mà cuộn lên thì ắt là đâu đó có người
đã thắt cổ chết; va chân vào cửa là nhà sắp có khách, ở với bà bao nhiêu lâu mà
tôi vẫn chưa thấy bà cầu nguyện, làm dấu thánh bao giờ. Nhưng bắt tay vào việc
gì bà cũng “Lạy Chúa”, lần nào tôi đi đến trường bà cũng “Cầu Chúa phù hộ cho
anh!”.
Có thể là bà vẫn cầu nguyện nhưng không muốn để lộ
ra vì ngượng với tôi hoặc không muốn làm tôi mất tự nhiên. Khám thờ thì ở nhà
trên, tượng thánh Nikolai Ugotnik đặt trong bếp. Ngày thường thì những nơi đó
không để đèn, vào kì lễ nguyện thì có, các ngày lễ thánh thì Matriona bật đèn
lên ngay từ sáng.
Tuy nhiên, bà vẫn ít tội hơn con mèo thọt của bà. Nó
còn bắt chuột.
Matriona càng ngày càng cố gắng tranh thủ thời gian
để chăm chú lắng nghe các chương trình phát thanh qua máy thu thanh của tôi
(tôi không quên lắp riêng cho mình một ổ phát hiện - Matriona gọi các ổ cắm
điện như thế! Cái máy thu thanh nhỏ bé không quấy rầy tôi được vì tôi có thể
đưa tay tắt máy vào bất cứ lúc nào, nhưng quả thật đối với tôi, từ chốn xa xôi
hẻo lánh này, nó đã trở thành một dụng cụ thăm dò, phát hiện). Năm ấy, mỗi tuần
người ta tiếp đón, tiễn đưa hai ba đoàn đại biểu nước ngoài, đưa đại biểu đến
nhiều thành phố, tổ chức meetting. Ngày nào cũng đầy rẫy những thông báo quan
trọng về chiêu đãi, tiệc tùng.
Matriona chau mày, thở dài đánh thượt:
- Ăn uống suốt, miệng ăn núi lở thôi mà!
Nghe tin về những loại máy mới vừa được phát minh,
Matriona cất tiếng lầu bầu trong bếp:
- Lúc nào cũng máy mới, máy mới, thế máy cũ không
làm thì vứt đi đâu?
Người ta còn dự báo trong năm đó vệ tinh nhân tạo
của trái đất sẽ được phóng lên quỹ đạo.
Matriona lắc đầu nhún vai:
- Khiếp thật, thế thì người ta sẽ làm biến đổi mùa
đông hay mùa hè mất thôi.
Saliapin hát những bài hát Nga. Matriona đứng nghe
một lúc lâu rồi nói dứt khoát:
- Hát kiểu gì ấy, không như dân mình hát.
- Bà nói thế nào ấy chứ, Matriona Vaxilievna, bà
nghe lại đi!
Bà lại nghe, mắm chặt môi, rồi nói:
- Không. Không chuẩn. Không phải lối hát của chúng
ta. Ca sĩ lại còn khoe giọng nữa.
Bù lại, Matriona cũng đã làm tôi cảm thấy mát ruột.
Đài phát lại một chương trình hòa nhạc một số bản tình khúc của Glinka. Đột
nhiên sau năm bản tình khúc thính phòng, Matriona co ro đi từ phía sau vách bếp
lên, tay giữ chặt tạp dề, cặp mắt mờ rớm lệ:
- Đây này, đây mới là hồn của chúng ta... - bà thì
thầm.
Phần 3
Matriona đã quen có tôi, tôi cũng đã quen có bà, và
chúng tôi sống với nhau một cách thật thà dung dị. Bà không gây trở ngại gì cho
công việc buổi tối kéo dài dằng dặc của tôi, không căn vặn thế này thế khác.
Cho đến thời điểm đó, tôi không thấy ở bà cái thói tò mò tọc mạch thường thấy ở
phụ nữ, cụ thể là cho đến thời điểm đó, bà tỏ ra tế nhị tới mức chưa hề hỏi
thăm tôi đã có vợ hay chưa, lấy vợ từ bao giờ. Các bà các chị ở Talvono cứ xoắn
lấy bà mà hỏi thăm về tôi. Bà bảo họ:
- Ai muốn biết thì đi mà hỏi người ta. Tôi chỉ biết
anh ấy là người nơi khác đến thôi.
Ít lâu sau, khi tôi thổ lộ với bà rằng tôi đã ở tù
khá lâu thì bà chỉ gật đầu, ý như bà đã ngờ ngợ như thế từ trước.
Cũng như bà, tôi chỉ nhìn thấy một Matriona của hôm
nay, một bà già lẻ loi cô quạnh. Tôi cũng không khơi dậy quá khứ của bà, cũng không
hi vọng tìm được chút gì trong đó.
Tôi biết rằng Matriona lấy chồng từ trước Cách mạng,
rồi ở luôn trong ngôi nhà chúng tôi đang ở, bắt tay ngay vào quán xuyến công
việc gia đình vì mẹ chồng và người chị gái ở vậy của chồng đều đã mất, và ngay
buổi sáng đầu tiên sau ngày cưới, Matriona đã phải đâm đầu vào bếp. Tôi biết
rằng bà đã sinh được sáu người con nhưng đều chết yểu nên chưa bao giờ có được
hai con còn sống. Về sau bà có một cô con gái nuôi tên là Kira. Chồng Matriona
đã ra trận không về. Giấy báo tử cũng không. Các chiến hữu đồng hương cùng đại
đội nói rằng ông hoặc đã bị bắt làm tù binh hoặc đã hi sinh nhưng không tìm
thấy thi hài. Mười một năm sau chiến tranh, Matriona đã tự nhủ lòng là hãy cứ
coi ông như người đã mất. Thà như vậy còn hơn. Chứ giả dụ bây giờ ông vẫn sống
thì cũng phải là người có vợ ở đâu đó tận Brazil
hoặc Australia .
Và làng Talnovo lẫn tiếng Nga ông cũng quên dần...
Một lần ở trường về, tôi thấy trong nhà có khách.
Một ông già cao lớn, tóc vẫn còn xanh, mũ lông để trên đầu gối, đang ngồi ở
chiếc ghế tựa mà Matriona đẩy ra giữa phòng, về phía chiếc bếp lò Hà Lan, mời
khách ngồi chơi. Râu tóc đen dày, hầu như chưa có sợi bạc, trùm kín gương mặt
ông: bộ ria mép rậm rạp màu đen nhập làm một với bộ râu cằm to bự cũng màu đen,
thành thử mồm miệng chỉ còn hiện ra thấp thoáng; hai vạt râu quai nón rậm rịt
màu đen chạy từ dưới lên đón lấy những mớ tóc đen buông từ trên xuống, che gần
kín cả hai tai; cặp lông mày sâu róm cong chụm vào nhau. Chỉ có trán là hiện ra
như một mái vòm nhẵn thín nối liền với cả khoang đầu hói rộng bên trên. Trước
mắt tôi, toàn bộ dung mạo của ông già toát lên vẻ thông minh và đĩnh đạc. Ông
ta ngồi với vẻ rụt rè, hai tay đặt trên đốc cây gậy đang chống thẳng xuống sàn,
ông ngồi trong tư thế nóng lòng chờ đợi và rõ ràng là không nói chuyện nhiều
với Matriona lúc này đang lúi húi bên kia vách bếp.
Khi tôi bước vào nhà, ông nhẹ nhàng quay cái đầu oai
vệ về phía tôi và cất tiếng chào, gọi đúng tên tôi:
- Thầy giáo!... Tôi nhìn thầy không được rõ. Thằng
con tôi học với thầy đấy. Nó là Grigoriev Antoxka...
Không cần ông phải nói thêm gì nữa. Đang nóng lòng
muốn được giúp đỡ ông già đáng kính này, tôi không để ông phải nói những lời vô
ích nữa, tôi biết cả rồi. Grigoriev Antoxka là một cậu bé trắng trẻo ục ịch,
hai má ửng hồng, học sinh lớp 8G. Nó đến trường như đi nghỉ mát, ngồi trong lớp
mỉm cười nhạt nhẽo. Về nhà, nó chẳng bao giờ ngó đến sách vở. Tuy nhiên, với
mục tiêu phấn đấu đạt thành tích cao về dạy và học, giữ vững danh hiệu vinh
quang mà các trường trong huyện trong tỉnh chúng tôi và các tỉnh bạn đã giành
được, hết năm này sang năm khác, nhà trường vẫn cho nó lên lớp. Nó đã hiểu rõ
rằng cho dù các thầy có dọa dẫm thế nào đi nữa thì cuối năm nó vẫn được lên lớp
như thường, học làm gì cho nhọc xác! Học lớp 8 rồi mà nó vẫn chẳng biết gì về
phân số, không phân biệt được các kiểu tam giác. Trong hai quý đầu của năm học
nó bị toàn điểm hai ở môn tôi dạy, sang quý ba chắc cũng vậy thôi.
Nhưng với ông già mù dở, người bố, người lại đáng
tuổi ông thằng Antoxka, người đang cầu cạnh tôi đây, liệu tôi có thể nói được
rằng nhà trường đã lừa dối ông hết năm này sang năm khác, tôi không thể lừa dối
ông được nữa, nếu không tôi sẽ làm hỏng hết lớp học, tôi sẽ biến thành kẻ ba
hoa và tôi sẽ phải nhổ toẹt vào toàn bộ lao động và danh hiệu của chính mình?
Song tôi lại đành nhẫn nhục giải thích với ông rằng
con ông quá xao nhãng học hành, đến trường hay về nhà đều nói dối quanh, phải
kiểm tra sổ điểm của nó thường xuyên hơn và cả hai bên phải thực sự nghiêm khắc
với nó.
- Còn nghiêm khắc thế nào nữa, thưa thầy, - ông
khách đoan chắc với tôi. - Tuần nào tôi cũng đánh đòn nó cả. Đánh đau.
Qua câu chuyện tôi bỗng nhớ ra là có lần Matriona
không hiểu vì lý do gì cũng đã đề nghị giải quyết việc gì đó cho thằng Antoxka
Grigoriev, nhưng tôi đã không hỏi là nó có họ như thế nào với bà, và tôi đã từ
chối. Còn bây giờ Matriona cũng ra đứng trong khung cửa bếp với vẻ khẩn cầu
nhưng chẳng nói gì. Và khi Faddeia Mironovitr đã từ biệt tôi với lời đề nghị
được gặp lại tôi để được biết tin tức, tôi liền hỏi Matriona:
- Matriona Vaxilievna này, tôi chưa hiểu, Antoxka nó
là thế nào với bà nhỉ?
- Con của anh chồng, - Matriona trả lời cụt lủn rồi
đi vắt sữa dê.
Hiểu rồi, ông già tóc đen kiên nhẫn đó là anh ruột
chồng bà, một quân nhân mất tích.
Suốt buổi tối, Matriona không đề cập gì đến chuyện
đó nữa. Mãi tới khuya, khi tôi đã quên bẵng về ông già, đang làm việc trong
ngôi nhà yên tĩnh, chỉ còn lạo xạo tiếng gián và tiếng tích tắc của đồng hồ,
Matriona bỗng nói vọng ra từ trong góc tối của bà:
- Ignatitr này, ngày xưa tôi suýt lấy ông ấy đấy.
Tôi thậm chí đã quên khuấy đi sự hiện diện của bà,
không nghe thấy bà nói gì, nhưng giọng nói của bà vẳng ra từ chỗ tối nghe hồi
hộp cứ như ông già kia đang tình tự với bà.
Rõ ràng là cả buổi tối hôm nay Matriona chỉ nghĩ về
chuyện đó.
Bà bước ra khỏi chiếc giường lót giẻ tồi tàn, chậm
rãi đến bên tôi, chừng như đang nhịp bước với những lời tâm sự. Tôi ngả người
vào lưng ghế và lần đầu tiên tôi nhìn thấy Matriona khác hẳn mọi ngày.
Trong căn phòng lớn, um tùm cây cảnh này thì phía
trên bị tối. Ngọn đèn bàn chỉ chiếu sáng những quyển vở của tôi, nên khi tôi
đưa mắt từ chỗ sáng nhìn ra thì cả căn phòng chìm trong ánh hồng hồng. Matriona
từ trong đó hiện ra. Tôi thấy hình như đôi má của bà không còn vàng vọt nữa, mà
cũng ửng hồng lên.
- Ông ấy là người đầu tiên dạm hỏi tôi... trước
Efim... Ông ấy là anh. Năm ấy tôi mười chín tuổi, Faddeia thì hai mươi ba. Ngày
ấy nhà họ ở ngay trong ngôi nhà này đấy. Nhà của họ đấy. Ông cụ thân sinh ra họ
cất lên đấy.
Tôi bất giác đưa mắt nhìn quanh. Trước mắt tôi,
xuyên qua lớp áo màu xanh nhạt thếch bằng giấy bồi tường, bên trong có chuột
chạy, ngôi nhà mục nát xám xịt bỗng hiện ra mới mẻ, thuở ấy vẫn tươi màu, gỗ
súc nhẵn nhụi, thơm phức mùi nhựa cây.
- Thế bà với ông ấy thì thế nào?...
- Mùa hè năm ấy... chúng tôi vào rừng ngồi, - bà thì
thầm. - Cánh rừng nhỏ ấy bây giờ là khu chuồng ngựa đấy, người ta chặt cây
đi... Tôi sắp lấy ông ấy thì chiến tranh chống Đức nổ ra, Ignatitr ạ. Faddeia
được lệnh lên đường ra trận.
Matriona bỏ lửng câu chuyện - trước mắt tôi sáng rực
lên cái tháng bảy xanh, trắng và vàng của năm một ngàn chín trăm mười bốn: bầu
trời vẫn thanh bình, mây nhởn nhơ bay và không khí làm việc sôi nổi trên đồng
lúa chín. Tôi mường tượng thấy hai người đang sánh vai nhau: chàng trai vạm vỡ,
tóc đen nhánh, vai vác liềm bên cô thôn nữ má hồng, tay ôm bó lúa. Và họ cất
lên tiếng hát, hát mãi dưới trời xanh, những bài hát từ lâu làng quê không hát
nữa, những bài hát không thể hát cùng máy móc.
- Ông ấy ra trận rồi biệt tăm luôn... Suốt ba năm
tôi đã sống khép kín, dốc lòng chờ đợi. Vẫn cứ là bặt vô âm tín...
Trong khoảng mờ tối, đối diện với tôi là gương mặt
bầu bầu của Matriona quấn trong tấm khăn trùm bạc phếch. Gương mặt ấy dường như
không còn những nếp nhăn, không còn lộ ra giữa tấm khăn xoàng xĩnh thường ngày
mà là một gương mặt thanh xuân thảng thốt trước một sự lựa chọn đáng sợ.
Vâng. Vâng... Tôi hiểu... Lá rụng, tuyết rơi, rồi
tuyết lại tan. Người ta lại cày, lại gieo, lại gặt. Và lá lại rụng, và tuyết
lại rơi. Và một cuộc cách mạng. Và một cuộc cách mạng khác.
Và cả thế giới đảo lộn.
- Mẹ họ mất, thế là Efim đặt vấn đề với tôi. Ông ấy
bảo: Trước đây cậu đã muốn đến làm người nhà này, thì bây giờ hãy đến đi! Efim
kém tôi một tuổi. Các cụ ở đây thường nói: “Thuận rồi thì cưới cho nhanh, chớ
để tròng trành gió giật thuyền nghiêng”. Gia đình họ cũng đang thiếu người
trông nom quán xuyến. Tôi đã lấy ông ấy... Chúng tôi làm lễ thành hôn vào ngày
lễ Thánh Petrov thì đến ngày lễ Thánh Mikol vào mùa đông... Faddeia trở về... từ
trại tù binh ở Hunggari.
Matriona nhắm mắt lại.
Tôi ngồi lặng thinh.
Bà quay người về phía cửa cứ như đó là một nhân
chứng sống:
- Ông ấy dừng lại bên ngưỡng cửa. Tôi hét toáng lên.
Suýt nữa thì tôi đã nhào ra phủ phục dưới chân ông!... Không thể được... Ông ấy
nói: Nó mà không phải là em ruột ta thì ta đã băm chết cả hai đứa rồi!
Tôi rùng mình. Từ sự xúc động hay sợ hãi của bà, tôi
đã hình dung ra một cách sống động cái giây phút ông đang đứng giữa những cánh
cửa sẫm màu, râu tóc đen nhánh, tay vung chiếc rìu lên trước mặt Matriona.
Nhưng bà đã bình tâm trở lại, đứng tì người vào lưng
tựa của chiếc ghế trước mặt và kể bằng một giọng du dương:
- Khổ thân ông ấy! Gái làng có thiếu gì đâu nhưng
nhất định ông ấy không lấy. Ông ấy nói: Tôi sẽ đi tìm cái tên em, tìm một
Matriona khác. Và ông ấy cũng đã mang từ Lipovka về một Matriona, cất một ngôi
nhà riêng mà bây giờ họ vẫn đang ở đấy, hôm nào anh chả đi qua nhà họ để đến
trường.
À ra thế! Bây giờ tôi mới hiểu là tôi đã nhiều lần
nhìn thấy bà Matriona thứ hai. Tôi không thích bà ta: bà ta cứ đến với Matriona
của tôi để than phiền về việc bị chồng đánh, rồi chồng keo kiệt, hành hạ bà ta.
Bà ta khóc đến lâu, lúc nào cũng nghẹn ngào, thổn thức.
Hóa ra Matriona của tôi cũng chẳng bận tâm đến việc
Faddeia đánh vợ, ức hiếp cả nhà.
- Ông nhà tôi thì chẳng bao giờ đánh tôi, - bà nói
về Efim. - Ra ngoài thì ông ấy vẫn choảng nhau với bọn đàn ông, nhưng với tôi
thì quả chưa từng... Riêng cái lần tôi cãi nhau với bà chị ông ấy thì ông ấy có
cầm cái thìa cộp một cái vào trán tôi. Đang ăn tôi bỗng đứng phắt dậy, hét
toáng mấy câu rồi bỏ vào rừng. Từ đó về sau, ông ấy không bao giờ động đến tôi
nữa.
Xem chừng Faddeia cũng có gì đáng hối tiếc đâu:
Matriona thứ hai của ông cũng sinh cho ông được sáu đứa (Antoxka là út, một đứa
lì lợm), cả sáu đứa đều đậu cả. Còn vợ chồng Matriona - Efim thì tất cả mấy đứa
con đều chết yểu hết, không chứng bệnh gì mà chẳng đứa nào đậu được đến ba
tháng tuổi.
- Một đứa con gái, nó là Elena, lọt lòng ra vẫn
khóc, vậy mà tắm rửa xong là nó đi luôn, không còn phải tắm rửa cho thi hài
nữa. Đám cưới của tôi nhằm vào ngày lễ Thánh Petrov thì lễ an táng đứa thứ sáu
là thằng Alekxander cũng lại nhằm vào ngày lễ Thánh Petrov.
Và cả làng đều nhất mực cho rằng Matriona đã bị phù
phép.
- Tôi bị phù phép đấy! - Đến nay Matriona vẫn gật gù
xác nhận. - Người ta chở tôi đến nhà một cựu nữ tu để chữa bệnh, bà ta làm cho
tôi phát ho lên, bắt ọc ra bằng được con nhái đang bị yểm trong bụng. Chán!
Chẳng ăn thua gì cả!
Năm tháng trôi đi như nước chảy qua cầu... Năm bốn mươi
mốt Faddeia không trúng tuyển vì mắt kém, còn Efim trúng tuyển. Và cũng giống
người anh trai hồi Thế chiến thứ nhất, người em lại biệt tích vào Thế chiến thứ
hai. Nhưng người em thì đã không bao giờ trở lại.
Ngôi nhà trước đây lúc nào cũng đông vui nhộn nhịp
mà nay hoang vắng tiêu điều, và bà Matriona cô quạnh cũng đang héo tàn trong
đó.
Và bà đã xin của bà Matriona thứ hai tội nghiệp một
khúc ruột của bà ta (hay là một giọt máu của Faddeia?): đứa con gái bé của họ,
Kira.
Suốt mười năm, bà đã nuôi dạy cô gái như con đẻ,
thay cho những đứa con xấu số của mình.
Trước khi tôi đến đây ít lâu, bà đã gả cô cho một
chàng tài xế xe lửa ở Trerusti. Đối với bà, nguồn trợ giúp nhỏ nhoi duy nhất
hiện nay là thỉnh thoảng họ mang đường, nếu giết lợn thì mang mỡ cho bà.
Lúc đang khốn khổ vì bệnh tật và nghĩ mình sắp chết,
Matriona đã dặn lại rằng sau khi bà mất, Kira sẽ được thừa hưởng căn nhà phụ.
Còn nhà chính thì bà không đả động đến. Ba bà em của bà đã nhắm nhe rồi.
Tối hôm đó, Matriona đã bộc bạch với tôi tất cả nỗi
lòng. Và, như thường lệ, mối dây ràng buộc và ý nghĩa cuộc đời bà, những điều
mà tôi vừa loáng thoáng nhận ra, đã hiện dần ra trong thực tế vào chính những
ngày này. Kira đã từ Trerusti về, ông già Faddeia đang lo: muốn xin và giữ được
lô đất ở Trerusti thì vợ chồng nhà nó phải cất cho được một căn nhà.
Căn nhà phụ của Matriona hoàn toàn phù hợp. Không
còn cách nào khác vì biết đào đâu ra gỗ nữa. Trong việc chiếm lĩnh lô đất ở
Trerusti thì chính Kira lẫn chồng cô đều không sốt ruột bằng bố, ông sốt ruột
thay cho họ.
Ông Faddeia từ đó thường xuyên đến chỗ chúng tôi, ra
công cố sức khuyên bảo rồi ép buộc Matriona phải cho chúng căn nhà ngay bây
giờ, ngay lúc bà còn sống. Những lần ông đến, tôi thấy ông không còn là một lão
già chống gậy hom hem, chỉ cần một va chạm nhỏ hay một lời nói nặng thôi là đủ
để lăn kềnh. Tuy đã hơi còng vì đau ở eo lưng nhưng nom lão vẫn gọn gàng cân
đối, ngoài sáu mươi mà râu tóc hãy còn xanh, nhiệt huyết có thừa.
Hai đêm liền Matriona không chợp mắt được. Thật khó
nghĩ quá. Bản thân căn nhà để không thì bà không tiếc, cũng như nói chung thì
công sức, của cải của mình bà chẳng tiếc xót gì bao giờ. Mà căn nhà phụ thì bà
cũng đã cho Kira được thừa kế rồi. Nhưng bảo bây giờ đem tháo dỡ cái căn nhà bà
đã ở bốn chục năm nay thì bà cũng hãi. Thậm chí như tôi, một người khách trọ,
cũng thấy đau lòng một khi những tấm ván, những súc gỗ kia bị cạy bật, tháo
rời. Và như thế thì toàn bộ cuộc đời Matriona cũng coi như hết.
Nhưng những người đang nằng nặc đòi nhà thì vẫn bảo
rằng có thể tháo dỡ căn nhà ngay khi bà còn sống.
Thế là vào một sáng tháng hai, Faddeia kéo cả tốp
năm tay rìu gồm toàn con trai con rể đến cậy vách ken két, phang nện ầm ầm. Mắt
Faddeia lấp lánh vẻ tinh anh của một người thạo việc. Tuy không thẳng lưng lên
được, lão vẫn khéo léo đu lên tận vì kèo và làm việc luôn tay, quát gọi người
nọ người kia phụ giúp. Căn nhà này do lão cùng với bố lão tự tay cất dựng từ
ngày lão còn là một gã thiếu niên. Căn nhà này làm ra chính là dành cho lão,
cậu con trai cả, sau này lấy vợ ra riêng. Còn bây giờ lão đang hùng hổ tháo
tung ra để chuyển đi nơi khác.
Họ đánh số các súc gỗ vách và ván lát trần rồi tháo
dỡ căn nhà phụ với buồng kho, còn nhà chính với các giải nhà cầu vừa bị cắt
ngắn thì họ thưng tạm bằng ván mỏng. Họ bỏ qua những khe hở còn lộ ra trên vách,
mọi sự đều cho thấy kẻ phá hoại không phải là người xây dựng. Vả chăng họ cũng
chẳng nghĩ rằng Matriona còn sống ở đây lâu.
Trong lúc đàn ông dỡ nhà thì đàn bà con gái xúm vào
cất rượu cho bữa tiệc khởi hành chứ tiền đâu mà uống vodka. Kira mang từ tỉnh
Mátxcơva về cho Matriona một put đường kính, ban đêm bà thường lén lút mang
đường và chai đi kiếm rượu ngang.
Gỗ súc đã được mang ra xếp ngay ngắn trước cổng, anh
con rể lái tàu đã về Trerusti gọi máy kéo.
Nhưng ngay hôm đó bão tuyết đã tràn về. Bão tuyết
quay cuồng suốt hai ngày đêm, đường sá ngập trong những đống tuyết lớn. Rồi khi
đường vừa được dọn, xe tải bắt đầu chạy được vài chuyến thì trời bỗng ấm lên,
mây mù ẩm ướt kéo đến, và chỉ trong một ngày, tuyết tan chảy thành suối kêu róc
rách, nước dây lép nhép cả vào trong ống ủng.
Phần 4
Suốt hai tuần lễ, căn nhà phụ không chịu nộp mình
cho máy kéo! Hai tuần lễ ấy Matriona cứ ra ngẩn vào ngơ như kẻ mất hồn. Bà quá
đỗi đau lòng về việc ba bà em về thấy sự tình, đã hùa nhau vào mắng chị là ngu
ngốc khi đem cho mất căn nhà, đòi từ mặt chị rồi đùng đùng bỏ đi.
Cũng vào những ngày này, con mèo thọt bỏ nhà đi
hoang rồi mất hút luôn. Hết chuyện này đến chuyện khác. Càng nẫu ruột thêm.
Cuối cùng, đường sá đang sũng nước không đi lại được
đã rắn lại dưới trời băng giá. Một ngày tươi sáng bừng lên, nắng vàng rực rỡ,
lòng người nhẹ nhõm lâng lâng. Tối hôm trước, Matriona đã có một giấc mơ đẹp.
Ngay từ sáng, bà đã biết rằng tôi đang muốn chụp một bức ảnh có người nào đó
đứng bên một cỗ máy dệt kiểu cổ (quanh đây có hai nhà có loại máy dệt này, họ
dệt thảm thô). Bà cười ngượng nghịu:
- Mấy hôm nữa, Ignatitr nhé! Để tôi cho cái căn nhà
nó đi đi đã. Tôi sẽ gióng cái máy dệt của tôi lên, nó còn nguyên vẹn mà anh,
rồi anh chụp nhé! Đúng thế đấy giời ạ!
Bà muốn cho người đời thấy lại hình bóng mình trong
quá khứ đây! Ở ngôi nhà đã bị thu ngắn lại, ô cửa sổ lạnh lẽo đã ửng hồng lên
trong tiết trời băng giá, dưới ánh sáng đang lan tỏa từ một mặt trời đỏ ối đằng
xa. Và ánh sáng dịu dàng này đang sưởi ấm khuôn mặt Matriona. Khuôn mặt của
những người lương tâm thanh thản bao giờ cũng đẹp.
Ở trường về khi chiều đã muộn, tôi thấy một cảnh
tượng nhốn nháo đang diễn ra trước cổng. Cỗ xe trượt cỡ lớn mới toanh của máy
kéo đã chất đầy gỗ súc, nhưng gỗ vẫn còn nhiều - và cả nhà lão Faddeia cùng
những người đến làm giúp bèn tự tay đóng thêm một cỗ xe trượt nữa. Mọi người
làm việc như điên, đầy vẻ hung hăng thường thấy ở mấy kẻ đã đánh hơi thấy một
món hời hay một bữa bét nhè, toái loái. Họ quát hét loạn xà ngầu, cãi nhau ỏm
tỏi.
Tranh luận đã nổ ra về việc kéo xe trượt như thế
nào, kéo từng cái hay kéo cả hai một lúc.
Gã con trai thọt chân và chàng con rể lái tàu của
Faddeia thì cho rằng không thể kéo cả hai một lúc, máy không kéo nổi. Với thân
hình lực lưỡng, mặt to phèn phẹt, dáng vẻ tự tin, gã lái máy kéo cất giọng khàn
khàn kêu la gã biết hết rồi, lái xe mà lị, gã sẽ kéo tuốt cả hai! Gã đã nhận
chở khoán căn nhà chứ không chạy chuyến. Một đêm mà chạy những hai chuyến hai
nhăm cây số cộng một chuyến quay về thì có thánh chạy kịp! Sáng mai gã đã phải
có mặt ở gara cùng với chiếc máy kéo, không muốn can tội đánh trộm xe đi làm
thuê lấy tiền bỏ túi.
Faddeia thì đang nôn nóng muốn chuyển hết căn nhà đi
ngay hôm nay nên lão lắc đầu ra hiệu cho các con nhượng bộ gã kia “cho nó xong
đi”.
Matriona chạy tới chạy lui giữa đám đàn ông, xăng
xái giúp đỡ mọi người chất gỗ lên xe.
Tôi thấy bà mặc chiếc áo bông dã chiến của tôi, hai
ống tay áo cứ quệt vào băng bẩn ở gỗ, và tôi đã nhắc bà một câu với vẻ khó
chịu. Chiếc áo đó là vật kỷ niệm của tôi, nó đã ấp ủ tôi trong những tháng năm
gian khổ.
Lần đầu tiên tôi bực bõ với Matriona Vaxilievna là
như vậy đó.
- Giời đất ơi, khổ thân tôi đầu óc thế này này! - Bà
luống cuống. - Tôi vơ quàng cái áo, lại không nhớ là áo của anh chứ lị! Xin lỗi
anh, Ignatitr nhé. - Và bà cởi áo đem phơi.
Việc bốc xếp đã hoàn thành và tất cả mười người đàn
ông vừa làm việc rùng rùng kéo qua chỗ bàn làm việc của tôi, vén mành chui tọt
cả vào trong bếp. Từ trong đó vẳng ra tiếng cốc chạm nhau nghe xa xa, thỉnh
thoảng có tiếng chai cộp mạnh, riêng giọng nói thì một lúc một to, lời lẽ mỗi
lúc một bốc đồng. Gã lái máy kéo huênh hoang một tấc đến giời. Mùi rượu ngang
nồng nặc xộc vào mũi tôi. Nhưng họ uống không lâu, tối rồi, phải vội. Họ kéo ra
ngoài. Với nét mặt dữ dằn, gã lái máy kéo có vẻ dương dương tự đắc. Áp tải căn
nhà về Trerusti có chàng con rể lái tàu, anh con trai thọt chân của Faddeia và
một thằng cháu nữa.
Còn nữa thì giải tán. Faddeia vung gậy đuổi theo ai
đó để bảo cái gì không biết. Gã thọt chân nán lại bên bàn làm việc của tôi,
châm thuốc hút và bỗng nói rằng gã rất quý thím Matriona, gã mới lấy vợ và mới
có con trai. Có người quát gọi gã, gã đi ra. Tiếng máy kéo cất lên xình xịch ở
ngoài đường. Người cuối cùng từ trong bếp lao ra là Matriona. Bà đưa mắt nhìn
theo đoàn xe, lắc đầu với vẻ lo lắng. Bà mặc áo khoác vào, trùm khăn lên đầu.
Ra đến cửa bà nói với tôi:
- Thuê lấy hai cái máy kéo thì đã làm sao? Hỏng cái
này còn có cái kia. Bây giờ thì cơ sự ra sao có mà giời biết!...
Rồi bà lật đật chạy theo.
Cuộc rượu cùng những tiếng cãi vã om sòm và cảnh
nhốn nháo qua đi, ngôi nhà trống trải, buốt giá bỗng trở nên im lặng lạ thường.
Bên ngoài trời đã tối mịt. Tôi cũng mặc áo bông vào và ngồi xuống bên bàn.
Tiếng máy kéo nhỏ dần rồi mất hút.
Một giờ trôi qua, rồi một giờ nữa. Thêm một giờ thứ
ba. Matriona vẫn chưa về nhưng tôi đồ rằng bà đã đến nhà bà bạn Masa sau khi
tiễn biệt đoàn xe.
Lại một giờ nữa trôi qua. Lại tiếp. Không chỉ có
bóng tối mà một bầu tịnh mịch thâm u đã buông xuống làng quê. Lúc bấy giờ tôi không
hiểu được vì sao lại im ắng đến thế - thì ra là suốt buổi tối không có chuyến
tàu nào chạy qua tuyến đường sắt cách chỗ chúng tôi nửa dặm. Máy thu thanh tôi
đã tắt và tôi nhận thấy đêm nay chuột chạy hỗn chưa từng thấy: dưới những lớp
giấy, chuột chạy băng băng, mỗi lúc một ngang tàng, ầm ĩ, vừa chạy vừa kêu chí
chóe, giấy kêu soàn soạt liên hồi.
Tôi tỉnh hẳn ra. Đã quá mười hai giờ đêm mà Matriona
vẫn chưa về.
Bỗng tôi nghe có tiếng mấy người đang nói khá to.
Những tiếng nói còn ở xa, nhưng đúng là người ta đang đi về phía chúng tôi.
Đúng, chỉ một lát sau, tiếng đập cửa ầm ầm vang lên ở cổng. Một giọng nói lạ,
hách dịch quát lên bắt mở cổng ngay. Tôi bấm đèn sạc bước ra trong bóng tối dày
đặc. Cả làng đều đang ngủ, cửa sổ các nhà vẫn tối om, tuyết đã tan đến một tuần
nay và cũng không còn ánh phản quang. Tôi xoay cái chốt dưới, mở cửa cho họ
vào.
Bốn người mặc áo capốt cùng bước vào nhà. Ai mà chả
bực mình khi có người lạ mặc áo capốt xộc vào nhà vào ban đêm mà mồm miệng cứ
bô bô.
Dưới ánh đèn tôi thấy có hai người mặc áo capốt của
nhân viên đường sắt. Người lớn tuổi hơn, to béo, có khuôn mặt rất giống gã lái
máy kéo, cất tiếng hỏi:
- Bà chủ đâu?
- Tôi không biết.
- Thế chiếc máy kéo hai cái xe trượt ra đi từ nhà
này phải không?
- Từ nhà này.
- Họ uống rượu ở đây trước khi đi chứ?
Cả bốn người đều nheo mắt nhìn quanh, tất cả chìm
trong ánh nhờ nhờ vì không được ngọn đèn bàn chiếu sáng. Tôi hiểu ra rằng người
đó đã bắt hoặc đang truy lùng ai đó.
- Có chuyện gì vậy?
- Ông hãy trả lời câu hỏi!
- Nhưng...
- Họ lên đường khi đang say rượu phải không?
- Họ đã uống rượu ở đây chứ?
Có ai đó đã giết người ư? Hay là không được phép
chuyển nhà như vậy? Bao nhiêu nghi vấn hiện ra dồn dập trong đầu. Duy có một
điều rất rõ: Matriona rất có thể vào tù vì tội nấu rượu lậu.
Tôi lùi về phía cửa bếp và đứng che nó đi.
- Thật tình tôi không để ý. Tôi không thấy.
(Mà tôi không thấy thật, chỉ nghe thấy thôi).
Tôi đưa tay làm một điệu bộ bất lực như chỉ còn biết
mời xem khung cảnh căn nhà: ánh đèn dịu nhẹ chiếu xuống sách vở, cả một đám cây
cảnh um tùm nép mình vào một góc, chiếc giường gấp khắc khổ của một ẩn sĩ.
Chẳng có dấu vết gì của sự ăn chơi.
Chính họ cũng bực mình khi thấy ở đây chẳng có vết
tích rượu chè gì cả. Vừa quay ra cửa họ vừa bảo nhau rằng bọn người kia không
uống rượu ở đây nhưng giá mà phát hiện ra bằng chứng ở đây thì đẹp quá. Tôi
tiễn họ ra cửa và cố gặng hỏi xem vừa có chuyện gì.
Mãi lúc ra đến cổng, một người trong số bọn họ mới
trả lời tôi, giọng lầu bầu:
- Đi tong hết rồi. Thi thể chỗ còn chỗ mất, chết không
vẹn xác.
Một người khác nói thêm:
- Đã thấm vào đâu! Tàu tốc hành 21 suýt trật đường
ray kia kìa!
Và họ đi luôn.
Ai, họ là ai? Chết hết cả rồi ư? Những ai mà chết
hết? Matriona đâu rồi?
Tôi quay ngay vào nhà, vén mành chui xuống bếp. Mùi
rượu ngang xộc vào mũi đến phát buồn nôn. Cả một bãi chiến trường: ghế đẩu, ghế
dài để ngổn ngang, chai không lăn lóc, một chai rượu còn uống dở, cốc lớn cốc
bé, cá trích bỏ thừa, hành, mỡ lợn vụn vặt.
Đúng là một cảnh tang thương. Chỉ có những con gián
là vẫn bình thản bò đi bò lại trên chiến địa hoang tàn.
Tôi lao vào dọn dẹp. Tôi súc rửa chai, dọn sạch bàn
ăn, chuyển ghế ra ngoài, chỗ rượu ngang còn thừa thì đem giấu xuống căn hầm tối
om, tít tận trong góc.
Mãi đến lúc xong việc tôi mới đứng đực ra giữa ngôi
nhà trống trải: không biết người ta nói cái gì về tàu tốc hành 21 ấy. Chuyện gì
vậy? Có thể là ban nãy mình nên để cho họ thấy hết cảnh tượng này? Tôi bắt đầu
thấy hoang mang. Nhưng sao lại có cái tác phong khốn nạn coi thường quần chúng
như thế? Không giải thích gì cho dân hiểu cả.
Cánh cổng bỗng rít lên ken két. Tôi chạy vội ra:
- Matriona Vaxilievna đấy ư?
Bà bạn Masa của Matriona loạng choạng bước vào nhà:
- Matriona... Ôi Matriona của chúng ta, Ignatitr
ơi...
Tôi dìu bà ra ghế ngồi và bà bắt đầu kể với giọng sụt
sùi.
Đường cái cắt ngang đường sắt trên một mỏm đồi, rất
dốc. Không có chắn tàu. Chiếc xe trượt thứ nhất vừa được kéo qua thì tuột cáp,
và chiếc xe trượt thứ hai, chiếc xe đóng lấy ấy, rung lên và gẫy răng rắc ngay
giữa đường tàu - Faddeia đã không cho gỗ tốt để đóng cái xe này. Gã lái máy kéo
và cậu con trai thọt của Faddeia kéo chiếc xe trượt thứ nhất ra ngoài một quãng
rồi lùi máy kéo lại để móc cáp vào chiếc xe trượt thứ hai. Matriona không hiểu
thế nào cũng lẽo đẽo chạy theo, lọt vào quãng giữa chiếc máy kéo và chiếc xe
trượt ấy. Mà bà ấy thì làm được cái quái gì cho bọn đàn ông cơ chứ. Lúc nào bà
ấy cũng xen vào công việc của đàn ông. Ngày xưa bà ấy suýt bị ngựa quật xuống
hố băng trên hồ rồi ấy chứ. Mà bà ấy mò ra quãng đường tàu khốn nạn ấy làm gì
không biết? Căn nhà phụ thì cho rồi, làm hết bổn phận rồi. Thằng tài xế xe lửa
đang trố mắt canh chừng chuyến tàu từ Trerusti sang, quyết phát hiện sớm đèn
hiệu của tàu, thì từ chiều ngược lại, từ phía nhà ga ấy, có hai cái đầu máy nối
nhau chạy giật lùi, không có đèn hiệu. Sao lại không có đèn thì chưa rõ chứ nếu
đầu máy chạy giật lùi thì thằng tài xế xe lửa sẽ bị bụi than ở toa than nước
bay vào mắt, nhìn không rõ nữa. Thế là cả ba người lúc bấy giờ đang lúi húi
giữa chiếc máy kéo và chiếc xe trượt, đều bị hai cái đầu tàu nghiền nát. Máy
kéo bị hỏng, xe trượt thành gỗ vụn, đường ray chổng ngược lên, cả hai đầu tàu
đều đổ kềnh ra.
- Hai cái đầu máy lao tới mà họ lại không nghe thấy
gì ư?
- Máy kéo đang nổ máy ầm ầm mà lị.
- Còn xác ba người thì thế nào?
- Người ta chưa cho tới gần. Còn bảo vệ hiện trường.
- Tôi có nghe nói về chuyến tàu tốc hành... Tàu tốc
hành hay sao ấy nhỉ?...
- Còn chuyến tàu tốc hành mười giờ thì xuất phát từ
ga, cũng đang trên đường đến đấy.
Nhưng khi hai chiếc đầu máy đổ thì hai gã lái tàu
may phúc nhảy ngay ra được, họ chạy ngược trở lại và vẫy tay ra hiệu cho tàu
dừng lại và đoàn tàu đã kịp dừng lại ngay trước mấy đoạn đường ray chổng
ngược... Thằng cháu ông già cũng bị chấn thương vì gỗ súc. Nó đang trốn ở nhà
Klavka, không muốn cho mọi người biết là nó cũng theo ra đó. Lại phải đứng ra
làm chứng thì rầy!... Ngu si hưởng thái bình là hơn cả... Còn chồng Kira may mà
không hề hấn gì. Hắn thắt cổ tự tử nhưng được mọi người cứu thoát. Hắn nói:
Chính vì tôi mà cô tôi chết, anh tôi chết. Hắn ra đầu thú ngay, bị giữ rồi.
Nhưng còn trò gì nữa, vào nhà thương điên thì có. Ôi Matriona, Matriona yêu
quý... Matriona không còn nữa. Một người thân yêu đã bị giết hại. Vậy mà ngay
trong ngày tận thế, tôi đã bực với bà về cái áo bông.
Cô gái được vẽ bằng màu sắc đỏ vàng lòe loẹt trong
tờ quảng cáo sách vẫn mỉm cười vui vẻ.
Bà Masa ngồi khóc thêm một lúc. Và khi đã đứng lên
để ra về, bà chợt hỏi:
- Ignatitr này! Anh có nhớ... có cái áo len màu xám
của Matriona... Bà ấy có dặn là mai kia bà ấy mất thì bé Tanka nhà tôi sẽ được
nhận cái áo, đúng không anh?
Trong ánh sáng mờ ảo, bà nhìn tôi với vẻ hi vọng: lẽ
nào tôi lại quên?
Nhưng tôi vẫn nhớ:
- Bà ấy có dặn, đúng đấy.
- Thế thì thế này, anh cho tôi cầm luôn nhé? Sáng
mai người nhà họ đến thì còn lấy thế nào được nữa.
Và người bạn nửa thế kỷ của Matriona, người duy nhất
trong làng chân thành yêu mến bà lại đưa mắt nhìn tôi với vẻ khẩn cầu và hi
vọng...
Có lẽ phải thế thôi.
- Tất nhiên... Bà cầm về đi... - tôi đồng ý.
Bà ta mở cái rương con, lấy cái áo ra thu vào vạt áo
và ra về.
Lũ chuột lên cơn điên, chạy loạn xạ trên vách, và
tệp giấy bồi tường màu xanh lá mạ nhấp nhô dợn sóng trên lưng chuột.
Tôi chẳng biết đi đâu nữa. Tự người ta sẽ còn đến
với tôi, lấy lời khai của tôi. Sáng mai tôi vẫn phải đến trường. Đã hơn hai giờ
sáng. Tốt nhất là khóa cửa đi nằm.
Phải khóa cửa vì Matriona không còn trở về nữa.
Tôi đi nằm mà không tắt đèn. Lũ chuột vẫn rít lên,
gần như rên rỉ và chạy đi chạy lại liên hồi. Đầu óc mệt mỏi, ý nghĩ rời rạc,
tôi không thể nào xua đuổi được nỗi sợ đang ám ảnh tôi: dường như Matriona đang
cuống cuồng chạy đi chạy lại để nói lời từ biệt với xung quanh, với ngôi nhà
của mình.
Và đột nhiên tôi mường tượng thấy Faddeia hiện ra
trước cửa ra vào, râu tóc đen nhánh, tay lăm lăm cái rìu: “Nếu nó không phải là
em ruột ta thì ta đã băm chết cả hai!”.
Bốn chục năm qua, lời đe dọa của lão vẫn hiện hữu
trong nhà như một lưỡi tầm sét treo lơ lửng, và nó đã giáng xuống phũ phàng đến
vậy.
Phần 5
Trời vừa rạng sáng, các bà các chị đã đưa từ hiện
trường về tất cả những phần thi thể còn lại của Matriona trên một chiếc xe
trượt tuyết, bên trên đậy tạm một chiếc bao bẩn thỉu. Người ta bỏ cái bao ra,
rửa sạch thi hài. Cả đôi chân, một nửa thân mình và toàn bộ tay trái lẫn hết
vào nhau trong một đống bèo nhèo. Một phụ nữ làm dấu thánh giá và nói:
- Chúa đã để lại tay phải cho bà. Lên trên ấy bà cầu
tụng Chúa...
Và rồi tất cả đám cây cảnh mà Matriona yêu quý đến
nỗi có lần vào ban đêm bị khói làm tỉnh giấc, bà đã không sợ cháy nhà mà lại
lao ra bê hết chậu cảnh xuống sàn nhà vì sợ cây chết ngạt, tất cả các chậu cây
được mọi người bỏ hết ra ngoài. Tấm gương đã mờ của Matriona được phủ kín bằng
một chiếc khăn dệt bằng máy gia đình cổ lỗ. Những tấm áp phích hội hè dán trên
vách được gỡ ra. Chiếc bàn của tôi được đẩy gọn vào trong. Bên dãy cửa sổ, dưới
ảnh thánh, cỗ áo quan đóng sơ sài đã được đặt lên những chiếc ghế đẩu.
Trong cỗ áo là Matriona. Thi thể hao khuyết và đầy
thương tích của bà được đậy bằng một tấm ga sạch, đầu phủ một vuông khăn trắng,
còn khuôn mặt vẫn gọn gàng, bình thản, cứ như mặt người còn sống.
Người làng lần lượt đến bên linh cữu để vĩnh biệt
bà. Chị em dắt cả con thơ đến vĩnh biệt bà.
Và nếu có tiếng khóc cất lên thì tất cả đàn bà con
gái, kể cả những người chỉ ghé qua vì tò mò, đều nhất thiết khóc theo như hát
đồng ca. Nam
giới thì bỏ mũ đứng im.
Bản thân việc khóc, người nhà cũng phải canh chừng.
Tôi nhận ra trong chuyện khóc than này một tập tục lâu đời, nghiêm ngặt. Người
họ xa thì chỉ đến bên linh cữu trong chốc lát, lầm rầm khấn nguyện đôi câu.
Người tự cho mình là họ hàng ruột thịt thì khóc ngay từ ngưỡng cửa, rồi cúi sát
mặt người quá cố để kêu than.
Nhạc điệu khúc bi ca thì tùy ý mỗi người, tự biên tự
diễn. Miễn sao giãi bày được hết khúc nhôi.
Có dịp này tôi mới biết việc khóc trong đám ma không
hề đơn giản, nó là một hoạt động chính trị đặc biệt. Ba bà em của Matriona kéo
nhau về chiếm lĩnh ngôi nhà, con dê và cái bếp lò, khóa trái cái rương của bà
chị lại, lôi trong lớp lót áo bành tô ra hai trăm rup tiền tang lễ, chỉ có họ
là người gần gũi của Matriona. Và họ khóc trên linh cữu:
- Ối chị ơi, chị yêu quý ơi! Chúng em chỉ có chị
thôi, còn ai đâu hở chị! Chị hiền lành như thế mà lại bỏ mà đi! Chị ở lại với
đời bao giờ chả có chúng em bên chị! Căn nhà phụ của chị nó giết chị rồi! Căn
nhà phụ khốn nạn kia nó hại chị rồi! Chị dỡ nó ra làm gì cơ chứ? Mà sao chị lại
không nghe lời chúng em hở chị?
Lời than khóc của ba bà là bản luận tội cánh họ hàng
nhà chồng Matriona: họ ép buộc Matriona tháo dỡ căn nhà mới nên nông nỗi này
đây! Và còn ngụ ý: nhà phụ có lấy thì lấy chứ nhà chính thì đừng hòng!
Họ hàng nhà chồng gồm các chị em gái của Efim và
Faddeia cùng các cháu gái cũng kéo đến khóc:
- Mợ ơi! Thím ơi! Bác ơi! Mợ thật là không biết giữ
lấy thân! Bây giờ thế nào người ta chả oán chúng tôi! Mợ thân yêu ơi, việc này
chỉ tại mợ thôi! Chứ căn nhà nó có tội tình gì đâu hở mợ! Mà sao mợ lại mò ra
đúng cái nơi thần chết đang rình rập mợ? Có ai khiến mợ ra đấy đâu cơ chứ! Sao
lại chết oan chết uổng thế này! Sao mợ lại không nghe lời chúng tôi hở mợ?
(Bài khóc đã toát lên lời giải đáp: chúng tôi không
có lỗi gì trong cái chết của bà ấy cả, còn việc ngôi nhà sẽ nói chuyện sau!)
Nhưng Matriona “thứ hai”, một phụ nữ cục mịch, mặt
to bự, người từng được Faddeia rước về làm vợ chỉ vì mỗi cái tên, thì đã đi
chệch hướng, chỉ biết gào lên đau đớn, thật thà:
- Chị gái ơi là chị gái ơi! Chị giận gì em mà đến
nông nỗi này hả chị? Ối giời đất ôi!... Chị em mình đã phơi bày hết ruột gan ra
với nhau rồi! Chị thứ lỗi cho em, đứa em khốn khổ này! Ối giời đất ôi! Chị đã
về với mẹ chị rồi... nhưng rồi cũng có ngày quay lại đón em! Ối giời đất ôi!
Mỗi lần “ối giời” là bà lại rũ ra và hẩy ngực thình
thình vào vách áo quan. Và khi sự khóc than đã vượt qua giới hạn nghi lễ thì
các bà các chị đồng thanh lên tiếng như cùng nhất trí công nhận việc khóc than
đã đạt yêu cầu:
- Thôi! Thôi!
Matriona lui ra nhưng sau đó lại quay lại và còn kêu
khóc dữ hơn. Một bà già lụ khụ từ trong góc nhà bước ra, đặt tay lên vai
Matriona, nói với giọng nghiêm khắc:
- Chuyện sinh tử trên đời là bí hiểm lắm thay, biết
làm sao được!
Matriona nín ngay và mọi người đều lặng phắc.
Nhưng chỉ một lát sau, chính bà già lụ khụ này cũng
khóc. Cụ là người cao tuổi hơn nhiều so với tất cả các bà già có mặt ở đây và
dường như chẳng có quan hệ gì với Matriona. Cụ than:
- Ôi em ơi, đau lòng chị lắm em ơi! Vaxilievna của
chị ơi! Tao chán tiễn đưa chúng mày lắm rồi!
Và hoàn toàn không còn mang tính nghi thức nữa, mà
bằng tiếng khóc thực lòng của thời đại chúng ta, một thời đại không thiếu gì
tiếng khóc, người con gái nuôi bất hạnh của Matriona đã khóc thương bà, cô
chính là Kira ở Trerusti, người có căn nhà được mọi người vận chuyển và phá hủy
như ta đã biết. Đầu bù tóc rối, cặp mắt đỏ hoe. Cô chẳng còn biết khăn quàng
trên cổ đã rơi mất lúc nào giữa tiết trời lạnh giá, mặc bành tô thì quên cả xỏ
tay. Cô đi như người mất hồn từ linh cữu mẹ nuôi ở bên này sang linh cữu anh
trai ở bên kia, mọi người còn sợ cô không khéo loạn thần kinh mất vì chồng cô
chắc chắn phải ra tòa.
Chồng cô đã phạm hai tội cùng một lúc: anh không
những đã vận chuyển căn nhà, mà còn là một tài xế xe lửa, nắm được quy tắc chạy
tàu khi vượt qua những giao điểm không có cảnh giới, lẽ ra anh phải đến nhà ga
để báo trước về chuyến máy kéo. Đêm đó, trên chuyến tàu tốc hành từ Ural, một
ngàn mạng sống đang yên giấc trên hai tầng giường dưới ánh đèn êm dịu ấy có thể
đã tiêu vong, chỉ vì lòng tham của mấy người muốn kiếm một mảnh đất, hoặc không
muốn mất thêm một chuyến máy kéo.
Duyên do là ở căn nhà đã bị nguyền rủa từ khi
Faddeia ra tay tháo dỡ nó.
Tuy nhiên, gã lái máy kéo thì đã thoát tội chốn trần
gian. Còn chính Cục giao thông thì vừa có lỗi ở chỗ một giao điểm giữa đường
sắt và đường bộ nhộn nhịp như thế mà không có cảnh giới, vừa có lỗi trong việc
hai cái đầu máy lôi nhau chạy không đèn. Chính vì thế mà lúc đầu người ta đã
tìm cách đổ vạ cho rượu, còn bây giờ thì không muốn đưa vụ việc ra tòa.
Đường bị hư hại nặng đến nỗi ba ngày liền, khi các
linh cữu đang quàn tại nhà, xe lửa phải vòng theo nhánh khác. Trong suốt mấy
ngày thứ sáu, thứ bẩy và chủ nhật, từ lúc kết thúc điều tra cho đến lúc cử hành
mai táng, đoạn đường được sửa chữa suốt ngày đêm. Thợ sửa đường bị rét cóng; để
sưởi ấm và thắp sáng vào ban đêm, họ cứ việc lấy không chỗ gỗ ván mà chiếc xe
trượt thứ hai trút ra ngang đường, đốt vô tội vạ.
Còn chiếc xe trượt thứ nhất vẫn ăm ắp gỗ, nguyên
lành, đứng lù lù cách đó không xa.
Suốt hai ngày thứ sáu và thứ bảy, lão râu đen
Faddeia cứ lấy làm bứt rứt về nỗi một chiếc xe trượt tuyết thì cứ như cố ì ra
đấy để trêu ngươi, còn chiếc kia thì vẫn còn có cách giải cứu khỏi ngọn lửa.
Con gái lão đã bắt đầu lẩn thẩn, con rể có nguy cơ phải ra tòa, con trai bị
chính lão đưa đến chỗ chết đang nằm trong nhà, người đàn bà mà lão đã từng yêu
và vừa bị sát hại cũng đang nằm đó, ngay trong xóm phố này thôi, vậy nhưng Faddeia
chỉ đến đứng chốc lát bên các linh cữu, tay giữ chòm râu. Vầng trán cao của lão
như trĩu nặng buồn thương nhưng đầu óc lão lúc này thì chỉ chăm chăm vào việc
giải cứu những súc gỗ khỏi ngọn lửa hung tàn và những mưu mô của bọn em gái
Matriona.
Quan sát dân làng Talnovo, tôi hiểu ra rằng ở nông
thôn không phải chỉ có duy nhất một Faddeia.
Người ta hay dùng chữ của chúng tôi hay của tôi một
cách lạ lùng. Và trước mắt mọi người, cứ mất của là đáng xấu hổ, là ngu.
Faddeia cứ thế chạy long sòng sọc, hết lên khu lại
lên cục, hết ban nọ đến phòng kia. Với tấm lưng còng và cây gậy chống, lão khẩn
khoản van xin từng cán bộ chiếu cố cho tuổi già của lão mà cho lão xin lại căn
nhà gỗ.
Cuối cùng lão cũng được cấp giấp phép. Lão tập hợp
đám con trai, con rể, cháu trai vẫn còn may mắn lại, mượn mấy con ngựa của nông
trang về, và rồi từ phía bên kia đoạn đường tàu đang được thi công bừa bộn,
bằng đường vòng xuyên qua ba làng, lão áp tải phần còn lại của căn nhà phụ về
nhà. Lão hoàn thành việc đó vào đêm thứ bảy rạng sáng chủ nhật.
Lễ an táng cử hành vào chủ nhật. Hai linh cữu gặp
nhau đúng giữa làng. Họ hàng bàn tính nên để cái nào đi trước. Rồi người ta đặt
hai cô cháu nằm cạnh nhau trên một cái xe trượt lớn. Dưới trời u ám, trên mặt
băng ẩm ướt của tháng hai, người ta đưa hai kẻ xấu số vào nghĩa địa nhà thờ
cách làng chúng tôi hai làng. Thời tiết xấu, lộng gió nên linh mục và thầy trợ
tế chờ trong nhà thờ chứ không sang Talnovo đón.
Từ ngoài vào đến cổng, đoàn người đi chậm và hát
thánh ca. Rồi dừng lại.
Đêm hôm trước, các bà các chị còn bận tíu tít trong
ngôi nhà của chúng tôi: một bà già lầm rầm khẽ hát thánh ca bên linh cữu, các
bà em của Matriona loay hoay nấu nướng bên chiếc bếp lò Nga hừng hực hơi nóng
tỏa ra từ khối than bùn đỏ rực, đây là than do Matriona vác từng bao tải từ một
đầm than cách xa làng. Họ làm những chiếc bánh nướng nhạt nhẽo bằng loại bột
xấu.
Sang ngày chủ nhật, từ lúc đi đưa đám về cho đến
tối, mọi người tập trung vào dự tiệc tưởng niệm. Bàn kê một dãy dài đúng vào
chỗ kê linh cữu lúc sáng. Thoạt tiên mọi người đứng xung quanh bàn và ông anh
rể ông Efim đọc kinh “Lạy Cha”. Rồi mỗi người được một tẹo nước mật pha rót vào
đáy bát. Để tưởng niệm vong linh, chúng tôi dùng thìa vét nước mật uống không.
Rồi chúng tôi ăn các thứ và uống vodca, chuyện trò rôm rả dần lên. Trước khi
uống nước trái cây, tất cả đứng lên hát “Kỷ niệm muôn đời” (mọi người cho biết
là nhất thiết phải hát bài này trước khi uống nước trái cây). Rồi lại uống
rượu. Mọi người nói mỗi lúc một to, không đả động gì đến Matriona nữa. Ông anh
rể ông Efim ba hoa:
- Thưa chư vị tín đồ Chính thống giáo, chư vị có
thấy hôm nay chúng ta hát kinh Cầu Siêu từ tốn không nào? Được như vậy là vì
cha Mikhail đã để mắt đến tôi. Cha biết là tôi biết việc kinh bổn mà. Không thì
cũng đến nhao nhao một lúc là chuồn, kính lạy các thánh!
Cuối cùng tiệc cũng đã tàn.
Mọi người nhất loạt đứng lên hát bài “Tâm khúc tôn
vinh”. Rồi hô vang ba lần để ghi sâu:
- Kỷ niệm muôn đời! Kỷ niệm muôn đời! Kỷ niệm muôn
đời!
Nhưng ai nấy giọng cũng đã khàn, lạc điệu mỗi người
một phách, mặt đần ra vì rượu, và chẳng ai còn vấn vương gì đến những kỷ niệm
muôn đời đó nữa.
Các vị khách quý lần lượt ra về, chỉ còn lại người
nhà, thế là cả bọn thoải mái dỡ thuốc lá ra đốt, cười đùa ầm ĩ. Câu chuyện bỗng
lái sang việc ông chồng bà Matriona mất tích, ông anh rể nói trên liền đấm ngực
thùm thụp, quả quyết với tôi và bác thợ giày, chồng của một bà em của Matriona:
- Chết rồi, ông Efim ấy, ông ấy chết rồi! Không chết
sao lại không về? Cứ như tôi thì dù có biết mười mươi là về quê sẽ bị treo cổ,
tôi cũng cứ về!
Ông thợ giày gật đầu tán thưởng. Thì ông vốn là lính
đào ngũ và quả thật chưa bao giờ rời bỏ quê hương: suốt mấy năm chiến tranh ông
được mẹ giấu kĩ dưới nhà hầm.
Bà lão già nhất làng, nghiêm nghị, ít nói, đêm nay
nghỉ lại đây, đang ngồi ở một chỗ cao, trên bệ lò sưởi. Bà lẳng lặng nhìn xuống
đám người ít tuổi toàn năm sáu chục xuân xanh đang nhao nhao hết cả lên, nom rõ
ngứa mắt.
Chỉ có người con gái nuôi bất hạnh, người đã lớn lên
ở chính nơi này, là lủi thủi bỏ ra sau dãy hàng rào, đứng khóc.
Faddeia không đến dự tiệc tưởng niệm Matriona, có
thể vì lão cũng đang phải ở nhà tưởng niệm con trai. Nhưng ngay những ngày sau
đó, với thái độ thù địch, lão đã hai lần đến ngôi nhà đó để thương lượng với ba
người em gái của Matriona và gã thợ giày, quân nhân đào ngũ.
Họ tranh cãi về việc ai là người được quyền thừa kế
căn nhà: em gái hay con nuôi. Việc đáng lý phải đưa ra tòa, nhưng họ đành đấu
dịu với nhau vì đã ngộ ra rằng tòa sẽ không xử cho ai cả, mà sẽ sung vào quỹ
của Xô viết xã. Họ kí giao ước với nhau. Con dê thuộc về một người em gái, ngôi
nhà thuộc về vợ chồng ông thợ giày, còn phần của Faddeia, “người đã tự tay đẽo
từng súc gỗ”, là căn nhà phụ đã lấy rồi, nhưng mấy chị em còn nhường nốt cho
lão cái chuồng dê và toàn bộ dãy rào trong, ngăn sân với nương vườn.
Một lần nữa, vượt qua bệnh tật cùng những cơn nhức
mỏi, lão già tham lam lại hoạt bát hẳn lên và trẻ hẳn ra. Lão lại tập hợp những
đứa con trai con rể vẫn còn may mắn lại, bắt tháo dỡ chuồng dê và hàng rào, còn
lão thì tự tay vận chuyển những súc gỗ bằng chiếc xe trượt tuyết con con, hết
chuyến này đến chuyến khác, mãi gần xong việc thằng Antoxca lớp 8G của lão mới
sang phụ giúp, hăng say đáo để.
Ngôi nhà Matriona được khóa trái lại cho đến tận mùa
xuân. Tôi chuyển sang nhà một bà chị gái Efim, cách đấy không xa. Về sau, vào
những dịp khác nhau, bà chị chồng có hồi tưởng lại ít nhiều về Matriona và
dường như từ một góc độ khác đã giúp tôi nhận rõ được chân dung của người quá
cố.
- Efim không yêu cô ấy. Cậu ấy nói: Em thích ăn mặc
một cách văn minh, còn cô ấy độc một lối quê mùa. Một lần tôi với cậu ấy ra
thành phố làm thuê, cậu ấy bắt được một em, thế là không muốn về với Matriona
nữa.
Mọi lời bình phẩm của bà về Matriona đều có ý chê
bai: nào là người ngợm bẩn thỉu, nào là không lo mua sắm, nào là không biết
dành dụm, thậm chí lợn cũng không nuôi, (không thích chăn nuôi chứ lị!) Rồi thì
ngu ngốc, độc đi làm đầy tớ không công cho thiên hạ (bà nhắc chuyện này vào dịp
không gọi được người cày nương). Ngay cả sự tốt bụng và tính thật thà chất phác
của Matriona mà bà không phủ nhận, bà cũng nói đến với vẻ thương hại mà thôi.
Và mãi đến lúc này, từ những ý chê bai của bà chị
chồng, tôi mới thấy hiện rõ trước mắt mình một Matriona mà tôi chưa từng thấu
hiểu, dù vẫn ở ngay bên bà.
Người ta nói không sai! Nhà nào cũng nuôi lợn cả.
Nhưng bà lại không nuôi. Còn gì dễ bằng nuôi một chú lợn con háu ăn, chỉ biết
có ăn! Ngày ba lần nấu bữa cho nó, sống vì nó để rồi giết thịt và lấy mỡ.
Vậy mà bà không có...
Không lo sắm sửa trong nhà... Không lăn lộn kiếm
tiền để tậu đồ đạc và giữ cho nó được bền lâu hơn cả cuộc đời mình.
Không chạy theo quần nọ áo kia. Không chạy theo
những bộ cánh vẫn tô vẽ cho cái vỏ bề ngoài của những kẻ xấu xa, độc ác.
Không được chính chồng mình hiểu, bị chồng ruồng bỏ,
từng chôn sáu đứa con nhưng không chôn vùi đức hạnh - lòng vị tha hào hiệp của
mình, xa lạ với chị em ruột, chị em chồng, ngớ ngẩn đến buồn cười, độc đi làm
đầy tớ không công cho thiên hạ một cách ngu ngốc, bà đã không dành dụm được gì
cho cái ngày nhắm mắt xuôi tay.
Con dê có bộ lông màu trắng đục, con mèo thọt chân,
những chậu cây cảnh...
Tất cả chúng tôi đều đã sống bên cạnh bà mà không
hiểu rằng bà là một tín đồ mộ đạo trang nghiêm mà không có họ, nói như tục ngữ
Nga là:
Không có thôn
làng.
Không có thành
phố.
Không có cả
trái đất này của chúng ta.
Hết
1959-1960, Ac-Metset -
Riazan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét