Chương 21 - Tuổi già
Vị Bất tử, tâm trí xúc động vì những tư tưởng lớn, đi đi lại
lại trong văn phòng đêm. Một thứ âm nhạc nội tâm dìu dặt vang lên trong hồn Người,
một ban nhạc vô hình vĩ đại dường như đang tấu nhạc cho riêng Người thưởng
thức.
Những kẻ bất mãn? Không sao. Ở đâu cũng có những kẻ bất mãn,
thời nào cũng có những kẻ bất mãn. Sẽ không bao giờ hết được những kẻ bất mãn.
Kiểm điểm lại quá trình tiến hóa không mấy phức tạp lắm của
lịch sử nhân loại, Stalin biết rằng với thời gian, con người sẽ tha thứ tất cả,
sẽ quên hết, hơn thế nữa, sẽ nhớ lại những cái xấu như những cái tốt. Con người
đều như Lady Anne, nàng sương phụ trong vở kịch Richard III của Shakespeare.
Cơn giận của họ ngắn ngủi, chóng tàn, ý chí của họ không kiên cường, trí nhớ
của họ yếu kém – và bao giờ con người cũng vui lòng thuận phục hoàn toàn kẻ
thắng.
Chính vì vậy Stalin nghĩ rằng y phải sống cho đến chín mươi
tuổi – bởi vì cuộc chiến đấu chưa chấm dứt, cuộc xây dựng chưa hoàn thành và ở
đời này không có người nào thay thế được y.
Sống để phát động và để thắng cuộc chiến tranh cuối cùng.
Sống để tiêu diệt bọn địa cầu xã hội Tây phương như loài sâu bọ, để giết hết
tất cả những kẻ chưa chịu thua trận trên thế giới. Sau đó, tất nhiên tăng cao
năng suất lao động đến mức độ kỷ lục, giải quyết những vấn đề kinh tế. Chỉ có y,
Stalin, biết con đường đưa nhân loại đến hạnh phúc, biết cách nắm cổ nhân loại
đi vào hạnh phúc như nắm cổ một con chó mù dí vào đĩa sữa - “Đó, ăn đi.”
Và sau đó?
Trước đây có một người đích thực là người – người đó là
Bonaparte. Người này đã không thèm để ý gì đến những lời sủa bậy của bọn
Jacobin, đã tự tuyên bố mình là Hoàng đế. Và Bonaparte làm vậy là đúng.
Danh từ “Hoàng đế” không có gì là xấu cả. Danh từ ấy cũng
chỉ có nghĩa là “Lãnh tụ, Chỉ huy”.
“Hoàng đế Địa cầu”. Nghe được đấy chứ?
Đối với tư tưởng cộng sản thế giới, việc xưng danh Hoàng đế
không có gì là mâu thuẫn.
Stalin vẫn bước đi trong phòng, ban nhạc vẫn tấu nhạc.
Sống đến chín mươi tuổi và từ nay đến đó, rất có thể họ sẽ
tìm ra được một thứ thuốc, hoặc những biện pháp nào đó làm cho y trở thành bất
tử. Liệu có thể như thế không? Không, chắc không kịp đâu.
Nhưng bỏ nhân loại lại cho ai? Ai sẽ kế tục lo lắng cho nhân
loại? Chúng sẽ làm hỏng hết cho mà coi.
Sẽ có nhiều cơ sở vĩ đại nữa được dựng lên vì Stalin. Kỹ
thuật khoa học sẽ có thể giúp sức vào việc tuyên truyền chủ nghĩa. Ta sẽ có thể
gọi cách đó là cách tuyên truyền bằng đài kỷ niệm. Sẽ đặt một đài kỷ niệm trên
đỉnh núi Kazbek, một đài khác ở trên đỉnh núi Elbrus – đầu của mình sẽ vĩnh
viễn cao hơn mây trắng. Đến lúc đó mình sẽ có thể chết được. Người vĩ đại nhất trong
những người vĩ đại, vĩ nhân của những vĩ nhân, thiên tài vô song trong lịch sử
trái đất.
Bỗng dưng Stalin dừng lại.
Ở trên cao kia thì sao? Trên trái đất này không có ai bằng
được Stalin, điều đó đúng rồi, nhưng còn ở trên kia?
Y lại bước đi, nhưng giờ đây những bước đi của y chậm hơn,
nặng hơn trước.
Thỉnh thoảng, vấn đề chưa được giải quyết đó lại trở về ám
ảnh tâm trí Stalin.
Thật ra, vấn đề đó chẳng có gì mơ hồ. Tất cả những gì cần
chứng minh đều đã được chứng minh đầy đủ từ lâu, những gì dựng chặn ở giữa
đường đều đã bị dẹp đi, bị chứng minh là sai bậy. Đã chứng minh rằng vật chất
không hề bị tiêu diệt và cũng không hề được sinh ra. Đã chứng minh rằng vũ trụ
này vô biên. Đã chứng minh rằng đời sống bắt đầu một cách dễ dàng ở trong khoảng
không ấm áp. Đã chứng minh rằng người ta không thể chứng minh được sự hiện hữu
của Chúa Trời, sự đã sống thật của Jesus Christ. Đã chứng minh rằng tất cả
những phép lạ, những tiên tri, những sự kiện tinh thần không có vật chất đều là
những chuyện bà già lẩm cẩm.
Những sự cấu tạo của linh hồn, những gì ta yêu ghét, những
gì ta quen đều được thực hiện trong tuổi trẻ, không phải sau tuổi trẻ. Trong
thời gian gần đây những ký ức về tuổi thơ xưa đã trở thành mạnh mẽ trong tâm
trí Stalin.
Cho đến tuổi mười chín y đã sống trong tinh thần Cựu ước và
Tân ước, sống với Cựu ước và Tân ước, sống với cuộc sống của những vị Thánh Gia
Tô và lịch sử đạo Gia Tô. Y giúp lễ trong nhà thờ, hát trong ban đồng ca, và y
thích hát bài ca của Stroikin nhan đề: “Giờ đây các người đã được tha thứ”.
Ngay cả bây giờ y vẫn có thể hát bài đó không sai một âm giai. Cũng không biết
bao nhiêu lần trong khoảng mười một năm học ở trường nhà Dòng và trong Tu viện,
y từng đến gần những pho tượng và nhìn vào những đôi mắt huyền bí ấy. Y ra lệnh
cho bức hình chụp y những năm đó phải in vào tập Tiểu sử ấn hành nhân lễ Kỷ
niệm Sinh nhật năm nay của y. Djugashvili, tốt nghiệp Chủng học viện. Trong bức
hình ấy y là một gã thiếu niên mới lớn, khuôn mặt mệt mỏi vì những giờ cầu
nguyện dài, bận chiếc áo dòng xám kín cổ, mái tóc dài rẽ đường ngôi nghiêm khắc
ở giữa, vẻ mặt khắc khổ dọn mình cho cuộc sống tu hành khổ hạnh, những sợi tóc
y dính dầu đèn phủ xuống tận hai tai, chỉ có đôi mắt và đôi lông mày hơi nhíu
lại cho người ta thoáng thấy gã tu sinh ngoan ngoãn ấy sẽ có ngày trở thành một
nhân vật quốc tế.
Linh mục Abakumov, vị Thanh tra của Tòa Tổng Giám mục, người
đã trục xuất Djugashvili ra khỏi tu viện, được chính Stalin ra lệnh để yên
không được chạm đến. Để cho ông già ấy sống nốt những ngày còn lại trong đời
ổng.
Và trong ngày mùng ba tháng bảy năm 1941 ấy, trước những ống
micro cổ họng y nghẹn lại vì sợ và tự thương hại mình (ở đời này không có kẻ
nào hoàn toàn không thương hại mình). Không phải là tự nhiên mà những “đám con
chiên” thốt ra trên môi Stalin. Lênin hay bất cứ một lãnh tụ nào khác, không
thể nghĩ đến chuyện nói ra những tiếng ấy.
Môi y đã nói ra những lời y từng học nói khi y còn trẻ.
Đúng, và trong những ngày tháng bảy năm ấy có thể y đã thầm
cầu nguyện, cũng như nhiều kẻ vô đạo vẫn làm dấu thánh giá mỗi khi có những
trái bom rơi xuống.
Trong những năm gần đây y hài lòng nhiều khi thấy những bài
kinh cầu trong các giáo đường kể y là lãnh tụ được Chúa chọn. Chính vì thế mà y
đã tích cực giúp đỡ bằng tiền của Krelin cho Trung tâm Gia Tô giáo Chính Thống
Nga La Tư ở Zagorsk .
Stalin không tiếp bất cứ một vị nguyên thủ của một cường quốc nào trên thế giới
trịnh trọng và thân thiết như khi y tiếp vị Giáo chủ già lão, lẩm cẩm của chính
y. Y đi ra tận cửa ngoài để đón ông này, y cầm tay ông đưa đến tận bàn. Y từng
nghĩ đến việc mua tặng ông già này một trang trại nào đó, như những kẻ muốn cho
linh hồn mình được bảo đảm vẫn từng tặng những giáo sĩ ngày xưa.
Stalin từng nhận thấy y có khuynh hướng ngả về không những
chỉ là Giáo Hội Chính Thống mà thôi, y ngả về tất cả những sự kiện, những ngôn
ngữ thuộc về thế giới cũ, cuộc sống cũ – thế giới sản xuất ra y, cái thế giới
mà vì bổn phận, y từng tiêu diệt bằng đủ mọi cách trong bốn mươi năm qua.
Trong những năm 30, vì nhu cầu chính trị, y đã làm sống lại
danh từ “quê hương” bị lãng quên và không được dùng đến trong vòng mười lăm năm
qua, đã trở thành một danh từ gần như xấu xa. Rồi với thời gian, chính y cũng
cảm thấy thích thú khi nói đến những danh từ như “Nga La Tư” và “quê hương”. Y
trở thành yêu mến những người dân Nga – những người không bao giờ phản bội y,
những người chịu đói khổ trong nhiều năm và còn chịu đói khổ trong nhiều năm
nữa nếu cần, những người thản nhiên đi ra mặt trận, đi đến trại tập trung, đến
mọi tình trạng khổ cực và không bao giờ chống đối, phản kháng. Sau cuộc chiến
thắng, Stalin nói một cách thành thật rằng dân Nga có một tinh thần trong sáng,
một ý chí cứng cỏi và sự nhẫn nại.
Với năm tháng, Stalin càng ngày càng ước muốn ngay cả y cũng
được công nhận là một người dân Nga.
Y cảm thấy cả sự thích thú trong việc dùng danh từ gợi lại
thế giới cũ: Y không dùng danh từ “Trưởng Trường” mà dùng “Hiệu trưởng”, không
dùng “Ban Chỉ huy” mà dùng “Ban Sĩ quan”, không dùng cái tên Ủy ban Hành pháp
Trung ương Toàn Nga mà là Hội đồng Xô Viết Tối cao (Tối Cao là một danh từ nghe
hay đấy chứ). Sĩ quan phải có “cận tá”, tức quân hầu. Nữ học sinh trung học
phải học riêng lớp, bận đồng phục với áo có yếm, trả học phí. Dân Xô Viết phải
có ngày nghỉ cũng giống như dân Gia Tô giáo, và ngày nghỉ đó cũng là chủ nhật
chứ không phải là một ngày nào khác. Chỉ những hôn nhân hợp pháp mới được công
nhận, tình trạng này không khác gì tình trạng hôn nhân dưới thời Nga Hoàng, mặc
dù chính cá nhân Stalin từng khổ sở, khốn nạn vì cái luật ấy trước kia. Y quyết
định như thế và y không cần biết Engels đã nghĩ gì về vấn đề ấy.
Chính là ở trong văn phòng làm việc ban đêm này y đã đứng
trước gương bận thử bộ áo có cầu vai cổ điển của dân Nga – và cảm thấy hài lòng
thật sự.
Sau cuộc phân tích cuối cùng, y thấy chẳng có gì đáng để xấu
hổ nếu y mang chiếc vương miện lên đầu. Vương miện là cái gì? Nó chỉ là vật
biểu hiệu của một quyền uy tối thượng, vật làm một người khác thường khác hẳn
với người thường. Dù ai nói gì thì nói, chế độ quân chủ cũng là một chế độ lâu
bền nhất, vững vàng nhất trong lịch sử nhân loại. Tại sao ta lại không dùng
những cái hay, cái tốt của nó?
Mặc dù cuộc đầu hàng của hải cảng Arthur chỉ làm cho y hài
lòng trong thời gian y đang lưu vong sau khi trốn khỏi tỉnh Irkutsk, y vẫn
không lầm khi Nhật Bản đầu hàng năm 1945 rằng vụ hải cảng Arthur là một vết đau
đớn trên tự ái riêng của y và của toàn thể dân Nga thế hệ cũ.
Đúng, đúng, dân Nga thế hệ cũ. Đôi khi Stalin nghĩ rằng có
lẽ không phải là do sự ngẫu nhiên hay may mắn mà y trở thành người lãnh đạo xứ
sở này, người được toàn thể dân chúng yêu thương, tin cậy – y được chọn chứ
không phải là bọn người nói giỏi, ưa phản đối nhưng mất gốc, bọn người không có
ý kiến rõ rệt nào cùng nổi tiếng một thời với y.
Bọn người đó ở đây, ngay trong phòng này – chúng sắp hàng
trên những kệ sách kia. Tư tưởng của chúng bị dồn nén ở đây giữa những trang
giấy trong khi chúng đã bị bóp cổ cho đến chết, thắt cổ, bắn, vùi trong những
đống mạt cưa, những đống phân bón ở những trại tập trung, bị đốt, bị đánh thuốc
độc, bị chết vì những tai nạn xe hơi hoặc chết vì chính tay chúng. Chúng đã bị
tiêu trừ, bị tận diệt – nhưng mỗi đêm chúng vẫn trình bày với Stalin những ý
tưởng của chúng trên những trang sách. Từ những kệ sách, chúng lắc đầu, đong
đưa những bộ râu, chúng vặn hai bàn tay vào nhau tức tối, chúng la lối: “Tôi đã
cảnh cáo trước về tình trạng ấy. Tôi đã nói làm như thế không được, đồng chí
phải làm cách khác!”. Chính vì thế mà Stalin đã thu thập chúng về đây, để y
thêm thù hận khi y quyết định ban đêm.
Ban nhạc vô hình tấu nhạc theo bước chân y đã ngừng tiếng.
Hai chân Stalin bắt đầu tê nhức, y cảm thấy y như sắp hết
còn đi lại được. Hai chân y, từ cạnh sườn trở xuống, nhiều lần đã không còn đáp
ứng được ý muốn của y.
Vị chủ nhân của nửa trái đất, trong bộ quân phục hàm Thống
chế, từ từ lướt ngón tay trên gáy những cuốn sách trong kệ sách, y duyệt lại
những kẻ thù của y.
Và khi từ kệ sách cuối cùng quay lại, y trông thấy cái máy
điện thoại trên bàn.
Ý nghĩ vẫn lẩn trốn trong tâm tí y suốt đêm này một lần nữa,
quẫy mình như một con rắn thoáng hiện rồi lại biến mất.
Hồi nãy y đã nhớ đến chuyện này. Y nhớ rằng y cần hỏi
Abakumov về một chuyện gì đó nhưng không sao nhớ đó là chuyện gì. Hồi nãy y đã
hỏi Abakumov về chuyện Gomulka. Nhưng đó không đúng là chuyện y muốn hỏi.
Nhớ rồi. Y bước vội tới bàn, cầm cây bút và viết xuống cuốn
sổ ghi: “Điện thoại bí mật”.
Họ đã báo cáo với y là họ đã tập trung được những chuyên
viên tài giỏi nhất, họ đã có đủ dụng cụ cần thiết, và tất cả mọi người đều sốt
sắng, hăng hái thực hiện bộ máy điện thoại đặc biệt cho Lãnh tụ dùng. Một hạn
kỳ được ấn định – vậy mà tại sao đến bây giờ vẫn chưa thấy hoàn thành?
Abakumov, thằng chó đẻ, ngồi đây cả tiếng đồng hồ nhưng không hề nói nửa tiếng
đến công tác đó.
Tác phong chung của chúng ta là như thế, trong mọi ngành,
mọi cơ sở, tên nào cũng chỉ lo chăm chăm đánh lừa Lãnh tụ. Làm sao có thể tin
được bọn chúng? Làm sao mà không làm việc ban đêm cho được?
Choáng váng và sây sẩm mặt mày, Stalin ngồi vội xuống ghế. Y
không ngồi xuống chiếc ghế y vẫn ngồi sau bàn mà là ngồi xuống chiếc ghế nhỏ
đặt ngay cạnh bàn.
Nửa đầu bên trái của y như bị siết chặt ở chỗ thái dương,
như có một sức mạnh kéo đầu y nghiêng về phía đó. Luồng tư tưởng của y tan vỡ.
Với mắt nhìn thất thần, y nhìn một vòng quanh phòng, nhưng không thấy cả bốn
bức tường.
Già đi như một con chó già. Một tuổi già không có bạn. Một
tuổi già không có tình yêu thương. Một tuổi già không có lòng tin. Một tuổi già
không có ước muốn.
Y không còn cả cần đến cô con gái yêu của y, cô con y chỉ
còn được phép gặp y vào những ngày nghỉ lễ.
Cái cảm giác trí nhớ phai nhạt, tinh thần yếu ớt, cô đơn gậm
nhấm thân thể y như bệnh tê liệt, làm cho y kinh hoàng.
Cái chết đã làm tổ trong y nhưng y vẫn từ chối không chịu
tin như thế.
-------------
Chú thích:
[1]Zhelyabov và Perovskaya
là hai người sinh viên trẻ tuổi đã tình nguyện ôm bom đi ám sát Nga hoàng
Alexander Đệ nhị. Hành động này mở đầu cho cuộc Cách mạng của dân Nga chống lại
chế độ quân chủ. Zhelyabov và Perovska ya cùng nhiều người khác trong nhóm sau
đó bị bắt và bị xử tử. Khi ôm bom từ bên đường chạy ra ném vào xe của Nga
Hoàng. Hai người trẻ tuổi trên đây hô lớn câu: “Giết tên độc tài”.
Alexander Đệ nhị, Nga
Hoàng, trị vì từ năm 1855 đến 1881.
[2]Đây chỉ là chuyện
xảy ra trong những giáo đường ở Nga Xô.
Chương 22 - Hố thẳm kêu gọi
Khi Đại tá Kỹ sư Yakonov ra khỏi Bộ An ninh bằng khung cửa
sau mở ra đường Dzhernhinsky và đi vòng tòa nhà dưới những thân cột đá ở công
viên Furkasovsky, y không còn nhận ra chiếc xe Podeba của y đậu ngay trước mặt,
y toan mở cửa xe của người khác để ngồi vào đó.
Đêm vừa qua và vào giờ này, sắp hết, là một đêm sương mù dày
đặc. Tuyết rơi từ lúc chặp tối lập tức chảy tan ra nước ngay và ngừng rơi ngay.
Giờ đây, trước khi trời bình minh, sương mù che kín mặt đất và dòng nước chảy
trong rãnh cống được phủ trên mặt bằng một làn băng mỏng.
Trời trở lạnh.
Mặc dù đã gần 5 giờ sáng, nền trời tối đen như mực.
Một sinh viên năm thứ nhất, đứng với cô bạn gái của chàng
suốt đêm trong một vòm cổng, nhìn Yakanov bằng đôi mắt ước muốn, thèm thuồng
khi y chui vào lòng chiếc xe ấm. Chàng sinh viên thở dài nghĩ đến chuyện không
biết chàng có thể sống đủ lâu để có một chiếc xe hơi hay không. Không những
chưa bao giờ chàng có điều kiện đưa cô bạn của chàng đi chơi bằng xe hơi, chiếc
xe duy nhất mà chàng từng được ngồi trong đời chàng chỉ là chiếc xe vận tải đưa
chàng tới làm công tác lao động ở một nông xã.
Nhưng chàng không biết rõ về người đàn ông mà chàng đang ao
ước, thèm muốn được giống.
Gã tài xế của Yakanov hỏi:
- Đại tá về nhà?
Yakanov trố mắt nhìn gã. Y cầm chiếc đồng hồ ở tay nhưng y
không nhìn thấy kim đồng hồ chỉ mấy giờ.
- Gì? Không…
- Đại tá về Mavrino?
Gã tài xế ngạc nhiên hỏi câu thứ hai. Tuy gã có bận áo da
cừu với mũ da che kín đầu mặt, cuộc thức chờ gần hết đêm cũng làm cho gã run
rẩy và gã mong được về giường nằm.
- Không…
Ông Đại tá Kỹ sư lại đáp, bàn tay đặt lên ngực như để chặn
trái tim.
Gã tài xế quay lại nhìn vào mặt chủ gã dưới ánh sáng lờ mờ
của ngọn đèn đường chiếu qua khung kiếng đầy sương trắng vào trong lòng xe.
Gã thấy người đàn ông ngồi đó như không phải là ông chủ gã.
Vành môi của Yakanov lúc nào cũng mím chặt với vẻ kiêu ngạo, lúc này đang run
rẩy.
Yakanov vẫn cầm chiếc đồng hồ trên tay. Y như người không
còn hiểu gì cả.
Và mặc dù gã tài xế đã phải vất vả chờ suốt đêm và bực bội
rủa thầm Yakanov trong khi gã nhớ lại những hành động tàn nhẫn, quái ác của
Yakanov trong vòng hai năm trôi qua, gã vẫn mở máy cho xe đi không chủ đích
trong thành phố. Dần dần việc lái xe làm cho thần kinh gã dịu đi, cơn hờn giận
trong gã cũng biến đi.
Đêm đã quá khuya để có thể gọi là trời đã sáng. Thỉnh thoảng
chiếc xe chở Yakanov chạy lang thang gặp một chiếc xe cô đơn khác trong những
đường phố vắng của thủ đô. Thành phố không có cảnh sát, không có người đi bộ,
không có trộm cướp. Chỉ lát nữa thôi những chiếc xe chuyên chở công cộng sẽ bắt
đầu chạy.
Vừa lái xe, gã tài xế vừa nhìn lại ông chủ, gã phải tự quyết
định cho xe chạy đi đâu, một việc mà ít khi nào gã phải làm. Gã đã cho xe chạy
qua Myasnitsky, chạy suốt hai đại lộ Sretensky và Rozhdesvensky tới công trường
Trubny rồi từ đó quẹo về Neglinnaya. Nhưng gã không thể cứ lái xe chạy như vầy
mãi cho đến sáng.
Yakanov nhìn ngây ra trước mặt, đôi mắt của y là đôi mắt
thất thần, bất động và hoàn toàn vô cảm thụ. Y có mở mắt nhìn nhưng không thấy
gì hết.
Yakanov cư ngụ ở đường Bolshaya Serpukhovaka. Gã tài xế,
nghĩ rằng khung cảnh quen thuộc của khu này có thể gợi cho chủ nhân của gã tỉnh
lại và quyết định đi về nhà nên gã cho xe chạy qua cầu để quay về khu đó. Xe
chạy xuống con đường Okhotny Ryad đổ dốc, quẹo ở Manège và đi ngang Công trường
Đỏ lạnh lẽo, vắng tanh.
Những nền đá của những bức tường quanh điện Kremlin và đỉnh
những ngọn tháp nhô lên trên đầu tường bám đầy băng giá. Mặt đường xám và trơn
trợt. Sương mù như biến mất ở đầu xe.
Xe chạy cách xa bức tường chừng ba trăm thước, trong những
bức tường đó, như hai người trong xe có thể tưởng tượng – bậc Vĩ Nhân Vĩ Đại Nhất
của trái đất đang ngủ những giờ phút cuối cùng của một đêm dài và lạnh. Nhưng
họ đi qua đấy và không ai nghĩ đến Vĩ nhân.
Khi xe chạy ngang Giáo đường Basil và hướng về phía bờ sông
Mạc Tư Khoa, gã tài xế cho xe giảm tốc độ và hỏi lớn:
- Đồng chí Đại tá… Đồng chí về nhà chưa?
Đáng lẽ ra Yakanov nên về nhà. Trong thời gian gần đây y
sống ở nhà quá ít, nhưng như một con chó già thường tìm đến những nơi vắng vẻ
để chết một mình, Yakanov có thể đến khắp mọi nơi trừ nhà y.
Chiếc Pobeda ngừng lại. Nắm lấy vạt áo da dày trong khi chui
ra khỏi xe, Yakanov nói với gã tài xế:
- Chú đem xe về nhà ngủ đi. Tôi đi bộ về.
Y thường gọi gã tài xế bằng tiếng “chú” thân mật, nhưng lúc
này giọng nói của y rầu rĩ, não nề quá làm cho câu nói rất thường của y thảm
đạm như một lời vĩnh biệt.
Một bức màn sương bao phủ mặt sông Mạc Tư Khoa kín lên tận
tới bờ.
Không gài nút áo, với cái mũ lông thú của sĩ quan cấp Tá đội
hơi lệch sang một bên, Yakanov, đôi lúc loạng choạng vì mặt đường trơn, đi dọc
theo bờ sông.
Gã tài xế muốn cất tiếng gọi chủ, gã nghĩ đến chuyện lái xe
đi theo ông chủ nhưng sau đó gã lại nghĩ: “Với cấp bậc ấy chẳng đời nào ổng lại
nhảy xuống sông tự tử.” Gã bèn quẹo xe trở lại và yên chí về thẳng nhà gã.
Yakanov lần bước đi trên mặt con đê dài, con đê này không có
những đường phố cắt ngang, bên trái y là một hàng rào gỗ dài như vô tận, bên
phải y là dòng sông. Y đi giữa con đê, mắt nhìn ngây về những ánh đèn đường
trước mặt.
Khi đã đi được một quãng khá xa, Yakanov cảm thấy cuộc đi bộ
theo kiểu đi đưa đám ma này gợi lên trong y một sự thoải mái mà từ lâu lắm rồi
y không được hưởng.
Hồi đêm, khi bộ ba bị gọi trở lại trước mặt Tổng trưởng
Abakumov, tình hình đã đi đến độ không còn cứu vãn gì được. Yakanov có cảm giác
như vũ trụ đổ ụp xuống đầu y. Abakumov nổi cơn điên như một con thú rừng hóa
dại. Hắn giẫm lên chân ba người bị hắn gọi trở lại để sỉ nhục, đe dọa, hắn đuổi
họ chạy vòng vòng trong căn phòng, hắn chửi rủa họ, hắn khạc nhổ và thiếu chút
nữa thì đờm rãi trong miệng hắn bay trúng vào mặt họ. Rồi với mục đích gây đau
đớn rõ rệt, hắn đấm vào mũi Yakanov. Kết quả là Yakanov bị chảy máu mũi.
Abakumov đã gầm gào lên rằng Sevastyanov sẽ bị lột lon,
giáng xuống cấp Trung úy và đày đi phục vụ trong những cánh rừng ở Bắc bán cầu,
Oskolupov sẽ chỉ còn là lính gác cửa như trước kia và sẽ bị phái đến phục vụ ở
nhà tù Butyrskaya, nơi y đã bắt đầu sự nghiệp vào năm 1925. Riêng với Yakanov,
vì tội gian dối và tội “phá hoại tái phạm”, sẽ bị bắt và bị gởi đến nhà thù
Mavrino như một tên tù thường để làm việc trong phòng số bẩy dưới quyền điều
khiển của Kỹ sư Bobynin, ở đó Yakanov sẽ phải làm việc bằng chính hai tay y chứ
không còn sai khiến được người khác.
Sau cùng, Abakumov đã nín thở và cho họ một dịp may cuối
cùng, một kỳ hạn tối hậu: Ngày 22 tháng giêng, ngày kỷ niệm Lênin từ trần.
Cảnh vật trong văn phòng rộng trang hoàng chướng mắt, quay
cuồng trước mắt Yakanov. Y cố gắng dùng khăn tay thấm máu mũi. Y đứng đó yếu
đuối và hoàn toàn không có một phương tiện nhỏ nào tự vệ trước Abakumov và
trong lúc đó y nghĩ đến ba người, một người đàn bà và hai đứa trẻ, những người
mà trong những tháng gần đây y chỉ được sống gần nhiều nhất là một tiếng đồng
hồ một ngày, những người mà y đã khổ sở tranh đấu bảo vệ, để giữ cho được an
toàn, sung sướng, những người đó là hai đứa con nhỏ của y, đứa lớn lên chín,
đứa thứ nhì lên tám, và Varyusha, vợ y, Yakanov thương yêu vợ vì y kết hôn với
nàng quá muộn. Năm y ba mươi sáu tuổi, y mới cưới nàng. Y cưới vợ sau khi y ở
tù ra. Và giờ đây nắm đấm tàn nhẫn của Ông Tổng trưởng của y lại đe dọa đẩy y
trở lại nhà tù.
Từ văn phòng Tổng trưởng ra, Sevastyanov bắt Oskolupov và
Yakanov vào văn phòng của lão và ở đây, lão đe dọa sẽ tống hai người vào tù,
lão nhất định không chấp nhận tình trạng lão bị giáng xuống cấp Trung úy và bị
đi phục vụ ở Bắc cực.
Từ văn phòng Sevastyanov, Oskolupov bắt Yakanov vào văn
phòng Va. Ở đây với những lời lẽ thẳng thắn đến thô tục, Oskolupov cho Yakanov
biết rằng Va sẽ làm một báo cáo buộc y vào tội phá hoại, bằng chứng là kỳ đi tù
trước đây của y.
Yakanov đi tới cây cầu xi-măng cao bắc ngang sông Mạc Tư
Khoa. Y không đi vòng để đi lên cầu, y đi dưới chân cầu, ngang chỗ có một viên
cảnh sát đang đi tuần.
Viên cảnh sát nghi ngờ nhìn gã đàn ông say rượu đang đi
loạng choạng đầu đội cái mũ lông thú đặc biệt của những sĩ quan cấp tá.
Đây là khúc dòng sông Yauza đổ vào sông Mạc Tư Khoa. Yakanov
đi qua dưới chân cầu nhưng y vẫn không biết là y đang ở đâu, y sẽ đi đâu.
Một cuộc tranh đấu sống chết đang diễn ra và sắp đến hồi kết
thúc, Yakanov nghĩ đến cuộc tranh đấu gay cấn ấy và y cảm thấy cái vội vã,
cuống quýt chạy chết của một kẻ bị trói chặt cả tay lẫn chân. Hơn lúc nào hết y
ghi nhận sự vô lý, độc đoán, tàn ác của những hạn kỳ thời gian. Đó là một tình
trạng thúc đẩy, dồn ép ghê gớm, ác liệt, làm nhanh hơn, nhanh hơn nữa, hết hạn
rồi, tranh thủ thời gian, làm xong trước giờ ấn định. Và khi mọi việc được làm
theo cách này, những tòa nhà được xây lên sẽ không đứng vững, những cây cầu sẽ
sụp, những công thự sẽ đổ, những vụ mùa thất thu và những mầm giống được gieo
sẽ nhất định không chịu nhô lên khỏi mặt đất. Nhưng cho đến khi nào sự thật nổ
ra trước mắt mọi người, những kẻ nào chẳng may bị cuốn hút vào cơn giông bão
tranh thủ thời gian ấy không có lối nào thoát ra được trừ lối đau ốm, lối tự
đút tay vào guồng máy để bị thương, gặp một tai nạn – và để được nằm chờ trong
một bệnh viện hay một nhà dưỡng đường.
Từ trước cho đến bây giờ luôn luôn Yakanov nhảy được ra khỏi
những tình trạng cấp bách một cách an toàn để lẻn vào ở trong những tình trạng
khác yên bình hơn, chắc chắn hơn hoặc còn lâu mới đến hồi kết thúc.
Nhưng lần này, lần này, y cảm thấy y không sao thoát ra
được. Y không thể nào thực hiện xong dự án chế tạo máy điện thoại bí mật trong
thời hạn ngắn ngủi ấy. Y không thể làm được gì hết.
Và y cũng không thể thoát ra được bằng cách cáo ốm.
Y đứng vịn tay vào thành cầu và nhìn xuống. Sương mù nằm
trên mặt nước sông lạnh đóng thành đá nhưng không che kín mặt sông. Ngay dưới
chỗ y đứng, nơi đá tan, Yakanov nhìn thấy một hố đen nước chảy.
Hố đen như miệng giếng – cái hố đen của dĩ vãng – nhà tù –
một lần nữa lại mở ra trước chân y, một lần nữa kêu gọi y trở xuống.
Yakanov coi khoảng thời gian sáu năm y sống ở đó, trong hố
đen đó, là khoảng thời gian đến đủi nhất, xui xẻo nhất, là thất bại nặng nhất
đời y.
Y bị vào tù năm 1932 khi y là một kỹ sư vô tuyến điện trẻ
tuổi, tuy trẻ nhưng y đã được xuất ngoại vì công tác hai lần (chính vì những
cuộc xuất ngoại này mà y bị bắt). Y là người tù thứ nhất trong những tù nhân
đầu tiên sống là làm việc trong những nhà tù theo quan niệm của Dante.
Y muốn quên đi cái dĩ vãng tù đày đó biết là chừng nào! Y
muốn quên và muốn những kẻ khác cũng quên. Muốn cho định mệnh quên. Y từng cố
gắng bằng đủ mọi cách xa lánh những kẻ nào gợi cho y nhớ lại dĩ vãng đen tối
ấy, xa lánh những kẻ nào từng biết y bị tù.
Đột ngột Yakanov lùi phắt lại. Y lùi xa thành cầu và đi qua
đường để leo một con dốc lên ngọn đồi. Một con đường mòn lách qua hàng rào gỗ
của một dự án xây cất nào đó ở chân đồi, con đường mòn đầy đá băng nhưng không
đến nỗi quá trơn.
Chỉ có cơ quan Mật vụ MGB Trung ương là biết rõ, nhờ những
phiếu lý lịch hồ sơ trong phòng lưu trữ, những tên tù cũ nay được bận đồ đồng
phục của nhân viên MGB.
Có hai tên cựu tù nhân, ngoài Yakanov, có mặt ở Viện
Mavrino.
Yakanov vẫn cẩn thận tránh gặp, tránh gần hai tên ấy. Y cố
giữ để khỏi phải trò chuyện với chúng ngoài khi bắt buộc phải nói về công việc
chung, nhưng không bao giờ y chịu ở lại một mình trong văn phòng với hai tên
ấy, để cho người khác khỏi thấy và khỏi suy luận.
Một trong hai tên ấy là Kynazhetsky, giáo sư hóa học. Lão
này đã bảy mươi tuổi. Trước kia lão là học trò ưu tú của Giáo sư Mendeleyev.
Lão bị án tù mười năm và đã sống hết hạn tù. Nhờ một số những thành quả khoa
học, lão được gửi đến làm việc ở Viện Mavrino với tư cách là nhân viên tự do và
lão đã làm việc ở đó yên lành được ba năm sau chiến tranh cho đến ngày ban hành
Luật Củng cố hậu phương quật lão ngã lần thứ hai. Lần này có lẽ là lần ngã cuối
cùng trong đời lão. Vào một buổi trưa, có lệnh bằng điện thoại từ Bộ An ninh
gọi lão về Bộ trình diện. Lão về và không thấy lão trở lại nữa. Gã nhớ kỹ hình
ảnh Knyazhetsky khi lão đi xuống trên tấm thảm đỏ trải trên những bực thang của
Viện, vừa đi vừa lắc lắc mái tóc bạc, không hiểu vì sao người ta lại gọi lão về
Bộ để hỏi về một vấn đề gì đó trong “nửa tiếng đồng hồ”. Trong khi đó ở sau
lưng lão, trên tầng lầu trên, Thiếu tá Shikin, sĩ quan an ninh của Viện, đã
dùng con dao bỏ túi cạy tấm hình lão ra khỏi bản danh sách nhân viên danh dự
của Viện.
Người thứ hai là Altynov. Lão này không phải là một khoa học
gia nổi tiếng, lão chỉ là một chuyên viên làm những công tác khoa học như buôn
bán kiếm lời. Cũng giống như trường hợp của Giáo sư Knyazhetsky, Altynov từng ở
hết hạn tù và nhờ thành tích đạt được trong thời gian phục vụ trong tù, lão
được cho làm nhân viên tự do đến làm việc ở Viện Mavrino. Bề ngoài Altynov có
vẻ tham lam và hơi ngu nhưng lão hơn người ở điểm lo xa và nhất là lão nghi
ngờ. Lão nghi rằng người ta có thể sẽ không để cho lão được yên ổn sống nốt
những năm còn lại trong nhà lão. Lão bèn giả vờ đau tim. Khi Luật Củng cố hậu
phương được ban hành sau chiến tranh, lão đã nằm trong một bệnh viện chuyên trị
bệnh đau tim. Lão giả vờ đau tim hữu hiệu đến nỗi bác sĩ điều trị cho lão đều
hết hy vọng cứu sống được lão. Và lão cứ sống vật vờ mãi cho đến bây giờ.
Và Yakanov, đoạn đời trước đen tối vì thời gian ở tù, đoạn
đời sắp đến đen vì tội phá hoại.
Cả dĩ vãng và tương lai y đều khốn khổ.
Hố thẳm tù đày vừa lên tiếng kêu gọi y trở lại....
Yakanov đi qua bãi đất trống nhưng y vẫn không biết là y đi
đâu, đến đâu, y cũng không nhận thấy mặt đất thoải dốc và y đang vất vả lần
bước lên dốc. Sau cùng, y phải đứng lại vì hụt hơi. Hai chân y mỏi, hai cổ chân
y nhức nhối vì mặt đất không được phẳng.
Đứng trên đỉnh cao nơi y vừa trèo lên, giờ đây Yakanov mới
phóng tầm mắt nhìn ra chung quanh. Mắt y bây giờ mới ghi nhận cảnh vật và mới
tìm hiểu nơi này là nơi nào.
Trong khoảng thời gian một tiếng đồng hồ vừa qua kể từ lúc y
ra khỏi xe hơi, đêm đã lạnh hơn và đêm đã gần hoàn toàn trôi qua. Sương mù đã
bắt đầu tan và tan đi rất mau. Mặt đất dưới chân y đầy những mảnh gạch vụn đá
nhỏ, thủy tinh vỡ, gần chỗ y đứng có một căn nhà gỗ nhỏ xíu. Bên dưới là một
hàng rào gỗ vây quanh khu đất chưa được khởi công xây cất. Không có tuyết rơi
nhưng tất cả đều nằm dưới một làn băng mỏng.
Trên ngọn đồi trung tâm quá gần thành phố này, ngọn đồi có
nhiều dấu vết của sự tàn phá, y nhận thấy có những bực đá trắng sót lại của một
lối đi bằng đá. Y lẩm nhẩm đếm. Có bảy bực thang đá tất cả.
Ký ức của Yakanov gợi lên một ghi nhớ mơ hồ nào đó khi y
nhận thấy những bực thang đá trắng trên lưng đồi xác xơ. Y đi tới và bước lên
những bực đá, tâm trí vẫn hoang mang chưa nhớ đây là đâu và tại sao y lại có vẻ
quan thuộc với những bậc đá này. Y đi lên, đi lên mãi và sau cùng, y thấy một
tòa nhà ẩn hiện trong màn sương và bóng tối. Tòa nhà có hình thể thật lạ. Tòa
nhà như đã đổ nát, hoang tàn nhưng vẫn còn giữ nguyên được hình thể bên ngoài.
Phải chăng đây là một nơi đổ nát vì trúng bom đạn trong thời
chiến tranh? Chắc không phải. Chiến tranh đã qua lâu rồi. Tất cả những nơi bị
bom đạn tàn phá trong thủ đô này đều đã được xây cất lại. Nơi này dường như bị
tàn phá vì một cái gì khác bom đạn.
Một thềm đá lớn ngăn cách những bậc thang đá Yakanov vừa đi
qua với những bậc thang khác. Rồi khối đá lù lù che tầm mắt y. Những bậc đá
trên cao này dẫn tới cửa tòa nhà như lối dẫn lên cửa một nhà thờ.
Yakanov tới trước một khung cửa sắt lớn. Cửa sắt đóng kín,
gạch đá vụn chặn kín dưới chân cửa cao tới nửa thước.
Đúng rồi, đúng rồi, Yakanov đã nhớ ra đây là đâu. Y nhìn
quanh để kiểm soát lại. Dòng sông dưới kia nằm như một đường sáng lượn vòng,
chìm mất dưới chân cầu và chảy mãi, chảy xuôi về điện Kremlin.
Nhưng còn tháp chuông? Không thấy có tháp chuông. Những tảng
đá xếp đống này? Phải chăng đây là những gì còn sót lại của tháp chuông ngày
xưa?
Hai mắt Yakanov bỗng nong nóng, cay cay, như khi y chảy nước
mắt. Y nhận ra, y nhớ lại và toàn thân y bủn rủn.
Yakanov nhè nhẹ ngồi xuống bậc đá ở trước cửa nhà thờ.
Trước đây hai mươi hai năm có lần y đã ngồi trên thềm đá này
với một người thiếu nữ tên là Angiya.
Chương 23 - Giáo đường Thánh Jonh
Yakanov gọi lớn tên nàng – Angiya – và, như một làn gió,
những cảm giác xưa cũ đã bị lãng quên trở lại như mới hoàn toàn làm cho tấm
thân đàn ông trung niên, no đủ của y xúc động.
Ngày đó y hai mươi sáu tuổi và nàng hai mươi mốt.
Người thiếu nữ ấy không phải được sinh ra từ trái đất này.
Nàng bất hạnh vì nàng có một linh hồn cao thượng và nàng đòi hỏi đến một mức độ
nhiều không sao chấp nhận được. Đôi khi, trong lúc nàng nói, đôi mày và hai
cánh mũi nàng rung động như những cánh chim bồ câu. Chưa ai từng nói những lời
nghiêm khắc đến như nàng với Yakanov, nàng xét nét với một vẻ cực kỳ nghiêm
trọng những hành động của Yakanov, những hành động mà y cho là rất thường. Mà
rất lạ lùng, khó hiểu làm sao, nàng coi những hành động ấy là ti tiện, hèn hạ.
Và nàng càng tìm thấy nhiều tội lỗi ở Yakanov chừng nào, y lại càng bị nàng hấp
dẫn, càng muốn được gần nàng chừng ấy. Mối tình của họ thật là lạ kỳ.
Người ta chỉ có thể nói chuyện với nàng một cách rất thận
trọng. Nàng yếu đuối đến nỗi chỉ cần đi lên một ngọn đồi cũng đủ làm nàng kiệt
sức, hoặc chỉ chạy vài bước. Ngay cả một cuộc nói chuyện hơi gay gắt cũng đủ
làm nàng thở mệt. Người ta dễ dàng làm cho nàng phật lòng, buồn rầu.
Tuy vậy, nàng vẫn có đủ sức đi trong rừng hết ngày này sang
ngày khác và, đây cũng là sự lạ kỳ, không bao giờ nàng đem theo quyển sách nào
vào rừng. Sách ngăn cản sự thông cảm giữa nàng và rừng cây, sách làm cho nàng
xao lãng sự chú ý vào rừng cây. Nàng chỉ đi lang thang trong rừng cây và ngồi
nhìn ngắm những huyền bí của rừng. Những khi Yakanov cùng vào rừng chơi với
nàng, y ngạc nhiên vì những nhận xét của nàng: Tại sao thân cây lau chùng xuống
mặt đất? Bằng cách nào màu sắc trên những lá cỏ trong rừng đổi màu khi chiều
tối? Y chưa từng bao giờ để ý đến những điều ấy. Với y, rừng cây là rừng cây,
không khí trong rừng mát dịu và tất cả mọi thứ trong rừng đều có màu xanh.
Nhưng nàng, nàng phê bình cả những đoạn tả cảnh thiên nhiên trong tác phẩm của
Turgenev, sự nông cạn của những đoạn ấy làm nàng bất mãn.
“Suối Rừng” – đó là cái tên Yakanov gọi nàng trong mùa hè
năm 1927, năm ấy họ ở gần nhà nhau. Họ đi với nhau, họ về với nhau và trước mắt
tất cả mọi người, họ là hai người trẻ tuổi đã hứa hôn với nhau.
Nhưng sự thực, khác hẳn như thế.
Angiya không đẹp nhưng cũng không xấu, khuôn mặt nàng thay
đổi luôn luôn: nàng có thể cười vui và đầy thiện cảm, nhưng nàng cũng có thể
trình bày một bộ mặt dài thượt, mệt mỏi, thiếu hấp dẫn. Nàng cao hơn đa số đàn
bà một chút, thân hình nàng mảnh mai và yếu đuối, bước đi của nàng nhẹ đến nỗi
người ta tưởng như hai bàn chân nàng không hề chấm đất. Trong thời gian đó tuy
rằng Yakanov đã có khá nhiều kinh nghiệm về đàn bà, tuy y đặt cao giá trị về da
thịt trên thân thể đàn bà, một cái gì khác hơn nhan sắc và thân thể của Angiya
vẫn hấp dẫn y tới nàng. Và bởi vì y bị nàng hấp dẫn, y tự nhủ rằng y yêu nàng
vì nàng là đàn bà và rồi thân thể nàng sẽ nảy nở.
Nhưng trong khi nàng vẫn vui vẻ đi chơi những ngày mùa hạ
dài với Yakanov, đi với nhiều dặm sâu vào trong rừng, nằm với y trên cỏ, nàng
vẫn tỏ ra không thích để cho y nắm tay. Mỗi khi y nắm tay nàng, nàng hỏi: “Tại
sao lại cứ phải nắm tay nhau mới được?”, và nàng gỡ tay nàng ra. Thái độ này
của nàng không phải có nguyên nhân là nàng mắc cỡ hay sợ người khác nhìn thấy,
vì sau khi Yakanov đòi hỏi nàng phải để y nắm tay cho tự ái của y khỏi bị tổn
thương, nàng vui vẻ để cho y nắm tay.
Tự nghĩ rằng mình yêu nàng, Yakanov nói với nàng về tình yêu
của y trong lúc y quỳ dưới chân nàng trên cỏ trong rừng. “Buồn biết chừng nào…”-
nàng nói – “Em có cảm tưởng như em đang làm cho anh thất vọng. Em không thể trả
lời được anh em có yêu anh hay không. Em không cảm thấy gì cả. Vì vậy em không
muốn cả sống nữa. Anh thông minh, anh thật tốt, lẽ ra được anh yêu em phải thấy
sung sướng mới phải chứ? Nhưng thật là em không muốn sống”.
Nàng nói như thế nhưng mỗi buổi sáng nàng vẫn hồi hộp tìm
xem có sự thay đổi nào hiện lên trên nét mặt y hay trên thái độ của y hay
không.
Nàng nói như thế nhưng nàng cũng nói: “Ở Mạc Tư Khoa có biết
bao nhiêu là thiếu nữ đẹp. Đến mùa thu này anh sẽ gặp một cô thật đẹp và anh sẽ
không còn yêu em”.
Nàng để cho y ôm nàng và hôn nàng, nhưng những khi ấy, môi
nàng và tay nàng bất động, vô hồn. “Khó quá đi”, nàng than thở. “Em tưởng rằng
tình yêu đến phải sôi nổi ghê gớm lắm, nhưng anh yêu em và em sẽ không bao giờ
còn gặp được ai tốt hơn anh, vậy mà sao em vẫn không thấy sung sướng, em chỉ
thấy em không muốn sống”.
Có một cái gì đó như rất lạc hậu ở nàng, một cái gì rất trẻ
con. Nàng sợ hãi những sợi dây vô hình, bí mật buộc liền một người đàn ông với
một người đàn bà qua hôn nhân, với giọng nói tê tái, nàng thều thào hỏi: “Chúng
mình có thể cưới nhau mà không làm việc ấy không?”. Trong cơn khích động,
Yakanov trả lời: “Vợ chồng đâu có phải chỉ lấy nhau để làm việc ấy? Đó chỉ là
một cái gì phụ thuộc đi sau sự hòa hợp, cảm thông của hai tâm hồn”. Khi nghe y
nói câu đó, lần thứ nhất môi nàng yếu đuối hôn y, và nàng nói: “Cám ơn anh. Nếu
không có tình yêu, tại sao con người ai cũng muốn sống? Em nghĩ em đã bắt đầu
yêu anh. Em sẽ cố gắng yêu anh”.
Mùa thu năm ấy, một buổi chiều gần tối họ đi bên nhau trong
một con phố vắng cạnh công trường Taganka, Angiya bỗng nói bằng giọng nói trong
rừng của nàng, giọng nói khó nghe trong tiếng động của thành phố:
- Anh có muốn em đưa anh tới coi một nơi đẹp nhất của Mạc Tư
Khoa không?
Nàng đưa Yakanov lên một ngọn đồi, tới một hàng rào gỗ bao
quanh một giáo đường nhỏ, sơn trắng và đỏ, tòa giáo đường có hậu đường và bàn
thờ chính nằm dựa vào một con phố khúc khuỷu không tên. Bên trong hàng rào chỉ
có một lối đi nhỏ vòng quanh giáo đường để rước Thánh giá, lối đi vừa đủ rộng
cho ông cha sở và ông trợ tế cùng đi cạnh nhau. Qua khung kiếng mờ của những ô
cửa sổ người ta có thể nhìn thấy, sâu trong lòng tòa giáo đường, những ngọn lửa
nên lung linh bình yên và những ánh lửa đèn màu thắp dưới những pho tượng. Ở
một góc nằm trong hàng rào có một cây sồi cổ thụ, cây sồi lớn và cao hơn mái
giáo đường. Cành lá nó đã ngả vàng phủ lên trên cả nóc tròn trên mái giáo đường
và con phố bên cạnh, làm cho tòa giáo đường đã nhỏ còn có vẻ nhỏ hơn.
- Đây là giáo đường Jonh.- Angiya nói.
- Nhưng đây đâu có phải là nơi đẹp nhất Mạc Tư Khoa?
- Chờ xem.
Nàng dẫn Yakanov đi qua cổng và trong sân giáo đường. Nền
sân đá có những chiếc lá sồi màu vàng và màu cam bao phủ. Trong vùng bóng tối
dưới vòm cành lá sồi có một lầu chuông cổ, hình cái lều. Lầu chuông và căn nhà
nhỏ dính liền vào giáo đường ngăn chặn những tia nắng của mặt trời đang lặn.
Cánh cửa sắt của hành lang phía bắc mở rộng và một người đàn bà nghèo đứng ở đó
cúi đầu lễ và làm dấu thánh giá một mình trong tiếng ca cầu rực rỡ từ bên trong
vọng ra.
- Giáo đường này nổi tiếng vì đẹp và lộng lẫy, huy hoàng.
Angiya nói thì thầm, nàng để cho vai nàng sát vào vai
Yakanov.
- Giáo đường này được làm vào thế kỷ nào?
- Sao anh lại cần phải biết thế kỷ nào? Anh có thấy đẹp
không?
- Đẹp lắm, nhưng mà…
- Anh coi này…
Angiya gỡ tay nàng ra và kéo y tới khung cổng chính của tòa
giáo đường. Họ từ trong vùng bóng tối đi ra làn ánh sáng chan hòa của mặt trời
hoàng hôn, và nàng ngồi xuống trên bậc đá thềm cửa.
Yakanov hít vào một hơi thở dài. Họ như những người vừa từ
một khu phố đông của thị trấn bước lên một đỉnh cao và phóng tầm mắt nhìn vào một
khoảng xa, rộng. Những bậc thang đá trắng chạy dài từ chân thềm của giáo đường
qua lưng ngọn đồi, xuống dòng sông Mạc Tư Khoa dưới kia. Mặt sông cháy rực dưới
ánh nắng chiều. Bên trái là tòa nhà Zamoskvorechye với những khung cửa kiếng
phản chiếu ánh nắng vàng đến chói mắt người nhìn và bên dưới, gần như ở ngay
dưới chân họ, những ống khói đen của nhà máy điện Mạc Tư Khoa tỏa khói lên nền
trời chiều. Dòng sông Yauza nhỏ hơn chảy vào dòng sông Mạc Tư Khoa. Gần chỗ hai
dòng sông giao nhau là Bệnh viện Foundling. Sau bệnh viện này, những ngọn tường
sắc của điện Kremlin nổi lên. Xa hơn nữa, năm tòa tháp tròn mạ vàng của Giáo
đường Chúa Cứu Thế sáng rực trong nắng.
Và trong ánh vàng rực rỡ ấy, Angiya, với chiếc khăn mỏng
choàng trên đôi vai, toàn thân như được dát vàng, ngồi nhìn về phía mặt trời.
- Người Nga ngày xưa chọn chỗ để xây giáo đường và tu viện
thật là khéo. - Nàng nói, giọng nàng như vỡ vụn.- Em đã đi xuôi dòng Volga, em
cũng từng đi xuôi dòng Oka nữa, bất cứ chỗ nào giáo đường cũng được họ xây ở
những chỗ đẹp nhất, trang nghiêm nhất…
Yakanov đáp lời nàng như một tiếng vang:
- Đúng đấy. Mạc Tư Khoa là nhất…
- Nhưng những cảnh đẹp ấy đang mất đi.- Angiya nói - Mạc Tư
Khoa đang bị tiêu diệt.
- Em nói bị tiêu diệt nghĩa là sao? Em nói vậy vô nghĩa.
- Họ sắp phá giáo đường này.
- Sao em biết là sắp phá?- Yakanov hỏi lại. Y bắt đầu cảm
thấy bực bội vì giọng nói có vẻ như kết tội của Angiya.- Đây là một kiến trúc
cổ. Họ sẽ giữ nguyên nơi đây…
Y nhìn lên lầu chuông nhỏ xíu, nơi những cành lá sồi xuyên
vào gần chạm cả tới chuông.
- Họ sắp phá đi mà…
Angiya tiên đoán với vẻ biết chắc, nàng vẫn ngồi bất động
với chiếc khăn choàng vàng trên vai, trong ánh vàng.
Không những là gia đình Angiya không dạy dỗ Angiya để nàng
tin ở Chúa, mà trong dĩ vãng, khi tất cả mọi người đều phải đi lễ nhà thờ, mẹ
nàng và bà ngoại nàng đều không đi lễ, không giữ những luật cấm, không rước lễ,
họ luôn luôn làm cho tôn giáo trở thành lố bịch bởi vì tôn giáo đã chấp nhận
nông nô một cách quá ư dễ dãi. Bà ngoại nàng, mẹ nàng và các dì, các cô nàng
đều có một tật chung: họ luôn luôn đứng về phía những người bị đàn áp, bắt bớ,
săn đuổi, hành hạ bởi chính quyền. Bà ngoại nàng được những người cách mạng
trong Phong trào “Dân ý” biết mặt, biết tên vì bà cho họ trốn nấp trong nhà bà
và giúp đỡ họ tất cả những gì bà có thể. Những cô con gái bà nối tiếp bà giúp
đỡ, che giấu những người cách mạng Xã hội và Dân chủ Xã hội. Và cô bé Angiya
bao giờ cũng đứng về phía những con thỏ bị người ta đuổi bắn, những con ngựa bị
người ta đánh đập. Khi nàng lớn lên, mọi người trong gia đình nàng đều ngạc
nhiên khi thấy nàng bênh vực Giáo Hội Gia Tô vì nàng cho rằng Giáo Hội này đang
bị đàn áp, khủng bố.
Không biết là vì nàng tự nhiên tin ở Chúa hay nàng cố làm
cho nàng phải tin, Angiya nói rằng kẻ nào trốn tránh đi nhà thờ là hèn, và
trước sự khó chịu của bà ngoại và mẹ nàng, Angiya đến nhà thờ rước lễ. Dần dần
nàng cho chuyện đi lễ là quan trọng.
Yakanov hỏi nàng với vẻ ngạc nhiên thực sự:
- Tại sao em lại nghĩ rằng Giáo Hội Gia Tô đang bị đàn áp?
Có những chuyện gì xảy ra làm cho em nghĩ thế? Các giáo dân vẫn được tự do đến
nhà thờ. Không ai cấm linh mục làm lễ, kéo chuông, rước Thánh giá – họ chỉ
không được quyền can thiệp vào những vấn đề công dân và giáo dục mà thôi.
- Rõ ràng là Giáo Hội đang bị đàn áp.- Angiya cãi lại bằng
giọng nói ôn hòa, nhỏ nhẹ như mọi khi của nàng - Khi người ta nói ra những lời
kết tội Giáo Hội phản động, khi người ta in ra tất cả những gì người ta muốn để
bôi xấu Giáo Hội, họ không cho Giáo Hội được quyền trả lời, quyền tự biện hộ,
khi người ta kiểm tra tài sản của Giáo Hội và lưu đày những linh mục, những
việc đó chẳng phải là đàn áp thì còn là gì nữa?
- Em thấy những linh mục bị lưu đày ở đâu, hồi nào?
- Tất nhiên là không thấy ở trong những thành phố đó rồi.
- Dù cho họ có đàn áp thật đi nữa,- Yakanov nói - họ cũng
mới chỉ đàn áp có mười năm thôi. Em có biết Giáo Hội đàn áp con người đã bao
lâu không? Từ 10 thế kỷ nay.
Angiya nhún vai gầy:
- Thời đó chưa có em. Em đang sống ở thời này, em chỉ thấy
những gì xảy ra trong đời em.
- Nhưng em phải biết lịch sử chứ! Em không thể viện lý do gì
để bào chữa cho sự ngu dốt. Có bao giờ em nghĩ đến chuyện Giáo Hội đã làm cách
nào để sống trong suốt 250 năm tổ quốc ta bị bọn Tatar đô hộ không?
- Giáo Hội Gia Tô sống được có thể là vì lòng tin của giáo
đồ mạnh. Cũng có thể là vì tinh thần Gia Tô mạnh hơn tinh thần những tôn giáo
khác.
Nàng nói câu trên như một câu hỏi chứ không phải là một lời
quả quyết.
Yakanov nở nụ cười tha thứ:
- Em tưởng tượng nhiều quá. Tổ quốc ta có bao giờ thực sự
thấm nhuần tinh thần Thiên Chúa giáo trong linh hồn không? Em có thực nghĩ rằng
suốt trong cả ngàn năm Thiên Chúa giáo có mặt ở đây người ta có thực sự tha thứ
cho những kẻ đàn áp, bóc lột người ta không? Người ta có yêu thương được những
kẻ thù của người ta không? Giáo Hội chỉ sống được là vì sau cuộc xâm lăng,
trước hơn bất cứ một người dân Nga nào, Giáo chủ Cyril đã tới cúi đầu trước tên
Khan của bọn Tatar xâm lăng và yêu cầu tên này bảo vệ cho hàng ngũ giáo sĩ. Với
những lưỡi kiếm của bọn Tatar, giới giáo sĩ Nga đã bảo vệ được đất đai, những
nông nô và những giáo đường của họ. Tuy vậy, ta cũng phải công nhận là Giáo chủ
Cyril đã hành động đúng khi làm như thế, ông ta là một nhà chính trị thực tế.
Lẽ ra ai khôn ngoan cũng phải làm như ổng. Chỉ có cách đó mới có thể thắng.
Khi Angiya bị dồn vào đường cùng, nàng không cãi nữa. Nàng
chỉ mở rộng đôi mắt ngạc nhiên nhìn người thanh niên vị hôn phu của nàng.
- Nhờ cách đó những giáo đường đẹp đẽ này mới được xây dựng
trên những cảnh trang nghiêm, hùng vĩ này”.- Yakanov nói lớn.- Trong khi những
tín đồ ly khai bị đốt lửa đến chết, những giáo đồ của những tôn giáo khác bị
đánh bằng roi gậy đến chết. Em thương hại những kẻ làm những việc đó ư? Giáo
Hội bị đàn áp? Giáo Hội nào bị đàn áp?
Y ngồi xuống cạnh nàng trên thềm đá ấm vì nắng:
- Em bất công với những người Bôn-xê-vích về tất cả mọi mặt.
Em không thèm cả đọc những quyển sách chính của họ. Họ rất kính trọng nền văn
minh thế giới. Họ tin rằng không một ai có quyền độc đoán quyết định thay cho người
khác hay bắt người khác phải nghĩ, phải làm theo mình, họ tin ở sự hợp lý, ở lẽ
phải. Điều duy nhất mà họ muốn là: công bằng. Em thử tưởng tượng coi: công bằng
hoàn toàn, công bằng tuyệt đối. Không ai được hưởng những đặc quyền mà người
khác không được hưởng. Không ai được lợi thế hơn người khác về những điều kiện
để sống. Còn có gì có thể tốt đẹp hơn một xã hội như thế? Xã hội ấy có đáng để
chúng ta hy sinh hay không? Em phải biết những phản đối vô lý của em chỉ là
những trở ngại chặng đường em vào đại học. Những phản đối của em sẽ có ảnh
hưởng gì? Em có thể làm được gì?
- Một người đàn bà như em có thể làm gì được? - Nàng vừa nói
vừa đưa tay hắt những lọn tóc của nàng về sau lưng – trong lúc không một thiếu
nữ nào kết tóc cả, nàng kết tóc thành lọn, khi mọi người cắt tóc ngắn, nàng để
tóc dài, nàng chỉ làm thế để phản đối mặc dù kiểu tóc dài không hợp với mặt
nàng. Một lọn tóc rơi trên lưng nàng, lọn kia nằm trên ngực nàng – và nàng nói
tiếp:
- Một người đàn bà không làm được việc gì hết ngoài việc ngăn
cản người đàn ông yêu mình làm những việc trọng đại, anh hùng. Ngay cả đến
người đàn bà khác thường như Natasha Rostov cũng vậy. Đó là lý do vì sao em
không chịu nổi được nàng.
Một lần nữa Yakanov ngạc nhiên:
- Sao vậy?
- Bởi vì nàng không chịu để cho Pierre gia nhập vào nhóm “Tháng Chạp”.
Giọng nói của nàng lại tan vỡ khi nàng nói câu trên.
Nàng vẫn có những ý nghĩ dị kỳ như vậy.
Chiếc khăn choàng mỏng rời khỏi đôi vai nàng rơi xuống mắc ở
hai cánh tay nàng như đôi cánh vàng.
Yakanov bọc nhẹ hai bàn tay y quanh bàn tay nàng như sợ bàn
tay nàng có thể vỡ:
- Nếu em là Natasha, em sẽ để cho Pierre đi?
- Vâng.
Angiya trả lời bình thản như đó là chuyện tất nhiên.
Yakanov không thể tưởng tượng ra một hành động quan trọng
nào đó y có thể làm để cần phải có sự đồng ý của Angiya. Đời sống của y hoạt
động, nhưng bình thường như mọi người. Y ham thích công việc đang làm và việc
này càng ngày càng đưa y lên địa vị cao hơn.
Trước mặt họ có những tín đồ đi dâng lễ muộn đi từ dưới chân
đồi lên, họ làm dấu thánh giá trước cửa vào giáo đường. Vào tới trong sân,
những người đàn ông bỏ mũ xuống. Dường như trong số những người đi lễ đàn ông
ít hơn đàn bà, họ toàn là người già, không thấy một người trẻ tuổi nào.
- Anh có sợ người ta thấy anh ở gần giáo đường không?
Angiya hỏi. Nàng không có ý chế nhạo Yakanov nhưng câu hỏi
tự nó đã có sự chế nhạo.
Trong những năm đó việc bị một người làm cùng sở nhìn thấy ở
gần nhà thờ là một chuyện nguy hiểm. Tuy vậy Yakanov tự cho là y không có sự
nguy hiểm ấy.
Không trả lời câu hỏi của Angiya, Yakanov nói, y bắt đầu
thấy bực bội vì thái độ của nàng:
- Cẩn thận đấy, Angiya. Ta phải biết có những gì mới xảy ra
trong đời ta, biết kịp thời, biết trước khi quá muộn. Vì bất cứ ai không biết
như thế nhất định sẽ lạc lõng sau lưng mọi người. Em bị Giáo Hội Gia Tô quyến
rũ vì tinh thần của giáo lý này khuyến khích khuynh hướng lạnh nhạt với cuộc
sống này ở trong em. Đây là lần cuối cùng khuyến cáo em: em phải tỉnh lại, em
phải sống, em phải chú ý đến việc nào đó trong đời, chỉ có như thế em mới sống
được.
Angiya cúi đầu xuống, bàn tay có ngón tay đeo chiếc nhẫn hứa
hôn của Yakanov buông rơi, bất động. Tấm thân giống như thân trẻ con của nàng
lúc này như chỉ có toàn xương là xương và rất mỏng:
- Anh nói đúng. Đúng… Em cũng nhận thấy có nhiều lúc em
không muốn sống. Cuộc đời không cần có những người như em.
Yakanov cảm thấy tình yêu tan tành trong tim y. Nàng làm tất
cả những gì giết chết tình yêu ấy. Sự can đảm thực hiện lời hứa hôn và cưới
Angiya làm vợ, sống với nàng suốt đời, yếu đi trong tim Yakanov.
Nàng ngước mắt lên nhìn y, đôi mắt nàng lộ ánh tò mò, nàng
không cười.
Yakanov nghĩ: “Cô ả này tinh thần nông cạn quá chừng”.
Nàng nói, vẻ mặt buồn và giọng nói buồn:
- Danh vọng và thành công đang chờ đợi anh. Chắc chắn anh sẽ
thành công, anh sẽ có danh vọng. Nhưng Anton, liệu anh có được sung sướng hay
không? Rồi đời anh sẽ có hạnh phúc hay không? Anh cũng nên cẩn thận. Những
người chú ý đến cuộc đời như anh… sẽ… sẽ mất… Em không thể nào nói rõ với anh
được…
Những ngón tay gầy của nàng tìm lời cho môi nàng nói, sự khó
khăn, khổ sở của cuộc tìm kiếm ấy hiện rõ trên nụ cười gượng trên môi nàng:
- Đó, có tiếng chuông. Tiếng kinh cầu đã ngừng, tiếng ca đã
mất. Những tiếng ấy sẽ không còn trở lại nữa. Tuy vậy, âm thanh vẫn còn văng vẳng
quanh đây. Anh hiểu gì không?
Rồi nàng cố rủ y vào giáo đường. Dưới những vòm tường tròn
một dãy cửa sổ nhỏ gắn kiếng mờ chạy quanh tòa giáo đường. Qua khung cửa sổ
trên nóc tròn trên cao, ánh nắng chiều làm bên trong tòa giáo đường sáng lên,
ánh vàng trải lên những pho tượng và những bức hình vẽ cổ.
Tín đồ thưa thớt. Angiya đốt một cây nến gầy cắm lên cây cột
đồng và nàng làm thoáng dấu thánh giá, rồi nàng đứng trang nghiêm, hai tay chắp
lại trước ngực, mắt nhìn thẳng, xuất thần. Ánh vàng của trời chiều, ánh đỏ cam
của những ngọn nến mang lại đời sống và hơi ấm cho hai má nàng.
Chỉ còn hai ngày nữa là đến ngày đản sinh Đức Mẹ. Trong nhà
thờ, một bài kinh dài được cầu để ca tụng Đức Mẹ. Lời kinh thật hay, những danh
từ ca ngợi Thánh Nữ Đồng Trinh nối tiếp nhau trôi đi như nước trong một dòng
suối, và đây là lần đầu tiên Yakanov hiểu tính chất huyền diệu và thơ mộng của
những lời cầu nguyện. Không phải là một nhà thần học vô hồn nào đó đã viết ra
được lời kinh cầu này, người sáng tác phải là một thi sĩ lớn nhưng vô danh, một
tù nhân trong một tu viện, và trong giây phút đó Yakanov xúc động. Y không xúc
động vì sự hấp dẫn thoáng qua của những thân thể đàn bà mà là vì một cái gì đó
cao thượng hơn, trong sạch hơn mà một người đàn bà có thể gợi cho đàn ông cảm
thấy.
Yakanov tỉnh lại từ cơn mơ mộng. Y đang ngồi trên thềm của
Giáo đường Thánh John, đống đất đá vụn trên thềm làm dơ vạt áo da của y.
Đúng thật, không biết vì lý do nào, có khi không có lý do gì
hết, người ta đã phá lầu chuông kia, người ta đã phá cả những bậc thang đá
trắng từ đây đi xuống bờ sông. Không thể tưởng tượng được rằng ánh bình minh
hôm nay cũng chiếu cùng trên khoảng đất ở Mạc Tư Khoa từng sáng ánh nắng vàng
buổi chiều xa xưa, buổi chiều y và người thiếu nữ đó ngồi bên nhau. Nhưng ngọn đồi
vẫn là ngọn đồi này, cảnh vật dưới chân đồi vẫn là cảnh cũ, và khúc sông quẹo
được soi sáng bởi dãy đèn điện dưới kia vẫn là dòng sông ngày xưa.
Ít ngày sau buổi chiều đó Yakanov lãnh công tác xuất ngoại
khi y trở về, người ta bảo y viết một bài đăng báo - thực ra bài đó đã được
viết sẵn y chỉ có việc ký tên vào đấy - bài báo viết về cảnh sa đọa, trụy lạc
tan rã của xã hội các nước Tây phương đều tồi tàn: dân chúng đói khổ, nghèo
nàn, văn hóa đồi trụy, luân lý xuống thấp, khoa học không có điều kiện tiến bộ.
Những chuyện đó không đúng hẳn sự thật nhưng cũng không hẳn là bịa đặt hoàn
toàn. Những sự kiện đó có thật nhưng cũng không được bài báo nói đến. Nếu
Yakanov tỏ ra do dự, y có thể bị nghi ngờ. Và một bài báo như bài này làm hại
được ai?
Bài báo đó được đăng lên mặt báo.
Angiya gửi trả lại chiếc nhẫn đính hôn buộc vào một tờ giấy
nhỏ trên đó nàng viết: “Gửi cho Cyril”.
Và Yakanov không buồn, y còn cảm thấy nhẹ người, dễ chịu.
Y đứng lên và nhón gót cho thật cao, nhìn qua một khung cửa
sổ gắn kiếng mờ nhìn vào bên trong giáo đường. Không khí có mùi gạch vụn, lạnh
và ẩm. Y không thể nhìn rõ những vật bên trong, y chỉ lờ mờ thấy đó là những
đống đá nhỏ và rác rưởi.
Yakanov rời xa khung cửa sổ, nhịp đập của trái tim y chậm
xuống và y dựa vai vào thành đá của khung cửa sắt han rỉ nhiều năm nay không
được mở.
Một lần nữa sức nặng của khối đe dọa lạnh như đá băng do
Abakumov ném ra lại đập trúng ngực y.
Lúc này Yakanov đang ở vị trí quyền hành cao nhất đời y. Y
đang giữ một chức vụ quan trọng với một cấp bậc cao trong một Tổng Bộ mạnh
nhất. Y thông minh, tài ba – và nổi tiếng là người thông minh, tài ba. Người vợ
trẻ đẹp, khả ái của y chờ đợi y về ở nhà riêng của y. Những đứa con kháu khỉnh
má đỏ hồng của y ngủ bình yên trên những chiếc giường của chúng. Y có một nơi ở
đẹp trong một tòa chung cư ở Mạc Tư Khoa gồm nhiều căn phòng trần cao và một
ban-công nhìn xuống đường. Lương tháng của y được tính bằng nhiều ngàn đồng.
Một chiếc xe Pobeda được dành riêng cho y bất cứ lúc nào y cần đi. Vậy mà trong
buổi sáng lạnh này y vẫn đứng dựa vai vào thành đá chết và y không còn muốn
sống lâu hơn nữa. Trong tâm hồn y chỉ còn có tuyệt vọng, tất cả đều vô vọng ở
trong y đến nỗi y không còn cả sức để bước đi.
Trời đã sáng.
Không khí của buổi sáng tinh sương trong vắt. Sương đọng lại
thành băng ở quanh gốc cây sồi bị chặt đổ, bám trắng những đầu mái giáo đường
gần sụp đổ hoàn toàn, băng đá cũng bám trên những khung sắt cửa sổ, trên những
sợi dây điện chạy ngang và trên hàng rào bao quanh khu sắp xây cất tòa nhà chọc
trời dưới chân đồi.
Chương 24 - Việc làm của ông trung tá
Trung tá Klimentiev có những sợi tóc đen nhánh như than đá,
như nước sơn đen được sơn lên sắt, những sợi tóc ấy nằm phẳng trên đầu y, chia
ra làm hai phần, bộ ria tròn dưới mũi y trông như được bôi mỡ. Bụng y chưa to
và tuy đã bốn mươi nhăm tuổi, Klimentiev vẫn đi đứng như một quân nhân trẻ
tuổi, thân thể cân đối, quắc thước. Trong giờ làm việc không bao giờ y cười
hoặc mỉm cười, bộ mặt rầu rầu, u ám của y vì thế lại càng thêm nặng nề.
Tuy hôm nay là ngày Chủ nhật, y đến Viện còn sớm hơn ngày
thường. Y đi ngang sang sân vận động trong lúc đám tù nhân đang giờ đi lại
trong sân. Chỉ cần liếc mắt nhìn qua một cái, y đã ghi nhận hết tất cả những vi
phạm. Nhưng việc can thiệp ngay vào những vi phạm của bọn tù nhân không phải là
việc xứng đáng với cấp bậc của y, Klimentiev đi thẳng vào tòa nhà chính và vừa
đi y vừa ra lệnh cho Trung úy Nadelashin đi gọi tù nhân Nerzhin đến trình diện
y, cả Nadelashin cũng phải đến văn phòng gặp y nữa. Trong lúc đi qua sân, y nhận
thấy rằng có nhiều tù nhân đi trước y bước vội hơn và nhiều tù nhân khác ở
ngang đường y đi bước chậm lại hơn hoặc là đổi hướng đi. Y biết họ làm thế để
khỏi phải chào y, y biết nhưng vẫn lạnh lùng, vẫn không cho đó là một chuyện
đáng để y bực bội. Y biết sở dĩ những tù nhân có thái độ đó là vì chúng thèm
thuồng địa vị của y, phần lớn là vì chúng bối rối, ngượng nghịu trước những
người bạn tù của chúng, chúng không muốn tỏ ra hèn hạ, nịnh bợ. Gần như bất cứ
tù nhân nào cũng tỏ ra hòa nhã, thân thiện với y khi được gọi riêng tới văn
phòng y, nhiều tên còn năn nỉ, xin xỏ đặc ân nữa. Có nhiều hạng người ở trong
tù và giá trị của họ khác nhau xa. Klimentiev đã hiểu như thế từ lâu rồi, y tôn
trọng quyền tự kiêu của những tù nhân, y giữ vững quyền của y là bắt tất cả
phải giữ đúng luật lệ. Là một quân nhân thuần túy, y tin rằng y đem đến cho nhà
tù Mavrino một kỷ luật - không phải thứ kỷ luật làm cho con người mất phẩm giá
mà là thứ kỷ luật chính đáng của quân đội.
Y mở cửa văn phòng. Trong phòng đầy hơi nóng và máy sưởi
điện tỏa ra một thứ mùi sơn cháy khó ngửi. Viên Trung tá mở khung thông hơi
trên cánh cửa sổ, cởi áo khoác ngoài xuống ghế, thân hình vạm vỡ của y làm chật
căng bộ quân phục, và y cúi nhìn mặt bàn bừa bộn giấy tờ. Tờ lịch ngày thứ Bảy
trên tập lịch để bàn vẫn chưa được lật qua. Trên trang lịch đó có ghi hàng chữ:
“Cây Mùa Xuân?”
Trong văn phòng trơ trụi này, nơi vật duy nhất có công dụng
là cái tủ sắt đựng hồ sơ lý lịch của tù nhân, nửa tá ghế, một máy điện thoại và
một ổ máy nhấn chuông gọi. Đó là nơi mà Trung tá Klimentiev – không cần có dụng
cụ gì khác – kiểm soát, điều động cuộc sống của 281 người và việc làm của 50
giám thị đề lao.
Mặc dù sự kiện y đến làm việc ngày Chủ nhật – y sẽ được nghỉ
trọn một ngày trong tuần – và y đến sớm hơn giờ hành chánh nửa tiếng,
Klimentiev vẫn không để lạc tác phong làm việc đúng đắn thường ngày của y.
Trung úy Nadelashin đứng trước mặt y với vẻ bối rối, sợ hãi
thấy rõ. Trên hai gò má phính phính của Nadelashin hiện ra hai vết tròn đỏ. Gã
sợ vị Trung tá này tuy rằng chưa bao giờ Klimentiev ghi những sơ suất, lỗi lầm
quá nhiều của gã vào hồ sơ riêng. Nadelashin mặt tròn lố bịch, quê kệch, không
có qua một vẻ quân nhân nào, cố gắng tỏ ra thoải mái mà không được.
Nadelashin báo cáo rằng phiên trực của gã đêm qua đã trôi
qua trong trật tự hoàn toàn, không có qua một vi phạm nào nhưng có hai sự kiện
lạ đã xảy ra. Một sự kiện đã được gã viết thành báo cáo. Đã đặt tờ báo cáo lên
góc bàn và lập tức tờ giấy bay xuống đất, lượn vòng và chui vào gầm ghế.
Nadelashin vội vã đuổi theo, chổng mông lên lượm tờ giấy đem trở lại bàn. Sự
kiện đáng kể thứ hai là hai tù nhân Bobynin và Pryanchikov được gọi về Tổng Bộ
An ninh trong đêm qua.
Ông Trung tá An ninh nhếch lông mày khi hỏi viên Trung úy
những chi tiết về việc hai tù nhân được gọi đi và trả về. Tin này là một tin
không những là không vui mà lại còn chứa đựng đe dọa nguy hiểm nữa. Người phụ
trách vấn đề an ninh trong nhà tù đặc biệt này như lúc nào cũng ngồi trên miệng
núi lửa – lúc nào cũng ở ngay dưới lỗ mũi của ông Tổng trưởng. Nơi đây không
phải là một nhà tù ở một khu rừng xa xôi nào đó, nơi người sĩ quan chỉ huy có
thể có cả một tiểu đội vợ bé và muốn làm gì thì làm như một lãnh chúa. Ở đây
người ta phải theo đúng luật lệ và không bao giờ được hành động theo sự giận dữ
hay theo lòng thương hại. Nhưng chính Klimentiev lại là loại người không bao
giờ để cho việc làm của y bị ảnh hưởng bởi giận dữ hay thương hại, y không sợ
rằng hai tù nhân Bobynin và Pryanchikov có thể than phiền với cấp trên về những
hành động trái luật của y. Sau một thời gian hành nghề lâu năm, kinh nghiệm
sống cho Klimentiev thấy rằng y không có gì phải sợ những tù nhân, những người
làm hại y đều là những bọn đồng nghiệp của y.
Sau đó Klimentiev nhìn xuống bản báo cáo của Nadelashin và
thấy ngay cả bản viết này chỉ là một cái gì ngớ ngẩn, ngu ngốc. Y bắt đầu khiển
trách Nadelashin. Y nhớ lại tất cả những lỗi lầm mà Nadelashin đã phạm trong
thời gian vừa qua, như chuyện buổi sáng để cho bọn tù đi chậm mất hai phút, để
cho rất nhiều chiếc giường của bọn tù trong tình trạng bê bối không ngăn nắp,
Nadelashin không bao giờ tỏ ra đủ cứng rắn cần thiết để có thể gọi những tên tù
làm giường không cẩn thận trở lại, bắt chúng làm lại giường của chúng cho thật
ngay ngắn. Y từng nhiều lần nói với Nadelashin về vấn đề này nhưng y chỉ mất
công vô ích. Và có những chuyện gì đã xảy ra trong buổi tập thể dục sáng nay?
Gã Doronin đứng ngay trên ranh cấm của sân tập, nhìn vào khu đất cấm, nơi gã
nhìn là một vùng đất hoang rất tiện cho một cuộc vượt ngục. Và án tù của Doronin
là hai mươi lăm năm, hồ sơ của hắn có ghi tội giả mạo giấy tờ và từng bị tầm nã
trên khắp Liên bang trong hai năm trời. Vậy mà không một ai bắt hắn phải đi vào
hàng. Lại còn tên Rerasimovich nữa. Tên này không đi trong hàng như mọi người
mà lại một mình đi lững thững về phía nhà máy điện sau hàng cây sồi. Và
Gerasimovich phạm tội gì? Hắn đang sống hạn tù thứ hai – hắn bị bắt vì vi phạm
điều 58, khoản IA, liên can đến điều 19. Nói cách khác, hắn bị tù vì tội phản
nghịch của hắn cũng không sao chứng minh được rằng hắn tới Leningrad trong những ngày đầu tiên của cuộc
chiến tranh không phải là để chờ đợi bọn Đức Quốc Xã. Phải chăng Nadelashin đã
quên rằng bổn phận của một sĩ quan an ninh là phải luôn luôn xem hồ sơ của tù
nhân và luôn luôn kiểm soát những hành động của tù nhân? Và sau cùng, đồng chí
bận quân phục bê bối như vậy mà đồng chí được coi ư? Áo đồng chí sộc sệch –
Nadelashin vội kéo lại vạt áo. Ngôi sao trên mũ đồng chí lệch – Nadelashin vội
sửa lại. Đồng chí chào yếu xìu như một bà già. Vì đồng chí bê bối như vậy nên
bọn tù coi thường đồng chí, chúng không chịu làm giường mền ngay ngắn khi chúng
thấy đồng chí trực nhật. Để giường mền không ngay ngắn là một đe dọa nguy hiểm
cho kỷ luật chung của nhà tù. Hôm nay chúng không chịu làm giường, ngày mai
chúng sẽ từ chối làm việc.
Sau đó Trung tá Klimentiev cho lệnh tập hợp những viên giám
thị sắp đưa tù nhân đi gặp thân nhân vào phòng họp để nhận chỉ thị. Nerzhin
được để đứng chờ ngoài hành lang. Nadelashin được phép ra khỏi phòng.
Trung úy Nadelashin cảm thấy tinh thần gã xuống thấp. Gã rầu
rĩ và hối hận nhiều mỗi lần hắn bị khiển trách, gã nhận rằng những gì cấp trên
nhận xét về gã đều đúng và gã tự hứa nhất định sẽ không vi phạm những lỗi lầm
ấy nữa. Nhưng rồi công việc bắt buộc gã phải tiếp xúc với những tù nhân kéo gã
đi theo ý muốn của họ, tù nhân nào cũng thèm khát được hưởng một chút tự do, và
Nadelashin không sao từ chối được. Gã chỉ còn hy vọng rằng những nhượng bộ của
gã cho tù nhân không bị cấp trên phát giác.
Klimentiev rút cây bút ra gạch bỏ hàng chữ “Cây Mùa Xuân”
trên tờ lịch đi. Hôm qua y đã quyết định về vấn đề này.
Trong những nhà tù đặc biệt này chưa từng bao giờ có Cây Mùa
Xuân. Klimentiev nhớ rằng chưa từng bao giờ có một phép lạ như thế xảy ra.
Nhưng năm nay, ở đây, một số đông tù nhân – những tù nhân có giá, được trọng nể
– nhất định đòi họ phải có Cây Mùa Xuân. Và thoạt đầu, Klimentiev nghĩ: tại sao
lại không cho phép họ có một Cây Mùa Xuân? Tù nhân có Cây Mùa Xuân thì đã sao?
Hại gì? Không thể có chuyện xảy ra hỏa hoạn vì chập điện rồi, ở đây toàn là
những kỹ sư điện và giáo sư điện khí. Trong đêm cuối năm, một Cây Mùa Xuân sẽ
quan trọng và cần thiết cho các tù nhân, nhất là khi tất cả những nhân viên tự
do đều về vui chơi ở Mạc Tư Khoa, cuộc kiểm soát ở đây sẽ lỏng lẻo vì thiếu nhân
viên. Klimentiev biết rằng đêm cuối năm là đêm khổ sở nhất cho những kẻ bị tù,
trong đêm ấy rất có thể có những tù nhân làm những hành động cuồng dại và vô
vọng. Vì vậy đêm qua y đã gọi điện thoại về Bộ để hỏi ý kiến thượng cấp của y
về việc cho những nhà tù có điều cấm tù nhân không được dùng nhạc khí, nhưng họ
tìm mãi không thấy điều luật nào nói về Cây Mùa Xuân. Vì vậy mặc dù họ không
chính thức chấp nhận cho tù nhân làm Cây Mùa Xuân, họ cũng không ra mặt cấm.
Kinh nghiệm và sự khôn ngoan sáng suốt cho Trung tá Klimentiev biết y phải làm
sao trong trường hợp này. Đêm qua, trong khi ngồi xe điện ngầm để về nhà, y đã
quyết định: được rồi, cho họ làm Cây Mùa Xuân.
Trên đường đi vào trạm xe điện ngầm, Klimentiev đã nghĩ ngợi
về y với sự hài lòng. Y thấy y là một người thông minh, một người có khả năng
quyết định công việc không cần cấp trên phải bảo. Y không phải là một viên chức
ngu ngốc không có sáng kiến, y còn là một người tốt nữa, nhưng bọn tù sẽ không
bao giờ biết y là một người tốt, chúng sẽ không bao giờ biết rằng vì ai chúng
có Cây Mùa Xuân, ai muốn cho chúng có Cây Mùa Xuân, ai không muốn.
Chính vì cảm nghĩ mình là một người tốt nên Klimentiev không
len lỏi chen vào toa xe điện như những thị dân Mạc Tư Khoa vội vã về nhà và
muốn chiếm chỗ ngồi trong xe, y để cho mọi người vào trước và y là người cuối
cùng bước vào toa xe trước khi cánh cửa đóng lại. Không tìm ghế ngồi, y đứng
vịn cánh tay vào cột và nhìn khuôn mặt cương nghị, can đảm của y phản chiếu
trên làn kiếng cửa sổ toa xe, sau làn kiếng ấy là hầm tối và những ống hơi,
những dây điện chạy dài vô tận. Rồi y rời mắt nhìn về một thiếu phụ ngồi gần
chỗ y đứng. Thiếu phụ này ăn bận gọn ghẽ, đàng hoàng nhưng không đắt tiền,
chiếc áo đen nàng bận thuộc loại hàng nhân tạo, vai nàng choàng chiếc khăn cũng
bằng thứ hàng này. Một chiếc cặp da đặt ngay ngắn trên hai đùi nàng, Klimentiev
nghĩ rằng khuôn mặt nàng khá xinh, dễ thương nhưng mệt mỏi, và vẻ mặt nàng có
một cái gì khác với những thiếu phụ hãy còn trẻ khác, nàng có vẻ như không hề
chú ý gì đến những chuyện xảy ra quanh nàng.
Đúng lúc Klimentiev đang nhìn nàng, người thiếu phụ ngước
mắt lên và mắt nàng bắt gặp mắt y. Hai người nhìn nhau với những đôi mắt vô
hồn, vô tình cảm như những kẻ đi tàu, đi xe tình cờ nhìn nhau trong khoảnh khắc
thời gian nào đó. Rồi khi đôi mắt người thiếu phụ chớp chớp như để dò hỏi,
Klimentiev, nhờ thói quen nghề nghiệp, đã nhớ lại được mặt nàng. Y biết nàng là
ai và y không sao dấu nổi vẻ y biết nàng là ai. Về phần người thiếu phụ, nàng
nhìn thấy vẻ do dự của Klimentiev và nàng biết rằng nàng đã đoán đúng.
Người thiếu phụ này là vợ của tù nhân Nerzhin. Klimentiev
từng nhìn thấy nàng khi nàng đến thăm chồng ở nhà tù Taganka.
Nàng nhíu đôi lông mày, đưa mắt nhìn đi, rồi lại nhìn trở
lại mặt Klimentiev. Bây giờ Klimentiev nhìn qua cửa toa ra đường hầm nhưng ở
góc mắt y, y cảm biết là người thiếu phụ đang nhìn y. Rồi nàng đứng dậy và với
một vẻ quả quyết thấy rõ, nàng đi tới chỗ Klimentiev. Y bắt buộc phải quay lại
nhìn nàng.
Nàng đứng lên với sự quả quyết nhưng vừa rời khỏi chỗ ngồi,
vẻ quả quyết của nàng tan rã ngay và nàng trở thành bối rối, ngần ngại, do dự,
mặc dù có cái cặp da nặng trên tay, nàng có vẻ như người đứng dậy để nhường chỗ
ngồi cho ông Trung tá đứng trước mặt nàng. Trên đầu nàng treo nặng cái số phận
không may của những người vợ những tù nhân chính trị – vợ của những kẻ bị coi
là kẻ thù nhân dân, dù rằng những người đàn bà này làm gì, đi đâu, ở đâu, một
khi người ta biết họ là vợ những chính trị phạm đang bị tù họ cũng như kéo theo
cái xấu xa ghê gớm của chồng họ. Trước mắt mọi người, họ cùng chịu chung tình
trạng khốn nạn của những kẻ bất lương mà họ đã dại dột lỡ trao thân, gửi phận.
Và những người đàn bà khốn khổ này cảm thấy họ có tội thực sự, họ đáng bị khinh
bỉ thực sự trong khi người chồng họ, những kẻ thù đích thực của nhân dân, vì
chỉ sống ở trong tù, không cảm thấy.
Đứng ngay trước mặt Klimentiev để cho y có thể nghe được
tiếng mình nói trên tiếng động của con tàu, người thiếu phụ cất tiếng:
- Đồng chí Trung tá… Xin tha lỗi cho tôi… Ông là vị chỉ huy
chồng tôi, phải không ạ?
Trong nhiều năm sống với chức vụ sĩ quan an ninh nhà tù,
Klimentiev từng thấy đủ các hạng đàn bà đứng trước mặt y, và y không thấy có gì
lạ trong vẻ sợ hãi, do dự, bối rối của họ. Nhưng trong lòng con tàu này, giữa
mọi người và trước mắt mọi người, mặc dù người thiếu phụ này tỏ ra thận trọng,
vẻ sợ hãi van xin của nàng cũng là một cái gì lạc chỗ.
- Ngồi xuống chứ… Sao lại đứng lên? Ngồi đi.
Klimentiev bối rối nói. Y muốn nắm tay áo người thiếu phụ,
đưa nàng trở lại chỗ ngồi, nhưng nàng nói:
- Thưa… không sao…
Người thiếu phụ lùi xa hơn một chút để Klimentiev khỏi nắm
được tay áo nàng, nàng nhìn vào mặt y, đôi mắt nàng biểu lộ một ý van xin mạnh
mẽ gần như là cuồng dại:
- Trung tá làm ơn cho tôi biết… tại sao gần một năm nay tôi
không được thăm chồng tôi? Tại sao vợ chồng tôi không được gặp nhau? Bao giờ
tôi được gặp? Xin cho biết…
Có một sự ngẫu nhiên vừa xảy ra, lạ lùng như là một hạt cát
tình cờ bay trúng một hạt cát khác nằm cách xa cả trăm thước: vừa mới tuần
trước đây Cơ quan MGB phụ trách an ninh nhà tù vừa mới cho phép một số tù nhân
được quyền gặp vợ con, cha mẹ, trong số tù nhân này có Gleb Nerzhin, chồng của
người thiếu phụ này. Gleb Nerzhin sẽ được gặp mặt trong ngày Chủ nhật 25 tháng
Chạp ở nhà tù Lefortovo. Nhưng cùng với giấy phép này, những thượng cấp của
Klimentiev còn ghi lệnh cuộc thăm viếng không được “niêm yết” và tù nhân không
được tự mình báo tin về cho vợ, tù nhân phải cho ban quản đốc biết địa chỉ của
vợ và ban quản đốc sẽ gửi thư đến địa chỉ đó báo cho người đàn bà biết.
Nerzhin đã được Klimentiev gọi vào văn phòng để hỏi địa chỉ
của vợ hắn, nhưng Nerzhin nói là hắn không biết. Kinh nghiệm cho Klimentiev
biết rằng Nerzhin không muốn tiết lộ địa chỉ của vợ vì hắn không muốn làm hại
vợ hắn. Bởi vì một khi thư gọi của nhà tù gửi đến, tất cả những người sống
quanh vợ tù nhân sẽ biết và tự nhiên, họ sẽ tẩy chay người vợ tù nhân. Không
một tù nhân nào muốn cho vợ con còn sống ở ngoài rơi vào cảnh bị tẩy chay, bị
nghi ngờ, khinh bỉ ấy.
Khi Nerzhin nói rằng hắn không biết địa chỉ của vợ,
Klimentiev nói rằng nếu không biết, hắn sẽ không được gặp vợ hắn. Và Klimentiev
đã quyết định gạch tên Gleb Nerzhin khỏi bản danh sách những tù nhân được gặp
vợ trong ngày Chủ nhật này.
Và giờ đây, sự tình cờ dàn xếp cho Klimentiev gặp người vợ
của Nerzhin trong toa xe điện ngầm đang chạy. Nàng đang đứng bối rối trước mặt
y và những kẻ khác đang chú ý nhìn họ.
- Chị được phép thăm nhưng chị phải cho chúng tôi biết địa
chỉ.- Klimentiev nói lớn để người thiếu phụ có thể nghe rõ được tiếng y trên
tiếng động của con tàu đang di chuyển.- Lệnh thăm không được niêm yết.
- Nhưng tôi sắp phải đi xa.- nét mặt người thiếu phụ trở nên
linh động, tràn đầy hy vọng bất ngờ, nàng nói lớn.- Tôi sắp phải đi xa. Tôi
không có địa chỉ nhất định.
Klimentiev nghĩ rằng nàng nói dối. Y tính đến trạm tới y sẽ rời
toa tàu và nếu người thiếu phụ này theo y, trong khung cảnh tương đối vắng vẻ
của trạm xe buổi tối y sẽ giải thích cho nàng hiểu rằng y không thể tiếp chuyện
nàng ở ngoài đường như thế này, muốn hỏi gì về chồng nàng, nàng phải làm đơn
gửi về Bộ An ninh.
Trong khi đó người vợ của tù nhân Gleb Nerzhin, kẻ thù của
nhân dân, như quên tư cách đáng khinh của mình, nàng nhìn thẳng vào mặt viên
Trung tá và đôi mắt nàng lúc đó là đôi mắt sôi nổi nồng nàn, đòi hỏi, đó là đôi
mắt của một người bất mãn khi thấy quyền lợi của mình không được tôn trọng.
Klimentiev ngạc nhiên vì ánh mắt ấy. Y tự hỏi không biết có một sức mạnh gì đã
buộc chặt người đàn bà này vào gã đàn ông tù nhân kia, có sức mạnh nào đã làm
cho nàng mù quáng hy vọng chờ đợi được đoàn tụ với người chồng mà nàng đã phải
sống xa không biết bao nhiêu năm, với người chồng chỉ đem đến cho đời nàng
những bi thảm, người chồng có thể tàn phá cả đời nàng.
- Tôi cần được gặp chồng tôi. Tôi cần lắm…
Nàng nói, đôi mắt mở lớn, như nàng cần làm cho Klimentiev
tin rằng nàng cần gặp chồng nàng.
Klimentiev nhớ lại tờ chỉ thị về luật mới quy định việc tù
nhân được thăm viếng nằm trên bàn giấy y, theo chỉ thị này, những người vợ nào
không chịu khai địa chỉ sẽ không bao giờ được phép thăm chồng. Nhưng nếu sáng
mai đây người thiếu phụ này đến nhà tù Lefortovo, nàng có thể tình cờ được gặp
chồng nàng ở đấy, sẽ không ai biết rằng Trung tá An ninh Klimentiev là người
báo tin ấy cho nàng.
Con tàu điện bắt đầu chạy chậm lại.
Nhiều ý nghĩ mâu thuẫn theo đuổi nhau đến trong óc Trung tá
Klimentiev. Y nhớ lại lỗi lầm y đã mắc phải trong thời gian trước chỉ vì sự tốt
bụng, chỉ vì lòng thương người, y biết rõ hơn bất cứ ai và y thường khuyên
những thuộc viên của y không bao giờ được hành động theo tình cảm, một sĩ quan
an ninh chỉ biết có luật lệ, sĩ quan an ninh không có tình cảm. Nhưng khi con
tàu dừng lại trước trạm xe bằng đá trắng, Klimentiev nói với người thiếu phụ:
- Chị được phép gặp vào ngày mai. 10 giờ sáng mai.
Y không nói ra những tiếng “nhà tù Lefortovo” vì đám hành
khách đã đứng vây quanh y chờ đi ra cửa xe, y chỉ hỏi mơ hồ nhưng y tin rằng
người thiếu phụ hiểu:
- Chị biết Lefortovo chứ?
Người thiếu phụ cuống quít gật đầu:
- Tôi biết… Tôi biết…
Và đôi mắt nàng đang ráo hoảnh bỗng tự nhiên tràn đầy nước
mắt.
Tránh nhìn nước mắt, tránh sự cám ơn làm y trở thành khả
nghi trước mắt mọi người, Klimentiev bước vội ra khỏi toa xe. Y đứng trên sân
ga lạnh chờ chuyến xe tới. Y ngạc nhiên không hiểu tại sao y lại hành động trái
luật đến như thế và y bực dọc với chính y.
*
Trung tá An ninh Klimentiev cố tình để cho tù nhân Nerzhin
đứng chờ thật lâu ngoài hành lang vì Nerzhin là một tên tù hỗn hào, một tên tù
luôn luôn đòi áp dụng đúng luật.
Klimentiev tính đúng tâm trạng của Nerzhin: bị đứng chờ lâu
như thế, Nerzhin sẽ tiêu tan hy vọng được gặp mặt vợ trong chuyến viếng thăm
hôm nay, và càng chờ lâu chừng nào, hắn càng nghĩ rằng sắp có sự không may xảy
đến cho hắn. Khi được biết rằng trong vòng một tiếng đồng hồ nữa hắn sẽ được
gặp vợ, Nerzhin sẽ mừng đến không còn tự chủ được. Và đúng như Klimentiev nghĩ,
Nerzhin tươi hẳn nét mặt, hắn còn nồng nhiệt cám ơn, một việc mà Klimentiev
chưa từng thấy hắn làm bao giờ.
Trước sự vui mừng của tên tù, Trung tá Klimentiev lập tức ra
chỉ thị cho tiểu đội giám thị có nhiệm vụ đưa bọn tù đến nhà tù Lefortovo hôm
nay.
Y nhắc lại với tiểu đội giám thị nhiều điều quan trọng,
trong đó điều đáng kể nhất là nhấn mạnh cho họ nhớ lại tinh thần ngoan cố của
bọn tội phạm: chúng sẽ lợi dụng cuộc thăm viếng này để truyền những tin tức mật
ra ngoài, vợ chúng sẽ đem những tin tức có hại cho quốc gia đó đi bán cho bọn
Hoa Kỳ - đa số giám thị không biết có những công tác gì đang được thực hiện
trong Viện Mavrino và dễ dàng làm cho họ tin rằng chỉ một mảnh giấy nhỏ cũng đủ
làm tan nát cả Liên bang Xô Viết - rồi y đọc lại cho bọn họ nhớ bản danh sách
liệt kê những nơi mà bọn tù có thể giấu giếm tài liệu và họ phải khám kỹ - thực
ra, những tù nhân được đi thăm đều được phát một bộ quần áo riêng, chúng chỉ
được bận quần áo lành lặn này trước khi lên xe đi và khi về tới phải cởi trả
lại ngay, nhưng giám thị cũng vẫn phải đề phòng. Sau đó Klimentiev chất vấn các
giám thị để kiểm soát xem họ hiểu nhiệm vụ của họ đến chừng nào. Cuối cùng, y
nói với họ một số tỷ dụ về các lời trao đổi giữa các tù nhân với vợ chúng để
các giám thị có thể can thiệp kịp thời, cắt đứt những lời có hại. Tù nhân và vợ
chỉ được phép nói toàn chuyện riêng và chuyện gia đình chúng.
Trung tá An ninh Klimentiev là một sĩ quan biết rành luật lệ
và thích trật tự.
Chương 25 - Lên cao tuyệt đỉnh
Giáo sư Toán học Chelnov, một ông già, là nhân vật quen
thuộc của nhiều nhà tù đặc biệt như Viện Mavrino. Giáo sư Chelnov là người đã
nhiều lần viết danh từ “tù nhân” để trả lời câu hỏi “quốc tịch” trong những bản
khai lý lịch. Vào năm 1950, Giáo sư Chelnov hoàn thành năm tù thứ mười tám
trong cuộc đời tù tội của ông, ông cũng là người từng đặt cây viết chì trong
tay ông lên rất nhiều phát minh khoa học, từ việc phát minh ra máy hơi nước đến
những động cơ phản lực, trong nhiều phát minh có nằm rải rác và thấp thoáng
những mảnh linh hồn của ông.
Ở trong Viện Khoa học Mavrino, Giáo sư Chelnov là người tù
duy nhất không bị bắt buộc phải bận bộ đồng phục giống kiểu quân phục của binh
chủng Nhảy dù. (Vấn đề này đã được đưa lên tới tận Tổng trưởng Abakumov để xin
giải quyết). Nguyên nhân chính làm cho Giáo sư Chelnov không bị bắt buộc phải
ăn bận như mọi người khác ở đây là vì ông không phải là một tù nhân thường trực
của Mavrino, ông chỉ là một tù nhân tạm, ông chỉ được đưa đến đây khi có việc
cần đến ông, khi hết việc hoặc khi nơi khác cần đến ông hơn, ông sẽ được đưa đi
nơi khác. Trong dĩ vãng, Giáo sư Chelnov từng là hội viên của Hội Khoa học gia
Nhà nước và từng giữ chức Viện trưởng Viện Toán học. Hiện nay tuy bị tù, ông
vẫn được đặt dưới quyền sử dụng của riêng Beria.
Nhưng Giáo sư Chelnov không lợi dụng đặc quyền của ông để
lựa chọn y phục như những kẻ tầm thường sẽ làm khi được cái quyền ấy. Ông chỉ
bận những bộ y phục rẻ tiền, màu áo với màu quần không hợp nhau, ông đi đôi
giày nỉ dưới chân, đội một cái mũ len đan như mũ của những người trượt tuyết
trên mái tóc bạc thưa, y phục của ông nổi bật lên với chiếc khăn lên choàng
trên vai, chiếc khăn choàng vai này quá rộng, khăn phủ kín cả lưng ông như kiểu
khăn choàng của những bà già nhà quê.
Nhưng trong cái mũ len ấy, dưới chiếc khăn choàng quê kệch
ấy, Giáo sư Chelnov có một vẻ uy nghi riêng, sự hiện diện của ông bao giờ cũng
làm cho người khác kính nể, không một ai dám cười ông vì chiếc khăn choàng đàn
bà ấy. Khuôn mặt dài và thon của ông, những nét sắc của mắt mũi ông, thái độ
đường bệ và ngôn ngữ nghiêm chỉnh của ông khi ông giao thiệp với những kẻ có
quyền trong Viện, màu mắt xanh nhạt của ông – màu mắt mơ hồ mà người ta chỉ có
thể nhìn thấy ở mắt những người suy nghĩ nhiều làm cho Giáo sư Chelnov giống
một cách kỳ lạ với triết gia Descartes hoặc những nhà toán học thời Phục hưng ở
Âu Châu.
Giáo sư Chelnov được đặc biệt gửi tới Viện Mavrino để giúp
việc thực hiện giàn máy điện thoại bí mật cho Stalin. Nhưng ông không phải phụ
trách riêng một việc gì cả, ông là một thứ cố vấn hướng dẫn tất cả những nhà
khoa học khác. Tất cả mọi người trong Viện Mavrino đều có thể đem những thắc
mắc về toán học của mình đến trình bày với Giáo sư Chelnov, ông sẽ giải thích,
sẽ cho họ biết họ đúng hay sai, phát minh của họ sẽ có giá trị hay không.
Có thể nói là tất cả những nhà khoa học sống trong Viện
Mavrino đều bận rộn với việc chế tạo giàn máy điện thọai bí mật, trừ một người.
Người đó là Sologdin.
Kỹ sư Sologdin được tuyển từ một trại tập trung ở miền Bắc
Inta đưa về Viện Mavrino. Nhưng vừa về tới Viện, Sologdin đã khai với tất cả
mọi người rằng tinh thần của mình bị yếu đuối vì thời gian đau ốm, thiếu thốn
vật chất dài ở trại tập trung, ký ức của mình bị quên lãng và khả năng của mình
nhụt kém. Nói tóm lại, Sologdin yêu cầu được có một thời gian để phục hồi trước
khi nhận công tác. Sologdin yên tâm đòi hỏi như vậy vì ở trại tập trung, anh
cũng là một kỹ sư, được dùng vào xưởng máy, nếu có phải trở về trại, anh cũng
không đến nỗi khổ sở, vất vả lắm.
Sologdin được ở lại Viện trong tình trạng chờ xem, thử
thách. Tuy ngày ngày anh vẫn vào phòng nghiên cứu làm việc như mọi người nhưng
anh không có trách vụ rõ rệt, việc anh làm không bị kiểm soát, thúc giục, anh ở
ngoài dòng nước cuồn cuộn chảy về hướng giàn máy điện thoại bí mật cần hoàn
thành gấp để dâng cho Lãnh tụ Tối cao. Và Sologdin đã thảnh thơi nhàn nhã và bí
mật hoàn thành được một hệ thống phân thanh đặc biệt cần thiết cho việc chế tạo
giàn máy điện thoại bí mật. Anh làm việc ban đêm cho đến nay, chưa ai trong
Viện biết là anh đã thành công, anh đã nắm trong tay vật báu mà Yakanov đang mơ
ước.
Trong thời gian nửa năm, Sologdin đã tìm được một giải pháp
mà 10 kỹ sư chuyên môn khác được giao cho trách nhiệm tìm đã không tìm ra. Những
kỹ sư kia không phải là bất tài hoặc tài năng kém Sologdin, họ tìm không ra chỉ
vì họ bị kiểm soát vô lý và thúc giục không đúng cách. Hai ngày trước đây
Sologdin đã trao phát minh của anh cho Giáo sư Chelnov để ông này kiểm soát giùm.
Đây là một việc riêng giữa Sologdin và Chelnov và buổi sáng Chủ nhận này,
Sologdin kính cẩn đi bên Chelnov lên cầu thang, anh thận trọng đỡ nhẹ cánh tay
ông già đề phòng ông trượt chân hoặc bị đám tù nhân xô đẩy, anh đi theo ông già
vào phòng nghiên cứu để nghe ông phán quyết về phát minh của anh.
Trên con đường đi qua những hành lang và, Giáo sư Chelnov
không đả động gì đến vấn đề đang làm cho Sologdin bồi hồi, khích động, ông
không nói là “được” hay “hỏng” để cho Sologdin an tâm. Ông cũng vui vẻ nói chuyện
buổi sáng sớm hôm nay ông gặp Lev Rubin và Rubin đã đọc cho ông nghe bài thơ
hắn mới sáng tác được về một đề tài trong Kinh Thánh. Ông công nhận vần điệu
của bài thơ không đến nỗi dở lắm xong tinh thần của đề tài, theo ông, không
được chỉnh mấy. Bài thơ diễn tả lại việc Moses đưa đám dân Do Thái đi qua sa
mạc trong bốn mươi năm, chịu đói khát, khổ ải, thiếu thốn đủ thứ, vì vậy đám
dân nổi điên vì tuyệt vọng và chống lại Moses, nhưng họ sai và Moses đúng, vì
cuối cùng Moses vẫn dẫn họ được tới vùng đất hứa ở đó tất cả mọi người đều sung
sướng. Rubin có vẻ đã đặt hết tâm hồn của hắn vào bài thơ này.
Nhưng Giáo sư Chelnov không đồng ý với Rubin về sự quả quyết
là Moses đã hành động đúng. Ông nhắc cho Rubin nhớ về điều kiện địa dư của
chuyến đi ấy. Từ sông Nil tới Jerusalem đoàn người Do Thái chỉ phải đi có 250
dặm đường, điều này có nghĩa là dù cho họ có nghỉ đi trong những ngày Sabbath,
họ cũng chỉ phải đi nhiều lắm là ba tuần lễ. Vậy mà Mosses đã dẫn họ đi mất hết
40 năm. Đó là một sự quá đáng. Nếu Moses không lầm lẫn đưa họ đi quanh quẩn
trong sa mạc thì đó là vì Moses cố ý không muốn cho họ đến ngay nơi họ muốn
đến. Và thời gian quá đáng này là một nghi vấn về thiện chí của Moses.
[Nội dung bài thơ này
có một ý nghĩa thời sự. Lev Rubin, tuy bị tù, nhưng vẫn là một người Cộng sản.
Y muốn bào chữa cho Stalin, muốn chứng minh việc làm của Stalin là đúng. Y ngầm
ví Stalin với Moses: cũng như Moses hướng dẫn dân Do Thái qua sa mạc khổ sở đến
đất lành, Stalin hướng dẫn dân Nga đến hạnh phúc. Chỉ với một điểm thắc mắc rất
khoa học về địa dư, Giáo sư Chelnov đánh đổ luận điệu này (người dịch)]
Giáo sư Chelnov lấy chìa khóa mở cửa phòng làm việc của ông
ở bàn giấy của người sĩ quan trực ngồi trước cửa văn phòng Yakanov. Trong số
những tù nhân ở đây chỉ có ông và Mặt Nạ Sắt, tức Mamurin, được đặc quyền này.
(Không một tù nhân nào được quyền có mặt nửa phút trong phòng nghiên cứu khi
không có sự kiểm soát của một nhân viên tự do, người ta phải thận trọng như thế
bởi vì tù nhân có thể lợi dụng phút không bị kiểm soát này để mở tủ sắt bằng
chìa khóa giả, chụp hình những tài liệu mật bằng một cái nút quần, cho nổ một
trái bom nguyên tử rồi bay thẳng lên mặt trăng).
Chelnov làm việc trong một căn phòng được gọi là “Bộ Óc”,
nơi đồ đạc chỉ vỏn vẹn có một cái tủ áo bằng gỗ và hai cái ghế trơ trọi. Người
ta phải xin lệnh của Tổng Bộ An ninh để có thể phát cho Giáo sư Chelnov một
chìa khóa riêng để ra vô phòng này. Kể từ ngày đó căn phòng này là một vấn đề
làm cho sĩ quan An ninh Shikin mất ăn, mất ngủ. Đêm khuya, khi bọn tù đều bị
nhốt chặt trong phòng giam sau nhiều lớp cửa sắt, Shikin từng nhiều lần vào căn
phòng này mò mẫm, lục lọi, y gõ lên vách, sờ soạng trên những khe ván sàn phòng
nhìn vào gầm tủ, vặn từng chân ghế và âu lo lắc đầu với những ý nghĩ nhất định
rằng việc thượng cấp cho tù nhân được tự do đến thế này chỉ có hại chứ không có
lợi.
Nhưng Giáo sư Chelnov không phải chỉ lấy được chìa khóa là
có thể vào được căn phòng nhỏ này. Ông còn phải đi qua một trạm kiểm soát trên
hành lang. Đi qua trạm này là vào khu gọi là Tối Mật. Trạm kiểm soát gồm một
cái chòi gỗ như chòi canh của lính gác cửa, trong đặt một cái bàn, trên bàn là
một máy điện thoại và sau bàn có một nữ kiểm soát viên ngồi hỏi giấy phép. Giấy
phép ra vô khu Tối Mật này do Tổng Bộ An ninh cấp phát, gồm ba loại: giấy phép
thường trực, giấy phép tuần và giấy phép một kỳ. Việc phân loại giấy phép này
là do sáng kiến đề nghị của Thiếu tá An ninh Shikin.
Mặc dù Giáo sư Chelnov biết rõ người kiểm soát ngồi đó là
Marya Ivanovna và chị này xem giấy phép của ông mỗi buổi sáng, khi ông đi tới,
chị này vẫn nghiêm trọng hỏi:
- Giấy phép?
Chelnov xuất trình giấy phép thường trực in trên miếng giấy
dày và Sologdin xuất trình giấy phép tuần in trên tờ giấy mỏng.
Hai người đi qua trạm kiểm soát, qua hai khung cửa nữa, và
Chelnov mở khóa cửa văn phòng làm việc riêng của ông.
Phòng này ấm cúng, gọn ghẽ, sạch sẽ với một khung cửa sổ
nhìn xuống sân tập thể dục của tù nhân, nhìn xa ra hàng cây sồi cổ thụ vòm lá
đọng sương đêm kết lại thành băng trắng xóa.
Một bầu trời trắng xám phủ trên trái đất.
Ở bên trái hàng cây sồi, ngoài vùng cấm, có một căn nhà gỗ
rất xưa, những vách gỗ của căn nhà này đã chuyển thành xám vì thời gian và giờ
đây trắng như vôi. Căn nhà có hai từng lầu và mái nhà lợp tôn trông giống như
một chiếc thuyền. Trước đây nhiều năm người chủ khu đất này từng sống trong căn
nhà gỗ đó. Xa kia là những mái nhà thấp của làng Mavrino, rồi đến một cánh
đồng, rồi xa nữa là đường xe hỏa chạy về Mạc Tư Khoa. Vào lúc này ở trên đường
xe hỏa đó có một làn khói trắng từ một đầu tàu bốc lên – đứng trong khung cửa
sổ này người ta không thể nhìn thấy con tàu và đường tàu.
Nhưng Sologdin không để ý gì đến cảnh vật dàn trải trước mắt
anh. Mặc dù được mời, anh cũng vẫn không ngồi xuống ghế. Khoẻ khoắn với cảm
giác biết chắc là hai chân mình còn trẻ, còn mạnh, anh đứng dựa vai lên thành
cửa sổ và nhìn lên tập giấy của anh đặt trên mặt bàn của Chelnov.
Chelnov ngồi xuống cái ghế có thành dựa cao, sửa lại chiếc
khăn choàng trên vai, mở quyển sổ ghi đến trang chót, cầm cây bút chì lên và
nghiêm trọng nhìn Sologdin. Giọng nói thân mật, nhẹ nhàng vừa qua đã hoàn toàn
biến mất.
Sologdin có cảm tưởng như anh nghe thấy tiếng gió lộng trong
phòng, như có những chiếc cánh lớn của một loài chim khổng lồ nào đó đang bay
quanh anh. Giáo sư Chelnov chỉ nói trong có hai phút, nhưng những gì ông nói ra
quan trọng và chính xác đến nỗi Sologdin phải nín thở để nghe. Chelnov đã làm
cho Sologdin nhiều hơn điều mà Sologdin yêu cầu ông làm giùm. Không những ông
chỉ kiểm soát phát minh của Sologdin mà thôi, ông còn dùng toán học giải quyết
cho Sologdin những rắc rối mà anh mắc phải mất cả tháng trời mò mẫm cũng chưa
chắc đã giải quyết được.
Nói xong, như quan tòa tuyên án, Chelnov gập quyển sổ lại và
ngồi im lặng.
Sologdin nhắm mắt như ánh sáng vừa lóa lên làm anh bị mù,
anh cũng đứng ngây ra đó, không sao nói được nên lời.
Từ những tiếng nói đầu tiên của ông già, Sologdin đã cảm
thấy một làn sóng nước nóng chảy mạnh trong cơ thể anh. Giờ đây anh phải đưa
hết sức nặng của thân thể anh lên thành cửa sổ để khỏi bay lên trần nhà vì sung
sướng. Sologdin thành thật nghĩ rằng anh có thể bay vọt lên trần nhà nếu anh
muốn.
Những ý nghĩ quay cuồng như bão tố trong óc Sologdin. Điều
đáng kể là anh không nghĩ đến những gì chờ đợi anh với thành công khoa học này,
anh nhớ lại cá nhân anh trước ngày anh bị tù. Trước kia anh là một con người
như thế nào? Chắc chắn là trước kia anh không phải là một kỹ sư. Trước kia anh
chỉ là một gã trẻ tuổi thích ăn diện, lo ăn diện hơn là làm việc, cho đàn bà là
quan trọng hơn tất cả trên đời. Chính là vì đàn bà mà một kẻ ghen tuông với anh
cho anh đi tù.
Rồi anh sống ở những nhà tù Butyrskaya, Presnya, Sevurallag,
Ivdellag, Kargopollag…
Ngay cả vào tù, anh cũng vẫn chưa hết rắc rối với đàn bà.
Sologdin nhớ đến cái tên cai tù Kamyshan chuyên đánh tù nhân bằng gậy vào mồm
cho gãy răng – hôm nào gã đi ngựa đến trại giam, gã đánh tù bằng roi ngựa – một
nữ y tá phốp pháp thương hại Sologdin và không chịu Kamyshan. Vì chuyện này
Sologdin lãnh thêm án mười năm tù vì báo cáo của tình địch Kamyshan. Anh gần
chết vì chuyện này nhưng anh vẫn không oán hận gì người nữ y tá đó hết.
Đó là lần Sologdin bị khiêng từ tòa án xuống thẳng nhà
thương. Anh hấp hối. Thân thể anh từ chối ăn uống. Anh nằm như xác chết cho đến
ngày người ta khiêng anh xuống nhà xác, ở đây người ta sẽ dùng búa bổ vỡ sọ anh
trước khi đem đi chôn, nhưng trên đường đi, không biết vì sao anh lại cựa quậy
và ú ớ nói được lên tiếng.
Và bây giờ anh ở đây, bây giờ anh sắp được ra khỏi đây. Nhờ
phát minh này, anh sắp được trở lại với cuộc sống tự do. Đó là một giấc mơ
không thể có thật. Ông già thông thái này vừa nói những lời ca tụng ai đó chứ
không phải là nói với anh.
Chelnov gập tờ giấy của Sologdin lại làm bốn, rồi làm tám
cho đến khi nó có thể nằm gọn trong lòng bàn tay:
- Chú vẫn còn nhiều việc phải làm lắm.- ông nói - Nhưng tôi
có thể nói chắc rằng kiểu mẫu này là kiểu mẫu tiện lợi nhất, tối tân nhất. Nó
sẽ đem tự do lại cho chú. Án tù của chú có thể được xóa bỏ.
Vì một nguyên nhân nào đó mà người trẻ tuổi kia không thể hiểu,
khi nói đến câu này, ông già mỉm cười. Nụ cười của ông cũng sắc và thông minh
như nét mặt của ông.
Chelnov cười vì mình chứ không cười vì Sologdin. Tuy ông
từng thực hiện được nhiều việc quan trọng hơn việc của Sologdin, ông vẫn không
bị đe dọa bởi chuyện được trả tự do hay không, được thủ tiêu án tù hay không.
Bởi vì ông không có án tù. Lâu rồi ông đã công khai nói lên ý nghĩ của ông về
Lãnh Tụ Anh Minh, vị Cha Hiền của Dân tộc, ông coi hắn là một con rắn độc và vì
vậy, ông bị bắt đưa đi tù, không ra tòa, không có án, không hy vọng.
Sologdin mở cặp mắt xanh sáng rực, đừng thẳng người lên và
nói một câu cứng ngắc như một kịch sĩ tập sự nói trên sân khấu:
- Vladimir Erastovich… ông giúp tôi rất nhiều. Ông đem lại
cho tôi niềm tin và hy vọng. Tôi không biết dùng lời nào để cám ơn ông. Tôi chỉ
có thể là tôi chịu ơn ông rất nặng.
Đưa tờ giấy gấp nhỏ trả lại cho Sologdin, như chợt nhớ ra,
ông già nói:
- Tôi phải xin lỗi chú. Chú có yêu cầu tôi là đừng cho
Yakanov nhìn thấy đồ hình kiểu mẫu này, nhưng hôm qua hắn đến phòng tôi và hắn
tình cờ mở xem đúng tờ giấy này. Chú hiểu cho… tôi chỉ có thể không tự ý đưa
cho hắn xem nhưng tôi không thể ngăn được hắn xem giấy tờ trên bàn tôi. Hắn
nhìn và hắn hiểu ngay đây là kiểu mẫu gì. Hắn hỏi và tôi phải nói đến chú.
Nụ cười biến mất trên môi Sologdin. Ông già thấy người trẻ
tuổi cau mặt lại. Ông ngạc nhiên:
- Chuyện hắn biết có gì quan trọng đâu? Trước sau gì chú
cũng phải cho hắn biết…
Sologdin cũng không biết rõ tại sao anh khó chịu. Anh nhìn
xuống để tránh tia mắt soi mói của ông già:
- Tôi không biết phải nói sao… nhưng tôi chắc ông hiểu. Đây
là một phát minh không có lợi cho tất cả mọi người. Tôi do dự nghĩ đến người đó
dùng phát minh của tôi. Tôi không sáng tạo ra vật này với mục đích cho y dùng.
Tôi chỉ làm để thử sức tôi, để chứng minh với tôi rằng tôi có thể làm được. Tôi
làm cho tôi.
Sologdin ngẩng mặt lên.
Chelnov hiểu hơn ai hết câu nói của người trẻ tuổi. Làm cho
mình là biểu dương cao nhất của việc nghiên cứu, tìm kiếm.
Nhưng ông cũng thản nhiên nói:
- Tôi hiểu… Xong trong trường hợp của chú, tôi sợ chú không
thể nào làm theo ý chú được.
- Dạ…- Nụ cười sung sướng nở lại trên môi Sologdin.- Tôi xúc
động nên tôi nói bậy. Xin ông đừng nghĩ ngợi gì. Tôi cám ơn, cám ơn…
Anh kính cẩn nắm lấy bàn tay nhăn nheo, yếu xìu của ông già
rồi cẩn thận bỏ tờ giấy vào túi, anh đi ra khỏi phòng.
Khi đi tới căn phòng này, anh là một người tương đối tự do,
lòng anh đầy hy vọng, anh ra khỏi đây như một kẻ chiến thắng nhưng lệ thuộc quá
nhiều điều kiện. Anh không còn làm chủ được ý muốn của anh, phát minh của anh.
Còn lại một mình trong phòng, ông già không dựa lưng lên
ghế, ông ngồi thẳng người, hai mắt nhắm lại trong một lúc lâu.
-----------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét