Không số phận
(Nguyên tác: Sorstalanság)
Tác giả: Kertész Imre
Dịch giả: Giáp Văn Chung
Nhà xuất bản Lao Động - 08/2010
9
Tôi trở về nhà cũng gần vào khoảng thời
gian trong năm khi tôi ra đi. Chỉ biết bốn bề rừng xanh mướt từ bao giờ, trên
những nấm mồ chôn xác người cỏ cũng đã chớm mọc, và từ khi thế sự đổi thay cái
sân rải nhựa đường vương vãi đầy tàn tích của những đống lửa trại đã tắt, đủ
các loại giẻ rách, giấy vụn, vỏ đồ hộp đã bắt đầu chảy nhễ ra dưới cái nóng giữa
mùa hè, khi ở Buchenwald người ta hỏi tôi: đã sẵn sàng cho chuyến đi chưa? Đa số
những người đi là bọn trẻ chúng tôi, dưới sự hướng dẫn của một người thấp lùn,
đeo kính, tóc đã chớm bạc, một nhân vật đáng trọng trong Ủy ban Hungary của trại,
ông sẽ lo liệu các việc dọc đường cho chúng tôi. Bây giờ có xe tải, và những
người lính Mỹ sẵn sàng đưa chúng tôi đi một đoạn về phía Đông, còn lại là việc
của chúng ta, ông nói, và bảo chúng tôi cứ gọi ông là “bác Miklós”. Cần phải tiếp
tục sống, bác ta nói thêm, và đúng thế, chúng tôi còn có thể làm gì khác, tôi
thừa nhận, dĩ nhiên là nếu đến lúc chúng tôi đã có cơ hội để làm việc đó. Và đại
thể tôi cũng có thể nói mình lành lặn, ngoại trừ một vài điểm kỳ quặc bất thường,
hay sự thiểu năng nào đó. Chẳng hạn nếu tôi ấn ngón tay xuống bất kỳ chỗ nào
trên cơ thể, thì vết lõm còn lưu lại rất lâu, giống như ta ấn vào một thứ vật
chất chết, không đàn hồi, như một cục pho mát hay sáp vậy. Gương mặt tôi cũng
làm tôi hơi bất ngờ, khi trong một phòng ở bệnh viện SS cũ có trang bị gương, lần
đầu tiên tôi nhìn thấy, vì trước đó tôi nhớ tới một gương mặt khác. Gương mặt
bây giờ, tôi nhìn thấy: dưới mái tóc mới mọc lại dài vài xăng ti mét là cái
trán thấp, dưới hai dái tai rộng đến kỳ quặc là hai cái u mới hình thù quái dị,
chỗ khác là những lớp da thõng xuống, nhăn nheo - ít nhất là theo những gì tôi
đã đọc trước đây - giống như các nếp nhăn nheo, những đường nét đặc trưng cho
những người già trước tuổi vì phóng đãng và lạc thú quá độ, và đôi mắt đã thành
nhỏ xíu cũng khác hẳn đôi mắt thân thiện dễ mến, có thể nói gợi cảm giác đáng
tin cậy mà tôi còn lưu giữ trong trí nhớ. Hơn nữa tôi còn đi tập tễnh, hơi kéo
lê chân phải. Không sao, bác Miklós bảo, rồi không khí bên nhà sẽ chữa lành. Về
nhà, bác tuyên bố, chúng ta sẽ xây dựng một đất nước mới, và để bắt đầu, bác dạy
chúng tôi ngay vài bài hát. Nếu đi qua các làng mạc, thành phố - rất
nhiều trong hành trình của chúng tôi - chúng tôi sẽ hát những bài này, đi hàng
ba, như một đội quân. Tôi đặc biệt rất thích bài hát bắt đầu bằng “Ở ngoại vi Madrid, chúng tôi đứng chờ”, tôi cũng không biết tại sao. Vì những nguyên
do khác, nhưng tôi còn thích hát một bài khác nữa, đặc biệt là do đoạn
này: “Chúng tôi làm việc hùng hục suốt
ngày/ và suýt nữa thì chết đói/ Nhưng cánh tay lao động đã cầm vũ khí”. Lại vì những lý do
khác tôi còn thích một bài hát khác có câu thế này: “Chúng ta là đội cận vệ trẻ của những người vô sản”, mà sau câu đó, bằng
giọng nói bình thường, chúng tôi phải nói đệm vào: “Rotfront”, [Mặt
trận Đỏ] vì những lúc
như thế tôi có thể nghe rõ tiếng đóng lạch cạch của một vài ô cửa sổ hay tiếng
đập cửa ra vào, mỗi lần như thế tôi lại thấy một người Đức vội vã lướt qua hay
chóng mất hút sau cánh cổng.
Phải nói tôi lên đường với
hành trang rất nhẹ nhàng: một chiếc túi của lính Mỹ - hình dáng không
được thuận tiện cho lắm, vì quá hẹp lại quá dài, may bằng vải thô màu xanh nhạt.
Trong túi là hai cái chăn dày, quần áo lót để thay đổi, một chiếc áo len bị bỏ
lại trong kho của lính SS, màu xám, dày dặn, chỗ cổ ống tay và cổ áo có gắn
băng màu xanh lá cây, và một ít đồ ăn đường: vài đồ hộp và những thứ khác. Tôi
mặc một chiếc quần dạ màu xanh lá cây, đi đôi giày đế cao su, có dây buộc, bên
trên là một đôi xà cạp làm từ thứ da cực bền, thêm vào đó là các loại dây đeo,
khóa... đều của
quân Mỹ. Tôi kiếm được một chiếc mũ có hình thù rất lạ, so với thời tiết lúc đó
có vẻ hơi nặng nề, lưỡi trai cụp, trên đỉnh có những mép gấp thành hình tứ
giác, theo hình học - tôi nhớ lại thời tôi còn tới trường - là hình thoi, và
trước đó có thể là một sĩ quan Ba Lan đã đội, như người ta bảo thế. Lẽ ra tôi
đã có thể chọn cho mình một chiếc áo khoác khá hơn trong những nhà kho, nhưng
cuối cùng tôi bằng lòng với một chiếc không có số tù và hình tam giác, kẻ sọc,
dù đã cũ, nhưng đã quen và tiện dụng, thậm chí tôi đã cố ý lựa chọn nó, có thể
nói là do đã gắn bó với nó: ít nhất sẽ không có sự hiểu lầm, tôi nghĩ thế,
ngoài ra tôi
thấy nó cũng rất thoải mái, phù hợp, và mát, nhất là vào mùa hè. Chúng tôi đi bằng
xe tải, xe súc vật kéo, đi bộ, đi xe công cộng - tùy thuộc vào các toán quân
khác nhau bố trí cho phương tiện gì. Chúng tôi ngủ trên thùng xe bò, trên ghế
băng hay trên bục giảng của các lớp học bỏ trống, dưới bầu trời sao mùa hè, hay
trên những thảm cỏ mềm nằm giữa những ngôi nhà xinh xắn hình chiếc bánh mật.
Chúng tôi còn đi bằng tàu thủy trên một dòng sông nhỏ - thoáng nhìn gợi
nhớ đến sông Duna, có tên theo tôi được biết là Elbe. Và tôi đã đi qua một nơi,
có thể thấy trước đây từng là một thành phố, nhưng hiện nay chỉ là những đống gạch
đá và đây đó là những bức tường trơ trụi cháy đen. Người dân ở đây sống, sinh
hoạt, ăn ở cạnh các bức tường, các đống đổ nát ấy và dưới
chân những cây cầu bị tàn phá, và tôi đã cố gắng hài lòng với cảnh đó, tất
nhiên, chỉ có điều tôi không thể không cảm thấy rằng, chính những người đó mới
khó chịu về chuyện này. Tôi đã đi trên một chuyến tàu điện màu đỏ, và đi trên một
đoàn tàu hỏa thật, trên những toa xe thật bên trong có những buồng dành cho
khách - dù thực ra tôi chỉ có chỗ trên đỉnh toa xe. Tôi đã xuống một thành phố
nơi ngoài tiếng Tiệp đã nghe thấy nhiều người nói tiếng Hung, và trong khi chờ
chuyển sang chuyến tàu khác vào buổi tối, trên sân ga, dân chúng đàn ông có,
đàn bà có, già có, trẻ có, đủ các hạng người tụ tập quanh chúng tôi. Họ hỏi
chúng tôi có phải từ trại tập trung trở về, và họ hỏi nhiều người trong chúng
tôi, trong đó có tôi, xem có vô tình gặp người nhà họ hay không, người có tên
thế này hay thế kia. Tôi bảo họ trong các trại tập trung thường mọi người không
có tên đâu. Thế là họ cố miêu tả ngoại hình, gương mặt, màu tóc, những đặc điểm
của người thân, và tôi thử làm cho họ hiểu rằng, vô ích thôi, vì trong trại tập
trung đa phần người ta đều thay đổi rất nhiều. Thế là dần dần họ tản ra hết, chỉ
còn một ngươi ở lại, anh này mặc kiểu mùa hè, độc một chiếc sơ mi và quần, hai
ngón tay cái đút vào sau thắt lưng chỗ gần dây treo, những ngón tay còn lại gõ
gõ chơi lên mặt vải phía ngoài. Điều anh ta tò mò muốn biết làm tôi hơi buồn cười:
tôi đã nhìn thấy các lò gas thiêu người chưa? Tôi bảo anh ta: “Nếu thế thì
chúng ta không còn nói chuyện với nhau”. “Ừ nhỉ”, anh ta đáp, nhưng có đúng là
có các lò thiêu chứ, tôi bảo anh ta, sao lại không, trong bao nhiêu thứ có cả
lò thiêu nữa, dĩ nhiên, tất cả tùy thuộc xem đó là trại nào - tôi nói thêm. Ở
Auschwitz chẳng hạn, có thể tính đến nó. “Nhưng riêng tôi”, tôi lưu ý, “tôi từ
Buchenwald về”. “Từ đâu kia?”, anh ta hỏi, và tôi phải nhắc lại: “Buchenwald”.
Có nghĩa là từ Buchenwald”, anh ta gật gật đầu, và tôi bảo: “Từ đó đấy”. Thế là
anh ta nói: “Nào, xem nào”, với nét mặt đanh lại, nghiêm trang, đã gần như kẻ cả
dạy đời. “Nghĩa là Ngài”, và tôi không biết tại sao, nhưng anh ta làm tôi bối rối
bởi cách gọi nghiêm nghị, đã gần như long trọng của anh ta, “đúng thế”. “Thế
nhưng”, anh ta vẫn nói tiếp với vẻ mặt đanh cứng, như muốn lập lại trật tự, muốn
làm sáng tỏ sự thật, “cá nhân Ngài, Ngài chưa từng chứng kiến”, và tôi phải
công nhận, “chưa”. Thế là anh ta buông ra nhận xét: “Hóa ra thế”, rồi anh ta khẽ
gật gật đầu bỏ đi, lưng thẳng đuỗn, và tôi thấy hình như anh ta có vẻ gì đó mãn
nguyện, nếu như tôi không nhầm. Chẳng bao lâu sau người ta gọi: khẩn trương,
tàu tới và tôi đã chiếm một chỗ tạm chấp nhận được, trên bậc thang rộng bằng gỗ
của lối lên toa. Lúc gần sáng tôi tỉnh dậy bởi tiếng xình xịch vui tai. Sau đó
tôi bắt đầu để ý thấy có thể đọc các địa danh ở mọi nơi bằng tiếng Hung. Mặt nước làm tôi hơi lóa mắt kia, như người ta
nói, là sông Duna, và mặt đất đang lấp loáng, rung rinh trong nắng sớm kia là đất
Hung. Một thời gian sau, tàu chúng tôi đi vào dưới một mái vòm tróc lở, phía cuối
đầu hồi đầy những ô kính vỡ: Ga phía Tây, mọi người quanh tôi xôn xao, và đúng
nó thật rồi, nhìn chung tôi cũng đã nhận ra.
Ngoài kia nắng rọi thẳng
xuống hè phố. Trời nóng, tiếng ồn, bụi, người qua lại náo nhiệt. Những chuyến
tàu điện màu vàng mang số 6: thế nghĩa là số tàu điện cũng không thay đổi. Có cả
những người bán hàng, với những loại bánh nướng lạ mắt, báo và những thứ khác.
Nhìn người nào cũng rất đẹp, và có thể thấy ai ai cũng có việc, có việc quan trọng, tất cả đều
vội vã, đều chạy, đều lao đi đâu đó, chen lấn nhau về mọi phía. Chúng tôi cũng
thế, tôi đã được thông báo, phải khẩn cấp tới nơi cứu trợ, ở đó phải ghi tên
ngay để trước hết nhận tiền, giấy tờ - những thứ không thể thiếu của đời sống. Nơi
cứu trợ, tôi được biết, ở gần Ga phía Đông, và ngay tại góc phố đầu tiên chúng
tôi đã lên đầy một chuyến tàu điện. Mặc dù phố xá cũ kĩ, những dãy nhà đôi chỗ
trống huếch hoác, các ngôi nhà còn lại thì tróc lở, thủng lỗ chỗ, không cửa sổ,
nhưng tôi vẫn mang máng nhớ ra tuyến đường này, và cả cái quảng trường mà sau một
lúc chúng tôi đáp xuống. Chúng tôi tìm thấy nơi phát trợ cấp trong một ngôi nhà
lớn, màu xám, xấu xí nằm đối diện với rạp chiếu bóng mà tôi còn nhớ; ngoài sân,
trong phòng đệm, trên các dãy hành lang đã chật cứng người. Người ta đứng, ngồi,
đi lại, ầm ĩ, chuyện gẫu hay im lặng. Nhiều người ăn mặc lôm nhôm, trong trang
phục của các trại lao động, hay quần áo, mũ của lính tráng bỏ lại, có người mặc
áo kẻ sọc cũng như tôi, nhưng cũng có người đã ăn mặc kiểu tư sản, sơ mi trắng,
cà vạt, lại tay chắp sau lưng như suy ngẫm việc gì quan trọng, kiêu hãnh như
trước đây khi chưa vào Auschwitz. Chỗ này người ta bàn bạc, rồi so sánh điều kiện
trong các trại, chỗ kia người ta đoán về triển vọng, về tổng số tiền trợ cấp, lại
ở một chỗ khác người ta nói về thủ tục giải quyết rườm rà, về sự ưu tiên phi lý
với người này người nọ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ, về những bất công
trông thấy, nhưng duy nhất trong một việc là tất cả đều thống nhất: phải chờ,
dù thế nào cũng phải chờ lâu. Chỉ tội điều đó là tôi phát chán, và thế là sau
đó tôi nhấc túi lên vai, quay ra sân, từ sân bước ra cổng, và nhớ ra nếu đi về
phía bên phải, một hoặc nhiều nhất là hai góc phố, nếu trí nhớ của tôi không
đánh lừa tôi, thì tôi sẽ tới phố Nefelejcs.
Tôi dễ dàng tìm thấy căn nhà: nó đứng đó,
chẳng khác gì những ngôi nhà xiêu vẹo màu vàng hay xám khác - ít nhất là tôi thấy
thế. Trong cái vòm công mát lạnh, trên bản danh mục có gấp góc, tôi được biết số
căn hộ không thay đổi, và phải leo lên tít tận tầng hai. Tôi chậm chạp bước lên
cầu thang ẩm mốc, có mùi chua chua, qua những khung cửa sổ tôi thấy những hành
lang treo, phía dưới là một khoảng sân sạch sẽ quạnh vắng: ở giữa là một ô cỏ,
một cây đứng ủ rũ, tán lá còi cọc phủ đầy bụi. Phía đối diện, một phụ nữ trùm
khăn kín đầu, tay cầm tấm giẻ lau, nhanh nhẹn bước ra. Từ một phía khác tôi
nghe có tiếng đài phát thanh, và từ đâu đó vẳng đến tiếng khóc nức nở của một đứa
bé. Khi sau đó một cánh cửa mở ra trước mắt, tôi thật bất ngờ, vì sau một thời
gian dài bỗng nhiên lại bắt gặp cặp mắt nhỏ, hơi xếch của Citrom Bandi, chỉ có
điều nó nằm trên gương mặt của một phụ nữ còn khá trẻ, tóc đen, vóc người đậm
và không cao lắm. Chị ta hơi sững lại, chắc hẳn, tôi nghĩ, do chiếc áo tôi
khoác trên người, và do chưa có cách nào đóng sập được cánh cửa lại trước mũi
tôi. Tôi hỏi ngay: “Anh Citrom Bandi có nhà không?”. Chị ta đáp: “Không”. Tôi hỏi,
chỉ bây giờ, vào lúc này hay cả khi khác, chị lắc đầu nhè nhẹ và hơi lim dim mắt
lại, bảo: “Cả lúc khác nữa”, và khi chị mở mắt tôi thấy trên mí mắt phía dưới
như có ngấn nước lấp lánh. Đôi môi chị cũng hơi run run, và khi đó tôi nghĩ tốt
nhất là mình nên rút lui càng nhanh càng tốt, nhưng đúng lúc ấy, từ trong bóng
tối lờ mờ của phòng đệm, bỗng nhiên một bà cụ có tuổi, gầy guộc, khăn trùm kín
đầu, mặc quần áo đen xuất hiện, và trước khi quay lưng tôi phải nói với bà:
“Cháu tìm anh Citrom Bandi”, và bà cũng bảo: “Nó không có nhà”. Nhưng bà còn
nói thêm: “Khi khác cháu lại. Có thể vài ngày nữa”, và tôi nhận ra người phụ nữ
trẻ vội quay mặt đi bằng một cử chỉ lạ lùng vừa như từ chối, nhưng đồng thời
cũng yếu ớt, trong khi đưa mu bàn tay lên che miệng như cố nén điều gì đó muốn
nói, không cho âm thanh bật thành tiếng. Sau đó tôi còn phải nói thêm với bà cụ:
“Chúng cháu đã ở cùng nhau”, tôi giải thích, “trong trại Zeitz”. Nghe thấy thế,
bà cụ liền nghiêm giọng: “Thế sao nó không về?”. Tôi gần như phải thanh minh.
“Chúng cháu đã chia tay. Rồi cháu đi nơi khác”. Sau đó bà muốn biết: “Có còn
nhiều người Hung bên đó không?”, và tôi đáp: “Có chứ ạ, nhiều”. Nghe thấy thế
bà cụ nói với thiếu phụ, với vẻ đắc thắng nhất định: “Con thấy chưa!”, và bà
quay về phía tôi: “Tôi vẫn bảo với nó rằng, bây giờ họ mới bắt đầu về. Nhưng
con bé cứ sốt ruột, nó không còn muốn tin nữa”, - suýt nữa tôi đã buột miệng bảo
chính con gái bà mới là người tỉnh táo hơn, chị biết rõ Citrom Bandi hơn, nhưng
cuối cùng tôi đã im lặng. Rồi bà mời tôi vào nhà, nhưng tôi bảo tôi còn phải về nhà đã. “Chắc bố mẹ cậu đang
mong”, bà bảo.
Tôi đáp: “Vâng, chắc thế”. “Vậy thì”, bà nhắc, “cháu về mau đi, để bố mẹ mừng”, thế là tôi quay đi.
Khi quay về đến nhà ga,
vì tôi bắt đầu cảm thấy cái chân đau, và vì trong nhiều chuyến tàu điện, đúng
lúc đó có một chuyến mang số mà tôi còn nhớ từ trước, vừa lượn vòng đến trước mặt,
tôi nhảy lên. Một bà già gầy gò, khắc khổ mặc chiếc áo lỗi mốt cổ có viền ren
hơi lệch ngồi dịch ra. Lát sau một người đội mũ, quần áo đồng phục, đến chỗ tôi
đòi soát vé. Tôi bảo không có. Ông đề nghị tôi phải mua. Tôi đáp tôi từ xa về,
không có tiền. Ông ta nhìn chiếc áo khoác tôi mặc, nhìn tôi, và sau đó nhìn cả
bà cụ già, rồi nói cho tôi biết, đi tàu xe có luật của nó, và những luật lệ
không phải do ông ta, mà do cấp trên của ông ta đặt ra. “Nếu anh không mua vé,
thì phải xuống tàu”, ông ta yêu cầu. Tôi bảo ông: “Nhưng chân tôi đau”, và tôi nhận ra bà già bỗng nhìn ra phía ngoài, vẻ
bực mình thế nào đó, cứ như tôi đổ lỗi cho bà vậy, tôi cũng không biết vì sao.
Nhưng qua cửa toa xe để ngỏ, một người tóc đen, to cao, từ xa đã nghe ông to tiếng,
ào vào. Ông mặc áo sơ mi không cài khuy, com lê vải màu sáng, đeo một cái hộp
màu đen có quai vắt qua vai, tay cầm cặp. “Trò gì thế này?”, ông quát, và: “Cho một
vé!”, ông ra
lệnh, đồng thời đưa tiền dúi vào tay người soát vé. Tôi định cảm ơn ông, nhưng
ông ngắt lời tôi, nhìn quanh một cách giận dữ: “Các người phải biết xấu hổ mới
đúng chứ”, ông
nói, nhưng người soát vé đã bước vào trong toa xe, bà cụ già vẫn nhìn đi đâu.
Khi đó, ông quay về phía tôi, nét mặt dịu lại. Ông hỏi: “Cháu từ bên Đức về, phải
không?”.
“Vâng”. “Từ
trại tập trung à?”. “Dĩ nhiên ạ”. “Trại nào?”. “Buchenwald”. Phải, ông đã nghe nói đến
nó, đó “cũng là một trong những địa ngục của bọn phát xít”, ông bảo. “Cháu bị chúng
bắt đi từ đâu?”. “Từ Budapest”. “Ở bên đó bao lâu?”. “Tất cả là một năm”. “Cháu đã nhìn thấy bao điều, bao nhiêu điều khủng khiếp”, ông nói và tôi lặng im không đáp. “Nhưng mà”, ông nói tiếp, “cái chính
là mọi việc đã kết thúc, đã qua rồi”, và với vẻ mặt rạng lên, ông chỉ những ngôi nhà
chúng tôi đang lướt qua, ông hỏi giờ đây tôi cảm thấy như thế nào khi trở về
nhà, khi nhìn thấy thành phố đã phải rời xa. Tôi đáp: “Cháu thấy căm thù”. Ông lặng im, nhưng ngay
sau đó ông nhận xét rằng, đáng tiếc, ông hiểu tình cảm của tôi. Hơn nữa theo
ông, trong “tình huống nhất định” lòng căm thù cũng có vị trí, có vai trò, thậm
chí có “sự hữu ích” của nó, rồi ông nói thêm, ông nghĩ rằng chúng tôi đồng ý với
nhau và ông biết rõ tôi căm thù ai. Tôi bảo ông: “Tất cả mọi người”. Ông im lặng, lần này thì
lâu hơn, sau đó ông lại nói: “Cháu đã
trải qua nhiều điều khủng khiếp, đúng không?” và tôi bảo điều đó còn tùy thuộc
ông coi điều gì là khủng khiếp. “Chắc hẳn”, ông nói, với vẻ mặt hơi khó chịu, “cháu đã chịu
thiếu thốn, chịu đói, có thể còn bị đánh đập”. Tôi bảo với ông: “Tất nhiên”. “Tại sao”, ông kêu lên, đã gần như
hết kiên nhẫn, “cái gì cháu cũng nói là tất nhiên và luôn là về những thứ hoàn
toàn không tất nhiên chút nào?”. Tôi đáp: “Ở trong trại tập trung điều đó là tất
nhiên”.
“Đúng, đúng!” ông nói, “trong đó thì thế, nhưng...” và ông dừng lại, hơi ngập ngừng, “nhưng... nhưng trại tập trung
không phải là điều tự nhiên!”, cuối cùng ông bật ra như vừa tìm được từ thích hợp,
và tôi không đáp lại lời ông, vì tôi bắt đầu từ từ hiểu ra: dường như có một số
điều chúng ta không thể tranh cãi với người lạ, người thiếu hiểu biết, ở một mức
độ nào đó có thể nói là còn trẻ con. Hơn nữa, bỗng chúng tôi tới quảng trường,
nó vẫn ở nguyên chỗ cũ, chỉ hơi trơ trụi hơn và hoang tàn hơn, đã đến lúc tôi
phải xuống, tôi bảo với ông thế. Nhưng ông xuống theo tôi, rồi ông chỉ một cái
ghế dài dưới bóng mát, đã mất lưng tựa ở phía xa, đề nghị chúng tôi ngồi xuống
đó một phút.
Lúc đầu ông có vẻ hơi tần
ngần. Đúng ra là bây giờ, ông nhận xét, những nỗi kinh hoàng mới bắt đầu “thực
sự được khám phá”, và ông còn nói thêm rằng, “trước mắt, thế giới không thể hiểu nổi vấn đề
này: bằng cách nào, như thế nào mà tất cả những việc đó đã có thể xảy ra?”. Tôi không nói gì, và ông
quay hẳn lại phía tôi, bỗng nhiên ông hỏi tôi: “Cháu có muốn kể về những ấn tượng
của cháu không?”. Tôi hơi ngạc nhiên, và bảo, tôi không có nhiều điều lý thú để kể cho ông
đâu. Thế là ông cười và bảo: “Không phải cho bác mà là cho thế giới biết”. Nghe ông nói thế tôi còn
ngạc nhiên hơn, tôi hỏi: “Nhưng về cái gì?”. “Về địa ngục trong các trại tập trung ấy”, ông đáp. Tôi bảo về điều
đó thì tôi hoàn toàn không thể nói gì, vì tôi không biết gì về địa ngục và chỉ
tưởng tượng ra cũng không thể. Nhưng ông tuyên bố đó chỉ là sự so sánh, rồi ông
hỏi: “Không cần phải tưởng tượng trại tập trung là địa ngục hay sao?”. Tôi lấy gót chân vẽ mấy
vòng tròn trên mặt đất, và bảo điều đó thì mọi người đều có thể tưởng tượng tùy
theo khả năng và ý thích của họ, nhưng về phần mình, dù sao tôi chỉ có thể mường
tượng ra trại tập trung, vì tôi biết về nó ở mức độ nào đó, còn địa ngục thì
không. “Nhưng dù sao cháu vẫn có thể kể chứ?”, ông nài nỉ, và sau vài vòng tròn nữa tôi đáp: “Thế
thì cháu tưởng tượng ra đó là một nơi người ta không thể buồn chán”, bởi thấy ở trong trại tập
trung điều đó là có thể ra sao, thậm chí cả ở Auschwitz, trong những điều kiện
nhất định, tất nhiên rồi. Nghe tôi nói, ông im lặng một lát, sau đó ông hỏi,
nhưng đã gần như chán nản, tôi cảm thấy vậy:
“Thế cháu lấy gì giải thích điều đó?”. Sau một thoáng suy nghĩ, tôi đáp: “Thời gian”. “Thời gian là nghĩa thế
nào?”. “Nghĩa
là thời gian sẽ giúp”. “Giúp?... Giúp gì?”. “Mọi thứ”, và tôi cố gắng giải thích cho ông hiểu rằng, sẽ khác như thế nào, chẳng hạn
việc đến một bến đỗ, dù không hào nhoáng rực rỡ, nhưng sạch sẽ, gọn gàng, có thể
chấp nhân được, ở đó dần dà theo thời gian, từng nấc một tất cả sẽ rõ ràng trước
mắt ta. Khi vượt qua một nấc, bỏ nó lại phía sau, ta biết sẽ đến ngay một nấc
khác. Đến khi chúng ta biết hết mọi thứ, thì chúng ta cũng đã hiểu tất cả. Và
trong khi hiểu tất cả, con người ta sẽ không đứng yên: ta sẽ bắt tay vào làm một
việc khác, ta sống, hành động, đi lại, đáp ứng tất cả những đòi hỏi mới của một
nấc thang mới. Nếu không có cái trình tự thời gian ấy, và tất cả mọi hiểu biết
ngay cùng một lúc, ngay tại đó đổ ập xuống chúng ta, thì có thể đầu óc ta, con
tim ta sẽ không thể chịu nổi. Tôi cố gắng giải thích cho ông rõ đến mức độ nào
đó, trong khi ông lôi từ trong túi ra một hộp giấy nhỏ đã cũ nát, chìa ra mời
tôi những điếu thuốc lá nhàu nhĩ, nhưng tôi từ chối. Sau hai hơi thuốc, ông chống
hai khuỷu tay lên đầu gối, người ngả ra phía trước, bằng giọng nhạt thếch, ông
bảo: “Bác hiểu”. Mặt khác, tôi tiếp tục, cái khó, có thể nói là nhược điểm trong việc này,
là cần phải sử dụng thời gian. Chẳng hạn như cháu đã thấy, tôi bảo ông, những
tù phạm đã ở bốn, sáu hoặc mười hai năm, đúng hơn là vẫn còn ở trong trại tập
trung, nghĩa là trong trường hợp sau cùng họ vẫn phải bằng cách nào đó trải qua
mười hai lần ba trăm sáu mươi lăm ngày, nghĩa là mười hai lần ba trăm sáu mươi
lăm nhân với hai mươi tư giờ, hay mười hai lần ba trăm sáu mươi lăm nhân hai tư
với… và tất cả ngược lại từng giây, từng phút, từng giờ, từng ngày. Mặt khác
thì, tôi tiếp tục giảng giải, chính điều đó cũng đã giúp họ, vì nếu lượng thời
gian mười hai lần ba trăm sáu mươi lăm nhân hai tư nhân
với sáu mươi nữa kia mà ập xuống đầu
họ cùng một lúc thì chắc họ không thể chịu đựng nổi - như họ đã chịu đựng - cả về thể xác và trí não. Và vì thấy ông im lặng,
tôi nói thêm: “Cần phải mường tượng đại loại thế”. Nghe đến đây, cũng như lúc trước, chỉ thay cho điếu
thuốc lá mà ông vừa vứt bỏ, ông úp mặt vào hai lòng bàn tay, và có lẽ vì thế giọng
ông càng trầm đục hơn, nghẹn ngào hơn: “Không, không thể nào tưởng tượng nổi”, và về phần mình, tôi
cũng thấy thế, tôi thậm chí còn nghĩ: vậy đấy, có vẻ như vì vậy mà thay vào đó
người ta nói địa ngục, chắc thế.
Nhưng sau đó một lát ông
ngồi thẳng dậy, nhìn đồng hồ và vẻ mặt bỗng thay đổi. Ông cho tôi biết mình là
nhà báo, rồi còn nói thêm “ở một tờ báo dân chủ” và đến
lúc ấy, tôi mới chợt hiểu một vài lời ông đã nói làm tôi nhớ đến ai trong quá
khứ: bác Vili - mặc dù, xin thừa nhận rằng với chừng ấy khác biệt, cả với độ
đáng tin cậy mà tôi phát hiện ra, có thể nói là sánh được, chẳng hạn, với những
lời của ông giáo sĩ Do Thái; và đặc biệt những hành động của ông, mức độ bướng
bỉnh của ông, thì tôi có thể so sánh với bác Lajos. Ý nghĩ này đột nhiên nhắc
tôi, làm tôi ý thức được, thực sự đây đúng là lần đầu tiên trong thực tế, về cuộc
sum họp gia đình sắp tới, vậy là từ đó tôi chỉ còn nghe những gì ông nhà báo
nói một cách hờ hững. Ông bảo ông muốn biến cuộc “gặp gỡ vô tình” của hai chúng
tôi thành “cuộc gặp gỡ may mắn”, ông đề nghị chúng tôi viết một bài, mở đầu cho
“loạt bài báo”. Ông sẽ viết, nhưng hoàn toàn dựa trên những lời kể của tôi. Như
thế tôi cũng sẽ được một ít tiền, là thứ sẽ có ích cho tôi trong bước khởi đầu
“cuộc sống mới”, mặc dù - ông nói thêm với nụ cười có vẻ như thanh minh - “nhiều
thì không thể có”, vì đây là tờ báo mới và “các nguồn lực vật chất trước mắt
còn hạn hẹp”. Nhưng trong thời điểm hiện tại, ông cho rằng, đây không phải là
điều quan trọng nhất, mà quan trọng là “hàn gắn những vết thương đang rỉ máu và
trừng trị bọn tội phạm”. Nhưng trước hết “cần phải thức tỉnh công luận”, xua
tan “sự chán nản, thờ ơ, thậm chí sự ngờ vực”. Ở đây nói chung chung chung
không có nghĩa gì, cần phải tìm ra - theo ông - những nguyên nhân, sự thật, dù
nhìn thẳng vào sự thật có là “thử thách đau đớn” đến đâu. Ông thấy trong câu
chuyện của tôi “có nhiều sự thật đặc sắc”, toàn bộ câu chuyện là sự thể hiện
thái độ của một thời đại, nếu tôi hiểu đúng, nó như một “dấu ấn” thời gian, như
“một sắc độ mới và độc đáo trong dòng chảy ào ạt của các sự kiện”, ông nói vậy,
rồi hỏi tôi nghĩ gì về điều đó. Tôi bảo đầu tiên tôi còn phải giải quyết công
việc riêng đã, nhưng hình như ông hiểu lầm tôi, vì ông nói: “Không. Đây không
còn là chuyện của riêng cháu. Nó là việc của tất cả chúng ta, của cả thế giới”.
Vậy là tôi bảo, vâng, nhưng bây giờ đã đến lúc tôi phải về nhà, ông liền bảo
cho ông xin lỗi. Chúng tôi đứng dậy, nhưng ông còn ngần ngừ, có vẻ đang cân nhắc
điều gì đó. “Ta có thể bắt đầu”, ông hỏi, “loạt bài bức ảnh về khoảnh khắc đầu
tiên của cuộc gặp gỡ sau khi trở vể được không?”. Tôi không trả lời ông, và khi
đó ông mỉm cười bảo: “Nghề nghiệp nhiều khi buộc người làm báo phải trở nên bất
nhã”, nhưng nếu tôi không thích, thì về phần mình ông cũng “không nài ép”. Sau
đó ông lại ngồi xuống ghế, mở một cuốn sổ bìa đen đặt lên đùi, ghi rất nhanh
lên một tờ giấy, rồi xé ra đưa cho tôi. Trên đó là tên ông và địa chỉ tòa báo,
rồi ông tạm biệt tôi “với hy vọng gặp lại trong một ngày gần đây”, ông nói và
tôi cảm thấy bàn tay ấm, đầy đặn, hơi dính mồ hôi của ông siết chặt tay tôi thân thiện. Tôi thấy cuộc
trò chuyện với ông cũng thoải mái, dễ chịu, bản thân ông cũng là người dễ mến
và có thiện ý. Tôi đợi ông mất hút vào dòng người qua lại, rồi vứt bỏ tờ giấy
ông vừa trao.
Sau mấy bước chân nữa tôi
nhận ra ngôi nhà. Nó vẫn đứng đó, lành lặn, nguyên vẹn. Lối vào cổng vẫn có cái
mùi xưa cũ, đón tôi sau lớp lưới chắn vẫn là thang máy xập xệ, những bậc thang
già cỗi mòn vẹt đã ngả vàng, và phía trên tôi bắt gặp chỗ cầu thang lượn vòng
đã ghi lại kỷ niệm về một khoảnh khắc riêng tư đặc biệt. Lên đến tầng trên, tôi
nhấn chuông cửa nhà mình. Chỉ một thoáng cánh cửa đã mở, nhưng chỉ đúng bằng
khoảng mà chiếc khóa bên trong, kiểu như loại dây xích đầu móc có gài bên
trong, cho phép. Tôi cũng hơi bất ngờ, vì không nhớ là trước đây cửa có lắp móc
chặn như thế. Qua khe cửa hẹp cũng là một gương mặt xa lạ: một người đàn bà trạc
tuổi trung niên khuôn mặt vàng võ và gầy guộc nhìn tôi. Bà hỏi tôi tìm ai, và
tôi nói với bà tôi sống ở nhà này. “Không”, bà đáp, “chúng tôi đang ở đây”, và bà định đóng cửa,
nhưng không được vì tôi đã lấy chân chặn lại. Tôi cố giải thích cho bà hiểu: chắc
bà nhầm, vì tôi từ đây ra đi, và chắc chắn là chúng tôi ở đây, còn bà thì khẳng
định: tôi nhầm, vì không nghi ngờ gì là họ đang ở đây, bà nhã nhặn, lịch sự,
nhưng lắc đầu lấy làm tiếc, trong khi bà cố đóng cửa lại, còn tôi thì cứ cố giữ.
Sau đó trong một chớp mắt, tôi nhìn lên số phòng: hay cũng có thể là mình nhầm
cửa, có lẽ đúng lúc ấy tôi đã buông chân giữ cửa và cố gắng của bà đã thành
công, tôi nghe sau tiếng sập cửa, bà xoay chìa hai vòng trong ổ khóa. Trên lối
quay trở lại cầu thang, một cánh cửa quen thuộc buộc tôi dừng lại. Tôi nhấn
chuông: loáng cái đã thấy một bà vóc người to lớn, béo tốt trước mặt. Bà định
đóng ngay cửa - như cách tôi đã thấy quen, nhưng phía sau lưng bà, tôi thoáng thấy một cặp
mắt kính, và trong bóng tối lờ mờ hiện lên gương mặt xám xịt của bác
Fleischmann. Bên cạnh bác hiện dần lên một người bụng phệ, đi dép, đầu to, tóc
đỏ, rẽ ngôi kiểu trẻ con, miệng ngậm đầu mẩu xì gà đã tắt: ông lão Steiner, vẫn
đúng như khi tôi bỏ họ ở lại đây, như mới hôm qua, cái buổi tối trước khi tôi bị
dẫn vào trạm thuế.
Họ đứng đó, trân trân
nhìn, rồi hét lên tên tôi, và bác Steiner còn ôm chặt lấy tôi, cứ nguyên xi như
thế, cả mũ, cả áo khoác, nhễ nhại mồ hôi. Họ kéo tôi vào phòng, bác gái
Fleischmann vội chạy vào bếp, xem “có gì ăn tạm” không, như bác nói. Tôi phải
trả lời những câu hỏi như thường lệ: từ đâu về, thế nào, khi nào, bằng cách
nào? Sau đó là tôi hỏi, và được biết đúng là những người khác đang ở nhà chúng tôi. “Thế còn người nhà cháu?” và
thấy mọi người có vẻ khó nói thế nào đó, tôi liền hỏi: “Bố cháu đâu?”. Nghe vậy tất cả đều im lặng.
Một lúc sau, một bàn tay - có lẽ là của bác Steiner - từ từ giơ lên cao, rồi hạ
xuống cánh tay tôi, như một con dơi già thận trọng. Từ những gì mọi người nói
sau đó, về cơ bản tôi hiểu rằng, “tin buồn là có thật, đáng tiếc rằng chúng ta
không thể hoài nghi”, vì nó do “những người cùng cảnh ngộ chứng thực”, theo họ thì cha tôi “sau một thời gian chịu đau đớn
ngắn đã qua đời” trong một “trại lao động bên Đức”, cái trại ấy thực ra là nằm trên đất Áo, nào, tên
nó là gì nhỉ, khỉ thật... Tôi liền bảo: “Trại Mauthausen”. “Mauthausen!”, tất cả reo lên, rồi lại buồn xỉu: “Đúng thế”. Sau đó, tôi hỏi họ có
nghe những gì về mẹ tôi không, họ nói ngay, có đây, hơn nữa là tin mừng: mẹ tôi
vẫn sống, khỏe mạnh, mới vài tháng trước có qua đây, chính họ đã thấy, đã nói
chuyện với mẹ tôi, bà đã hỏi thăm tin tức về tôi. “Thế còn mẹ kế của cháu?”, tôi tò mò hỏi thêm, và
được biết: “Phải rồi, bà ấy đã lấy chồng”. “Thế bà ấy lấy ai?”, tôi lại hỏi, và họ lại không nghĩ ra tên người ấy.
Một người bảo: “Nếu tôi nhớ đúng thì là một ông Kovács nào đó”, người kia lại nói:
“Không, không phải Kovács, có lẽ đúng hơn là Futó”. Tôi bảo: “Sütő”, và tất cả lại gật đầu mừng rỡ, khẳng định, giống
như lúc trước: “Đúng đấy, dĩ nhiên là Sütő rồi”. Bà ấy được nhờ vả ông ấy nhiều, “thực chất là mọi
thứ”, họ nói:
chính ông ấy đã “cứu được số tài sản” đã “cất giấu trong lúc khó khăn”. “Có lẽ”, bác Fleischmann ra chiều
suy nghĩ, “bà ấy hơi vội”, và ông lão Steiner nhất trí với ý kiến đó. “Nhưng
xét cho cùng”, bác nói thêm, “thì có thể hiểu được”, và ý này cũng được ông già chấp nhận.
Sau đó tôi còn ngồi với họ
một lúc nữa, vì đã từ lâu tôi chưa ngồi thế này, trong một chiếc ghế bành mềm,
bọc nhung màu đỏ. Bác gái Fleischmann giữa chừng đã quay lại, mang bánh mì quệt
mỡ, ớt thái lát có điểm vài lát hành tây mỏng bày trên một chiếc đĩa men sứ lớn
màu trắng có hoa văn trang trí xung quanh, vì bác nhớ ngày xưa tôi rất thích
món này, và tôi cũng khẳng định lại ngay là hiện nay cũng vậy. Trong khi đó hai
ông già cũng nói “đúng là ở nhà cũng không dễ dàng gì”. Từ câu chuyện của họ, tôi có ấn tượng, thấy những
nét phác thảo lờ mờ của một sự kiện rắc rối, hỗn độn và khó lường, điều mà về
cơ bản tôi không thể thấy rõ, không thể hiểu cặn kẽ. Tôi chỉ nhận thấy một từ lặp
đi lặp lại, gần như đã đến mức nhàm chán trong câu chuyện của họ, bằng từ này họ
đánh dấu mọi bước ngoặt, thay đổi, mọi động thái: chẳng hạn như “đến khi” có những
ngôi nhà gắn sao vàng, “đến khi” xuất hiện Đảng Chữ Thập Ngoặc, “đến khi”
có các ghetto, “đến khi” có vụ bờ sông Duna, “đến
khi” giải phóng. Chưa kể đến một sai lầm thường thấy: cứ như thể tất cả các sự
kiện - hoàn toàn lẫn lộn, dường như không thể tưởng tượng nổi trong thực tế và
giờ đây ngay bản thân họ cũng không thể tái đựng được các tình tiết của chúng -
không phải diễn ra trong dòng chảy bình thường của những phút, giờ, ngày, tuần,
tháng và nhiều tháng, mà có thể nói đã ập cả xuống cùng một lúc, trong một mớ hỗn
độn, choáng váng duy nhất, có thể nói đã diễn ra trong một buôi chiều hội ngộ
có đôi chút kỳ lạ, bất chợt trở nên ầm ĩ, khi tất cả những người tham dự đột
nhiên đâm ra mất trí, và cuối cùng không còn biết mình đang làm gì nữa. Trong một
thời gian nhất định, họ ngừng nói, sau một lúc im lặng, ông già Fleischmann hỏi
tôi câu này: “Thế cháu có dự định gì cho tương lai không?”. Tôi hơi bất ngờ, và
nói với ông: tôi chưa nghĩ đến điều đó. Lúc đó ông già kia cũng cử động, vẫn ngồi
trên ghế, ông ngả người về phía tôi. Bàn tay như con dơi của ông lại đưa lên,
và thay vì đậu lên cánh tay, lần này nó sà xuống đầu gối tôi. “Trước hết”, ông
nói, “cháu phải quên đi hết những điều khủng khiếp”. Tôi hỏi, mỗi lúc một ngạc
nhiên hơn: “Vì sao vậy, thưa bác?”. “Vì”, ông đáp, “như thế cháu mới có thể sống
nổi”, và bác Fleischmann gật gật đầu nói thêm: “Sống tự do”, nghe thấy thế ông
già kia còn thêm: “Với một gánh nặng như thế này không thể bắt đầu cuộc sống mới”,
và tôi công nhận trong ý này ông có phần đúng. Chỉ có điều tôi không hiểu lắm,
sao họ có thể đòi hỏi điều bất khả, và tôi cũng nói ngay: điều gì xảy ra đã xảy
ra, và làm sao tôi có thể điều khiển nổi ký ức của mình. Chỉ có thể bắt đầu cuộc
đời mới, tôi nghĩ, nếu mình sinh ra một lần nữa, hoặc có một sự đày ải, hành hạ,
bệnh tật hay thứ gì đó tương tự tấn công đầu óc tôi, điều mà có lẽ họ không thể
mong muốn cho tôi. “Hơn nữa cháu cũng không nhận ra rằng”, tôi nói thêm, “đó là
những gì khủng khiếp”. Tôi thấy họ ngạc nhiên: “Vậy các bác phải hiểu thế nào
đây”, họ muốn biết, về việc “cháu không nhận ra”? Tôi liền hỏi lại họ vậy họ đã
sống thế nào trong “thời buổi khó khăn” kia? “Thì… các bác đã sống”, một người
trầm ngâm. “Các bác đã cố gắng vượt qua”, một người khác nói thêm. Chính xác! Họ
cũng luôn luôn đi “từng bước”, tôi nhận xét. Đi “từng bước” nghĩa là sao? Họ
lúng túng, và để làm ví dụ, tôi kể cho họ nghe điều đó đã diễn ra ở Auschwitz
thế nào. Mỗi chyến tàu - và tôi không nói luôn nhất định là con số này, bởi vì
tôi không có khả năng biết được điều đó - nhưng trong trường hợp của chúng tôi,
dù thế nào cũng phải tính là ba nghìn người. Trong số này cứ cho là có một
nghìn đàn ông. Mỗi trường hợp kiểm tra ta cứ tính là mất một hoặc hai giây, thường
là một giây hơn hai giây. Người đầu tiên và người cuối cùng đừng tính, vì không bao giờ có ý nghĩa gì;
nhưng ở giữa, nơi tôi cũng đang đứng, phải có khoảng từ mười đến hai mươi phút
chờ đợi trước khi chúng tôi tới được chỗ sẽ ngã ngũ là vào lò thiêu ngay hay
còn được hoãn thêm chút thời gian. Lúc này, trong suốt khoảng thời gian này,
hàng người cứ dịch chuyển, tiến dần lên, và mọi người đều đi từng bước, bước ngắn,
bước dài, tùy thuộc vào tốc độ vận hành đòi hỏi thế nào.
Đến đây tất cả bỗng yên lặng,
chỉ có một tiếng động nhỏ: vợ bác Fleischmann lấy đĩa thức ăn đã hết, và tôi
cũng không thấy bác ấy quay lại nữa. Hai ông già hỏi tôi: “Điều đó thì có liên
quan gì đến câu chuyện của chúng ta, và ý cháu muốn nói gì?”. Không có gì đặc biệt,
tôi đáp, nhưng không phải tất cả chỉ là nó “đến”, mà chúng ta cũng đã đi tới. Chỉ đến lúc này mới
có vẻ như tất cả đã xong, đã kết thúc, đã không thể thay đổi, đã an bài, rất
nhanh và cực kì mờ ám, như là nó đã “đến”: chỉ lúc này, sau khi sự việc đã xảy
ra, nếu ta nhìn lại phía sau, nhìn ngược lại. Và tất nhiên, nếu ta biết trước số
phận. Thế thì, đúng là chúng ta chỉ theo dõi sự trôi đi của thời gian. Một chiếc
hôn khờ dại cũng là một sự cần thiết như một ngày chờ đợi bất động trong ngôi
nhà của sở thuế quan hay những lò thiêu. Chỉ có điều, dù chúng ta nhìn lại phía
sau hay nhìn về phía trước, cả hai đều là cách nhìn sai lầm, tôi nhận xét. Xét
cho cùng thì hai mươi phút có khi, và bản thân nó cũng là khoảng thời gian khá
dài. Mỗi phút đều bắt đầu, kéo dài và kết thúc, trước khi lại bắt đầu phút tiếp
theo. Bây giờ, tôi nói, ta thử xem xét: mỗi phút như thế đều có thể mang lại một
điều mới mẻ nào đó. Trên thực tế, nó đã không mang lại, dĩ nhiên, nhưng phải
công nhận: nó đã có thể mang lại, xét đến cùng trong mỗi phút nó vẫn có thể xảy
ra một điều gì đó khác, chẳng hạn như vào lúc ở nhà đây, chúng tôi tiễn cha tôi
đi.
Nghe xong lời cuối cùng của
tôi, bác Steiner cựa quậy một chút. “Nhưng chúng ta đã có thể làm được gì?”, bác hỏi với vẻ nửa bực
bõ, nửa như phàn nàn. Tôi bảo bác: “Chẳng có gì cả, tất nhiên”, tôi nói, “hoặc là bất kỳ
điều gì”, tôi
nói thêm, “điều đó cũng vô nghĩa như ta chẳng làm gì hết, nhưng lại cũng là dĩ
nhiên”.
“Nhưng vấn đề không phải ở đó”, tôi thử tiếp tục giải thích cho họ. “Thế thì vấn
đề ở đâu?”, họ
hỏi, gần như đã hết kiên nhẫn, và tôi đáp, chính tôi cũng cảm thấy mình mỗi lúc
một nóng nảy hơn: “Ở các bước đi”. Mọi người đều bước đi, chừng nào còn có thể bước:
tôi cũng đã đi các bước của mình, và không chỉ trong hàng người ở Birkenau, mà
còn từ trước đó, ở đây, tại nhà. Tôi đã bước với cha tôi, và tôi đã bước với mẹ tôi, tôi đã bước với Annamária, và tôi đã bước -
có lẽ là bước đi khó nhọc nhất trong các bước - với cô chị lớn. Bây giờ thì tôi
đã nói được với cô là người Do Thái nghĩa là gì: không có nghĩa gì hết, ít nhất
là đối với tôi, ngay từ đầu, chừng nào các bước đi kia chưa bắt đầu. Không có
điều gì trong đó đúng cả, không có dòng máu khác và không có thứ gì khác, chỉ...
tôi ngắc ngứ, nhưng bất chợt nhớ đến lời của ông nhà báo: chỉ có những tình huống
sẵn có và những khả năng tiềm ẩn trong chúng. Tôi cũng đã sống đến cùng với số
phận được trao. Không phải số phận của tôi, nhưng tôi đã sống đến cùng - và tôi
không thể nào hiểu được rằng sao họ không thể chấp nhận rằng giờ đây tôi phải bắt
đầu làm một điều gì đó với cái số phận ấy, cần gắn kết nó với một nơi nào đó hoặc
một điều gì đó; sau hết tôi đã không thể bằng lòng với quan niệm tất cả chỉ là
sai lầm, rủi ro, một thứ ngớ ngẩn, hãy coi như việc chưa hề xảy ra, có lẽ là thế.
Tôi thấy, tôi thấy rõ họ không thật hiểu, những lời tôi nói không làm họ thích
thú lắm, thậm chí điều này điều kia còn làm họ khó chịu. Tôi thấy bác Steiner
thỉnh thoảng nói xen vào, có lúc bác đã gần như nhảy dựng lên, tôi thấy ông già
kia phải kìm giữ bác lại, và nghe thấy ông bảo bác ta: “Mặc nó, ông không thấy
nó chỉ muốn nói ra thôi sao? Cứ để nó nói, kệ nó!”, và tôi cũng cứ nói, dù có
thể là vô ích, và thậm chí hơi thiếu mạch lạc. Nhưng dù thế tôi cũng đã làm cho
họ hiểu rằng không bao giờ chúng ta có thể bắt đầu cuộc sống mới, bao giờ ta
cũng chỉ tiếp tục cuộc sống cũ. Tôi đã bước, chứ không phải ai khác, và tôi
tuyên bố, trong số phận định sẵn của mình tôi luôn luôn trung thực. Dấu vết duy
nhất, tôi có thể nói là sai sót, sự ngẫu nhiên duy nhất, mà người ta có thể
trách cứ, đó là lúc này chúng ta đang trò chuyện với nhau ở đây, nhưng việc này
không phải tại tôi. Người ta muốn tất cả danh dự này và tất cả các bước đi của
tôi đều mất hết ý nghĩa ư? Vì sao có sự tráo trở này, vì sao có sự cản trở này,
vì sao người ta không muốn nhận ra: nếu có số phận, thì không thể có tự do;
nhưng nếu - tôi tiếp tục mỗi lúc một bất ngờ hơn, mỗi lúc một hăng say hơn,
nhưng nếu có tự do, thì không có số phận, nghĩa là - tôi dừng lại, nhưng chỉ đủ
thời gian để lấy hơi - nghĩa là khi đó chính chúng ta là số phận, tôi chợt nhận
ra, nhưng trong giây phút đó điều này rõ ràng tới mức cho tới lúc đó chưa bao
giờ rõ ràng như thế. Tôi hơi lấy làm tiếc mình đang đứng đối diện với họ, chứ
không phải với những đối thủ thông minh hơn, hay có thể nói là xứng đáng hơn.
Nhưng họ đang ở đây lúc này, họ hiện diện - trong giây phút này ít nhất
gần như tôi lờ mờ nhận thấy thế - ở mọi nơi, và dù thế nào họ đã có mặt
cả khi chúng tôi tiễn cha tôi. Họ cũng đã đi những bước đi của họ. Họ cũng biết
trước, họ cũng đã nhìn thấy trước tất
cả, họ cũng đã tiễn biệt cha tôi, như thể chúng tôi đã chôn ông rồi vậy, và khi
đó họ đã chỉ cãi nhau về việc tôi đi tàu điện ngoại vi hay tốt hơn là đi xe
buýt tới Auschwitz... Nhưng đến đây thì không chỉ bác Steiner, mà cả ông lão Fleischmann cũng đứng
bật dậy. Ngay cả lúc này ông cũng muốn giữ bác Steiner lại, nhưng không giữ nổi.
“Anh nói sao?”, ông quát tôi với gương mặt đỏ lựng như trái ớt, và nắm tay đấm lên ngực:
“Hóa ra có lẽ chúng tôi là những người có tội sao, chúng tôi, những nạn nhân?!”, và tôi cố giải thích cho
bác ta hiểu: không phải là tội lỗi, nhưng cần phải nhận ra, một cách khiêm nhường,
đơn giản, chỉ vì nhận thức, vì danh dự mà thôi, xin được nói như thế. Không thể,
các vị hãy cố hiểu cho, không thể lấy đi của tôi tất cả, không thể có chuyện rằng,
tôi không thể trở thành kẻ không chiến thắng cũng không thể trở thành kẻ thất bại,
rằng tôi không thể đúng, và rằng tôi cũng không thể sai lầm, rằng tôi không thể
là nguyên nhân, cũng không thể là kết quả của bất cứ điều gì - các vị hãy cố hiểu
cho, tôi gần như van nài: tôi không thể nuốt nổi sự cay đắng ngu xuẩn ấy, chỉ để
trở nên một người vô can. Nhưng tôi nhận thấy họ chẳng muốn nhìn nhận điều gì hết,
thế là tôi nhấc túi, cầm mũ lên, sau vài câu chẳng vào đâu, sau vài cử chỉ, và
một câu đang dở dang, tôi ra về.
Phố xá đón tôi ở phía dưới.
Về chỗ mẹ tôi phải đi bằng tàu điện, vì không có tiền, tôi quyết định cuốc bộ.
Để lấy sức, tôi dừng lại một phút trên quảng trường, chỗ cái băng ghế lúc nãy. Ở
phía trước, nơi tôi sẽ đến, nơi con phố nhìn có vẻ dài, rộng ra và mất hút tới
vô cùng, trên những quả đồi màu xanh những đám mây nhẹ xốp như lông cừu đã chuyển
sang màu tím và nền trời đã rực đỏ. Xung quanh tôi dường như một điều gì đó
cũng đã đổi khác: phố xá thưa vắng người hơn, những bước chân qua lại cũng như
chậm rãi, nhẹ nhàng hơn, ánh mắt người như dịu dàng hơn và gương mặt họ hình
như cũng hướng về nhau. Đây đúng là giờ phút đặc trưng nhất định ấy - ngay cả
lúc này, ở đây tôi cũng nhận ra - giờ yêu thích nhất của tôi trong trại và sau
đó một cảm giác sắc lạnh, đau đớn và vô vọng nào đó ùa về trong tâm trí của
tôi: nỗi nhớ. Bỗng nhiên, tất cả bỗng trở nên thật sống động, tất cả còn đây và
dâng tràn trong tôi, không khí lạ lùng của nó, những ký ức nho nhỏ về nó làm
tôi run rẩy. Đúng, xét theo một ý nghĩa nhất định, ở đó cuộc sống trong sáng và
đơn giản hơn. Tôi nhớ hết, tôi điểm lại lần lượt từng người, cả những người tôi
không để ý đến, và cả những người mà mọi chứng thực của họ đều là sự tính toán
này, có thể là sự có mặt của tôi: Citrom Bandi, Pjetchka, Bohus, ông bác sĩ và
tất cả những người khác. Và giờ đây,
lần đầu tiên tôi nhớ tới họ với một chút trách móc, một nỗi hờn giận yêu thương
nào đó.
Nhưng thôi, chúng ta đừng
nên thái quá, vì chính đây mới là điều nan giải: tôi đang ở đây và tôi biết rõ,
tôi chấp nhận mọi nguyên cớ, với cái giá để tôi có thể sống. Đúng, cứ như tôi
nhìn quanh cái quảng trường nhỏ vào lúc hoàng hôn này, con phố bị bão táp dập
vùi nhưng vẫn tràn đầy cả ngàn hứa hẹn này, là tôi cảm thấy trong tôi đang lớn
dần lên, đang hội tụ sự sẵn sàng: tôi sẽ tiếp tục cuộc đời không thể tiếp tục của
mình. Mẹ đang đợi tôi về, và chắc hẳn bà sẽ rất mừng khi tôi về, người mẹ đáng
thương của tôi. Tôi nhớ, dự định ngày xưa của mẹ là tôi phải trở thành kỹ sư,
bác sĩ hay một cái gì tương tự thế. Chắc hẳn rồi mọi việc sẽ như vậy, đúng như
bà muốn; không điều gì không có thể mà ta không trải qua một cách tự nhiên, và
trên con đường tôi đi, tôi đã biết, hạnh phúc sẽ rình rập tôi, như một thứ cạm
bẫy không thể tránh khỏi nào đó. Vì ngay cả ở bên đó, bên cạnh những ống khói
lò thiêu, giữa những đau đớn vẫn có một thứ gì đó giống như hạnh phúc. Ai cũng
chỉ hỏi về những khổ ải, về “những nỗi kinh hoàng”: trong khi ấn tượng này có lẽ
lưu lại đáng nhớ nhất. Đúng, phải nói về điều này, gần nhất tôi sẽ nói cho họ
nghe về hạnh phúc của các trại tập trung, nếu sau này họ hỏi.
Nếu như họ hỏi. Và chỉ nếu
chính tôi cũng không quên điều đó.
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét