Không số phận
(Nguyên tác: Sorstalanság)
Tác giả: Kertész Imre
Dịch giả: Giáp Văn Chung
Nhà xuất bản Lao Động - 08/2010
8
Phải công nhận, có những sự việc nhất định
tôi không bao giờ có thể giải thích nổi, không hẳn vậy, mà là nếu tôi không
nhìn chúng trong tổng thể những mong đợi của tôi, trong tổng thể của quy luật,
hoặc của nguyên do - từ góc độ cuộc sống, nói tóm lại là từ trật tự của các sự
việc, ít nhất là ở mức độ mà tôi đã làm quen. Như vậy khi người ta nhấc tôi từ
xe cút kít, đặt tôi xuống đất ở một nơi nào đó, tôi không sao hiểu nổi mình còn
có công chuyện gì để làm, chẳng hạn như với cái tông đơ xén tóc và bàn cạo. Cái
căn phòng lèn kín đến ngạt thở và ngay từ lần đầu tiên giống hệt một buồng tắm
mà người ta đã đặt cả tôi xuống lớp sàn gỗ trơn nhãy giữa vô số những gót chân,
bàn chân giẫm đạp, những bắp chân, xương chân lở loét, về đại thể đã gần như
phù hợp hơn với mong đợi của tôi. Tôi còn thoáng nghĩ trong đầu lần cuối cùng:
vậy là có vẻ như thói quen ở Auschwitz cũng có hiệu lực cả ở đây. Tôi càng ngạc
nhiên hơn khi sau một lúc chờ đợi, sau những âm thanh xì xoẹt, lục bục từ những
vòi nước phía trên bất chợt có nước, nước nóng bắt đầu phun xối xả. Tôi không
khoái lắm, vì lẽ ra tôi còn thích nằm trong không gian ấm áp một lúc nữa, nhưng
tôi không thể làm bất cứ điều gì, khi một sức mạnh không thể cưỡng lại được
nâng bổng tôi lên cao khỏi rừng chân người nhộn nhạo, rồi tôi được quấn trong một
tấm giống như vải trải giường, bên trên là một tấm chăn dạ thô. Sau đó tôi nhớ
mình được ai đó vác lên vai, đầu ngật ra sau, chân thõng ra trước; tôi nhớ đã
qua một cái cửa, một cầu thang hẹp và những bậc thang dốc, lại một cái cửa nữa,
rồi đến một nơi, có thể gọi là một căn phòng rộng rãi và sáng sủa, trang thiết
bị đập vào con mắt nghi hoặc của tôi đã gần sang trọng như một trại lính, và cuối
cùng từ trên vai người vác, tôi được đặt xuống giường, một cái giường đơn tử tế,
có thật với những bao rơm nhồi đầy và hai tấm chăn dạ màu xám. Tôi còn nhớ có
hai người - những con người tử tế, đẹp, có mặt mũi, tóc tai, mặc quần trắng, áo
ba lỗ, đi giày đế gỗ; tôi nhìn ngắm họ, còn họ nhìn lại tôi. Chỉ đến lúc ấy tôi
mới chú ý đến miệng họ, và nãy giờ một thứ ngôn ngữ nghe như hát đập vào tai tôi.
Tôi có cảm giác như họ muốn biết ở tôi một điều gì đó, nhưng tôi chỉ biết lắc đầu:
tôi không hiểu. Thế là tôi nghe tiếng một trong hai người nói tiếng Đức, với trọng
âm rất lạ: “Hast du Durchmarsch?” [tiếng Đức: “Cậu có bị tháo dạ không?”], nghĩa
là tôi có bị tháo dạ hay không, và tôi bất ngờ nhận ra giọng mình đáp: “Nein”, tôi nghĩ ngay cả lúc này cũng lại chỉ vì sĩ
diện, chắc vậy. Thế là - sau một lúc bàn bạc, chạy đi chạy lại - họ ấn vào tay
tôi hai thứ. Một cái nồi có cà phê âm ấm, thứ kia là bánh mì, theo ước đoán của
tôi là một phần sáu cái. Tôi có thể nhận, có thể ăn uống không cần trả giá,
không cần trao đổi thứ gì. Sau đó bỗng nhiên nội tạng tôi bắt đầu phát tín hiệu
sống, bắt đầu lục bục và không tuân theo ý muốn, làm tôi phải tập trung tất cả sự
chú ý và chủ yếu là sức lực vào nó để nó khỏi phản lại lời tôi vừa nói lúc trước.
Rồi tôi chợt tỉnh ra và thấy một người lại đến bên cạnh, nhưng lúc này ông ta
đã đi ủng, mũ xanh thẫm gọn gàng, áo tù có gắn tam giác màu đỏ.
Tôi lại được vác lên vai,
xuống cầu thang, lần này thì đi thẳng ra ngoài. Một lát sau chúng tôi vào một
nhà gỗ lớn màu xám, kiểu như một trạm xá, một kiểu Revier, nếu tôi
không nhầm. Nói gì thì nói, ở đây mọi thứ lại gần phù hợp với sự chờ đợi của
tôi, xét cho cùng tôi thấy mọi thứ đều ổn, chứ chưa muốn nói là rất gần gũi,
thân thiện - chỉ có điều bây giờ tôi không hoàn toàn hiểu cách cư xử lúc trước,
sao tôi lại được nhận bánh mì và cà phê. Trên đường chúng tôi đi, dọc theo chiều
dài của dãy nhà là dãy box ba tầng quen thuộc như chào đón.
Cái nào cũng chật cứng, và với con mắt có đôi chút kinh nghiệm, có thể nói đôi
mắt tôi cũng đã thuộc trong số đó, thì dựa trên cái tập hợp của những gương mặt
biến dạng đến không thể phân biệt nổi, ghẻ lở, da thịt lở loét, những bộ xương,
quần áo rách rưới, những tay chân gầy guộc, vẫn có thể nhận ra ngay trong mỗi
ngăn có ít nhất là năm, ở một vài ngăn có tới sáu thân thể như thế. Bên cạnh
đó, trên những tấm ván để trần, tôi hoài công tìm thứ rơm rải ổ mà ngay đến ở
Zeitz cũng được coi là thứ ước mơ - nhưng trong thời gian mà tôi có thể sẽ ở
đây, điều này là chi tiết không quan trọng lắm, đúng thế, tôi công nhận. Lúc đó
lại xảy ra một bất ngờ mới - trong khi chúng tôi dừng lại và nghe tiếng nói
chuyện, trao đổi rõ ràng là giữa người vác tôi và một người nào khác. Lúc đầu
tôi cũng không biết mình nhìn có rõ không, nhưng tôi không thể nhầm, vì ở đoạn
này căn nhà được chiếu bằng những ngọn đèn lớn, khá sáng sủa. Ở đây, từ phía
bên tay trái tôi cũng thấy hai dãy box bình thường, chỉ có điều
các tấm ván gỗ được phủ bởi những lớp mền màu đỏ, màu hồng, màu xanh, xanh lá
cây và màu tím, bên trên còn một hàng nữa, cũng những tấm chăn như thế, và giữa
hai lớp chăn, sát cạnh nhau tạo ra những cái đầu trẻ con cạo trọc lốc, lớn có,
bé có, nhưng nhìn chung là bọn con trai trạc tuổi tôi. Và đúng lúc chỉ vừa nhận
ra điều đó, thì tôi bị đặt xuống đất, và một ai đó đã giữ cho tôi dựa vào để
tôi khỏi đổ gục, để họ tháo tấm chăn
ra khỏi tôi, quấn tạm lên đầu gối và mạng sườn tôi lớp băng giấy, rồi mặc cho
tôi một chiếc áo. Tôi được trượt vào giữa hai lớp chăn, vào chỗ mà hai cậu con
trai hai bên vừa né ra nhường, ở tầng giữa.
Rồi họ bỏ mặc tôi ở đây,
không một lời giải thích, và thế là tôi lại phải tự dựa vào khả năng suy đoán của
bản thân. Dẫu sao, cần phải công nhận rằng tôi đang ở đây, và đó là một thực tế
không thể phủ nhận, trong mỗi khoảnh khắc nó lại tái hiện, tái hiện nữa và tiếp
tục duy trì. Sau này tôi còn hiểu rõ thêm một vài điều cần biết nữa. Chẳng hạn
như chỗ này đúng hơn là đầu chứ không phải cuối của dãy nhà, phía đối diện có một
cửa mở ra ngoài, hơn nữa khoảng sáng sủa rộng rãi phía trước tôi cho thấy đây
là khu vực hoạt động của các bậc có chức sắc, thư ký, bác sĩ, ở vị trí dễ thấy
nhất là một chiếc bàn được phủ tấm ga trắng. Những người nằm trong các hộp gỗ phía
sau đa phần bị kiết lỵ hoặc thương hàn, hay nếu không thì chắc chắn cũng sẽ bị.
Triệu chứng đầu tiên - mà cái mùi không thể giảm nổi là một dấu hiệu - là Durchfall,
nói cách khác là Durchmarsh, như những người trong đội làm việc ở
buồng tắm đã hỏi tôi ngay lập tức, và theo đó - phải công nhận, lẽ ra nếu trả lời
thật thà câu hỏi của họ, thì chỗ của tôi cũng là phải ở đằng kia. Những thứ được
cấp phát hằng ngày và ăn uống, tôi thấy về cơ bản giống ở Zeitz: sáng cà phê,
xúp đến từ lúc nửa buổi, suất bánh mì thường là một phần ba hay một phần tư, nếu
một phần tư thì có thêm món Zulage. Do chiếu sáng đơn điệu thường
xuyên, không bị ảnh hưởng bởi ánh sáng hay bóng tối ngoài cửa sổ từ bất cứ đâu,
nên rất khó nhận ra đang là buổi nào trong ngày, chỉ có thể suy diễn qua các dấu
hiệu nhất định không thể nhầm lẫn: như cà phê vào buổi sớm, giờ ngủ là lúc bác
sĩ chia tay vào buổi tối. Ngay từ buổi tối đầu tiên tôi cũng đã có cuộc làm
quen. Tôi chú ý tới một người đứng ngay trước box của chúng
tôi. Ông ta không thể là người cao lắm, vì đầu ông ta ngang tầm với đầu tôi. Mặt
ông ta không chỉ đầy đặn, mà còn béo hẳn hoi, nhiều chỗ trễ xuống núng nính, và
không chỉ có bộ ria mép uốn cong đã gần như muối tiêu hết, mà thật ngạc nhiên,
vì trong trại tập trung chúng tôi chưa thấy điều này bao giờ: bộ râu quai nón cắt
tỉa công phu gần như bạc hết, mảnh và nhọn về phía dưới cằm. Ông đội một cái mũ
lớn, nom oai vệ và mặc quần vải tối màu, nhưng lại vận áo tù - dù chất vải tốt,
với băng tay bên trên có ký hiệu đỏ, trong đó có chữ “F”. Ông nhìn tôi, như thường
nhìn những người mới đến, và còn nói với tôi điều gì đó. Tôi nói với ông một
câu duy nhất tôi biết bằng tiếng Pháp: “Je ne kompran pas, Messieur!”. “Oui, Oui,” ông đáp, bằng giọng cởi mở, thân thiện và
hơi khàn khàn “bon bon, mo’fis”, và ông đặt lên tấm
chăn, trước mũi tôi, một viên đường, một viên đường thực sự, đúng như tôi còn
nhớ từ thời ở bên nhà. Sau đó ông đến hết lượt bọn con trai, trong cả hai
dãy box, cả ba tầng, và cũng lấy trong túi ra cho mỗi đứa một viên
đường. Với một vài đứa thì ông chỉ đặt xuống trước mặt, với một số khác ông dừng
lâu hơn, thậm chí một vài đứa còn có thể trò chuyện với ông, và ông còn vỗ nhẹ
vào mặt, cù nhẹ lên cổ những đứa này, nói đôi lời âu yếm như người ta thường âu
yếm chú chim hoàng yến cưng trong những giây phút dành cho nó. Tôi còn nhận ra
rằng đối với một vài con cưng, chủ yếu là những đứa hiểu thứ ngôn ngữ của ông
ta, ông còn có thêm một viên đường nữa. Đến lúc này tôi mới công nhận điều người
ta vẫn dạy bảo từ bên nhà, hiểu biết mới hữu ích làm sao, đặc biệt là am hiểu
ngôn ngữ, đúng thế thật.
Tất
cả những điều này, phải nói là tôi đã hiểu, đã chấp nhận, nhưng chỉ với cảm
giác, tôi có thể nói gần như với điều kiện rằng trong lúc đó tôi vẫn chờ đợi,
dù tôi không thể biết là đặc biệt chờ gì, một sự thay đổi bước ngoặt, chiếc
chìa khóa của bí mật, sự thức tỉnh, xin được nói như thế. Chẳng hạn như ngày
hôm sau, khi trong lúc làm công việc của mình với những người khác, ông bác sĩ
cũng đã chỉ vào tôi. Tôi được lôi ra khỏi chỗ nằm, và đặt tay lên bàn, trước mặt
ông. Từ trong cổ họng ông, tôi nghe thấy vài lời thân thiện. Ông khám cho tôi,
ông gõ gõ, áp cái tai lạnh, chạm cả đầu bộ ria nhọn lên ngực, lên lưng tôi, ông
ra hiệu bảo tôi ho, hít hơi thật dài. Rồi để tôi nằm ngửa, bảo người trợ lí hay
giúp việc gì đó tháo đám băng giấy, khám các vết thương cho tôi. Ông xem xét,
lúc đầu chỉ từ xa, sau rồi ông thận trọng rà nắn xung quanh, làm vết thương bắt
đầu rỉ cả các thứ chất từ bên trong. Thấy ông lầm bầm điều gì đó, rồi ông lắc đầu
lo lắng, có vẻ như điều đó làm ông chán nản, mất hết hứng thú, tôi cảm thấy thế.
Ông băng bó lại ngay, như muốn cho khuất mắt ông, và tôi phải nhận ra rằng những
vết thương không làm ông vui lòng cho lắm, không cách nào có thể làm ông được
an ủi, thỏa mãn.
Nhưng
ở một lĩnh vực khác, cuộc sát hạch của tôi cũng thất bại, tôi buộc phải nhận ra
điều đó. Ví dụ như tôi không thể nào hiểu nổi mấy đứa con trai nằm bên cạnh.
Còn chúng thì trò chuyện thoải mái với nhau, qua người, trên đầu, hay trước mặt
tôi, cứ như qua một thứ vật cản chắn ngang đường vậy. Trước đó chúng đã hỏi tôi
là ai, là gì. Tôi bảo: “Ungar”, và
nghe thấy chúng truyền nhau rất mau xung quanh: “Vengerskij, vengrja, matiar, ongroa”, [Vengerskij,
vengrja, matiar, ongroa: cách gọi (theo phiên âm) người Hung bằng các thứ tiếng
khác nhau] và nhiều cách nói khác nữa. Một đứa còn nói: “Khenyir”, [Khenyir: cách nói theo phiên âm lơ lớ của chữ “kenyér”
(tiếng Hung) là “bánh mì”] nghĩa là “bánh mì,” và cái cách nó cười khi nói,
sau đó là cả một dàn đồng ca nói theo, làm cho tôi không mảy may nghi ngờ chút
nào, rằng nó biết, và biết rất rõ nòi giống của tôi. Thật khó chịu, và bằng
cách nào đó tôi muốn làm cho chúng hiểu: chúng đã nhầm, vì những người Hung thì
không coi tôi thuộc về họ, và về đại thể tôi cũng chỉ có thể chia sẻ cách nhìn
của chúng về họ, và rằng thật lạ, hơn nữa tôi còn thấy đây cơ bản là một việc
không xứng đáng, rằng ở đây lại chính vì họ mà người ta nhìn tôi khó chịu,
nhưng tôi nhớ ra trở ngại vớ vẩn kia, rằng tôi chỉ có thể nói điều này cho
chúng hiểu bằng tiếng Hung, hay bất quá thì bằng tiếng Đức, và thế thì còn tồi
tệ hơn, chính tôi cũng thấy vậy.
Và
còn có một sai lầm khác, một cái tội nữa mà trong nhiều ngày tôi không sao che
giấu thêm mặc cho tất cả mọi cố gắng. Tôi nhanh chóng nhận ra rằng thỉnh thoảng
nếu cần thiết phải gọi đến một anh chàng có vẻ chỉ nhiều tuổi hơn chúng tôi
chút ít và nom giống như một cậu phụ việc hộ lý. Những lúc như thế anh ta xuất
hiện với một cái nồi thấp có cán đủ dài, và chúng tôi nhét nó xuống dưới chăn.
Rồi lại phải gọi: “Bitte! Fertig! Bitte!” [tiếng Đức:
“Thưa, xong rồi!”] cho tới khi anh ta quay lại lấy. Không một
ai, kể cả anh ta có thể tranh cãi về quyền chính đáng của một yêu cầu như thế một,
hai lần trong ngày. Chỉ có điều tôi buộc phải phiền anh ta ngày ba lần, có khi
tới bốn lần, và tôi thấy điều đó làm anh ta bực mình - kể ra cũng dễ hiểu, tôi
không thể phủ nhận được, dù nói gì đi chăng nữa. Có lần anh ta đã mang cái nồi
tới cả chỗ ông bác sĩ, giải thích, lý sự cái gì đó, chỉ vào thứ đựng trong nồi,
và ông bác sĩ thoáng đăm chiêu về tang vật một lát; nhưng sau đó ông lắc đầu
xua tay phủ nhận một cách không thể nhầm lẫn. Buổi tối ông vẫn chia đường: như
thế nghĩa là mọi việc đều ổn - tôi lại có thể yên tâm chui vào tấm chăn và vào
sự chắc chắn vẫn đang duy trì, có vẻ như không thay đổi nổi, ít nhất là trong
ngày hôm nay, của những cơ thể ấm nóng này.
Hôm
sau vào khoảng giữa thời gian chia cà phê và xúp, một người bước vào từ thế giới
bên ngoài, một nhân vật trong số hiếm hoi những người có quyền thế, tôi nhận
ngay ra điều đó. Chiếc mũ nồi to may bằng dạ đen, chiếc áo choàng trắng tinh, ống
quần là phẳng nếp sắc như lưỡi dao cạo, giày đánh xi bóng loáng, và khuôn mặt
ông ta không chỉ là một tác phẩm thô thiển, nom đàn ông quá mức, với những đường
nét như được tạc bằng dao chạm, mà lớp da mặt tím đỏ đã gần như bị lột làm tôi
hơi hoảng sợ. Ngoài ra ông còn có
thân hình cao, to, tóc hai bên thái dương đã chớm bạc, hai tay chắp tay ra sau
nên từ chỗ tôi nằm không đọc được chữ cái trên băng đeo tay, nhưng đặc biệt là
cái tam giác đó không có ký hiệu: nghĩa là biểu hiện của dòng máu Đức thuần khiết
đáng ngại. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được ngắm nhìn một người mà số tù
không phải con số hàng vạn, không phải hàng nghìn, cũng không phải hàng trăm,
mà tất cả vẻn vẹn chỉ có hai chữ số. Viên bác sĩ của chúng tôi vội vàng đến
chào, bắt tay, vỗ vỗ lên cánh tay, tóm lại muốn lấy lòng ông kia, như đón một vị
khách rất mong đợi làm sang trọng cho gia chủ bằng việc đến thăm của mình, và
tôi thật sự kinh ngạc khi bỗng nhận ra rằng, không còn nghi ngờ gì nữa, theo mọi
dấu hiệu thì ông bác sĩ bắt đầu nói về tôi cho ông kia nghe. Ông bác sĩ đã
khoát tay một vòng rộng, chỉ vào tôi cho ông kia thấy, và từ câu nói tiếng Đức
khá nhanh của ông ta, tôi nghe rõ từ này: “Zu dir” [tiếng
Đức: “Đến lượt anh”]. Sau đó ông bác sĩ còn tiếp tục, khẳng định,
thuyết phục ông kia liên hồi, vừa làm những động tác giải thích, như người ta vẫn
mời chào một món hàng, cố bán xong cho thật nhanh. Còn ông kia, lúc đầu chỉ im
lặng lắng nghe, như thể bất cần, có thể nói như một khách hàng khó tính, nhưng
cuối cùng có vẻ như ông đã bị thuyết phục - ít nhất là tôi cảm thấy thế qua ánh
mắt nhanh, sắc, đã có vẻ như chiếm hữu theo một cách nào đó mà ông ta hướng về
phía tôi bằng một đôi mắt đen bé xíu, và cả qua cái gật đầu nhẹ, qua cái bắt
tay và tất cả cách thức mà ông quay đi, cả từ nét mặt hồ hởi, mãn nguyện của
ông bác sĩ.
Tôi
không phải chờ quá lâu, cửa lại bật mở, và chỉ trong nháy mắt tôi đã thấy một
chiếc áo tù có hình tam giác màu đỏ, bên trong gắn chữ “P” - ai cũng biết đó là
dấu hiệu chỉ người Ba Lan - và trên băng đeo tay là chữ “Pfleger”:
nghĩa là người vừa bước vào là hộ lý. Đó là một người còn trẻ, khoảng ngoài hai
mươi. Anh ta cũng có một chiếc mũ xanh, tuy nhỏ hơn, dưới vành mũ là mái tóc
màu hạt dẻ mềm mại trùm lên hai tai, rủ xuống tận cổ. Tất cả những đường nét
trên khuôn mặt dài nhưng đầy đặn của anh đều rất hài hòa, dễ chịu, nước da màu
hồng, miệng hơi rộng với cặp môi mềm thân thiện: nói tóm lại anh là một người đẹp
trai, và chắc là tôi còn ngắm anh, nếu như anh không tìm ngay ông bác sĩ và ông
này không chỉ tôi cho anh, và nếu như trên tay anh không có một tấm chăn dạ mà
ngay sau khi lôi tôi ra khỏi chỗ nằm anh dùng để quấn quanh tôi, và có vẻ như
đây đã thành thói quen, anh liền vác tôi lên vai. Công việc của anh không phải
không gặp trở ngại, vì tôi đã dùng cả hai tay bám chặt vào chiếc thang ngang
phân cách hai box một cách hú họa, theo phản xạ. Tôi còn cảm thấy hơi ngượng vì chuyện này: khi đó tôi cũng
đã nghiệm ra rằng vỏn vẹn chỉ vài ngày sống có thể đánh lừa lý trí của chúng
ta, có thể làm ta khổ sở tới mức nào. Nhưng anh tỏ ra khỏe hơn tôi, và dù tôi
có quẫy đạp, có đấm vào lưng vào sườn anh bằng cả hai nắm đấm cũng vô ích, anh
chỉ cười - tôi cảm thấy thế qua nhịp rung của anh; thế là tôi dừng lại, mặc anh
muốn đem tôi đi đâu thì đem.
Có
những chỗ rất lạ ở Buchenwald. Bạn có thể đến một trong những ngôi nhà màu xanh
đơn sơ ở phía sau một hàng rào thép gai, mà cho đến nay, nếu là cư dân của Trại
Nhỏ, cùng lắm bạn chỉ có thể ngắm nhìn từ xa. Giờ thì bạn có thể biết bên trong
nó - ít nhất là trong cái nhà này - có một cái hành lang sạch sẽ, bóng loáng đến
đáng ngờ. Từ hành lang mở ra những cánh cửa - những cánh cửa bình thường, màu
trắng, có thật - sau mỗi cánh cửa là một căn phòng sáng sủa, với chiếc giường
trống đã chuẩn bị sẵn như chỉ chờ bạn đến. Trên giường phủ một tấm chăn màu đỏ.
Người bạn lún sâu vào tấm đệm rơm nhồi căng. Ở giữa, bạn có thể thấy, không thể
lầm, đúng là một lớp ga trải giường màu trắng, mát lạnh. Dưới gáy bạn cũng có một
cảm giác dễ chịu rất lạ: thủ phạm là một chiếc gối nhồi rơm bọc vải trắng. Người Pfleger gập
cái chăn dạ đã dùng để quấn và vác bạn đến đây làm tư rồi đặt xuống phía chân:
thế nghĩa là bạn có thể dùng nó, chắc là trong trường hợp bạn không hài lòng với
nhiệt độ trong phòng. Rồi anh ta cầm một tờ giấy và cái bút chì ngồi xuống cạnh
giường, và hỏi bạn tên gì. Tôi bảo: “Vier-und-sechzig, neun,
ein-un-zwanzig”. Anh ta ghi lại,
nhưng tiếp tục cật vấn, phải mất một lúc bạn mới hiểu ra, anh ta quan tâm đến cả
tên thật, cả “name”, và bạn lại mất một
lúc nữa, và điều này đã xảy ra cả đối với tôi, cho đến khi lục tìm xong trong
kí ức bạn mới nhớ ra. Anh ta bắt tôi nhắc đi nhắc lại ba, bốn lần cho đến khi
có vẻ đã nghe ra. Rồi anh ta chìa cho tôi xem cái anh đã viết, và trên đỉnh mặt
tờ giấy kẻ dòng, kiểu tờ bệnh án, tôi đọc thấy: “Kewischtjerd” [Kewischtjerd:
đây là cách ghi theo âm không chính xác, vì anh chàng này không nghe và viết được
chính xác tên thật của nhân vật chính Köves György]. Anh ta hỏi “dobro
jesz?” [“Dobro jesz” (phiên âm tiếng Ba Lan): “Được không?”] có “gut” [tiếng
Đức: được, tốt] không, và tôi bảo, “Gut”, thế là anh ta đặt
tờ giấy lên bàn và bỏ đi.
Sau
đó thì, vì rõ ràng bạn có đủ thời gian, bạn có thể nhìn quanh, ngắm nghía, xem
xét một chút. Chẳng hạn bạn có thể xác định được, nếu như đến lúc này chưa thấy,
trong phòng còn có những người khác. Chỉ cần nhìn họ là bạn có thể đoán ra: tất
cả họ cũng có thể là những bệnh nhân. Bạn có thể nhận ra cái màu sắc, cái ấn tượng
làm dịu con mắt bạn, là một màu đỏ thẫm chủ đạo lấn át tất cả, màu lờ mờ của chất
liệu sơn trên những thanh gỗ dài lát nền, cả những tấm chăn được lựa chọn theo
cùng một sắc độ trên tất cả các giường. Tổng số có chừng mười hai cái. Tất cả đều
là giường một, và giường tầng cũng chỉ ở chỗ này, bên cạnh bức tường ngăn đóng
bằng các thanh gỗ sơn trắng, nơi tôi nằm ở tầng dưới cùng, và phía trước tôi,
cũng như hai cái sát bên phía tường ngăn đối diện. Bạn có thể lấy làm khó hiểu
vì nhiều chỗ không dùng đến, vì những khoảng trống rộng hàng mét giữa các giường
theo hàng dọc, và có thể ngạc nhiên vì sự xa hoa, nếu thấy chỗ này chỗ nọ vẫn
còn những giường bỏ trống. Bạn có thể phát hiện ra những ô cửa kính hình vuông
chia nhỏ xinh xắn để cho ánh sáng chiếu qua, và có thể đập vào mắt bạn dấu triện
hình con đại bàng mỏ quặp màu nâu nhạt trên vỏ gối, bên trong có chữ “Waffen
SS”*] mà rồi bạn có thể nhẩm đọc từng chữ cái.
*[Waffen SS: “Lực lượng vũ trang SS”, là nhánh chiến đấu của
SS (Schutzstaffel); tên gọi Waffen SS được chính thức hóa ngày 2-3-1940, sau phát
triển thành lực lượng tinh nhuệ với 39 sư đoàn, dưới quyền chỉ huy của thống chế
SS Heinrich Himmler trên danh nghĩa, nhưng thực chất lực lượng này đã tham gia
suốt cuộc chiến dưới sự chỉ huy của Vehrmacht (Lực lượng Vệ quốc, tên thống nhất
của các lực lượng vũ trang quân đội Đức Quốc xã)]
Còn
nếu bạn muốn thăm dò các gương mặt, bởi bạn có thể nghĩ rằng sự xuất hiện của bạn
dù sao cũng là một sự kiện mới, để tìm một dấu hiệu, một biểu hiện của sự quan
tâm, thất vọng, niềm vui, nỗi buồn hay chỉ để nhận ra sự tò mò thoáng qua, thì
đều vô ích, và tình trạng này càng kéo dài sẽ càng làm bạn cảm thấy khó chịu
hơn, thấy phiền lòng hơn, ở mức độ nhất định có thể nói bạn càng thấy sự im lặng
này bí ẩn hơn, bạn sẽ cảm thấy như vậy, một cảm giác rõ ràng là rất kì quặc, nếu
bạn vô tình rơi vào chốn này. Bạn có thể thấy trên khoảng trống vây quanh bởi
các giường nằm có một chiếc bàn nhỏ phủ vải trắng, gần bức tường đối diện là một
cái bàn to hơn, xung quanh đặt mấy chiếc ghế tựa, bên cạnh cửa ra vào có một lò
sưởi bằng sắt đang bập bùng, sát bên là giỏ đựng đầy than đen nhánh.
Và
rồi sau đó, bạn có thể vắt óc nghĩ: tất cả những thứ này là để làm gì, căn
phòng này, trò đùa với chăn, giường và sự yên tĩnh này. Bạn có thể nhớ tới chuyện
này chuyện khác, bạn thử hồi tưởng, suy diễn, chọn lựa từ những hiểu biết của
mình. Cũng có thể, bạn sẽ suy ngẫm, ngẫm nghĩ, cũng như tôi, rằng đây có lẽ
cũng là nơi giống như chúng tôi đã nghe nói ở Auschwitz, nơi người ta dùng bơ sữa
để vỗ béo cho bệnh nhân, cho đến khi chẳng hạn họ từ từ lấy hết nội tạng của
mình để nghiên cứu, vì mục đích khoa học. Nhưng tất nhiên, bạn phải công nhận rằng,
đây cũng chỉ là một giả thiết, chỉ là một trong các khả năng; và cái chính là
tôi cũng chưa thấy dấu vết, thấy mùi vị, thấy động tĩnh nào của sữa, của bơ. Thế
những tôi vẫn nảy ra một ý nghĩ, cũng có thể là một ý nghĩ mơ hồ, nhưng ai có
thể đánh giá được điều gì là có thể và đáng tin cậy, ai có thể khai thác hết,
ai có thể đi đến tận cùng tất cả vô vàn những ý tưởng, sáng kiến, trò chơi, trò
đùa không đếm xuể và những suy nghĩ cần xem xét, có thể thấy, có thể được thực hiện, có thể dễ dàng biến từ thế giới tưởng
tượng thành hiện thực trong một trại tập trung. Thế mà giờ đây, tôi nghĩ đang
nghĩ thế, khi họ đã đưa con người ta đến đúng một căn phòng như thế này. Đã đặt
xuống một cái giường chăn đệm như thế này. Họ chữa trị, chăm bẵm, nuông chiều -
chỉ có điều là chưa cho ăn, giả dụ thế. Cứ cho là còn có thể họ chú ý xem mỗi
người sẽ chết đói như nào chẳng hạn - chắc hẳn điều đó cũng có thể có cái lý
thú của nó, hay ích lợi mang ý nghĩa cao hơn của nó, sao lại không, tôi phải
công nhận như vậy. Dù tôi xoay trở thế nào, ý nghĩ này càng lúc càng có vẻ sinh
động hơn, càng có vẻ hữu ích hơn: thế có nghĩa là rõ ràng một người có chức
trách hơn tôi cũng có thể nghĩ đến điều này, tôi cho là thế. Tôi nhìn sang người
bên cạnh, một bệnh nhân nằm cách tôi chừng một mét về phía bên trái. Đó là một
người đã có tuổi, đầu chớm hói, mặt ông ta còn lưu giữ những đường nét của một
gương mặt cũ, đây đó còn thấy có da có thịt. Bên cạnh đó tôi nhận thấy tai ông
ta bắt đầu hơi giống những chiếc lá bằng thạch lạp của các bó hoa giả một cách
đáng ngờ, tôi cũng đã nhận ra màu vàng nhất định trên chỏm mũi và quanh mắt
ông. Ông nằm ngửa, cái chăn đắp trên người rung lên xuống nhè nhẹ: có vẻ như
ông đang ngủ. Dẫu sao tôi cũng thử thầm thì về phía ông, hỏi ông có hiểu tiếng
Hung không? Im lặng, không những không hiểu, có vẻ như ông không nghe được gì cả.
Tôi đã quay đi, và đang chuẩn bị thêu dệt những ý nghĩ của mình, thì bất chợt
có tiếng thầm thì, nhỏ nhưng đủ hiểu vọng đến tai: “Có...”.
Đúng là ông, không nghi ngờ gì nữa, dù ông vẫn nằm bất động, không hề mở mắt.
Còn tôi thì, thật ngốc nghếch, mừng rỡ đến nỗi, không biết vì sao, nhưng trong
vài phút tôi quên khuấy mất thực ra là mình muốn gì ở ông. Tôi hỏi: “Ông từ đâu
đến?”. “Từ Budapest...”,
ông đáp - sau một lúc - nhưng tôi có cảm giác rất lâu. Tôi lại hỏi “Khi nào?”, và sau một lúc kiên nhẫn chờ đợi, tôi được biết:
“Tháng Mười một...”. Rồi cuối cùng thì tôi hỏi: “Ở đây người ta có
cho ăn không, và chỉ sau một thời
gian cần thiết, không biết vì nguyên do gì lần nào cũng thế, ông đáp: “Không...”.
Tôi định hỏi nữa.
Nhưng
đúng lúc ấy viên Pfleger lại tới, hơn nữa đi thẳng đến chỗ
ông. Anh ta lật chăn của ông lên, quấn ông trong chiếc chăn dạ, và tôi thật ngạc
nhiên thấy anh ta nhẹ nhàng đặt ông lên vai, rồi vác ra phía cửa cái cơ thể vẫn
còn khá nặng của ông, từ khoảng bụng ông, một miếng gạc giấy rớt xuống như cử
chỉ vẫy chào tạm biệt. Cùng lúc đó nghe có tiếng gõ cộc lốc, tiếp đó đến tiếng
loẹt xoẹt của chiếc loa điện. Rồi một giọng nói vang lên: “Friseure zum
Bad, Friseure zum Bad!”, nghĩa là “Thợ cạo
vào buồng tắm,
thợ cạo vào buồng tắm!”. Một giọng nói hơi giòn, nghe dễ chịu và ve vuốt, có thể
nói là êm tai, mềm mại và có nhạc điệu - như thể bạn có thể cảm thấy cả ánh
nhìn của người nói, và đầu tiên thiếu chút nữa bạn đã bật ra khỏi giường. Có điều
tôi thấy sự kiện này cũng chỉ tác động đến các bệnh nhân ở mức bất quá gần như
sự xuất hiện của tôi trước đó, và tôi nghĩ việc này rõ ràng cũng có thể thuộc
vào một số những sự kiện thường xuyên ở đây. Tôi còn phát hiện ra ở phía trên cửa
ra vào, về bên phải, có một chiếc hộp màu nâu, một kiểu như cái loa thùng, và
tôi cũng đã đoán rằng bọn lính thường truyền các mệnh lệnh của chúng qua đó, có
vẻ như thế. Một lúc sau viên Pfleger lại quay vào, lại đến chiếc
giường bên cạnh tôi. Anh ta gấp chăn và ga trải giường lại, thò tay qua một khe
hở vào bao tải rơm, và từ trong đó sửa lại chiếc đệm rơm, rồi sửa lại ga trải
giường và cả chiếc chăn đắp, tôi đã hiểu ra: gần như chắc chắn tôi không còn thấy
lại ông già lúc trước nữa. Và tôi không thể làm gì vì chuyện đó, nhưng ý nghĩ của
tôi lại cứ dạy dứt điều này: có thể ông bị trừng phạt chăng vì đã tiết lộ ra điều
bí mật, và điều đó - sao lại không thể nhỉ - biết đâu qua một thiết bị, cơ cấu
giống như cái hộp điện đối diện kia, ai mà biết được nó là cái gì, có lẽ người
ta đã nghe thấy, đã ghi lại được? Nhưng tôi lại chú ý đến tiếng nói khác, của một
bệnh nhân nằm cách tôi ba giường, về phía cửa sổ. Một người bệnh rất gầy, còn
trẻ, mặt trắng bệch, và để cả tóc, mái tóc dày màu vàng, gợn sóng. Anh ta nhắc
đi nhắc lại hai ba lần cùng một từ, đúng hơn là rặn ra rất khó nhọc, kéo dài từng
âm, một cái tên, như tôi dần dần nhận ra: “Pjetchka!... Pjetchka!” Nghe thấy thế
viên Pfleger đã đáp lại, cũng kéo dài giọng, và tôi cảm thấy
giọng anh có vẻ thân mật: “Co?” [tiếng
Ba Lan): “Cái gì thế?”]. Rồi người bệnh nói điều gì đó dài hơn,
và Pjetchka - vì tôi hiểu: đó là tên của viên Pfleger - đi lại
chỗ giường người bệnh. Anh ta thì thầm với người ốm khá lâu, như khi an ủi phần
hồn của một ai đó, khích lệ người ấy gắng kiên nhẫn thêm một chút, cố gắng chịu
đựng thêm một lúc nữa. Đồng thời anh ta luồn tay xuống lưng nâng người bệnh lên
một chút, xê lại cái gối, chỉnh lại tấm chăn, và anh làm tất cả những việc đó một
cách thân thiện, vui vẻ, trìu mến - điều đó đã làm đảo lộn, gần như phản bác lại
tất cả những giả thiết trước đó của tôi. Biểu hiện trên gương mặt lại ngả ra
sau ấy tôi chỉ có thể cho là biểu hiện của sự an bài, nhẹ nhõm, những lời nói
nhỏ dần như tiếng thở dài nhưng vẫn nghe khá rõ: “Dizinkquie...
dizinkquie bardzo...”, [tiếng Ba Lan): “Cám
ơn... Rất cám ơn...”] chỉ có
thể nói là lời cảm ơn của anh ta, nếu tôi không nhầm. Rồi cuối cùng, một thứ tiếng
động nhẹ đang lại gần đã phá vỡ mọi cân nhắc tỉnh táo của tôi, sau đó là tiếng ồn,
rồi tiếng khua gỗ ầm ĩ không thể nhầm lẫn từ phía hành lang vọng tới làm khuấy động cả bản ngã tôi,
gây nên sự chờ đợi càng lúc càng tăng, càng không thể cưỡng chế nổi, và đã làm
lãng quên toàn bộ sự khác biệt giữa bản ngã và tồn tại. Ngoài kia có tiếng ầm
ĩ, tiếng người đi lại, tiếng gõ của những đế giày gỗ, rồi tiếng la sốt ruột của
một giọng ồm ồm: “Saal sechs! Essenholen!”, nghĩa là: “Phòng số sáu! Lấy thức ăn!”. Viên Pfleger đi ra ngoài, rồi với
sự trợ giúp của ai đó mà tôi chỉ nhìn thấy cánh tay qua khe cửa, kéo vào một nồi
nặng, và cả phòng liền tràn ngập trong mùi xúp, dù hôm nay cảm thấy rõ chỉ là
món xúp rau tầm ma, nghĩa là tôi đã đoán nhầm cả trong việc này.
Sau
này tôi còn chú ý đến nhiều thứ hơn nữa, hàng giờ, hàng buổi, rồi nhiều ngày
qua đi, tôi đã rõ thêm bao nhiêu điều. Dẫu sao, sau một thời gian, dù từng tí một,
dù ngần ngại, dù thận trọng, nhưng tôi phải nhận ra, phải chấp nhận sự hiển
nhiên của các sự kiện, rằng - như ta thấy - điều này cũng có thể xảy ra, điều
này cũng có thể tin được, và rằng nó chỉ bất thường hơn, và dễ chịu hơn, dĩ
nhiên, nhưng về cơ bản nó cũng không kỳ quặc hơn bất kỳ sự kỳ quặc nào khác có
thể xảy ra và có thể tin được trong một trại tập trung, cả theo cách này hay cả
theo cách ngược lại, rất tự nhiên, nếu nghĩ cho cùng. Nhưng mặt khác chính điều
này làm tôi lúng túng, căng thẳng, bằng cách nào đó nó làm tôi cảm thấy bất an:
xét cho cùng, nếu tỉnh táo nhìn, tôi không thấy một nguyên nhân nào, không thể
tìm ra bất kỳ một lý do hợp lý, quen thuộc nào có thể chấp nhận được với lý trí
của tôi cho việc tôi tình cờ có mặt ở chính nơi này, chứ không phải là ở một
nơi nào khác. Dần dần tôi phát hiện những người bệnh ở đây đều được băng bó, chứ
không phải như ở trong ngôi nhà trước đây, và sau một thời gian tôi mạnh dạn
đưa ra giả thiết rằng, ở bên đó có khi là nội khoa, còn ở đây - không biết chừng
- có lẽ là khoa phẫu thuật; nhưng dù sao tôi cũng không thể coi điều này, tất
nhiên, là nguyên cớ đủ, là lời giải thích cần thiết cho công việc, cho chuỗi
liên kết của những cánh tay, những đôi mắt, những ý nghĩ - nếu xét cho kỹ, điều
đã đưa tôi từ chiếc xe cút kít cuối cùng đến đây, đến căn phòng này, cái giường
này. Tôi đã thử tìm hiểu các bệnh nhân, thăm dò họ đôi chút. Nhìn chung, tôi nhận
thấy đa số họ có thể là các tù phạm cũ, đã ở đây từ lâu. Không người nào có vẻ
có chức sắc, nhưng mặt khác
cũng không thể có cách nào so sánh họ với những người ở Zeitz. Sau một thời
gian tôi nhận ra điều này: trên ngực tất cả những người đến thăm người bệnh -
bao giờ cũng đúng vào giờ ấy buổi tối, chỉ đến một phút, để nói với họ một lời -
cũng đều chỉ có tam giác màu đỏ, và dù chỉ một cái màu xanh lá cây hay màu đen
chẳng hạn cũng không có - tất nhiên
tôi không hề thấy thiếu chúng, cả màu vàng - mà tôi rất muốn thấy - cũng không
có. Nói tóm lại họ là những người khác, dòng máu, ngôn ngữ, tuổi tác, mà hơn nữa
họ còn khác biệt bản thân tôi theo cách nào đó, hoặc khác bất kỳ một người nào
mà cho đến lúc này bao giờ tôi cũng vẫn hiểu được một cách dễ dàng, và điều này
làm tôi hơi khó chịu. Còn về mặt khác, tôi cần phải cảm thấy, chính tại đây có
thể, chính ở chỗ này có khi ẩn chứa lời giải đáp. Chẳng hạn như trường hợp của
Pjectchka đây: tối tối chúng tôi bắt đầu ngủ với lời chúc “dobna noc”, [phiên âm tiếng Ba Lan: Chúc ngủ ngon!], sáng ra thức dậy
cùng lời chào “dobre ranó” [phiên âm tiếng
Ba Lan: Chào buổi sáng!] của anh. Anh giữ căn phòng ngăn nắp không chê
vào đâu được, anh lau sàn bằng một miếng giẻ ướt gắn trên đầu gậy, đem than đến
hằng ngày và đốt lò, chia khẩu phần thức ăn và rửa cà mèn, rửa thìa đi kèm, khi
cần thiết thì di chuyển bệnh nhân, và ai biết có việc gì anh không làm: tất cả
không một việc gì khỏi tay anh. Dù anh không nói nhiều, nhưng nụ cười, sự sẵn
sàng của anh bao giờ cũng vậy, nói tóm lại: cứ như thể anh không phải một nhân
vật có chức vụ quan trọng, xét cho cùng anh là người đáng trọng nhất trong
phòng, mà là một người trước hết phục vụ bệnh nhân, một hộ lý, một Pfleger,
đúng như được ghi trên băng đeo tay của anh.
Hay
như ông bác sĩ kia - như sau này mới rõ ra - người có bộ mặt thô ấy là bác sĩ,
thậm chí bác sĩ trưởng. Những lần đến thăm, tôi có thể nói là đến khám bệnh của
ông, buổi sáng nào cũng như nhau, bao giờ cũng với nghi lễ không thể thay đổi.
Đúng lúc căn phòng vừa được dọn dẹp xong, đúng lúc chúng tôi vừa uống xong cà
phê và đám nồi niêu vừa biến khỏi chỗ mà Pjetchka để sau tấm rèm làm từ những tấm
chăn dạ, thì trên hành lang đã nghe thấy tiếng gõ của những bước chân quen thuộc.
Lát sau một bàn tay dứt khoát mở toang cánh cửa đến sát góc, rồi bằng những lời
chắc chắn là “Guten Morgen”, [tiếng
Đức: Chào buổi sáng!] nhưng chỉ nghe thành một tiêng kéo dài thành
“Moo’gn” thoát ra từ cuống họng, ông bác sĩ bước vào. Vì lý do nào đó không rõ,
có vẻ như chúng tôi không nên đáp lại, mà rõ ràng ông cũng không chờ đợi câu trả
lời của chúng tôi, nếu có thì chỉ từ Pjetchka, người đón ông bằng nụ cười, bằng
cái đầu để trần, dáng người đứng thẳng của anh ta - nhưng như sau một thời gian
dài nhiều lần tôi nhận thấy - có vẻ không với sự trọng thị nhất định mà người
ta thường dành cho những bậc đáng kính, mà đúng hơn là theo cái cung cách tựa
như đơn giản chỉ là anh tôn trọng ông, theo nhận thức, theo ý muốn tự do của
anh, có thể nói đúng là như thế. Rồi ông nhấc lên, kiểm tra với vẻ mặt nghiêm
nghị và cân nhắc, từng tờ bệnh án mà trước đó Pjetchka đã chuẩn bị sẵn cho ông
trên chiếc bàn màu trắng, cứ
như chúng là những tờ bệnh án thật sự, trong một bệnh viện thực, nơi không có
gì quan trọng hơn, không có gì hiển nhiên hơn là hỏi thăm sức khỏe của bệnh
nhân. Rồi ông quay về phía Pjetchka, nhận xét một đôi điều về tờ này tờ nọ,
chính xác hơn là bao giờ ông cũng nói đúng hai kiểu nhận xét. Chẳng hạn ông có
thể đọc “Kewisch… Was? Kewischtjerd!” [“Kewisch…
Was? Kewischtjerd!” (Ở đây ông bác sĩ cố
gắng phát âm tên Köves György), Was? (tiếng Đức): “Cái gì?”] và đáp lại, trả lời
hay phát bất cứ tín hiệu nào chứng tỏ chúng tôi có mặt ở đây, điều này tôi học
được khá nhanh - cũng bất nhã chẳng khác gì đi trả lời câu chào buổi sáng của
ông. “Der Kommt heute raus!” [tiếng Đức: “Hôm nay
nó được tha về!”] ông có thể nói tiếp, và lần nào ông cũng ngụ ý -
sau một thời gian tôi đã nhận ra - rằng sáng hôm đó, người bệnh nào có liên
quan, nếu đi được, thì tự đi, nếu không đi được thì Pjetchka phải vác đến,
nhưng bằng mọi giá phải có mặt ở chỗ ông, giữa đống dao, kéo, băng giấy trong
phòng khám cách lối ra hành lang của chúng tôi chừng mười, mười lăm mét. (Ông
không yêu cầu sự đồng ý của tôi như ông bác sĩ ở Zeitz, và cung cách ầm ĩ của
chúng tôi không mảy may làm ông phiền lòng, trong lúc đó ông cứ dùng một chiếc
kéo hình thù rất lạ cắt thêm một miếng mới bên sườn tôi - sau đó ông nặn các vết
thương của tôi, đặt gạc vào, rồi tuy rất tiết kiệm, nhưng ông đã bôi một lớp
kem gì đó, nhìn như vậy, tôi cũng phải công nhận trình độ chuyên môn không thể
chối cãi của ông.) Một nhận xét khác mà ông có thể buông ra là: “Der
geht heute nach Hause!”, [tiếng
Đức: “Hôm nay nó về nhà!”] có nghĩa là ông cho rằng
người bệnh này đã khỏi, và có thể ra viện, nach Hause, nghĩa là về
nhà, tất nhiên là về dãy nhà trong trại, với công việc, với đội. Ngày hôm sau mọi
việc lại diễn ra đúng như thế, theo bản sao chính xác của cái trật tự ấy, theo
đúng quy định, mà trong đó cả Pjetchka, cả bệnh nhân của chúng tôi, và dường như
các đồ vật, thiết bị cũng can dự vào, cũng đóng vai trò, cũng chiều theo ông với
sự nghiêm chỉnh giống nhau, lặp lại hằng ngày, củng cố, thực hành, chứng tỏ sự
bất biến ấy, nói tóm lại: như thể không có gì hiển nhiên hơn, không thể hoài
nghi hơn: việc của ông - bác sĩ - là chữa trị, còn việc của chúng tôi - những bệnh
nhân - là khỏi bệnh, phục hồi càng nhanh càng tốt, sau đó trở về là công việc
rõ ràng, là mục tiêu duy nhất và cũng ít được mong đợi của chúng tôi.
Sau
này tôi còn biết thêm đôi chút về ông. Cũng như có những khi trong phòng điều
trị rất đông bệnh nhân, và có cả những người khác. Những lúc ấy Pjetchka thường
đặt tôi từ trên vai anh ta xuống chiếc ghế gỗ dài bên cạnh tường, và sau đó tôi
phải chờ ở đó, đến khi nào ông bác sĩ với thái độ vui vẻ chẳng hạn, gọi như giục
giã: “Komm, komm, komm, komm!”, [“Komm!”
(tiếng Đức): Lại đây!] bằng một động tác tuy thực ra là thân thiện,
nhưng dù sao cũng không mấy dễ chịu, túm lấy tai kéo lại, và theo đà nhấc phắt tôi đặt lên
bàn. Lần khác, tôi có thể đến đúng lúc đang đông chen chúc, đám hộ lý dẫn bệnh
nhân đến rồi đi, các bệnh nhân tự đi được cũng đến, trong phòng còn có những
bác sĩ, hộ lý đang làm việc, và có thể một bác sĩ khác cấp thấp hơn khám chữa
cho tôi theo định kỳ, trên một chiếc bàn đơn sơ hơn ở bên cạnh, cách chiếc bàn
mổ đặt ở giữa một khoảng cách xa. Tôi đã làm quen, có thể nói là đã kết bạn với
một người trong số họ, dáng dấp lùn, tóc bạc, mũi hơi giống một loài chim ăn thịt,
ông cũng đeo tam giác màu đỏ không ký hiệu và mặc dù số tù không phải hai hay
ba chữ số, nhưng vẫn là con số hàng nghìn đáng kính nể. Chính ông nói - mà
Pjetchka cũng khẳng định lại - ông bác sĩ của chúng tôi ở trong trại tập trung
đã mười hai năm. “Zwölf Jahre im Lager”, [“Zwölf Jahre im Lager”, (tiếng Đức): “Mười hai năm trong
trại”] ông nói nhỏ, gật gật đầu, với vẻ mặt như nói về một kỳ
tích hiếm hoi, không hẳn có thực - và ít nhất là theo ý ông, tôi thấy thế - là
một thành tích không thể thực hiện nổi. Tôi hỏi ông: “Und Sie?”. “O,
ich,” nét mặt ông bỗng thay đổi, “seit sechs Jahren bloss”,
[“Und Sie?”... “O, ich seit sechs Jahren bloss”
(tiếng Đức): “Thế còn ông?”... “Tôi ư, mới có sáu năm thôi”] tất
cả có sáu năm, ông giải thích bằng một cái phẩy tay duy nhất, như thể việc đó
không có gì, như đó là chuyện vặt, không đáng nói. Nhưng đúng ra là ông quan
tâm đến tôi, ông hỏi tôi bao nhiêu tuổi, và làm thế nào lại lưu lạc đi xa nhà
thế này, và cuộc trò chuyện của chúng tôi đã bắt đầu như thế. “Has du
irgend etwas gemacht?”, [tiếng Đức: “Cậu đã
làm chuyện gì vậy?”] tôi đã làm việc gì, hay là việc
xấu xa gì, ông hỏi, và tôi lại bảo: không, “nicht” tôi không
làm gì cả. Thế thì tại sao tôi lại ở đây? Ông hỏi, tôi đáp cũng vì một lý do
đơn giản như những người khác cùng nòi giống với tôi. Thế nhưng, ông tiếp tục
căn vặn, sao tôi lại bị bắt, “verhaftet”, [tiếng Đức): “Bị bắt”] và tôi
đã kể sơ lược cho ông nghe, theo những gì tôi biết, về buổi sáng hôm ấy, về
chuyến xe bus, trạm thuế quan, và sau đó là việc ở chỗ cảnh binh. “Ohne
dass deine Eltern” [tiếng Đức: Thế cha mẹ cậu
không biết ư?] nghĩa là chẳng lẽ cha mẹ tôi không biết gì hay
sao, ông hỏi, và tôi bảo, tất nhiên là “ohne”. [Ohne, (tiếng Đức): ở đây nghĩa là “không”]. Nom
ông có vẻ thật sự sửng sốt, như chưa nghe thấy thế bao giờ, và tôi nghĩ: có vẻ
như sáu năm dài đã giấu kỹ ông ở đây, cách ly với thế giới rồi. Nghe xong, ông
vừa truyền tiếp điều vừa được biết cho một bác sĩ khác đang làm việc bên cạnh,
người này lại truyền tiếp, cho các bác sĩ, hộ lý, cho những bệnh nhân hình thức
bề ngoài nom kha khá hơn. Cuối cùng tôi nhận thấy từ mọi phía người ta đều lắc
đầu nhìn tôi, trên mặt biểu hiện một cảm giác là lạ làm tôi thấy hơi khó chịu,
vì tôi cảm thấy như họ thương hại mình. Tôi rất muốn nói với họ: không có lý do
gì, ít nhất là vào lúc bấy giờ - nhưng rồi thế nào đó tôi lại không nói, một điều
gì đó đã kiềm tôi lại, từ trong trái tim mình dường như tôi thấy không cần, có
thể nói
vậy; vì tôi nhận thấy rằng, cảm giác kia làm cho họ phấn khởi, đưa lại cho họ
niềm vui. Thậm chí, và tất nhiên là có thể, mặc dù tôi không tin là mình nhầm,
nhưng về sau (vì có một đôi lần họ đã hỏi, đã căn vặn tôi) tôi có ấn tượng gần
như họ chủ động tìm kiếm, một cơ hội, một cách thức, nguyên cớ để tạo ra cảm
giác ấy, vì một lý do nào đó, vì có nhu cầu, như thể để chứng tỏ một cái gì đó
có lẽ là phương pháp xử thế của họ với các sự việc, hoặc có thể, ai mà biết được,
để chứng tỏ năng lực của họ nói chung; và như thế cũng khá dễ chịu, ít nhất là
với tôi. Sau đó họ nhìn tôi theo cách làm tôi phải hốt hoảng nhìn quanh, xem có
người lạ nào theo dõi chúng tôi không, nhưng ánh mắt tôi chỉ bắt gặp những vầng
trán ưu tư, những đôi mắt nheo nheo, những đôi môi mím chặt giống nhau - như thể
bỗng nhiên họ lại nhớ ra điều gì đó và điều đó lại được chứng thực trong mắt họ,
và tôi không thể nào không nghĩ rằng, có thể đó là lý do vì sao họ có mặt ở
đây.
Sau
đó là những người khách đến thăm chẳng hạn: tôi cũng nhìn cả họ, thử quan sát họ,
cố xác định xem ngọn gió nào, công việc gì đã đem họ tới đây. Trước hết, tôi nhận
thấy rằng, đa phần cứ vào cuối ngày, thông thường cứ vào đúng giờ ấy là họ đến:
từ đó tôi nhận ra rằng, cả nơi đây trong Buchenwald này, tại Trại Lớn, cũng có
thể có chính xác một giờ như vậy, có vẻ thế, y như bên chỗ chúng tôi ở Zeitz,
không nghi ngờ gì nữa, rõ ràng ở đây cũng vào lúc giữa giờ trở về của các đội
và giờ điểm danh buổi tối. Đến đây nhiều nhất là những người mang chữ P, nhưng
tôi còn thấy cả những chữ J, R, T, F, thậm chí No, và ai mà biết được còn thiếu
chữ nào: nhưng dù sao, có thể nói là tôi đã chứng kiến nhiều việc thú vị, đã học
được nhiều điều mới mẻ từ tên gọi của họ, thậm chí nhờ thế tôi mới có cái nhìn
chính xác hơn về hoàn cảnh, về những điều kiện, về cuộc sống xã hội ở đây của họ,
phải nói là vậy. Các tù phạm ở Buchenwald nom hầu như đều ổn, mặt mũi họ đầy đặn,
dáng dấp và bước đi của họ đều nhanh nhẹn, nhiều người được phép để tóc, và hầu
như họ chỉ mặc quần áo tù kẻ sọc vào ban ngày, trong lúc làm việc, như tôi vẫn
thấy ở Pjectchka. Còn nếu sau khi chia khẩu phần bánh mì bữa tối cho chúng tôi
(thường là một phần ba hay một phần tư, kèm theo món phụ Zulage khi
có khi không) mà chuẩn bị đi thăm bạn chẳng hạn, anh ta vẫn mặc áo sơ mi và áo
len, rồi khoác thêm - trước đám bệnh nhân chúng tôi hình như anh hơi cố ý giấu,
nhưng trên gương mặt, qua những cử chỉ của anh có thể nhận rõ vẻ thích thú -
anh lựa ra một chiếc áo kẻ sọc hơi nhạt, màu nâu, may đúng mốt, trên lưng có một
vệt cắt ở giữa và đáp lên mảnh vải áo tù hình vuông, mỗi bên ống quần có một vệt
sơn dầu màu đỏ không thể xóa nổi, còn trên ngực và trên ống quần trái không thể
thiếu một tam giác màu đỏ và số tù. Tôi đã phải hứng chịu nhiều phiền toái, có
thể nói là thử thách từ việc anh ta chuẩn bị đón khách buổi tối. Nguyên nhân là
do sự phi lý của thiết bị: chẳng hiểu sao ổ cắm điện tường lại ở đúng chân giường
tôi. Lúc này dù tôi có cố gắng bằng mọi cách để không chú ý tới họ, như nhìn
chăm chăm lên trần nhà trắng tinh không một gợn bẩn, ngắm cái chao đèn sơn, hay
tập trung suy nghĩ, thì cuối cùng vẫn phải nhận ra Pjetchka đang cắm cúi với
chiếc cà mèn và dây đun điện - vật sở hữu riêng của anh ta - phải nghe tiếng bơ
sôi xèo xèo, phải hít hà mùi thơm khiêu khích của những lát hành phi, của lát
khoai tây được bỏ vào, rồi sau đó có khi là món wurst trộn với Zulage, có
khi tôi phải chú ý đến một tiếng chạm khẽ, rất đặc trưng, rồi bất chợt đến tiếng
xèo xèo ầm ĩ - mặc dù đã vội quay đi ngay, nhưng đôi mắt kinh ngạc của tôi vẫn
còn nổ đom đóm một lúc lâu - bởi cái thứ ruột vàng vành trắng: đó là trứng. Khi
các món vừa chín, tất cả xong xuôi thì vị khách cũng mở cửa bước vào. “Dobre
vecher!”, [tiếng Ba Lan): “Chào buổi tối!”] vị
khách gật đầu thân thiện, vì anh ta cũng là dân Ba Lan; Zbisek là tên anh ta,
khi đi với các từ khác hay được gọi thân mật có khi tôi lại nghe thành Zbisku;
chức danh của anh ta cũng là Pfleger, ở bên kia, như tôi được biết,
trong một Saal khác. Anh này cũng ăn mặc rất đàng hoàng, chân
đi ủng, áo khoác ngoài màu xanh thẫm có gắn hình tam giác trên ngực, ngắn, kiểu
áo thể thao hay áo đi săn, mặc dù trên lưng cũng có vết vá, tất nhiên; bên
trong là áo len đen cổ cao sát cằm. Vóc dáng anh cao lớn, đầu cạo trọc không rõ
do bắt buộc hay tự nguyện, khuôn mặt đầy đặn với những nét vui vẻ, láu lỉnh và
thông minh, tóm lại tôi thấy anh ta là một người dễ chịu, thân thiện, mặc dù về
phần mình tôi không vui lòng đổi anh với Pjetchka của chúng tôi chút nào. Sau
đó họ ngồi vào chiếc bàn lớn hơn ở phía sau, bắt đầu ăn tối, trò chuyện; thỉnh
thoảng có một bệnh nhân Ba Lan nhỏ nhẹ xen vào câu chuyện của họ đôi ba câu; có
khi họ nhận xét này nọ, hay họ pha trò, họ chống khuỷu tay xuống mặt bàn, úp
hai lòng bàn tay vào nhau thử đọ sức, trong khi đó cả căn phòng - dĩ nhiên là
bao gồm cả tôi nữa - cùng vui mừng vì đa phần là Pjetchka quật ngã được cánh
tay tuy nom có vẻ khỏe hơn của Zbisek: nói tóm lại là tôi hiểu họ, ở đây họ
chia sẻ với nhau những thuận lợi, khó khăn, niềm vui, nỗi lo âu, tất cả mọi thứ,
kể cả tài sản và khẩu phần ăn nữa - có nghĩa họ là bạn bè, như người ta thường
nói. Ngoài Zbisek còn có những người khác cũng đến gặp Pjetchka, họ trao đổi với
nhau một đôi câu, hoặc thỉnh thoảng trao tay rất nhanh gọn một món đồ, và dù
tôi chẳng bao giờ nhìn thấy đó là thứ gì, nhưng chuyện này bao giờ cũng rõ mồn
một, tất nhiên tôi nhận ra rất dễ. Ngoài ra còn có những người đến thăm mấy bệnh
nhân đang nằm ở đây; họ lẩn vào khá nhanh, gần như vụng trộm. Họ ngồi xuống bên
giường bệnh một chốc lát, có khi đặt lên tấm chăn một gói gì đó nho nhỏ bọc giấy
thô, một cách rụt rè, gần như nhún nhường thế nào đó. Rồi sau đó, mặc dù tôi
không nghe được tiếng thầm thì của họ, mà có nghe được cũng không thể hiểu nổi -
nhưng hình như họ hỏi thăm: bệnh tình tiến triển ra sao, có tin gì mới không; họ
thông báo: tình hình bên ngoài thay đổi thế này thế nọ; họ hỏi thăm sức khỏe của
người này người kia; họ đảm bảo: sẽ chuyển lời hỏi thăm của người bệnh tới nơi,
chắc chắn; họ nhớ ra: đã hết giờ, rồi họ vỗ vào cánh tay, vào vai người bệnh:
không sao, lần tới họ cũng lại đến, và họ đi, cũng lặng lẽ, vội vàng và đa phần
đều có vẻ hài lòng - ngoài ra, tôi thấy không có một kết quả, một ưu thế, một lợi
ích rõ rệt nào khác, và như vậy tôi phải giả thiết rằng, có vẻ như họ đến duy
nhất chỉ vì vài lời nói, chỉ có thể nhìn thấy người ốm, chứ không phải vì một
điều gì khác. Bên cạnh đó, dù tôi có thể không biết, chính sự vội vã cũng cho
thấy: rõ ràng họ đang toan tính một điều gì bí mật, chắc chỉ có thể thực hiện
được nếu Pjetchka không biết, với điều kiện phải thật nhanh gọn. thậm chí tôi
ngờ rằng, và qua kiểm nghiệm một thời gian dài tôi có thể khẳng định rằng sự mạo
hiểm này, sự bướng bỉnh, có thể nói là ương ngạnh này, ít nhiều có liên quan đến
sự kiện ấy - tôi nhận thấy thế, ít nhất là từ những nét thoáng qua, khó xác định
trên gương mặt có vẻ rạng rỡ bởi một sự phản kháng thành công nào đó, như thể họ
đã thay đổi được một chút gì, tạo ra một kẽ hở, một rạn vỡ nào đó trên cái trật
tự đặc biệt, trên sự đơn điệu của thường lệ hằng ngày, một chút nơi cái được
coi là tự nhiên, ít ra là như cách mà tôi nhìn được. Nhưng tôi còn nhìn thấy những
người kỳ quặc hơn bên giường của một người bệnh nằm sát bức tường ngăn đối diện
với tôi ở phía xa. Pjetchka vác anh ta vào từ buổi sáng, và sau đó loay hoay
quanh anh ta khá lâu. Tôi thấy, đó có thể là một ca nặng, và nghe nói bệnh nhân
là người Nga. Buổi tối người đến thăm đứng kín nửa phòng. Tôi thấy nhiều chữ
cái R và các chữ khác, những chiếc mũ lông thú, những chiếc quần vải bông lạ mắt.
Có những người một bên đầu để tóc rất kiểu cách, còn nửa bên kia để trọc. Những
người khác tóc tai tử tế, chỉ đứng ở giữa, từ trán tới sau gáy có một vệt nhẵn
kéo dài, rộng đúng bằng một vệt tông đơ. Áo khoác vẫn có miếng vá như thường thấy,
và còn thêm hai gạch chéo màu đỏ, giống nhau, như khi người ta muốn xóa đi một
thứ gì không cần thiết, một chữ cái, một con số, một cái dấu trong bài viết.
Trên lưng những chiếc áo khoác ấy còn thấy một vòng tròn lớn màu đỏ, bên trong là một chấm
lớn cũng màu đỏ rực có thể thấy từ xa, như một cái đích khêu gợi, mời gọi, ra
hiệu: hãy bắn vào họ ở chỗ ấy, khi có dịp.
Họ
đứng đó, quanh quẩn, thầm thì bàn tán, một người cúi xuống sửa gối, một người
khác - tôi thấy - hình như đang lắng nghe lấy một lời, một ánh mắt của bệnh
nhân, và bỗng nhiên tôi chỉ thấy thoáng qua một vật gì đó màu vàng, từ đâu đó
đưa đến một con dao, Pjectchka đưa đến một chiếc ca sắt, có tiếng nước rớt mạnh
- và nếu không tin vào mắt mình, thì lúc này mũi tôi chứng thực một cách không
thể hoài nghi rằng, cái vật mà tôi vừa thoáng thấy kia, không còn phải bàn cãi
gì nữa, đích thực là một quả chanh. Rồi cánh cửa ra vào mở, và tôi thật bất ngờ,
vì thấy ông bác sĩ vội vàng bước vào, điều từ trước tới nay chưa có tiền lệ vào
giờ này. Người ta nhanh nhẹn rẽ sang hai bên nhường lối cho ông, và ông cúi xuống
xem xét, sờ nắn một thứ gì đó trên người bệnh rất nhanh, rồi lập tức bỏ đi, vẻ
mặt khó đăm đăm, cau có, có thể nói là giận dữ, nhưng không nói với ai dù chỉ một
lời, không nhìn ai dù chỉ một cái liếc mắt, thậm chí như ông còn muốn né tránh
những cái nhìn hướng về phía mình - ít ra là tôi nhận thấy có vẻ như thế. Một
lúc sau tôi thấy những người đến thăm bỗng im lặng. Một vài người tách ra khỏi
đám đông, lại gần giường, cúi xuống nhìn người bệnh một lần nữa, rồi họ bỏ đi,
từng người một, từng đôi một, cũng như khi đến. Nhưng lúc này họ buồn bã hơn,
an bài hơn, mệt mỏi hơn một chút, đến nỗi trong giây phút ấy tôi cũng thấy
thương hại họ, vì tôi phải thấy: hình như họ đã đánh mất đi mãi mãi niềm hy vọng
hằng nâng niu vô cớ, niềm tin được kín đáo gìn giữ của họ. Một lát sau Pjetchka
nhẹ nhàng nâng thân xác người quá cố lên vai, và vác xác đi một nơi nào đó.
Và
cuối cùng phải kể đến trường hợp nhân vật của tôi. Tôi gặp anh ta trong buồng rửa
mặt - vì dần dà tôi không còn nghĩ đến chuyện có thể rửa ráy ở chỗ nào khác hơn
là bên trên chiếc vòi nước có thể đóng mở, bên chiếc bồn rửa trong phòng tắm ở
phía cuối hành lang, và ngay cả ở đây cũng không vì trách nhiệm, mà đúng hơn chỉ
là do phải phép, như tôi dần dần trải nghiệm thấy như thế; thậm chí sau một thời
gian tôi còn nhận thấy, tôi gần như khó chịu vì căn phòng không có sưởi, nước
thì lạnh và không có khăn lau. Cũng tại đây có thể nhìn thấy một thứ đồ dùng giống
như một cái tủ màu đỏ bỏ ngỏ, có thể di chuyển được, bên trong có một cái bình -
không biết ai giữ gìn, thay đổi, cọ rửa - nhưng bao giờ cũng sạch sẽ. Một bận,
khi tôi đã sắp bước ra khỏi phòng tắm, thì một người mở cửa bước vào. Một người
điển trai, tóc đen bóng mượt chải hất ra sau, hai bên có những lọn lật ngược lại
rủ xuống trán, khuôn mặt hơi xanh như thường gặp ở những người tóc quá đen, và
từ tuổi trạc trung niên, từ vẻ ngoài bảnh bao, từ chiếc áo choàng trắng tôi đã
có thể nghĩ ông là bác sĩ, nếu như dòng chữ trên băng đeo tay không cho biết
ông chỉ là một Pfleger, trong khi chữ T trong hình tam giác
màu đỏ cho biết ông ta là người Tiệp. Ông sững lại, vẻ như bất ngờ, thậm chí
hơi kinh ngạc khi nhìn thấy tôi, ông nhìn vào mặt tôi, nhìn cái cổ thò ra khỏi
áo sơ mi, nhìn xương quai xanh, nhìn những ống chân tôi như thế. Ông lập tức hỏi
tôi một điều gì đó, và tôi bảo ông, bằng tiếng Ba Lan mà tôi đã học mót được:
“Nhe rozumje”. [“Nhe rozumje.” (phiên âm tiếng
Ba Lan): “Tôi không hiểu”]. Thế là ông hỏi bằng tiếng Đức, tôi
là ai, từ đâu đến. Tôi đáp: “Từ Ungar”, còn ở đây thì “từ Saal Sechs”. Thế là
ông, dùng cả ngón tay trỏ ra hiệu, và bảo: “Du: warten hier. Ik: wek. Ein
moment zurück. Verstehen?”*.
*[“Du: warten hier. Ik: wek. Ein moment zurück. Verstehen?”
(tiếng Đức, nói kiểu giản đơn cho người nước ngoài): “Cậu: chờ ở đây. Tôi: đi một
phút quay lại. Hiểu không?”].
Tôi nói:
“Verstehen”. [tiếng Đức): “Hiểu”]. Thế
là ông quay ra, rồi trở lại, và tôi chợt nhận ra trong tay mình một phần tư miếng
bánh mì và một hộp nhỏ xinh xắn đã mở đầy thứ thịt xay màu hồng còn nguyên vẹn.
Tôi ngẩng nhìn lên định cảm ơn, nhưng chỉ còn nhìn thấy cánh cửa đang khép lại
phía sau ông. Khi quay lại phòng mình, tôi cố gắng kể cho Pjetchka hiểu, còn
dùng đôi từ miêu tả ông ta, và anh biết ngay đó có thể là Pfleger của Saal số
bảy, ở cạnh chúng tôi. Anh còn nhắc đến cả tên ông ta: tôi nghe thành Bausch,
những nghĩ lại có thể anh đã nói là Bohus thì đúng hơn. Sau này tôi còn nghe
người láng giềng bên cạnh cũng gọi như thế, vì trong khoảng thời gian đó thành
phần bệnh nhân trong phòng tôi cũng đã thay đổi. Phía trên tôi chẳng hạn, sau
khi đem ra một người vào buổi chiều, một lát sau Pjectchka mang vào một người mới
trạc tuổi tôi, và như sau đó tôi được biết, cùng thuộc nòi giống với tôi, nhưng
nói tiếng Ba Lan. Tên cậu ta là Kuhalski hay Kuharski, theo như cách phát âm
tôi nghe được từ Pjetchka và cả Zbisek, bao giờ cũng nhấn mạnh cái đuôi “harski”.
Thỉnh thoảng họ nói đùa, làm cậu ta bực mình, có lẽ còn trêu chọc, vì hay thấy
cậu phát cáu lên, như có thể nhận ra qua cách nói liến thoắng, tiếng nói đang vỡ
giọng có vẻ cáu gắt của cậu và trận mưa vụn rơm rơi xuống mặt tôi qua khe hở giữa
những thanh gỗ của giường trên, vào những lúc như thế - tất cả những
người Ba Lan trong phòng, như tôi thấy, đều được một trận cười vui vẻ. Bên cạnh
tôi, thế vào chỗ của một bệnh nhân Hung là người khác, lại một cậu con trai,
thoạt tiên tôi cũng không nhận ra là người thuộc nước nào. Cậu ta nói chuyện được
với Pjectchka, nhưng đôi tai dần dần đã trở nên sành sỏi của tôi vẫn không thể
nhận ra đó là tiếng Ba Lan. Tôi hỏi bằng tiếng Hung thì cậu ta không đáp, tuy
nhiên mái tóc đỏ lởm chởm, nét mặt gần như đầy đặn, dễ coi với những mụn trứng
cá rải rác, con mắt xanh tinh nhanh, hoạt bát làm tôi chợt thoáng ngờ. Trong
khi cậu ta loay hoay sắp đặt, ổn định chỗ nằm, tôi nhìn thấy phía trong cổ tay
cậu dấu hiệu màu xanh: những con số hàng triệu, được đánh dấu ở Auschwitz. Chỉ
đến khi vào một buổi tối sáng, cửa ra vào bất chợt mở, và Bohus bước vào để đặt
lên chăn của tôi - như thường lệ tuần một, hai lần, lúc nào cũng vậy - suất
bánh mì và thịt hộp trợ giúp của ông, và không để tôi có thời gian kịp cảm ơn, ngay
cả với Pjectchka ông cũng chỉ gật đầu chào, ông đã ra ngoài. Lúc đó mới biết
hóa ra là cậu ta biết tiếng Hung, ít nhất giỏi chẳng kém gì tôi, vì cậu ta hỏi
ngay: “Ai thế?”. Tôi bảo, theo tôi biết đó là Pfleger của phòng bên,
tên là Bausch gì đó, thế là cậu ta sửa: “Có lẽ là Bohus”, vì đó là - theo cậu
ta khắng định - một tên thường thấy ở Tiệp Khắc, cũng là quê hương của cậu ta.
Tôi liền hỏi: “Sao từ trước đến giờ cậu không nói tiếng Hung?”, và cậu ta đáp:
vì cậu không ưa dân Hung lắm. Tôi công nhận cậu ta có lý, và rằng, nhìn chúng
tôi cũng không tìm thấy nhiều lý do để thích dân Hung. Thế là cậu ta đề nghị
chúng tôi hãy nói chuyện bằng tiếng Do Thái, nhưng tôi phải thú nhận mình không
biết, và thế là chúng tôi đành dùng tiếng Hung, tuy cậu ta là người Tiệp. Cậu
nói tên mình: Luiz, hay có thể là Loyiz, tôi nghe không rõ lắm. Tôi cũng nói:
“Nghĩa là Lajos”, nhưng cậu ta phản đối, vì đấy là tên Hung, còn cậu là người
Tiệp, cậu khăng khăng giữ sự khác biệt: “Loiz”. Tôi hỏi sao cậu biết lắm thứ tiếng
thế, cậu kể cậu đến từ vùng Felvidék, nhưng cùng với rất đông người thân, họ
hàng chạy trốn khỏi người Hung, hay khỏi “sự chiếm đóng của Hung”, và đúng là
tôi cũng nhớ đến một ngày đã lâu, khi còn ở bên nhà, có diễu hành, cờ quạt,
quân nhạc và lễ hội suốt cả một ngày, để mừng Felvidék lại thuộc về Hungary. Cậu
ta vào trại tập trung thì đã từ một nơi - nếu tôi nghe không nhầm - tên
Terezin. Cậu ta bảo tôi: “Chắc cậu phải biết nó dưới cái tên Theresienstadt”.
Tôi đáp là không, cả hai cái tên tôi đều không biết, nghe thấy thế cậu ta rất
ngạc nhiên, theo kiểu giống như tôi thường ngạc nhiên về những người chưa hề
nghe nói đến trạm thuế quan Csepel chẳng hạn. Rồi cậu ta giải thích đó là
khu ghetto [khu tập trung người Do Thái
sinh sống trong các thành phố] của Praha. Rồi cậu ta còn bảo
ngoài với người Hung, người Tiệp, người Do Thái, và người Đức ra cậu còn có thể
nói chuyện được với dân Slovak, dân Ba Lan, dân Ucraina, thậm chí nếu cần, cả với
dân Nga nữa. Cuối cùng chúng tôi đánh bạn với nhau, tôi kể cho cậu ta nghe chuyện
đã làm quen với Bohus ra sao, rồi về những ấn tượng, những cảm giác ban đầu, những
suy nghĩ của tôi trong ngày đầu tiên, những điều được cậu ta cho là thú vị đến
mức cậu đã dịch lại cho Pjetchka nghe làm anh cứ cười tôi mãi; cũng tương tự, về
nỗi sợ hãi của tôi liên quan đến bệnh nhân người Hung, và câu trả lời của
Pjetchka, theo đó thì điều ấy đã có thể diễn ra từ nhiều ngày trước đó, cái chết
của ông ta chỉ ngẫu nhiên rơi vào thời điểm ấy. Tôi còn kể về cả những điều
khác, mỗi tội hơi khó chịu vì nói câu nào cậu ta cũng bắt đầu bằng: “ten
mátyár”, [cách phát âm sai tiếng Hung, đúng ra
phải là “te magyar”] nghĩa là “cậu người Hung này”, và sau đó mới
chuyển qua nói điều này điều nọ, thế nhưng cũng may là hình như Pjetchka không
để ý tới cách nói của cậu, tôi thấy thế. Tôi còn nhận ra, mặc dù không nghĩ ngợi
gì và cũng chẳng kết luận gì về chuyện đó, rằng thường khá lộ liễu, cậu ta hay
có việc gì đó kéo dài khá lâu ở bên ngoài, và chỉ đến một lần khi cậu ta quay về
phòng cùng với bánh mì và thịt hộp, dễ thấy đó là những thứ đồ nhận được từ
Bohus, thì tôi mới ngạc nhiên, mà tôi đành phải công nhận là vô cớ, dù có nói
gì đi nữa. Cậu ta bảo cậu cũng vô tình gặp Bohus trong buồng tắm, giống như
tôi. Ông cũng hỏi han cậu, như đã hỏi tôi, và những chuyện khác đã diễn ra đúng
như đã xảy ra với tôi. Nhưng có một điều khác biệt là cậu ta nói chuyện được với
ông, hóa ra họ là đồng bào, Bohus rất vui vì thế, và điều này xét cho cùng là lẽ
đương nhiên, cậu ta nghĩ, và tôi cũng phải thừa nhận rằng đúng là như vậy. Tất
cả chuyện này - nếu xem xét một cách tỉnh táo - tôi thấy hoàn toàn rất dễ hiểu,
rõ ràng và hợp lý; tôi cũng đồng quan điểm theo cách mà rõ ràng cậu ta đã làm,
ít nhất là như nó được thể hiện qua câu kết luận ngắn gọn của cậu ta: “Đừng giận
vì tớ đã chiếm mất người của cậu”. Thế nghĩa là từ nay cậu ta sẽ nhận được phần
đáng lẽ là của tôi, và từ nay tôi có thể nhìn cậu ta đánh chén như trước nay cậu
ta vẫn nhìn tôi. Tôi còn ngạc nhiên hơn, khi một phút sau đó cánh cửa mở ra và
Bohus vội vàng bước vào, hơn nữa đi thẳng tới chỗ tôi. Từ đó trở đi ông đến
thăm cả hai chúng tôi. Lúc thì đem riêng cho mỗi đứa một suất, lúc thì mang
chung cho cả hai, tùy thuộc ông có bao nhiêu, tôi nghĩ vậy, nhưng trong trường
hợp sau không khi nào ông quên đưa tay ra hiệu cho chúng tôi phải chia nhau hữu
hảo. Lúc nào ông cũng cứ vội vàng, không mất thời gian trò chuyện, mặt ông lúc
nào cũng ra chiều bận rộn, có lúc lo lắng, thậm chí có lúc như khó chịu hay gần
như giận dữ, như người có nỗi lo giờ đây đã nhân đôi, nghĩa vụ đặt lên đôi vai
đã gấp đôi, nhưng như người không thể làm gì khác hơn là chịu đựng điều đã đè
lên cổ; và tôi chỉ có thể nghĩ rằng điều này như thế là bởi có vẻ như ông đã
tìm thấy niềm vui ở đó; với một ý nghĩa nhất định, ông cần điều này, đây là
cách thức xoay xở với mọi thứ của ông, nếu tôi có thể nói vậy; vì dù có tìm kiếm,
có lật đi lật lại, suy ngẫm cách nào đi nữa, tôi cũng không có cách lý giải nào
khác, nhất là khi nghĩ đến cái giá phải trả cũng như nhu cầu cao đối với những thứ của
hiếm như thế này. Khi đó tôi nghĩ mình đã bắt đầu hiểu những con người này, ít
nhất là về đại thể. Với toàn bộ kinh nghiệm của tôi, thâu tóm toàn bộ các mắt
xích, đúng, không nghi ngờ gì nữa, tôi biết rõ nó, dù là ở dưới một hình thái
khác: xét cho cùng đây cũng chỉ là một phương thức, là sự bướng bỉnh, cho dù
tôi phải thừa nhận là một phương thức tinh vi, cho tới nay là hình thái hữu hiệu
nhất của sự bướng bỉnh, theo hiểu biết của tôi, không cần bàn cãi.
Tôi
có thể nói rằng, với thời gian người ta quen được cả với những điều kỳ lạ. Dần
dần tôi đã đi bộ tới phòng điều trị, nếu buổi sáng bác sĩ ngẫu nhiên yêu cầu
như vậy, chỉ chân đất, chăn dạ quấn ngoài áo sơ mi, và trong không khí giá lạnh
của buổi sớm tôi còn phát hiện ra thoang thoảng một thứ mùi quen thuộc: chắc hẳn
là hương vị rạo rực của mùa xuân đang đến gần, nếu tôi lưu ý đến sự chuyển dịch
của thời gian. Trên đường trở về thoáng đập vào mắt tôi cảnh bên kia hàng rào
dây thép gai, từ một dãy nhà màu xám có hai người mặc áo tù đang kéo một chiếc
xe moóc lớn, bánh cao su to, loại có thể lắp sau xe tải, từ đống hàng chất đầy
trên xe tôi thấy thò ra mấy cái chân tay người vàng vọt, những bộ phận cơ thể
quắt queo, đóng băng cứng: tôi kéo cái chăn quấn quanh người lại, sợ mình bị lạnh
và tập tễnh quay nhanh về căn phòng ấm áp của mình, rửa qua đôi chân cho phải
phép, rồi chui vội vào giường trùm kín chăn lại. Ở đây sau đó tôi có thể trò
chuyện với người bên cạnh, cho tới khi anh ta còn ở đó (vì sau một lát anh ta
đã đi, “nach House” và một người đàn ông Ba Lan đứng tuổi hơn thế vào
chỗ anh ta), tôi nhìn quanh những gì có thể nhìn, tôi nghe từ cái thùng loa các
mệnh lệnh truyền đến, và có thể nói: chỉ chừng đó, cộng thêm một chút tưởng tượng,
từ đây, từ trên giường tôi có thể có cái nhìn toàn cục, có thể theo sát, bằng
cách mường tượng ra tất cả mọi sắc độ, mùi vị, nhất cử nhất động, mọi tình tiết,
sự kiện lớn nhỏ của một khu trại, từ sáng sớm đến lúc đi ngủ, thậm chí có khi
còn sau đó nữa. Cứ thế, “Friseure zum Bad, Friseure zum Bad” vang lên
nhiều lần hằng ngày, với tần suất ngày càng dày đặc hơn, rõ ràng có một chuyến
hàng mới đến. Thêm vào đó là bao lần “Leichenkommando zum Tor”, [tiếng
Đức: “Đội nhặt xác ra cổng!”], nghĩa là “Đội nhặt xác ra cổng”, và nếu như họ còn yêu cầu bổ sung, thì từ đó
tôi cũng có thể suy ra thực tế, chất lượng của chuyến hàng. Tôi cũng biết ra rằng
những lúc như thế “Effektten”, nghĩa
là các nhân viên coi kho cũng vội vàng tới kho quần áo, hơn nữa thỉnh thoảng phải “im
Laufschritt”, nghĩa là vừa đi vừa
chạy. Còn ví dụ nếu họ yêu cầu zvei, [tiếng Đức:
“hai”] hay vier [tiếng Đức: “bốn”] Leichenträger như “mit
eniem” [“Mit eniem” (tiếng Đức): “Với một”] hoặc “zvei
Tragbetten sofort zum Tor!”, [Zvei Tragbetten sofort zum Tor! (tiếng
Đức, đúng ra phải là: Zwei Trabaghre zum Tor!): Mang ngay hai cái cáng ra cổng] thì bạn có thể chắc
chắn rằng lần này đã xảy ra tai nạn ở đâu đó, ở chỗ làm việc, nơi hỏi cung,
trong hầm, trên trần nhà, ai mà biết ở đâu nữa. Tôi còn được biết “Kartoffelschäler,” nghĩa
là đội gọt khoai tây không chỉ có nhóm ban ngày, mà có cả “Nachtschicht” [tiếng
Đức): “ca đêm”] và nhiều điều khác nữa. Nhưng tất cả một buổi chiều, bao giờ cũng
đúng vào giờ ấy, lần nào cũng vang lên một thông điệp bí ẩn: “Ela zwo, Ela
zwo, aufmarschieren lassen!” - và lúc đầu tôi phải vắt óc suy nghĩ. Hóa ra
thực chất nó đơn giản, nhưng phải mất một thời gian, cho đến khi từ sự yên tĩnh
trang nghiêm của ngôi nhà thờ cực kì lớn sau đó, giữa những khẩu lệnh: “Mützen
ab!”, “Mützen auf!” [tiếng
Đức: “Bỏ mũ xuống!” “Đội mũ lên!”] đôi khi vẳng đến tiếng nhạc mỏng manh, lóc
tóc, mà tôi đoán ra được rằng: ngoài kia cả trại đang điểm danh, “aufmarschieren lassen” nghĩa là xếp hàng, “zwo” là zwei “ela” rõ ràng là các
chữ cái L và ä, nghĩa là Lagerältester, và theo đó thì ở Buchenwald phải
có hai Lagerältester, thứ nhất và thứ hai, hay nói theo cách khác, là hai
trại lớn, cùng hoạt động; và nếu tôi suy nghĩ, thì về cơ bản điều này cũng
không có gì lạ ở một khu trại đã đạt đến con số chín mươi ngàn từ lâu, như tôi
được biết. Dần dà phòng chúng tôi cũng trở nên yên tĩnh, Zbisek cũng đã về, nếu
như đến lượt tiếp nhận khách của anh ta, và Pjetchka còn nhìn quanh lần cuối
cùng, trước khi tắt điện với câu chào “dobra noc” quen thuộc. Lúc đó
tôi tìm đến sự thoải mái nhất mà chiếc giường có thể mang lại và những vết thương
của chúng tôi cũng cho phép, kéo chăn trùm kín tai, đi vào giấc ngủ vô tư:
không, tôi không thể mong muốn gì hơn thế này, tôi công nhận tôi không thể làm
được gì hơn thế này trong một trại tập trung.
Chỉ
còn hai việc làm tôi hơi lo. Một đằng là hai vết thương của tôi: không ai có thể
phủ nhận, chúng nằm đó, xung quanh hãy còn viêm tấy, thịt còn chưa hoại, nhưng ở
rìa ngoài giờ đã có những lớp màng mỏng, đôi chỗ đóng vẩy, bác sĩ đã không còn
bôi kín thuốc mỡ quanh vòng nữa, cũng
ít khi gọi tôi lên điều trị, và nếu có thì cũng làm xong nhanh gọn đến đáng ngại,
và những lúc như thế gương mặt ông ta cũng có vẻ hài lòng đến đáng ngại. Đằng
khác về cơ bản là mọi việc đáng mừng, không nghi ngờ gì nữa, tôi không thể phủ
nhận. Nếu ví dụ Pjetchka và Zbisek, với vẻ mặt đang nhìn xa xăm, bỗng nhiên ngừng
trò chuyện và giơ ngón tay yêu cầu chúng tôi cùng yên lặng, thì tôi cũng nghe
thấy những tiếng động trầm, có khi đứt đoạn, giống như tiếng chó sủa từ xa xa.
Phía bên kia, sau bức
tường ngăn mà tôi đoán chừng là phòng của Bohus, độ này rất nhộn nhịp, có thể nghe
thấy tiếng trò chuyện vọng sang, kéo dài khá lâu sau giờ tắt đèn. Tiếng còi báo
động vang lên nhiều lần trong ngày nay đã trở thành chuyện bình thường, và nếu
ban đêm tôi phải thức giấc theo lệnh của chiếc loa thùng: “Krematórium,
ausmachen!” thì một phút sau, nhưng lần này đã rít lên gay gắt
hơn: “Khematohium! Sofoht ausmachn!” từ đó tôi hiểu ra rằng
người ta không muốn ánh lửa vô tình thu hút máy bay ập đến trên đầu. Tôi không
biết những tay thợ cạo ngủ nghê vào lúc nào, vì tôi nghe nói rằng bây giờ có
khi những người mới đến phải chân đất đứng chờ hai, ba ngày trước cửa nhà tắm mới
đến lượt, và cả Leichenkommando, nghe nói, cũng làm việc liên tục
quay vòng. Phòng chúng tôi không khi nào còn giường trống, ngoài những vết lở
loét, vết mổ thông thường, một hôm lần đầu tiên tôi nghe một anh người Hung nằm
ở giường phía bên kia nói đến cả vết thương vì đạn. Anh ta bị thương trong một
chuyến đi bộ dài ngày, nếu tôi nghe không nhầm, từ một trại có tên là “Ohrdruf”
(qua lời kể của anh tôi nghĩ nó cũng rộng lớn như một trại ở Zeitz), trong lúc
họ vòng tránh địch, quân Mỹ, thực ra là do người ta bắn một người đi bên cạnh mệt
quá ngã nhào khỏi hàng người, còn anh ta ăn đạn vào chân. Cũng may là không bị
vào xương, anh ta nói thêm, còn tôi thì nghĩ chuyện đó e là không thể xảy ra đối
với tôi. Cái chân tôi, dù ăn đạn vào bất cứ chỗ nào, chắc chắn chỉ có thể chạm
vào xương, khỏi phải bàn cãi. Chẳng bao lâu tôi biết ra anh ra mới vào trại tập
trung từ mùa thu, số tù là trên tám mươi mốt ngàn, không lấy gì làm sang cho lắm,
ngay ở đây, trong phòng của chúng tôi. Nói tóm lại: gần đây, tôi nhận được những
tín hiệu, động tĩnh của sự thay đổi đang lại gần, của những sự bất tiện, lúng
túng, xáo trộn, lo âu, phiền toái từ mọi phía. Lúc thì Pjetchka lần lượt đến hết
các giường, tay cầm một tờ giấy, và hỏi tất cả mọi người, cả tôi nữa: có đi lại
được không, “laufen” [tiếng Đức): đi
lại, chạy]. Tôi bảo anh ta: nye, nye, tôi không, ich
kann nicht. [tiếng Ba Lan: không; ich kann
nicht! (tiếng Đức): tôi không thể]. “Tag, Tag”, anh
ta đáp, “du kannst”, [“Tag, tag, du kannst” (tiếng
Đức): “Này, này, cậu có thể”] rồi anh ta ghi tên tôi, cũng như
ghi tên tất cả những người khác trong phòng, cả tên của Kuharski, người có tới
hàng ngàn vết rạch song song giống những cái miệng hé mở mà có lần tôi trông thấy
khi ở phòng điều trị, nên cả hai khúc chân sưng vù. Vào một buổi tối khác, khi
vừa trệu trạo nhai xong miếng bánh mì, tôi nghe radio gọi: “Alle Juden
in Lager” - tất cả người Do Thái trong trại - “sofort” -
ngay lập tức - “antreten!” - ra xếp hàng, nhưng giọng nói đe dọa
đến mức tôi ngồi bật dậy trên giường. “Tso to robbis?”. [“Tso to robbis?” (phiên âm tiếng Ba Lan): “Làm cái gì thế?”]. Pjetchka
tò mò hỏi. Tôi chỉ cho anh ta cái loa, nhưng anh chỉ cười, kiểu thường thấy ở
anh, rồi phẩy tay ra hiệu: cứ nằm xuống, thong thả, làm sao phải hồi hộp, vội
vàng thế. Nhưng cái loa cứ kêu, cứ rền rĩ suốt buổi tối: “Lagerschutz”,
[tiếng Đức: “bảo vệ trại”] nó
nói, nghĩa là nó gọi những nhân vật tai mắt có dùi cui của đội quản trại đi làm
việc, và có lẽ ngay cả với họ nó cũng không thể hài lòng hoàn toàn, có vẻ như
thế, vì ngay sau đó - tôi gần như không thể nghe mà không rùng mình - vì nó gọi
đích danh Lagerältester và Kapo của
Lagerschutz: tức hai nhân vật to nhất có thể nghĩ tới trong số các nhân vật có
chức trách ở tất cả các trại phải ra ngay cổng, “aber im Laufschritt!”.
[tiếng Đức: “Khẩn trương”]. Lúc
khác lại toàn những lời khiển trách, cật vấn: “Lagerältester!
Aufmarschieren lassen! Lagerältester! Wo sind die Juden?!”, [tiếng Đức: “Trưởng trại! Lệnh xếp hàng! Bọn Do Thái đâu?”], cái
loa căn vặn, gọi, ra lệnh rè rè, loẹt xoẹt mãi, đến nỗi Pjetchka chỉ bực tức phẩy
tay, hay đáp lại: “Kurvá jego maty!”. [phiên
âm tiếng Ba Lan: “Con mẹ mày!”]. Vậy là tôi tin anh ta, anh ta
hẳn phải biết chứ, và tôi yên tâm tiếp tục nằm xuống. Nhưng nếu tối hôm trước
còn có chuyện thích hay không thích, thì ngày hôm sau không hề có ngoại lệ: “Lagerältester!
Das ganze Lager: antreten!”, [tiếng Đức:
“Toàn trại, xếp hàng!”] rồi một lát sau rồ lên tiếng mô tô, tiếng
chó sủa, tiếng súng nổ, tiếng gậy khua, tiếng chân chạy rầm rập và theo sau là
tiếng ủng nặng nề hơn, chứng tỏ rằng nếu đã đến tình thế này, và một số kẻ
thích như vậy hơn, thì đám lính cũng hoàn toàn có khả năng kiểm soát mọi việc
trong tay, và trong lúc này hậu quả của việc bất tuân lệnh là thế nào còn chưa
ai biết, thì tất cả bỗng nhiên lạnh ngắt. Sau đó không lâu bỗng thấy ông bác sĩ
bất chợt ào vào phòng, vì việc thăm bệnh đã diễn ra từ sáng theo thông lệ, cứ
như ở ngoài kia không có chuyện gì. Nhưng lúc này nom ông không có vẻ lạnh
lùng, không tề chỉnh như mọi khi: vẻ mặt ông nhàu nhĩ, trên chiếc áo khoác
choàng không được sạch sẽ cho lắm là những vết nâu ố, đôi mắt vằn tia máu đỏ của
ông nặng nề nhìn quanh: có thể thấy ông muốn tìm giường trống, không nghi ngờ
gì nữa. “Wo is der...”, ông nói với Pjetchka, “der,
mit dieser kleinen Wunde hier?!”. [tiếng Đức:
“Nó đâu, cái thằng bị thương sơ sơ ấy đâu rồi?!”]. Ông làm một
động tác dứt khoát kéo từ đùi lên hông, ánh mắt dò xét nhìn khắp lượt trên từng
khuôn mặt, và trong một tích tắc bắt gặp ánh mắt của tôi; tôi chắc chắn ông phải
nhận ra tôi, dù ông quay ngay đi và lại nhìm chằm chằm vào Pjetchka, chờ đợi, hối
thúc, đòi hỏi, bắt buộc anh ta đưa ra câu trả lời. Tôi không nói gì, nhưng đã định
bụng chuẩn bị dậy, mặc quần áo, và đi ra, tới một chỗ nào đó giữa hỗn độn ngoài
kia. Nhưng đúng lúc đó, tôi bất ngờ nhận thấy rằng, Pjetchka, biểu lộ cả qua
nét mặt, hoàn toàn không có một ý niệm gì về chuyện ông bác sĩ có thể nghĩ đến
ai, sau một lúc bối rối bỗng như người chợt bừng tỉnh, như người cuối cùng chợt
nhận ra, với một tiếng “A...h”, và với một cái khoát tay, anh ta chỉ vào cậu bé
bị đạn bắn vào chân. Ông bác sĩ nhất trí với ý này ngay, như người chợt ngộ ra,
như người vừa được người khác đoán ra, và giải quyết mối lo cho mình, đúng vậy. “Der
geht sofort nach Hause!”, [tiếng Đức: “Nó về
nhà ngay tức khắc!”], ông lập tức ra lệnh. Và khi đó xảy ra một việc
rất đặc biệt, bất thường, có thể nói là bất nhã, chưa hề thấy bất kì ví dụ nào
tương tự như thế trong phòng chúng tôi, và tôi không thể nhìn chuyện này mà
không thấy có đôi chút khó chịu và hổ thẹn. Số là cậu bé có vết thương do đạn bắn,
sau khi dậy ra khỏi giường, ban đầu chỉ chắp hai tay trước ông bác sĩ như chuẩn
bị cầu nguyện, sau đó cậu tiến thẳng đến chỗ ông bác sĩ đang bất ngờ lùi dần,
chưa hiểu sự việc trong khoảnh khắc ấy là thế nào, cậu ta quỳ xuống đưa hai tay
về phía trước ôm lấy chân ông bác sĩ. Sau đó tôi chỉ còn nhận thấy tay ông bác
sĩ vút một cái, một cái tát bốp vang lên; tôi chỉ hiểu được sự tức giận của ông,
chứ không hiểu những lời ông nói, trước khi thấy ông dùng đầu gối gạt chướng ngại
kia sang một bên, giận dữ lao ra khỏi phòng với vẻ mặt đỏ gay gắt hơn hẳn mọi
khi. Một bệnh nhân mới được đưa đến cái giường vừa trống, lại là một đứa con
trai - cái chân quấn băng cứng nom cụt ngủn đã quen với con mắt tôi chứng tỏ cậu
đã rụng hết các ngón chân, tôi nói nhỏ chỉ đủ nghe: “Dzinquie, Pjetchka”. Nhưng
anh ta hỏi: “Was...?”. Tôi bảo: “Aber früher, vorher...”, [tiếng Đức): “Vì việc vừa qua, lúc nãy...”], nghĩa
là “vì việc vừa qua, lúc nãy...”, nhưng nhìn gương mặt ngơ ngác, hoàn toàn
không hiểu gì, chứng kiến cái lắc đầu kinh ngạc khó hiểu của anh tôi nhận ra rằng,
lần này có thể là chính tôi đã làm một việc khiếm nhã, và như vậy là có những
việc ta nhất định phải tự mình giải quyết với bản thân, có vẻ như thế. Nhưng
ban đầu, tất cả đều diễn ra đúng trình tự với lẽ công bằng (ít ra đó là ý kiến
của tôi), vì sau hết thì tôi đã ở lâu hơn trong phòng, và cậu ta khỏe hơn tôi,
nên không nghi ngờ gì nữa (theo ý tôi) là ở ngoài kia cậu ta có nhiều cơ hội
hơn; và xét cho cùng chủ yếu là hình như tôi có khả năng dễ dàng chấp nhận sự rủi
ro của người khác hơn là bản thân mình: tôi đã buộc phải rút ra kết luận như thế,
dù xem xét, cân nhắc, lật đi lật lại vấn đề đến thế nào. Nhưng điều chủ yếu nhất:
một mối lo như thế có ý nghĩa gì khi súng đang nổ, vì hai hôm sau cửa sổ phòng
chúng tôi rung lên, và một viên đạn lạc đã cắm phập vào bức tường đối diện.
Cũng ngày hôm ấy còn diễn ra một sự kiện khác, trong quá trình đó có mấy người
trông có vẻ đáng ngờ liên tục đến chỗ Pjetchka chỉ để nói một vài lời, và anh
ta cứ biến đi suốt, có lúc khá lâu, đến chiều tối quay về phòng ôm theo một cái
gói dài, một cuộn gì đó. Tôi tưởng đó là tấm ga trải giường, nhưng không phải,
vì nó có cán, vậy nghĩa là một lá cờ trắng, đoạn giữa tấm vải quấn chặt lộ ra
hai đầu, mà
cho đến lúc đó tôi chưa bao giờ thấy trong tay một tù phạm, một thứ khiến cả
phòng trông thấy đều phải nhỏm dậy, xuýt xoa, ồ lên. Trước khi đút nó xuống gầm
giường, Pjetchka còn giơ cho tất cả chúng tôi xem một lát, nhưng với một nụ cười
rộng hết cỡ, và cử chỉ ôm khư khư sát vào ngực, đến nỗi cả tôi cũng có cảm giác
như sắp trở thành chủ nhân của một món quà quý giá đã chờ đợi từ lâu dưới cây
thông Noel. Đó là một khúc gỗ màu nâu gắn vào một ống thép xanh bóng, một đoạn
nòng cắt từ súng máy, giống như ngày trước có lần tôi đã đọc trong những cuốn
tiểu thuyết yêu thích về bọn kẻ cướp và các thám tử.
Hôm
sau cũng hứa hẹn một ngày nhiều việc, nhưng ai có thể nhớ hết mỗi ngày ở đây,
và mọi sự kiện của tất cả các ngày. Dù sao tôi cũng có thể nói: bếp ăn đã hoạt
động theo đúng quy định, và ông bác sĩ cũng đa phần chính xác. Rồi vào một buổi
sáng, sau cà phê sáng một lúc, trên hành lang nghe thấy những bước chân vội
vàng, một tiếng thét vang, thấy thế Pjetchka vội lôi cái gói ra khỏi chỗ giấu,
cặp dưới nách và biến mất. Một lúc sau, khoảng chín giờ, lần đầu tiên tôi nghe
cái loa thùng ra lệnh cho bọn lính chứ không phải cho các tù phạm: “An
alle SS-Angehöringen”, [tiếng
Đức: “Tất cả các nhân viên SS”] và hai lần liền: “Das Lager sofort
zu verlassen”, [tiếng Đức:
“Rời trại ngay lập tức!”] yêu cầu các lực lượng khẩn cấp rời khỏi trại.
Sau đó tôi nghe thấy tiếng súng bắn nhau lúc gần lúc xa, có lúc gần như đinh
tai nhức óc ngay quanh tôi, rồi nhỏ dần, nhỏ dần, cuối cùng là im lặng, im lặng
quá mức, tôi chờ đợi, lắng tai nghe, dò xét và dõi tìm tiếng khua xủng xoảng,
tiếng ầm ĩ thường kéo theo khi những người mang xúp đến, cả vào giờ thường lệ,
cả sau đó, và tôi không sao hiểu nổi, dù giờ chia xúp đã qua từ lâu, nhưng vô vọng.
Có lẽ khoảng bốn giờ chiều, khi cái hộp loa lại bật, sau một lúc loẹt xoẹt, lạo
xạo nó thông báo với tất cả chúng tôi đây là Lagerältester, Lagerältester đang
nói. “Kameraden”, ông ta nói, có thể
nghe thấy một điều gì đó, có thể thấy ông ta vừa phải vật lộn với một cảm xúc
làm nghẹt thở, giọng ông lúc như nấc nghẹn, lúc lại cao vút, gần như rít
lên, “wir sind frei!” [“Kameraden, wir sind frei!” (tiếng Đức):
“Các bạn, chúng ta tự do!”] - chúng ta đã tự do, và tôi nghĩ như thế
cũng có nghĩa là ông Lagerältester cũng có thể cùng chia sẻ quan điểm với
Pjetchka, với ông bác sĩ và những người có cách nhìn nhận giống họ, cùng một
giuộc, có vẻ như thế, vậy nên ông ta mới đứng ra thông báo sự kiện này, với niềm
vui rõ rệt như thế. Sau đó ông nói một bài ngắn gọn, rất hay, sau ông ta là những
người khác, bằng đủ các thứ tiếng: “Attention, attention!” bằng
tiếng Pháp; “Pozór, Pozór!” bằng tiếng Séc, như tôi biết; “Vnhimanhie,
vnhimanhie, ruxkie tavarischi vnhimanhie!” [phiên âm tiếng
Nga: “Chú ý, chú ý, các đồng chí Nga chú ý!”] - và âm thanh trầm bổng
như tiếng hát đó làm tôi nhớ đến một kỷ niệm
dễ thương, một thứ ngôn ngữ mà khi tôi đến đây những người trong nhà tắm đã nói
quanh tôi: “Uvaga, uvaga!”, [phiên âm tiếng Ba Lan: “Chú ý! Chú
ý!”]; nghe thấy thế người bệnh Ba Lan nằm bên cạnh tôi vội nhỏm dậy, và nói
với tất cả chúng tôi: “Chiha bendzs! Terás polski kommunhiki!”, [phiên âm tiếng Ba Lan: “Chắc ngươi phải có mặt! Cuộc hành
quân Ba Lan!”] - và bấy giờ tôi mới nhớ ra cậu ta đã hồi hộp, đã loay hoay, bứt
rứt chân tay suốt cả ngày hôm nay. Sau đó, khiến tôi vô cùng bất ngờ, đột
nhiên: “Chú ý, chú ý! Đây là Ủy ban Hungary của trại...” - thật kinh ngạc, tôi thoáng nghĩ, thế mà mình
không hề hay biết đến một thứ như thế. Dù lắng nghe mấy cũng vô ích, cả từ anh
ta cũng như những người trước đó, tôi chỉ có thể nghe nói về tự do, không một lời
ám chỉ hoặc nhắc đến món xúp chưa chia. Tôi cực kỳ hân hoan, tất nhiên, vì tự
do của chúng tôi, nhưng tôi chẳng biết làm thế nào, khi mặt khác tôi buộc phải
nghĩ rằng ngày hôm qua, ví dụ thế, một việc như thế này chưa thể nào diễn ra.
Bên ngoài, trời tháng Tư đã tối, Pjetchka cũng đã quay về, mặt đỏ lừ trong trạng
thái phấn khích, nói chẳng nên lời, khi cuối cùng loa tường, ông Lagerältester
lại lên tiếng. Lần này thì ông nói với những thành viên Kartoffelschälerkommando,
yêu cầu họ hãy vui lòng về lại vị trí cũ trong nhà bếp, và đề nghị tất cả những
người trong trại hãy ở lại, dù có phải chờ đến tận nửa đêm, vì người ta đang nấu
món xúp goulash [tiếng Hung là gulyás: món xúp thịt bò
nấu với khoai tây] đặc cho chúng tôi: đến lúc ấy tôi mới yên tâm
ngả đầu xuống gối, lúc ấy một điều gì đó mới từ từ nhẹ bỗng trong tôi, và chỉ
khi đó tôi mới, có thể là lần đầu tiên, thực sự nghĩ đến tự do.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét