Không số phận
(Nguyên tác: Sorstalanság)
Tác giả: Kertész Imre
Dịch giả: Giáp Văn Chung
Nhà xuất bản Lao Động - 08/2010
6
Chỉ ở Zeitz tôi mới nhận
ra rằng ở tù cũng có những ngày bình thường, thậm chí cuộc sống tù đày thực chất
là những ngày thường ảm đạm. Như tôi đã ở trong một tình huống na ná như thế
này, một lần trên tàu hỏa, trên đường đến Auschwitz. Ở đó tất cả tùy thuộc vào
thời gian và khả năng của mỗi người. Chỉ có điều ở Zeitz - cứ dừng lại ở ví dụ
của bản thân tôi - tôi cảm thấy: con tàu đã dừng lại. Nhưng mặt khác - và điều
này cũng đúng - bao nhiêu thay đổi đã diễn ra trước mắt tôi, xung quanh tôi và
trong bản thân tôi, chúng vụt qua với tốc độ cao đến mức tôi cũng không theo kịp
nổi. Nhưng ít nhất, tôi có thể nói thêm điều này nữa: về phần mình, tôi đã đi
toàn bộ chặng đường, mọi cơ may có thể xuất hiện trên con đường này, tôi đã thử
hết mình. Bất luận thế nào, khi bắt tay vào một việc mới, dù ở đâu chăng nữa,
thậm chí trong trại tập trung, trước hết phải làm với ý đồ tốt - ít nhất là tôi
thấy như thế: trước mắt tôi cần trở thành tôi cần trở thành một tù nhân tốt, rồi
trong tương lai điều gì đến sẽ đến - đại khái quan niệm của tôi là thế, tôi
hình thành cách sống dựa vào đó, như nhìn chung tôi cũng thấy ở những người
khác. Chẳng bao lâu sau, thật dễ hiểu, tôi nhận ra rằng những ý kiến tích cực về
Arbeitslager mà tôi được nghe thấy khi ở Auschwitz chắc chắn ít nhiều dựa trên
những thông tin phóng đại. Nhưng về tất cả mức độ của sự phóng đại, và chủ yếu
về những suy diễn sinh ra từ đó thì tôi không - không thể lập tức xác định
chính xác - cho bản thân mình, và tôi nhận thấy điều này cũng vậy ở những người
khác, tôi dám khẳng định là như vậy ở toàn bộ gần hai ngàn tù phạm khác của trại
này, tất nhiên trừ những người đã tự tử. Trường hợp của họ là cá biệt, và không
thể nào có quy luật, không thể lấy đó làm chuẩn mực - mọi người đều công nhận.
Tin tức về một vài vụ kiểu đó thỉnh thoảng cũng đến tai tôi, tôi nghe người ta
tranh luận, bàn tán, một số người công khai phản đối, số khác tỏ ra thông cảm
hơn, những người quen biết thì thương tiếc - nhưng nhìn chung mọi người đều
luôn luôn cố gắng coi đó là hành động hiếm hoi, xa lạ đối với chúng tôi, hơi
khó giải thích, có chút gì nhẹ dạ và có lẽ cũng đáng trọng, nhưng hấp tấp.
Cái chính là chúng ta đừng
buông thả bản thân mình: mọi việc dẫu thế nào thì rồi đâu sẽ có đó, vì chưa bao
giờ có chuyện mọi việc sẽ không trở nên ổn thỏa, Citrom Bandi giảng giải cho tôi, còn về cá nhân anh thì chính trại
lao động đã dạy cho bài học khôn ngoan đó. Việc đầu tiên và quan trọng nhất
trong mọi hoàn cảnh là phải tắm rửa (hàng chậu đặt song song với những ống thép
đục lỗ ngoài trời, ở phía gần con đường chính của trại). Một vấn đề cốt yếu nữa
- dù có, dù không - là phải chia tiết kiệm khẩu phần ăn. Bánh mì, dẫu nguyên tắc
này đối với bản thân chúng tôi là khắc nghiệt đến mức nào, thì vẫn cần phải
dành một phần cho bữa cà phê sáng, thậm chí phải giữ một mẩu đến bữa trưa - bất
chấp sự thèm thuồng, và chủ yếu phải giữ bàn tay chỉ chực thò vào túi - chỉ có
thế chúng tôi mới tránh được chẳng hạn như ý nghĩ khổ sở là mình không có gì để
ăn nữa. Cái thứ trong tủ áo quần mà cho tới nay tôi vẫn xem là khăn mùi soa
chính là mảnh lót chân; còn khi điểm danh bao giờ cũng đứng ở giữa hàng là chắc
chắn; khi chia xúp thì không nên đứng trước, mà tốt hơn nên cố gắng đứng về
phía sau, lúc đó gần như chắc chắn là người ta sẽ chia xúp đặc hơn từ đáy nồi;
phải lấy búa rèn cho một cạnh chuôi thìa ăn thành dụng cụ có thể dùng như lưỡi
dao: tất cả những điều đó và nhiều thứ khác nữa, toàn những kiến thức cần thiết
cho cuộc sống tù đày, tôi đều học được từ Citrom Bandi, tôi nhìn anh làm và cố
gắng làm theo.
Tôi chưa bao giờ nghĩ, dù
đó là một thực tế: không ở đâu một nguyên tắc nhất định của lối sống, một sự mẫu
mực nhất định, có thể nói là đức hạnh, lại quan trọng như trong tù, có thể thấy
như vậy. Chúng tôi chỉ cần nhìn quanh Block 1, nơi ở của những tù phạm cũ, là đủ
thấy. Ngôi sao vàng trên ngực họ cho ta thấy mọi thông tin chủ yếu, trong đó chữ
“L” còn tiết lộ thêm họ từ Latvia xa xôi đến, chính xác hơn là từ thành phố
Riga, tôi được biết. Trong số họ có những người kỳ quặc thoạt tiên hơi làm tôi
sửng sốt. Nhìn từ xa họ đều là những người già lão, đầu rụt xuống tận cổ, mũi
khoằm dài trên mặt, đôi vai nhô cao trong chiếc áo tù bẩn thỉu, thậm chí giữa
ngày hè nóng nực họ cũng làm ta nhớ đến những chú quạ khoang rét mướt mùa đông.
Cứ như chỉ bằng mỗi bước đi nặng nhọc của mình họ muốn hỏi: sự gắng sức như thế
liệu có còn đáng hay không? Những dấu hỏi di động ấy - vì vẻ bề ngoài, và có lẽ
vì cả vóc dáng đó của họ mà tôi không thể miêu tả họ khác hơn thế - sau này
chúng tôi được biết trong trại tập trung dưới cái tên là “Hồi giáo”. Citrom
Bandi cảnh báo tôi liền: “Chỉ cần nhìn họ thôi là cậu đã hết muốn sống rồi”, anh nghĩ vậy, và cũng có
phần nào sự thật trong câu nói này, dù với thời gian, về sau tôi nhận ra: còn cần
nhiều thứ khác nữa để người ta chán sống.
Chẳng hạn, phương châm đầu tiên là cố chấp:
nó có thể có nhiều hình thái khác nhau, nhưng tôi có thể nói rằng ở Zeitz cái
này cũng không thiếu, và đôi khi nó có thể trở thành sự trợ giúp to lớn cho
chúng tôi, tôi nhận thấy thế. Ví dụ, tôi đã khám phá thêm qua Citrom Bandi, về
cái đám người, về cái tổ chức, hay về nòi giống kỳ quặc hoặc tôi cũng không biết
gọi là gì - một phiên bản của nó đang đứng phía bên trái tôi đây - mà ngay từ
khi mới đến đã làm tôi hơi kinh ngạc. Tôi nghe anh bảo chúng ta gọi họ là “bọn
Phần Lan”. Đúng như vậy, nếu bạn hỏi họ từ đâu đến, họ sẽ trả lời - nếu họ cho
rằng bạn đáng được trả lời - rằng từ “Minkács Phần Lan” chẳng hạn, và phải hiểu
đó là “Munkács”; [Munkács: tiếng Nga là Mukachevo, một thành phố nhỏ nằm trong vùng
Cacpat, trước năm 1918 thuộc Đế chế Áo-Hung, từ năm 1938-1944 thuộc Tiệp Khắc
(cũ), từ 1944-1991 thuộc Liên Xô (cũ), từ năm 1991 tới nay thuộc Ucraina];
hay “Sadarada Phần Lan” chẳng hạn, thì phải đoán ra là “Sátoraljaújhely” [Sátoraljaújhely:
thành phố nhỏ phía Đông Bắc Hungary, sát biên giới Slovákia]. Citrom
Bandi biết tới hội của họ từ khi còn ở trại lao động, và anh không đánh giá cao
cái hội này. Đâu đâu cũng có thể bắt gặp họ, ở nơi làm việc, trong dòng người
đi lại hay trong hàng người khi điểm danh, họ cứ vừa gật gù vừa lẩm bẩm bài
kinh cầu của họ không ngừng nghỉ như một món nợ không bao giờ trả hết. Nếu như
giữa chừng họ khẽ nhếch mép để nói thầm, chẳng hạn: “Có con dao bán đấy”, đừng
có nghe họ. Càng phải cẩn thận hơn, dù có bùi tai, đặc biệt vào buổi sáng, nếu
họ mời: “Có xúp bán đấy” vì, dù kỳ quặc, nhưng họ không động đến món xúp, thỉnh
thoảng cả wurst cũng không - không có gì là được phép theo tôn giáo của họ. “Thế
họ sống bằng gì?”, bạn có thể hỏi, và Citrom Bandi sẽ đáp: “Đừng bao giờ phải
lo lắng cho họ”. Và đúng thế, như bạn thấy đấy, họ vẫn sống. Chỉ có họ với
nhau, hay với những người Latvia, họ nói tiếng Do Thái, nhưng họ còn biết tiếng
Đức, tiếng Slovákia, và ai mà biết tại sao: chỉ có tiếng Hung là không, ngoại
trừ khi buôn bán, tất nhiên. Một lần - vì không có cách nào có thể tránh được -
vận may đã đưa đẩy tôi lọt vào một nhóm trong số họ. Câu hỏi đầu tiên của họ là
“Reds di jiddis?”. Khi tôi bảo rất tiếc là không, họ liền bỏ mặc tôi, coi như
xong, họ nhìn tôi như một con số không. Tôi thử nói chuyện, thử làm cho họ chú
ý, nhưng vô ích. “Di bist nist ka jid, dbist á segec”, [“Di bist nist ka jid, dbist á segec”: “Mày
không phải là Do Thái, thằng nhóc lạc loài”] họ lắc đầu, và tôi
chỉ còn nước đứng ngây ra nhìn, những người được coi là thạo buôn bán như họ lại
khăng khăng giữ một điều vô lý đến mức ấy, điều gây tác hại cho họ nhiều hơn là
có lợi, nếu chỉ nhìn kết quả. Vào cái lúc đó, trong ngày hôm ấy, tôi còn nhận
thấy là ở giữa đám bọn họ, đôi khi tôi thấy lúng túng, ngứa ngáy khó chịu đúng
như cái cảm giác tôi đã biết từ bên nhà, như thể bản thân tôi có điều gì đó
không ổn, như thể tôi không hoàn toàn đồng thuận được với một ý tưởng tử tế,
tóm lại là theo một kiểu gì đó, cứ như cảm giác mình là người Do Thái, và điều này dù sao cũng hơi kỳ quặc, vì xét cho cùng
tôi đang ở giữa những người Do Thái, trong một trại tập trung, tôi nghĩ.
Những lúc khác thì Citrom
Bandi lại là người khiến tôi kinh ngạc. Dù là lúc đang làm việc, hay lúc giải lao
tôi thường nghe thấy anh hát, và chẳng mấy chốc tôi cũng học thuộc bài hát tủ
mà anh biết từ thời ở trại lao động cùng với “đại đội bị trừng phạt”. “Chúng tôi gỡ mìn trên đất Ucraina/ Nhưng ở đó chúng tôi cũng không trở
nên hèn nhát”, bài hát bắt đầu như thế, đặc biệt có đoạn cuối tôi rất thích: “Và nếu một đồng đội ngã xuống, một người bạn/
Chúng tôi sẽ nhắn về quê hương/ Rằng/ Dù điều gì đến với chúng tôi/ Tổ quốc
thân yêu ơi/ Chúng tôi không bội phản Người, không bao giờ, đất nước ơi”. Một bài hát hay, không
thể phủ nhận, và buồn, nhịp điệu chậm rãi hơn là dồn dập, ca từ của bài hát, dĩ
nhiên, cũng đã tác động đến tôi - tôi chợt nhớ đến gã cảnh binh trên tàu hỏa,
khi gã nhắc chúng tôi là người Hung: xét cho cùng chính họ cũng bị Tổ quốc trừng
phạt, nếu xét một cách nghiêm túc. Có lần tôi đã nói điều này với anh. Anh
không thể tìm ra lý lẽ gì để phản bác, nhưng có vẻ như anh lúng túng, có thể
nói anh bực dọc. Hôm sau không rõ vào dịp nào, anh lại huýt sáo, lại lẩm bẩm một
cách say sưa, rồi anh bắt đầu hát như không còn gì nữa. Anh sẽ còn hát, anh có
một ý nghĩ hay nhắc đi nhắc lại, đó là anh đã “đi mòn đường Nefelejcs”, [Tên
con đường nghĩa là “Đừng quên tôi”], chẳng là khi còn ở bên nhà anh sống ở phố ấy, và con phố này, kể cả số nhà
được anh nhắc tới bao lần với bao nhiêu sắc thái, đến nỗi cuối cùng tôi biết mọi
cám dỗ của nó, tôi cũng đã mong được đến đó, mặc dù theo trí nhớ của tôi đó thực
ra chỉ là một con phố nhỏ khá vắng vẻ ở đâu đó gần cửa ga Đông. Anh hay nói tới,
hay mô tả và nhắc tôi nhớ đến những nơi, những quảng trường, đường phố, những
ngôi nhà mà trên đỉnh nóc hay trong các cửa hiệu có những dòng chữ, những đoạn
quảng cáo quen thuộc được chiếu sáng, mà anh gọi là “ánh sáng Pest”, [Thành
phố Budapest gồm hai nửa, nằm hai bên bờ sông Duna; Pest là nửa lớn hơn, ở hữu
ngạn, về phía Đông], và
tôi phải cải chính, tôi buộc phải giải thích cho anh biết rằng thứ ánh sáng ấy
không còn nữa do luật cấm chiếu sáng, và rằng những trận bom đã thay đổi bộ mặt
của thành phố ở một vài nơi. Anh nghe tôi, nhưng tôi thấy anh không có vẻ gì hứng
thú với những gì tôi thông báo. Ngày hôm sau, hễ có dịp là anh lại bắt đầu nói
về “ánh sáng Pest”.
Nhưng ai mà biết được hết
những hình thái của sự bướng bỉnh, cố chấp, và phải nói rằng ở Zeitz tôi có thể
lựa chọn giữa nhiều cách - nếu tôi biết. Tôi được nghe về quá khứ, về tương
lai, và nghe nói rất nhiều, thậm chí có thể nói không ở đâu như giữa những người
tù, chúng ta có thể nghe nói nhiều
như thế về tự do, xét cho cùng điều này có thể lý giải được, tất nhiên tôi nghĩ
như thế. Có những người khác thì tìm thấy niềm vui đặc biệt nào đó trong một
câu ngạn ngữ, một câu chuyện tếu, hay một câu nói đùa. Đương nhiên, tôi cũng
nghe thấy tất cả. Trong ngày có một giờ, từ khi ở nhà máy về cho đến lúc điểm
danh, một giờ lúc nào cũng sôi động và thoải mái nhất, mà tôi luôn chờ đợi nhất
ở trong trại này, và thường thì đó cũng là giờ ăn tối. Đúng lúc tôi đang luồn
lách qua những nhóm người buôn bán, trò chuyện vãn nhộn nhịp trên sân thì một
người đâm sầm vào tôi, và từ dưới vành chiếc mũ tù rộng một đôi mắt nhỏ, lo lắng
nhìn tôi qua cái mũi rất đặc biệt, trên một gương mặt độc đáo. “Hê, hê”, cả hai chúng tôi cùng
lên tiếng, ông nhận ra tôi, tôi cũng nhận ra ông: đó chính là con người không
may mắn. Ông tỏ vẻ mừng rỡ, hỏi tôi ở đâu. Tôi bảo ở Block 5. “Tiếc quá”, ông thở dài tiếc rẻ nói
ông ở nơi khác. Ông phàn nàn “chẳng nhìn thấy ai quen”, và khi tôi bảo ông tôi cũng vậy, không hiểu sao
ông có vẻ buồn. “Chúng ta đã thất tán cả”, - ông nói, đối với tôi có điều chi đó mơ hồ trong câu nói, trong cái lắc đầu
của ông. Rồi ông hỏi: “Cậu có biết chữ U này”, ông chỉ lên ngực, “có nghĩa là gì không?”. Tôi bảo sao lại không:
“Ungar, nghĩa là người Hung”. “Không”, ông bảo, “đó là Unschuldig, nghĩa là “vô tội”, rồi ông cười, gật gật đầu
với vẻ mặt tư lự, như thể bằng cách nào đó ông bằng lòng với ý nghĩa này, tôi
cũng không rõ vì sao. Về sau tôi còn thấy cái vẻ đó trên nét mặt của những người
khác khi nghe họ nói câu đùa vui này, khá nhiều lần trong trại vào lúc ban đầu:
cứ như thể chỉ là từ đó họ có thêm cảm giác ấm áp, và nó mang lại sức mạnh -
minh chứng cho điều đó là những nụ cười giống nhau, là vẻ thư giãn trên mặt, và
biểu hiện của một nụ cười đau đớn nhưng vẫn có vẻ gì đó tuyệt vời những khi họ
nói và nghe nó vô số lần, có chút gì từa tựa như khi ta nghe một bản nhạc làm
rung động con tim hay một câu chuyện đặc biệt xúc động.
Vì ở họ tôi cũng nhận ra
sự cố gắng, nhận ra một mong muốn giống nhau: họ muốn chứng tỏ mình là một tù
phạm tốt. Dẫu sao đi chăng nữa, thì đó chính là vì lợi ích của chúng tôi, hoàn
cảnh đòi hỏi thế, có thể nói cuộc sống ở đây buộc người ta phải như vậy. Nếu
các hàng đúng chuẩn theo quy định và quân số đầy đủ, thời gian điểm danh cũng
ngắn hơn - ít nhất vào giai đoạn đầu. Nếu làm việc chăm chỉ, chúng tôi có thể
tránh được chẳng hạn như là chuyện bị đánh đập - thường là vậy, trong đa số các
trường hợp.
Thế nhưng, tôi nghĩ ít ra
là lúc đầu, có lẽ hoàn toàn không chỉ riêng cái lợi này, không chỉ duy nhất điều
này dẫn dắt ý nghĩ của mỗi chúng tôi, có thể nói danh dự như thế. Chẳng hạn như
công việc, tôi xin bắt đầu bằng buổi chiều lao động đầu tiên: nhiệm vụ là xúc hết
một toa xe sỏi màu xám. Citrom Bandi, sau khi - tất nhiên được sự cho phép của
người lính gác đã đứng tuổi, thoạt nhìn thấy ông ta là loại lính có vẻ vui tính
- chúng tôi cởi áo (đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy làn da nâu hơi vàng và những
cơ bắp nở nang cùng một vết chàm màu đen phía dưới ngực trái của anh), nói:
“Nào, hãy cho bọn này biết dân Pest làm việc thế nào!”, có vẻ như anh nghĩ tới điều này một cách hết sức
nghiêm chỉnh. Và tôi có thể nói rằng nếu tính đến chuyện đây là lần đầu trong đời
tôi dùng chĩa xúc, thì người lính gác đang đi đi lại lại có bề ngoài như một
ông thợ cả kia chắc hẳn cũng hài lòng, và điều đó tất nhiên càng gia tăng khí
thế làm việc của chúng tôi. Nhưng giữa chừng tôi có cảm giác rát bỏng trong
lòng bàn tay, và thấy các đầu ngón tay mọng đỏ. Người lính gác hỏi: - “Was ist
den lost?” [tiếng Đức: “Có chuyện gì thế?”]. Tôi cười và chìa bàn tay cho anh ta xem, bất ngờ
anh ta tỏ ra cáu kỉnh, giật dây đeo súng một cái và hạ lệnh: “Arbeiten! Aber
los!” [tiếng Đức: “Làm việc đi! Mau lên!”]. Thế là đương nhiên tôi cũng hướng sự quan tâm về
phía khác. Từ lúc đó tôi chỉ chú ý tới một điều: khi nào anh ta không để mắt đến
là tôi tranh thủ nghỉ một lát, và xúc vào xẻng, vào chĩa càng ít càng hay, và
tôi có thể nói rằng về sau trong những thủ thuật kiểu này tôi đã tiến bộ khá
nhanh, tôi trở nên thông thạo hơn nhiều trong mọi trường hợp, dù phải làm bất cứ
công việc gì. Vì xét cho cùng thì ai có lợi trong việc này? - tôi nhớ có một lần,
ông “chuyên gia” đã hỏi vậy. Tôi khẳng định: ở đây có điều gì đó không ổn, một
cản trở nào đó, một sự trục trặc, một sự thất bại. Một lời quan tâm an ủi, một
dấu hiệu, một tia sáng lóe lên ở chỗ này chỗ kia, một tí chút thôi, đối với tôi
ít ra cũng có ích hơn. Vì nếu nghĩ kỹ ra thì về mặt cá nhân thực ra chúng tôi
có gì phải khó chịu với nhau? Và ngay cả ở trong tù chúng tôi vẫn còn lại một cảm
giác kiêu hãnh chứ, ai mà chẳng có nhu cầu thầm kín về một chút nhã nhặn, nhẹ
nhàng, hơn nữa lời nói cảm thông sẽ đạt được nhiều hơn, tôi nghĩ thế.
Nhưng dẫu sao những trải
nghiệm như thế cũng chưa làm tôi lung lay về cơ bản. Con tàu vẫn đi tới, nếu
nhìn về phía trước tôi còn mường tượng thấy cả mục tiêu ở đằng xa, và trong thời
kì đầu, thời vàng son - như sau này tôi và Citrom Bandi thường gọi, thì Zeitz,
với cách sống cần thiết và chút may mắn, tỏ ra là nơi có thể chịu được, trước mắt
và tạm thời, cho đến khi tương lai không giải thoát cho chúng tôi, tất nhiên. Mỗi
tuần hai lần một nửa, ba lần một phần ba, và chỉ có hai
lần một phần tư chiếc bánh mì. Món Zulage thì thường có. Tuần một lần khoai tây
luộc (sáu củ, cho vào mũ và kèm theo đó là không có món Zulage), tuần một lần
mì sợi nấu sữa. Cảm giác khó chịu ban đầu vì bị đánh thức sớm đã được giải tỏa
mau chóng bởi buổi sớm mai mùa hè đẫm sương, trời quang đãng và món cà phê bốc
hơi (lúc đó phải nhanh nhẹn trong nhà cầu vì ngay lập tức sẽ vang lên những tiếng
quát: “Appel!”. “Atreten!”. Điểm danh sáng bao giờ cũng ngắn gọn, vì công việc
đang chờ, đang thúc giục. Một cái cổng phụ của nhà máy, mà đám tù nhân chúng
tôi có thể sử dụng, nằm phía bên trái đường quốc lộ, rẽ vào một con đường cát,
cách trại chúng tôi chừng mười, mười lăm phút đi bộ. Từ xa đã nghe tiếng ầm ĩ,
tiếng rú, tiếng gõ, tiếng thở, tiếng hộc ba, bốn lần của các miệng ống thép: tiếng
chào đón của một nhà máy - với đường ngang ngõ dọc, với các cần cẩu dịch chuyển
nặng nề, những máy xúc đất, những đường ray và ống khói, những tháp làm lạnh, hệ
thống đường ống, những nhà xưởng giống như một thành phố thực thụ. Nhiều hố,
rãnh tan hoang, những đường ống rách nát, những đống cát lớn đứt tung tóe chứng
tỏ sự thăm viếng của các oanh tạc cơ. Tên nó - tôi được biết ngay trong giờ giải
lao ăn trưa đầu tiên - là “Brabag,” là cách gọi ngắn gọn của “Braun-Kohl-Benzin
Aktiengeshelleschaft” [Braun-Kohl-Benzin
Aktiengeshelleschaft: Công ty Cổ phần Xăng Dầu-Than Nâu] một thời từng
có tên tuổi trên thị trường chứng khoán, tôi nghe người ta bảo, và họ còn chỉ
cho tôi thấy một người to lớn, đang chống khuỷu tay thở mệt nhọc và lôi từ
trong túi ra một miếng bánh mì đã gặm dở, chính là người đã tiết lộ thông tin
đó, và sau này trong trại người ta thường nói về ông một cách vui vẻ rằng, dù
chưa khi nào tôi nghe ông nói thế, có thời chính ông đã là chủ nhân của cái
công ty cổ phần này. Tôi nghe nói - và cái mùi của nó cũng ngay lập tức gợi nhớ
đến xưởng tinh chế dầu Csepel - ở đây người ta cũng đang sản xuất xăng, nhưng
nhờ một phương pháp không phải tinh chế từ dầu mỏ, mà từ nguyên liệu là than
nâu. Tôi thấy ý tưởng có vẻ hấp dẫn, nhưng tất nhiên là không ai cần biết đến ý
kiến của tôi, tôi công nhận điều đó. Khả năng có thể rơi vào Arbeitkommando nào
là vấn đề bao giờ cũng hấp dẫn. Người thì thích xẻng, người thì thích búa chim,
một số khách thích việc đặt cáp, một số khác lại thích đứng phụ việc cho máy trộn
vữa, và ai biết được vì lí do thầm kín nào, sự ưa thích đáng ngờ nào gắn bó một
số người vào công việc dưới cống rãnh, ngập đến thắt lưng trong bùn màu vàng
hay trong dầu đen kịt - mặc dù không ai nghi ngờ sự tồn tại của một lí do như
thế, vì đa số họ là người Latvia, và các bạn cùng khuynh hướng của họ - những
người “Phần Lan”. Giọng điệu kéo dài, vang xa và mời gọi của từ “antreten” mỗi
ngày chỉ vang lên một lần từ trên cao xuống, nghe ngọt và não nề: đó là vào buổi
tối, khi nó báo hiệu giờ trở về. Giữa đám hỗn độn quanh chỗ rửa ráy, Citrom
Bandi hét lên: “Dẹp ra, dân Hồi giáo!”, để tranh chỗ, và không có một chỗ nào
trên cơ thể tôi thoát khỏi ánh mắt soi mói của anh. “Rửa cả chim đi, chỗ đấy
hay có rận ẩn nấp đấy!”, anh bảo, và tôi vừa cười vừa nghe theo anh. Bây giờ là
lúc bắt đầu của một giờ đồng hồ nhất định: làm những việc lặt vặt, nói đùa hay
phàn nàn, thăm nhau, trò chuyện, buôn bán, trao đổi thông tin, tất cả chỉ có thể
chấm dứt bằng tiếng khua thân thuộc của nồi niêu, cái tín hiệu thôi thúc mọi
người, khiến tất cả hành động thật mau lẹ. Rồi đến điểm danh, và chỉ tùy vận
may mà nó kéo dài đến khi nào. Nhưng rồi, một, hai, bất quá là ba giờ sau (giữa
chừng dãy đèn pha đã bật sáng) là một đợt xô đẩy dọc theo con đường hẹp của lều
trại, hai bên là những dãy hộp ba tầng, ở đây gọi là dãy “box,” những chỗ ngủ.
Sau đó một lúc nữa cả lều chỉ có lờ mờ tối và tiếng hát thầm thì - đó là giờ
trò chuyện, về quá khứ, về tương lai, về tự do. Tôi được biết rằng: khi còn ở
bên nhà, ai nấy đều hạnh phúc đến mẫu mực, và đa số còn giàu có. Những lúc như
thế này tôi còn biết thêm rằng họ thường ăn tối những gì, thậm chí thỉnh thoảng
còn nghe cả những chuyện khác, các đề tài riêng tư của đàn ông. Cũng khi đó họ
đã nhắc đến - điều này về sau tôi không bao giờ nghe nói tới nữa - theo giả thiết
của một vài người, vì những lí do nhất định người ta còn trộn một loại an thần,
chất bromua, vào xúp - họ khẳng định như vậy với vẻ mặt đồng tình và bao giờ
cũng hơi bí ẩn. Những lúc như thế thể nào Citrom Bandi cũng nhắc đến phố
Nefelejcs, đến ánh sáng hoặc “bọn con gái Pest” - đặc biệt vào những ngày đầu,
và dĩ nhiên tôi cũng khó có thể nhận xét gì thêm về chuyện này. Một lần khác
tôi bỗng nhận ra tiếng hát thầm thì, ngân nga, lúc lúc như nấc lên và ánh nến
leo lét sáng từ phía một góc lều, nghe nói đang là thứ Sáu, và kia có một thầy
tu, một giáo sĩ Do Thái. Tôi cũng bước lên đỉnh đống ván giường và từ đó nhìn
xuống, đúng là ông ta đứng giữa một đám người, ông giáo sĩ mà tôi đã biết. Ông
hành đạo trong bộ quần áo và mũ phạm nhân như thế, và tôi cũng không chú ý được
lâu, bởi thay vì cầu nguyện tôi muốn đi nằm ngủ hơn. Tôi và Citrom Bandi ở gác
trên cùng. Chúng tôi chia sẻ box với hai người nữa, cả hai đều còn trẻ, dễ mến
và cũng là dân Budapest. Đệm nằm là một tấm gỗ, trên trải rơm và lót vải bố.
Hai người chung một tấm chăn, nhưng mùa hè thì thế cũng là nhiều. Chỗ nằm không
được rộng rãi cho lắm: nếu tôi trở mình thì người nằm bên phải cũng xoay người,
nếu người nằm cạnh co chân lên thì tôi cũng phải co chân theo, nhưng giấc ngủ vẫn
sâu và làm quên lãng tất cả - đúng là những ngày vàng.
Sau đó một thời gian ngắn
tôi bắt đầu nhận thấy sự thay đổi - đầu tiên là về khẩu phần ăn. Chúng tôi chỉ
có thể đoán già đoán non về việc thời kỳ nửa chiếc bánh mì đã biến đâu mất
nhanh chóng thế, thay vào đó - không thể đảo ngược được - là giai đoạn một phần
ba và một phần tư chiếc, và Zulage cũng không nhất thiết bao giờ cũng phải có.
Cũng từ đó con tàu bắt đầu chậm dần, cuối cùng thì dừng hẳn. Tôi thử nhìn lên
phía trước, nhưng chỉ thấy đến ngày hôm sau, ngày mai cũng sẽ là một ngày như
thế này, nghĩa là đúng y hệt như ngày hôm nay - đó là trong trường hợp may mắn,
dĩ nhiên. Tôi bắt đầu chán nản, sự hăng hái thuyên giảm, mỗi ngày thức dậy lại
nặng nề hơn một chút, mỗi ngày đi nằm cũng mệt mỏi hơn một chút. Tôi đói hơn một
chút, đi lại bất đắc dĩ hơn một chút, bằng cách nào đó tất cả nhọc nhằn hơn, sự
chịu đựng ngay bản thân mình cũng bắt đầu trở thành một gánh nặng. Tôi (tất cả
chúng tôi, tôi dám nói) không còn là những tù nhân tốt nữa, và dấu hiệu của điều
này tất nhiên chúng tôi có thể nhanh chóng nhận ra nơi những người lính, những
người phụ trách riêng của chúng tôi, trong số họ lần đầu tiên phải kể đến, dù
chỉ bởi cấp bậc của gã, là Lagerältester.
Vẫn như trước đây, ở mọi
lúc và mọi nơi chỉ thấy gã vận đồ đen. Gã thổi còi đánh thức vào buổi sáng, gã
kiểm tra mọi thứ lần cuối cùng vào buổi tối, và về căn phòng của gã ở đầu mé
kia thì người ta đã đồn đại khá nhiều chuyện. Gã nói tiếng Đức, dòng máu Digan -
giữa chúng tôi với nhau gã chỉ được gọi là “lão Digan” - và đây là lý do chủ yếu
để người ta dành chỗ cư trú cho gã ở trại tập trung, lý do thứ hai là sự khác
biệt với người bình thường mà Citrom Bandi đã khẳng định về gã ngay từ cái nhìn
đầu tiên. Còn cái tam giác màu xanh lá cây thì cảnh tỉnh mọi người rằng gã đã
giết và cướp một phụ nữ lớn tuổi hơn mình - tin đồn vậy - nghe đâu rất giàu có,
đã nuôi nấng gã, như người ta nói. Thế cũng có nghĩa đây là lần đầu tiên tôi có
thể nhìn thấy một tên giết người cướp của thực thụ. Nhiệm vụ của gã là luật
pháp; công việc của gã là thi hành trật tự và công bằng trong trại chúng tôi -
không hoàn toàn là một ý nghĩa có thể an ủi khi thoạt nghe, mọi người đều nghĩ
vậy, không loại trừ tôi. Còn về mặt khác, tôi phải công nhận: ở một điểm nhất định
những sắc thái có thể lẫn lộn. Cá nhân tôi chẳng hạn có nhiều phiền toái với một
trong những Stubendienst hơn, mặc dù gã là một kẻ thành thực không chê vào đâu
được. Chính vì thế mà những người biết rõ gã - cũng những người đã chọn Blockältester,
doctor Kovács (danh hiệu doctor ở đây - theo tôi biết - không phải là bác
sĩ, mà là luật sư) - đã lựa chọn gã, như tôi
nghe nói, bọn họ đều đến từ một nơi: một vùng rất đẹp gần Balaton*, thuộc khu Siófok*.
[Balaton: hồ nước
ngọt lớn nhất châu Âu, chiều dài 79 km, chiều rộng trung bình 7,8 km, nằm cách
Budapest trên 100 km về phía Tây, một địa danh du lịch rất nổi tiếng của
Hungary]
[Siófok: thành
phố du lịch nằm trên bờ Nam của hồ Balaton, còn được mệnh danh là thủ đô của
Balaton]
Đó chính là người có
gương mặt như sốt phát ban, mà tên gã - ai cũng biết - là Fodor. Chẳng biết
đúng hay không, nhưng có một ngày sự nhất trí chung là: gã
Lagerältester khoái dùng gậy và nắm đấm, vì việc này, ít nhất là theo lời
đồn đại trong trại, mang lại cho gã khoái cảm nhất định, và theo những người
thông thạo, gã tìm kiếm một cái gì đó liên quan đến cả đàn ông, cả bọn con trai
và đôi khi cả phụ nữ. Tuy nhiên, với Fodor, trật tự không phải là lý do, mà là
điều kiện có thể thay đổi, và sự cần thiết bắt buộc gã phải hành xử như vậy, vì
lợi ích chung - như gã không bao giờ quên nhắc nhở. Mặt khác thì trật tự không
bao giờ và càng ít khi trọn vẹn. Chính vì thế mà gã dùng chiếc cán thìa múc xúp
dài bằng sắt quật vào giữa hàng người chen chúc, và chúng tôi - nếu không biết
cách lại gần nồi, đặt bát của mình vào một chỗ nhất định cạnh nồi - sẽ rất dễ
rơi vào con số những nạn nhân có thể tuột tay đánh rơi cà men xúp ngay lúc đó,
vì - rõ ràng là, và cả tiếng ồ lên ở phía sau gã cũng báo hiệu điều
đó - như vậy sẽ làm chậm trễ công việc của gã, suy ra là làm chậm chúng tôi và
những người đứng đằng sau hàng, đó là lý do khiến gã kéo chân những người lơ đễnh,
vì rốt cuộc là những người vô tội đang chịu tội thay cho một người. Dĩ nhiên -
tôi nhận thấy - cần phải nhìn nhận sự khác biệt ở ý định, nhưng ở một điểm nhất
định nào đó, tôi nói rằng, những sắc thái như thế có thể bị lẫn lộn, còn kết quả
thì, theo kinh nghiệm của tôi, là tương tự, cho dù xem xét theo cách nào.
Ngoài hai kẻ đó ra, ở đây
còn một gã Kapo [Kapo: người được chọn trong số phạm nhân trong các trại tập
trung của Đức Quốc Xã, để làm quản lí hay chỉ điểm] Đức đeo băng tay màu vàng và bao giờ cũng mặc bộ
quần áo kẻ sọc là phẳng phiu, cũng may là tôi ít khi thấy hắn, sau này tôi ngạc
nhiên thấy một băng đen bắt đầu xuất hiện giữa các hàng người chúng tôi, trên
băng có hàng chữ khiêm tốn hơn là “Vorarbeiter”. [Vorarbeiter: đốc
công, quản đốc]. Đúng lúc
tôi đang ở đó, khi lần đầu tiên xuất hiện một tay cùng Block với chúng tôi, trước
tôi cũng không để ý lắm tới hắn và theo trí nhớ của tôi thì hắn cũng không được
người khác đánh giá cao hoặc có tiếng tăm gì, mặc dù nom hắn lực lưỡng và kềnh
càng, với một chiếc băng đeo tay mới tinh, vào bữa ăn tối. Nhưng bây giờ tôi phải
công nhận hắn không còn là người vô danh như trước nữa: bạn bè và người quen hầu
như không thể lại gần hắn nổi, từ mọi phía vang lên những tiếng nói mừng rỡ, những
lời chúc mừng, chúc may mắn cho sự thăng tiến của hắn, những bàn tay chìa ra
phía hắn, nhưng hắn chỉ bắt tay một số người, còn với một số khác - tôi nhìn thấy
- thì không, những người này sau đó vội vã chuồn khỏi đó. Và chỉ đến cuối mới diễn ra - ít nhất là đối với tôi - giây phút
trang trọng nhất, trong sự chú ý và yên lặng đến kính nể, có thể nói là sùng
kính của những người xung quanh, một cách đĩnh đạc, không hề vội vàng, không một
cử chỉ hấp tấp, giữa những ánh mắt chăm chú và ghen tị, hắn bước tới nhận suất
ăn thứ hai, giờ đây phải tương xứng với chức vị của hắn, phải lấy từ dưới đáy
xoong, và Stubendienst đã phải múc cho hắn với sự phân biệt dành cho những người
được hưởng quyền này.
Có lần thấy một người có
dáng đi thẳng đuỗn, ngực vồng ra phía trước, tôi nhận ra ngay: từ trên cánh tay
viên sĩ quan ở Auschwitz những chữ cái hiện rõ trước mắt tôi. Một hôm tôi cũng
nằm trong nhóm lão ta phụ trách, và có thể nói, đúng là vì những người làm việc
tốt gã có thể cho tay vào lửa, nhưng những kẻ biếng nhác vô dụng và những kẻ
“cướp công tay trên của người khác” thì chớ có trông mong gì - theo cách nói của
gã, khi mới bắt tay vào công việc. Hôm sau cùng với Citrom Bandi, chúng tôi cho
rằng tốt nhất nên chuồn sang một nhóm khác.
Còn một sự thay đổi nhãn
tiền nữa, và điều thú vị đó chủ yếu là những người ngoài cuộc, như những người
trong nhà máy, những lính gác, và bất quá chỉ ở một vài người khả kính trong trại:
tôi nhận thấy họ thay đổi. Lúc đầu tôi cũng không biết giải thích điều này ra
sao: theo cách nào đó tất cả họ đều đẹp, ít ra là trong mắt tôi. Nhưng rồi qua
một vài dấu hiệu tôi nhận ra rằng có thể là do chúng tôi thay đổi, tất nhiên là
thế, chỉ có điều tôi khó nhận ra hơn. Chẳng hạn nếu nhìn Citrom Bandi thì tôi
không thấy trên người anh có gì đặc biệt. Nhưng tôi thử nhớ lại anh, và so sánh
với hình ảnh đầu tiên khi anh xếp hàng bên phải tôi, hoặc trong buổi làm việc đầu
tiên, với những cơ bắp nở nang, co bóp, gân guốc dẻo dai và rắn chắc, cử động
lên xuống nhịp nhàng, và khi đó tôi đã hơi ngờ vực. Chỉ đến lúc này tôi mới hiểu
rằng thời gian đôi khi có thể lừa dối con mắt chúng ta, có vẻ như thế. Tôi đã bỏ
qua không chú ý đến quá trình diễn ra trong cả một gia đình, ví dụ như gia đình
Kollmann. Trong trại ai cũng biết họ. Họ đến từ một vùng có tên là Kisvárda, [Kisvárda: thành phố nhỏ ở Đông Bắc
Hungary, nằm trong tỉnh Szabolsszatmár-Bereg, cách biên giới Ucraina 22km], từ vùng ấy ở đây còn khá nhiều người nữa, và từ
cách người ta xưng hô với họ tôi suy ra chắc họ có thể là những người có uy thế.
Họ có ba người: ông bố đầu hói vóc người nhỏ bé, một con trai lớn và một cậu nhỏ
hơn, cả hai không giống bố, nhưng mặt mũi giống hệt nhau - theo đó,
tôi nghĩ có lẽ cả hai cùng giống mẹ - cùng tóc vàng, mắt xanh như
nhau. Cả ba lúc nào cũng đi với nhau, và nếu có thể: tay nắm tay. Thế mà sau một
thời gian, tôi nhận thấy ông bố hay tụt lại, và hai cậu con trai thường phải
giúp, phải nắm tay kéo bố cùng đi. Một thời gian sau
không thấy ông bố đi cùng với hai người con nữa. Rồi không bao lâu sau người
anh phải đỡ cậu em út. Sau đó một dạo cậu út cũng mất hút, chỉ còn người anh
kéo lê bản thân mình. Và đến giờ tôi không còn thấy anh ta nữa. Tất cả những
chuyện này, phải nói, tôi đã nhận ra, chỉ có điều không phải theo cách mà sau
này - nếu suy nghĩ về nó - tôi đã tóm tắt lại, đã kể ra tất cả, mà chỉ quen dần
từng nấc, từng nấc một - và như thế, rồi thực chất tôi cũng chẳng nhận ra. Mặc
dù có vẻ như chính tôi cũng có thể đã thay đổi, vì tay “thợ làm đồ da” mà một
hôm tôi nhìn thấy đàng hoàng đi từ lều bếp bước ra - và tôi cũng được biết hắn
được phân công chỗ làm cùng những người gọt khoai tây đáng ghen tị - lúc
đầu không thể nhận ra tôi. Tôi phải chứng tỏ mãi với cậu ta là tôi là dân từ xưởng
“Shell”, và hỏi cậu xem liệu trong nhà bếp ngẫu nhiên có gì đút miệng được
không, một chút thức ăn thừa dưới đáy nồi chẳng hạn. Cậu ta bảo để cậu ta xem,
và cậu không muốn gì cho bản thân mình, nhưng ngẫu nhiên tôi có thuốc lá không,
vì gã Vorarbeier nhà bếp “chết vì thuốc”, như cậu ta nói. Tôi thú nhận: không
có, thế là cậu ta đi. Chẳng mấy chốc sau đó tôi nhận ra có đợi nữa cũng vô ích,
và rằng tình bạn cũng chỉ là thứ hữu hạn, có vẻ như các quy luật của cuộc sống đặt
ra cho nó những giới hạn - dĩ nhiên là như thế, khỏi cần bàn. Vào lúc khác thì
tôi không nhận ra một sinh linh kì quặc: nó đang khật khưỡng đi về phía kia,
tôi ngờ là ra phía cầu tiêu. Chiếc mũ trượt sang một bên tai, mặt đầy hốc lồi
lõm, góc cạnh, trên đỉnh cái mũi vàng vọt rung rung một giọt nước. “Chàng trai
lụa!”, tôi gọi, nhưng không thấy cậu ta nhìn lên. Cậu chỉ lết đi tiếp, môt tay
giữ quần, và tôi nghĩ: trời ơi, thật không thể tin nổi. Một lần khác, chỉ vàng
vọt và còn gầy guộc hơn, đôi mắt to hơn và cháy rực hơn, nhưng tôi nghĩ mình đã
nhận ra cậu trai nghiện thuốc. Cũng vào thời gian đó trong báo cáo của Blockältester lúc
điểm danh tối và sáng bắt đầu xuất hiện cách diễn đạt sau này trở nên bất biến,
chỉ thay đổi về mặt con số: “Zwei im Revier”* hay: “Fünf im
Revier”*, “Dreizehn im Revier”*, và tiếp tục như thế; rồi lại
thêm một khái niệm mới là “Abgang” nghĩa là thiếu, hao hụt, rơi rụng.
[“Zwei im
Revier” (tiếng Đức): Hai người trrong trạm xá]
[“Fünf im
Revier” (tiếng Đức): Năm người trong trạm xá]
[“Dreizehn im
Revier” (tiếng Đức): Mười ba người trong trạm xá]
[“Abgang” (tiếng
Đức): mất mát, tổn thất, thiếu hụt]
Không, trong những điều kiện nhất định chẳng
có ý định tốt nào là đủ. Từ khi còn ở nhà tôi đã đọc được rằng với thời gian và
nỗ lực cần thiết, con người có thể quen với cuộc sống tù đày. Điều này có lẽ
cũng đúng thôi, tôi không mảy may hoài nghi, giả dụ như ở trong nước, với một
nhà tù đúng quy cách, kiểu nhà tù dân sự, hoặc đại loại. Chỉ có điều trong một
trại tập trung, theo kinh nghiệm của tôi, đúng là không có cách nào để thực hiện
việc đó. Và tôi có thể khẳng định chắc chắn rằng - ít nhất trong trường hợp của tôi - không khi nào thiếu sự cố gắng, thiếu
ý đồ tốt: điều nguy hiểm là người ta không cho ta đủ thời gian, đơn giản vậy
thôi.
Tôi biết có ba kiểu trốn
thoát - vì tôi đã thấy, đã nghe hoặc đã trải nghiệm - trong một trại tập trung.
Bản thân tôi đã dùng cách thứ nhất, cách khiêm nhường nhất, nhưng bản chất của
chúng ta có một vùng - điều này tôi cũng đã học được - thuộc về sở hữu của con
người trong mọi lúc và không thể tước đoạt được. Có một sự thật là: ngay cả
trong tù, trí tưởng tượng của chúng ta vẫn tự do. Chẳng hạn tôi có thể thực hiện
một chuyện như tay vẫn cầm xẻng hay búa chim - một cách tiết kiệm, chia đều sức,
bao giờ cũng chỉ bó gọn trong những động tác cần thiết nhất, nhưng bản thân
tôi, thì đơn giản là không có mặt ở đó. Tuy nhiên ngay cả trí tưởng tượng cũng
không hoàn toàn vô hạn, hoặc ít ra là vô hạn chỉ trong các giới hạn, tôi phát
hiện ra như vậy. Vì cũng với sự cố gắng như thế tôi có thể hiện hữu ở bất cứ
đâu, ở Calcutta, Florida, thậm chí ở những nơi đẹp nhất trên thế giới. Tuy
nhiên điều đó xem ra không đủ sức thuyết phục, với tôi là không thể tin được, nếu
như có thể nói vậy, và kết quả là hầu như trong mọi trường hợp tôi đều thấy
mình đang ở nhà. Thực ra, nói cho cùng, bằng việc về nhà tôi cũng chẳng kém liều
lĩnh hơn là đi Calcutta; chỉ có điều ở đây tôi đã tìm thấy một cái gì đó, một sự
khiêm tốn nhất định, và có thể nói, một công việc cân bằng với nỗ lực của mình,
và qua đó nó cũng ngay lập tức chứng thực cho sự cố gắng ấy. Ví dụ tôi mau
chóng nhận ra: mình đã sống không hợp lý, không sử dụng tốt những ngày ở nhà,
có nhiều, quá nhiều điều phải ân hận. Như vậy - tôi phải nhớ lại - có những món
ăn mà tôi đã lựa chọn, đã khuấy lộn lên rồi gạt sang bên, chỉ đơn giản là vì
không thích, và lúc này tôi cảm thấy đó là một sơ suất không thể hiểu và không
thể sửa chữa nổi. Hoặc là sự tranh giành vô lý giữa cha và mẹ, vì cá nhân tôi.
Nếu sau này về nhà, tôi nghĩ, bằng cách dùng những lời lẽ đơn giản và dễ hiểu
như thế, thậm chí không chỉ dừng ở đó, như một người quan tâm đòi hỏi ở đây điều
dĩ nhiên nhất, khi nào trở về nhà, dù thế nào tôi cũng chấm dứt chuyện đó, cần
phải hòa thuận với nhau - tôi quyết định. Lúc còn ở nhà có những việc tôi rất
lo ngại, thậm chí - thật nực cười - tôi còn sợ, như sợ một vài môn học nhất định
trong chương trình, sợ thầy dạy các môn đó, sợ bị gọi lên không trả lời được, rồi
cuối cùng còn sợ cha tôi, khi phải thông báo kết quả với ông. Giờ thì tôi nhớ lại
tất cả những nỗi sợ ấy, tưởng tượng ra những cảnh ấy chỉ để giải khuây, sống lại
chúng một lần nữa và mỉm cười. Nhưng cách giết thời gian ưa thích nhất của tôi
bao giờ cũng là tưởng tượng ra cả một ngày trọn vẹn ở bên nhà, nếu có thể thì từ sáng đến tối, và vẫn tiếp tục chỉ với sự
khiêm tốn như cũ. Vì xét cho cùng tưởng tượng ra một ngày đặc biệt, một ngày
hoàn hảo nào đó cũng có thể mất nhiều sức lực - nên tôi thường chỉ mường tượng
ra một ngày xấu, phải dậy sớm, đến trường học, lo sợ, ăn trưa dở, và bao nhiêu
khả năng mà lúc đó tôi bỏ qua, thậm chí đã không nhận ra, có thể nói là vậy, và
bây giờ, trong trại tập trung này, tôi cố gắng sửa sai mọi việc một cách hoàn hảo
nhất có thể. Tôi đã được nghe, và giờ đây được chứng kiến: đúng là những bức tường
nhà giam chật hẹp không thể giới hạn trí tưởng tượng bay bổng. Trở ngại bất ngờ
chỉ ở chỗ: nếu giữa chừng trí tưởng tượng đưa đi xa tới mức tôi quên cả bàn tay
mình, thì chỉ những lý do bất chợt, chính đáng nhất, dứt khoát nhất mới đưa tôi
trở lại thực tế - dù sao hiện thực vẫn ở nơi này.
Cũng từ khoảng thời gian
đó bắt đầu nảy sinh tình trạng thiếu quân số khi điểm danh sáng, như hôm
bên Block 6, ở cạnh chúng tôi. Ai cũng biết rõ, khi đó điều gì đã có thể xảy
ra, vì trong một trại tập trung, hiệu lệnh báo thức chỉ không đánh thức những
ai không bao giờ còn có thể dậy được nữa mà thôi, mà số đó thì có đấy. Nhưng đó
là cách chạy trốn thứ hai, và liệu có ai tránh khỏi sự cám dỗ, một lần, ít ra
là một lần duy nhất, ai có thể đứng vững mà không khi nào bị lay chuyển, đặc biệt
khi thức giấc vào buổi sáng, khi ta nhận ra rằng đã lại một ngày mới, khi lều
đã ồn ào, trong đám người xung quanh đã lục đục dậy - tôi thì không, và chắc chắn
sẽ thử, nếu như không có Citrom Bandi liên tục ngăn cản. Cà phê không quan trọng
lắm, rồi sẽ có mặt lúc điểm danh sáng - người ta nghĩ vậy, tôi cũng nghĩ vậy. Tất
nhiên ta không nằm ì tại chỗ - vì không ai có thể trẻ con đến thế, mà
ta thức dậy, bình thường, tử tế như những người khác, và rồi... ta biết một nơi, một
xó xỉnh cực kì chắc chắn nào đó, ta có thể đặt cược một ăn một trăm. Đã từ hôm
qua, có thể là từ trước đó ta đã nhắm sẵn, không hề có bất kỳ dự định, ý đồ
nào, chỉ ví thứ trong bản thân ta thế thôi. Bây giờ thì ta nhớ ra nó. Chẳng hạn
ta chui xuống gầm các box ở dưới cùng. Hoặc ta tìm một khe hẹp, một chỗ lượn, một
cái hõm chắc chắn nào đó, một góc bảo đảm. Ở đó ta lấy rơm, lấy lá, lấy chăn phủ
lên mình. Giữa chừng ta phó thác mình cho ý nghĩ rằng đến giờ điểm danh ta sẽ
có mặt - có thời kỳ tôi hiểu rõ, rất rõ điều này. Những kẻ táo tợn, liều lĩnh
hơn thì còn có thể nghĩ một người chắc không sao: chẳng hạn họ có thể đếm nhầm -
vì nói cho cùng chúng ta là những con người; rằng vắng một người duy nhất - hôm
nay, chỉ đúng vào buổi sáng hôm nay - chưa chắc đã bị phát hiện, còn đến tối
thì chúng sẽ lo liệu cho việc khớp quân số; những người liều nhất thì nghĩ ở chỗ đảm bảo ấy người ta sẽ không có
cách gì tìm ra được. Còn những người quả cảm thực sự cũng chẳng cần nghĩ đến điều
đó, vì đơn giản họ cho rằng - thỉnh thoảng tôi cũng nghĩ như thế - ngủ
say trong một tiếng đồng hồ đáng chấp nhận tất cả mạo hiểm và đáng trả bằng mọi
giá.
Nhưng ở đây không có nhiều
cơ hội cho họ đến như vậy, vì buổi sáng mọi thứ diễn ra rất nhanh, và nhìn kìa,
nhóm tìm người đã được cử ra: đi trước là gã Lagäraltester mặc đồ
đen, bộ râu mới cạo, bộ ria vểnh, thơm nức, theo sát gã là tay Kapo Đức,
sau nữa là mấy tay Blockältester và Stubendienst lăm lăm
dùi cui, gậy hèo, gậy móc, cả bọn rẽ vào Block 6. Từ bên trong vọng
ra tiếng la hét, ầm ĩ, và một phút sau - hãy nghe kìa! - đã có tiếng hét vang đắc
thắng của những kẻ lùng sục, lẫn với tiếng nấc nghẹn khục khặc, mỗi lúc một nhỏ
dần rồi tắt hẳn. Chẳng bao lâu sau toán săn lùng xuất hiện. Thứ mà bọn họ đem
ra từ trong lều - nhìn từ đây chỉ thấy như những đống vật thể không sinh khí bất
động, những túm giẻ rách lùng nhùng, bị đặt, bị quẳng xuống cạnh hàng người,
tôi cố gắng không nhìn nữa. Nhưng có một tiểu tiết, một hình ảnh, đường nét, dấu
hiệu gợi nhớ vẫn hút tôi nhìn về phía đó, và tôi nhận ra ông: đó chính là con
người rủi ro trước đây. Rồi sau đó: “Arbeitskommandos
antreten!”* và
chúng tôi có thể dự đoán được ngày hôm nay bọn lính sẽ nghiêm khắc hơn.
[“Arbeitskommandos antreten!” (tiếng Đức): “Đội
lao động, tập hợp!”]
Cuối cùng, là cách thứ
ba, đúng theo nghĩa của từ này, và có lẽ là cách chạy trốn thật sự đáng phải
suy nghĩ; cũng đã xảy ra một trường hợp, duy nhất chỉ một lần trong trại chúng
tôi. Đám bỏ trốn là một bộ ba, đều là
người Latvia, từng trải, thông thạo tiếng Đức và địa hình xung quanh, những tù
phạm tự tin ở hành động của mình. Tin tức cứ thầm thì lan ra, và tôi có thể
nói, sau sự thán phục ban đầu cùng sự khấp khởi ngấm ngầm cho bõ ghét bọn lính
gác, ở chỗ này chỗ nọ người ta còn tỏ ra hâm mộ và suy tính đến chuyện noi
gương, sốt sắng cân nhắc các khả năng, thì chúng tôi bắt đầu oán trách họ. Hôm
đó, đã chừng hai ba giờ đêm, bị trừng phạt vì tội lỗi của họ, chúng tôi phải đứng
xếp hàng, đúng hơn là gật gà gật gù chờ điểm danh. Tối hôm sau, khi xếp hàng
chuẩn bị vào lều, tôi lại cố gắng không nhìn sang phía bên phải. Ba chiếc ghế đặt
đó, bên trên có ba người ngồi, ba dạng hình người. Nom họ chính xác như thế
nào, dòng chữ nghuệch ngoạc trên tờ giấy họ đeo trên cổ viết gì, tôi cho rằng
đơn giản hơn là không nên quan tâm (nhưng rồi tôi cũng vẫn biết, vì trong trại
người ta còn nhắc mãi tới chuyện này: “Hurrah! Ich bin wieder da!” -
nghĩa là “Hurra! Tôi lại có mặt đây!”). Tôi nhìn thấy một
khung giàn đóng vội, nom giống như giàn rũ quần áo đặt trên các sân nhà ở trong
nước, bên trên có ba dây thòng lọng - tôi hiểu như vậy là: treo cổ. Bữa ăn tối
tất nhiên không hề được nhắc tới, mà ngay tức khắc: “Appel!” rồi: “Das
ganze Lager: Achtung!” [“Das ganze Lager: Achtung!” (tiếng Đức): “Toàn trại: Chú
ý!” vang lên ở phía trước, to hết cỡ, do chính gã Lagäraltester điều
khiển. Những người thi hành hình phạt đã tụ tập đủ, sau một lát chờ đợi, các đại
diện quân sự oai vệ cũng xuất hiện, rồi tất cả đã diễn ra theo đúng cách thức của
nó, phải nói rằng cũng may là cách chỗ chúng tôi đứng khá xa ở phía trước, gần
khu tắm rửa, và tôi tránh không nhìn về phía đó. Tôi chú ý hơn về phía bên
trái, từ phía đó bỗng nghe thấy một giọng lầm rầm, như một điệu nhạc du dương
nào đó. Tôi thấy một cái đầu run rẩy trên một cái cổ gầy nhẳng hướng về phía
trước, đi trong hàng người - nổi bật lên là đôi mắt và cái mũi ướt át tắm trong
thứ ánh sáng gần như phi lý trong giây phút ấy: ông giáo sĩ Do Thái. Lát sau
tôi hiểu cả lời ông nói, hơn nữa nhiều người đứng trong hàng cũng nói theo ông.
Chẳng hạn tất cả người Phần Lan, và còn nhiều người khác nữa. Thậm chí, tôi
không rõ bằng cách nào, nhưng tiếng nói đã lan sang cả Block xung
quanh, vì ở các nơi đó tôi cũng nhận thấy ngày càng nhiều những đôi môi mấp
máy, những đôi vai, đầu, cổ dù chỉ khẽ gật gù, nhưng dứt khoát, từ trước ra
sau, từ sau lên trước. Trong lúc đó, tiếng lầm rầm ở khu giữa hàng người chỉ vừa
đủ nghe thấy, đều đều vọng đi vọng lại liên miên, như tiếng thì thầm dội lên từ
lòng đất: “Jiszkadal, vöjszkadal”, đủ khiến tôi nhận ra chính
là “Kaddis”, bài kinh cầu hồn của người Do Thái. Và nó hoàn
toàn có thể cũng chỉ sự ương ngạnh, cố chấp, sau cùng, duy nhất mà có lẽ tôi
không thể không nhìn nhận rằng hơi bắt buộc, có thể nói là áp đặt và theo một ý
nghĩa nào đó là đã được xác định, đồng thời là phương cách vô ích của sự ương
ngạnh (vì cũng chẳng có gì thay đổi ở phía trước: ngoại trừ vài cái quẫy đạp cuối
cùng của những người bị treo cổ, không có gì chuyển động, không có gì rung chuyển
theo những lời này); nhưng dẫu vậy, bằng cách nào đó tôi có thể hiểu cái cảm
giác mà nhờ đó gương mặt của ông giáo sĩ có vẻ gần như nhẹ nhõm, từ sức mạnh của
nó cả hai cánh mũi ông phập phồng khác thường. Như thể giây phút đã chờ đợi bao
lâu giờ đây mới tới, cái giây phút chiến thắng mà ông đã nhắc, tôi nhớ, từ khi ở
nhà máy gạch. Và đúng là cũng chỉ đến lúc này, tôi cũng không biết tại sao lần
đầu tiên tôi có cảm giác thiếu hụt nhất định, lúc này lần đầu tiên tôi thấy hơi
tiếc là mình không biết cầu nguyện - ít nhất là một vài câu - bằng tiếng Do
Thái.
Nhưng cả sự ương ngạnh, cả cầu nguyện và bất
cứ sự trốn chạy nào cũng không giải thoát tôi khỏi một điều: đó là cái đói. Ở
nhà, tất nhiên tôi cũng đã từng đói - hay ít ra là tôi tin thế; tôi đã đói
trong một nhà máy gạch, trên tàu hỏa, ở Auschwitz và cả Buchenwald nữa - nhưng
cảm giác đói thế này, liên tục và kéo dài, phải nói là tôi chưa hề biết đến.
Tôi đã biến thành một cái hố sâu, một vực thẳm nào đó, và mọi cố gắng của tôi đều
hướng tới việc chấm dứt, lấp đầy, bịt miệng cái vực thẳm không đáy, càng lúc
càng đòi hỏi này. Mắt tôi, toàn bộ tri giác tôi cũng là để làm việc này, việc
này chỉ đạo mọi hành động của tôi, và nếu như tôi chưa ăn gỗ, sắt, hay đá sỏi,
chỉ là vì không thể nhai nổi và tiêu hóa nổi những thứ đó. Nhưng tôi đã thử ăn
cát, và nếu nhìn thấy cỏ, không khi nào tôi chần chừ - có điều đáng
tiếc là tôi không nhìn thấy cỏ cả trong khu nhà máy và trong trại. Chỉ vì một
nhánh hành nhỏ người ta đòi đổi hai lát bánh mì, và những người may mắn khấm
khá hơn cũng bán một củ cải đường hay củ cải thường để lấy chừng ấy bánh mì,
tôi thường thích loại sau hơn, vì chúng nhiều nước hơn và đa số kích thước cũng
lớn hơn, mặc dù những người am hiểu thì cho rằng củ cải đường có giá trị hơn,
chất lượng và bổ hơn, nhưng ai mà còn kén chọn nữa, dù chúng dai và có vị cay
không dễ chịu lắm với dạ dày. Thành ra tôi tạm bằng lòng với chúng, và cũng có
chút an ủi, vì ít ra là những người khác cũng ăn. Bữa trưa của lính gác bao giờ
cũng được đưa vào nhà máy cho họ, và tôi không thể rời mắt khỏi những người
này. Nhưng tôi có thể nói họ không mang lại cho tôi nhiều niềm vui: họ ăn
nhanh, chẳng cần nhai, họ ăn ngấu nghiến, tôi thấy thực ra họ chẳng có khái niệm
gì về việc họ đang làm. Một lần khác, lúc tôi ở cùng đội làm trong xưởng, và ở
đây một tay thợ mở đồ ăn mà ông ta mang từ nhà đến, và - tôi nhớ - tôi
đã nhìn rất lâu một bàn tay màu vàng nổi đầy gân đang lấy trong lọ thủy tinh
dài ra những quả đỗ xanh, từng miếng một, thấy lóe lên một điều gì đó mong
manh, có thể là chút hy vọng mơ hồ. Nhưng bàn tay gân guốc sần sùi (tôi nhìn rõ
tất cả những vết sần, tất cả những động tác có thể thấy trước của bàn tay ấy) cứ
đưa đi đưa lại tiếp tục giữa mồm ông ta và cái miệng chai. Sau một lúc ông ta
quay lưng lại, chắc không cho tôi nhìn thấy, và tôi hiểu ra, tất nhiên ông làm
thế vì tình người, dù lúc ấy tôi định bảo ông cứ tự nhiên tiếp tục đi, vì đối với
tôi chỉ cần nhìn thấy cũng đã quá tốt rồi, chắc hẳn còn hơn không. Tôi mua đầy
một cà mèn vỏ khoai tây gọt từ hôm trước, lần đầu tiên từ một người Phần Lan.
Anh ta lôi ra trong giờ nghỉ ăn trưa, rất thoải mái, và may là hôm ấy Citrom
Bandi không cùng đội với tôi để có thể phản đối. Anh ta đặt trước mặt một gói
giấy rách nát, moi muối hạt từ đó ra, rồi từ từ, chậm rãi dùng đầu ngón tay đưa lên miệng nếm một chút xíu, trước
khi hững hờ nói: “Bán đấy!”. Thông thường giá của nó là hai lát bánh mì hay một
suất bơ thực vật, nhưng anh ta đòi nửa suất xúp buổi tối. Tôi thử mặc cả, tôi
viện mọi lẽ, kể cả sự bình đẳng nữa. “Di bist nist ká jid, dbist á ségec, [“Mày
không phải dân Do Thái, mày là một thằng dị giáo”], mày không phải dân Do Thái”, anh ta lắc đầu theo kiểu
thường thấy của người Phần Lan - đầu gật gật. Tôi hỏi vặn anh ta: “Thế tại sao tôi
lại ở đây?”.
“Tao làm sao biết được?”, anh ta nhún vai. Tôi bảo anh ta: “Đồ Do Thái bẩn thỉu!”. “Có thế đi nữa tao cũng
không bán rẻ đâu”, anh ta đáp. Cuối cùng tôi đã mua đúng bằng giá anh ta đòi, và không biết
buổi tối anh ta từ đâu xuất hiện đúng vào lúc người ta chia xúp cho tôi, và
cũng không biết làm sao anh ta biết trước bữa tối là món mì sợi nấu sữa.
Tôi có thể khẳng định rằng
chỉ ở trong trại tập trung ta mới có thể hiểu đầy đủ một số khái niệm. Chẳng hạn
nhân vật thường thấy trong các truyện kể ngốc nghếch thời niên thiếu của tôi là
“anh chàng lang thang” hay “anh chàng nhà nghèo”, người đến xin phục vụ nhà vua để cầu hôn công
chúa, và chàng rất sẵn lòng vì cái giá phải trả chỉ là bảy ngày. “Nhưng đối với
ta bảy ngày là bảy năm!”, nhà vua nói với chàng trai; tôi cũng có thể nói đúng như thế về trại tập
trung. Chẳng hạn tôi không bao giờ tin rằng mình có thể trở thành một người già
lão tàn tạ nhanh đến thế. Ở bên nhà thì cần có thời gian, ít nhất là năm, sáu
chục năm, để già, còn ở đây ba tháng cũng đủ để thân thể từ bỏ tôi. Tôi có thể
công bố rằng không có điều gì khổ sở, ngám ngẩm hơn là ngày lại ngày quan sát
thấy, ngày lại ngày nhận biết được ta lại bị hủy hoại, lụi tàn thêm bao nhiêu. Ở
bên nhà, mặc dù cũng không dành nhiều sự chú ý đến nó, nhưng bình thường tôi
hài lòng với cơ thể mình, tôi thích - nói thế nào nhỉ - cái bộ khung ấy.
Tôi nhớ một chiều mùa hè, tôi nằm đọc cuốn tiểu thuyết hấp dẫn trong căn phòng
mờ tối, bàn tay tôi vô tình vuốt ve làn da đùi nâu trơn bóng, căng ra bởi những
cơ bắp khỏe mạnh. Gần đây cũng làn da ấy nhưng đã trở nên nhăn nheo, vàng vọt
và khô héo, chỗ nào cũng thấy mưng mủ, thấy phủ đầy những đốm tròn nâu, rách
nát, nứt nẻ, mụn nhọt, vảy cứng, ngứa ngáy, khó chịu, nhất là ở các kẽ ngón
tay. “Ghẻ!”,
Citrom Bandi gật gù xác nhận khi tôi chìa ra cho anh xem. Tôi chỉ ngây ra chứng
kiến cái tốc độ, cái đà xuống dốc không phanh mà mỗi ngày lớp da bọc xương của
tôi cứ hao khuyết, tan rữa, bay biến dần. Ngày nào cũng một bất ngờ mới, cũng
nhận ra một khiếm khuyết mới, một dị tật xấu xí mới nào đó trên cái vật thể
ngày càng xa lạ, đã có thời thân tình với tôi: đó là cơ thể mình. Tôi không thể
nhìn nó mà không có một cảm giác đổ vỡ, một sự kinh tởm nào đó; vì thế sau một thời gian tôi đã không cởi quần áo để
tắm rửa, không đếm xỉa đến mọi bứt rứt của bản thân với những nỗ lực thừa kiểu đó, với cái
lạnh, rồi tất nhiên đối với cả việc tháo bỏ đôi giày của tôi nữa.
Vật dụng này, ít nhất đối
với tôi, đã gây ra rất nhiều phiền toái. Nhìn chung tôi không thể hài lòng với
số quần áo được trang bị trong trại tập trung, chúng ít tính tiện dụng và nhiều
khiếm khuyết, thậm chí chúng trực tiếp trở thành nguyên nhân gây ra những khó
chịu - tóm lại, có thể nói: chúng chẳng ra gì. Chẳng hạn khi trời lún phún mưa -
trong thời tiết chuyển mùa, mưa rất dai dẳng - quần áo vải thô trở thành một ống
cứng, mà lớp da nhạy cảm của chúng tôi kiểu gì cũng muốn tránh chạm vào - nhưng
vô ích, tất nhiên rồi. Áo choàng tù phạm (thứ này được phát hành khá nhiều, phải
công nhận như vậy) không có tác dụng gì, chỉ thêm trở ngại, một lớp ẩm ướt mới
nữa mà theo tôi chẳng có gì xử lí được, ngay cả thứ giấy thô vỏ bao xi măng mà
Citrom Bandi, như nhiều người khác, đã thó cho mình được một tấm mặc vào trong
áo, bất chấp mọi mạo hiểm, vì tội này rất dễ bị phát hiện: chỉ cần một gậy đập
lên lưng, một gậy nữa lên ngực, và tiếng kêu sẽ làm rõ ra tội trạng. Còn nếu nó
đã không kêu nữa - thì xin hỏi - còn ích gì nếu cái chất liệu ướt nhão ra đã
thành một cực hình mới đó, và lại chỉ có thể âm thầm giải thoát khỏi nó?
Nhưng khó chịu nhất, xin
nói, là cái giày đế gỗ. Thật ra tất cả bắt đầu với bùn đất. Nhưng ngoài ra tôi
có thể nói rằng về mặt này các khái niệm đã có cho tới lúc này của tôi chưa
hoàn toàn đủ. Tất nhiên ở nhà tôi cũng đã thấy, thậm chí đã lội bùn - nhưng tôi
chưa hề biết rằng có lúc bùn có thể sẽ là mối lo chính, là địa bàn hoạt động
trong cuộc sống của chúng tôi. Ngập đến bắp chân trong bùn, rồi bằng mọi cố gắng,
bằng một động tác rút đến chụt một cái giải thoát bàn chân ra khỏi bùn, và chỉ
để lại dầm chân vào trong bùn, tất cả chỉ hai, ba mươi xăng ti mét về phía trước:
tôi không được chuẩn bị trước cho việc này và nếu có chuẩn bị trước cũng vô
ích. Mà về đôi giày đế gỗ thì té ra sau một thời gian gót nó bị gãy, khi đó
chúng tôi đành phải đi trên một cái đế phía trước dày hơn và sau một điểm nhất
định nó bỗng nhiên mỏng hẳn và hơi cong lên. Trên cái đế giày như thế, chúng
tôi cứ gật gù như những con lật đật. Hơn thế nữa ở chỗ đã từng có đế giày, khe
hở giữa phần gót giày và đế càng ngày càng toác ra, qua đó cứ sau mỗi bước chân
là bùn lạnh, sỏi vụn, đủ loại hạt sắc lạnh thoải mái chảy vào. Trong khi đó gót
giày đã làm trầy hết mắt cá chân, và gây ra nhiều vết thương ở phần mềm phía dưới. Các vết thương này - theo đặc
tính của chúng - sẽ rỉ nước, nước rỉ ra dấp dính và thế là sau một thời gian
chúng tôi không làm cách nào giải thoát được khỏi đôi giày, không thể tháo ra nổi,
nó cứ dính chặt vào chân như một bộ phận của cơ thể, cứ như là nó mọc ra từ bàn
chân mình vậy. Tôi mang nó ban ngày, mang nó cả khi đi ngủ, chỉ để khỏi phải mất
thời gian khi thức dậy, hoặc chính xác hơn là khi ban đêm phải nhảy từ chỗ nằm
đến hai, ba, thậm chí có khi bốn lần. Vào ban đêm thì không sao: khó nhọc, vấp
ngã, trượt bò trên bùn lầy bên ngoài, nhưng rồi dưới ánh sáng của các ngọn đèn
pha chúng tôi cũng mò tới đích. Nhưng làm thế nào vào ban ngày, làm sao nếu
ngay khi đang làm việc cơn tháo dạ ập đến, không thể tránh khỏi được? Những lúc
như thế người ta lấy hết can đảm, bỏ mũ xuống và xin phép người lính gác: “Gehorsamt
zum Abort”, [“Gehorsamt zum Abort” (tiếng Đức): “Xin phép đi nhà vệ
sinh”] tất nhiên với giả
thiết ở gần đó có buồng mà tù phạm cũng có thể sử dụng. Nhưng giả dụ là có, giả
dụ người lính gác tốt bụng và cho phép một lần, cho phép lần thứ hai nữa: nhưng
tôi thử hỏi ai còn đủ liều lĩnh, còn đủ can đảm để thử thách lòng kiên nhẫn của
người lính gác lần thứ ba? Những lúc như thế chỉ còn lại cuộc đấu tranh thầm lặng,
hai hàm răng nghiến răng vào nhau, hai bên hông run rẩy thót lại, đến khi thử
thách ngã ngũ, và cuối cùng hoặc cơ thể ta, hoặc ý chí ta sẽ chiến thắng.
Và như một phương cách cuối
cùng - biết trước hay bất chợt - cố tình hay né tránh, là chịu đòn - ở
mọi lúc mọi nơi. Tất nhiên tôi cũng được dự phần nào vào những trận đòn, không
hơn nhưng cũng không kém mức bình thường, một cách trung bình, thông thường,
như bất kỳ ai trong chúng tôi, đơn thuần là tương ứng với những điều kiện thông
thường của trại chúng tôi. Điều khác biệt có thể chỉ là, nếu tôi cần phải nói ra:
thì đó là trong điều nói trên thực chất tôi bị đánh không phải bởi một nhân vật
SS - nói thế nào nhỉ - dẫu sao cũng chuyên trách, hay đúng hơn là được
ủy nhiệm, hay bắt buộc làm việc này, mà bởi một gã mang tên “Todt” nào đó có
hành tung mập mờ - như tôi nghe nói - một lính áo vàng của bộ phận kiểu
như giám sát công việc. Gã có mặt ngay ở đó - kèm theo một tiếng hét, một cú nhảy
dài mau lẹ - chỉ vì tôi đã đánh rơi một bao xi măng. Giờ đây, công việc
vác xi măng được bất cứ đội lao động nào chào đón - đúng là vậy, theo kinh nghiệm
của tôi - với sự hân hoan chỉ dành cho những dịp hiếm có, gần như không thể thú
nhận ngay cả giữa chúng tôi với nhau. Anh cúi thấp đầu xuống, một ai đó đặt lên
cổ anh một bao, anh lặc lè vác bao xi măng ấy tới xe tải,
đến đây một người nào đó nhấc bao xuống, rồi anh quay lại theo một đường vòng rộng
mà giới hạn được xác định bởi các khả năng tức thời, và trong trường hợp may mắn
thì còn có những người đứng trước anh, nghĩa là lại bớt xén thêm được chút thời
gian cho tới bao tiếp theo. Cái bao vỏn vẹn cũng chỉ khoảng mươi, mười lăm ký -
trong những điều kiện ở nhà thì nó như trò trẻ con, có khi còn chơi đá bóng với
nó được, nhưng ở đây tôi đã vấp, đã đánh rơi nó xuống đất. Tệ hơn là cái vỏ bao
giấy đã bị nứt, và qua kẽ nứt thứ vật liệu giá trị trong bao, xi măng quý giá,
chảy ra đất. Gã đã ở sát bên cạnh, tôi cảm thấy quả đấm của gã trên mặt làm tôi
ngã vật ra đất, cảm thấy mũi ủng của gã đá vào mạng sườn, thấy tay gã bóp cổ,
dúi mặt tôi xuống đất, vào đống xi măng: hãy vét lên, cào lên, liếm đi - như gã
mong muốn một cách rồ dại. Rồi gã lôi tôi đứng dậy; gã sẽ dạy cho tôi biết: “Dir
werde ich’s zeigen? Arschloch, Scheisskerl, verflucter Judehund”, [(tiếng Đức: “Tao
sẽ cho mày biết tay, đồ khốn kiếp, đồ đê tiện, đồ Do Thái chó chết”] rằng tôi sẽ không đánh rơi thêm một bao
nào nữa, gã hứa. Từ giờ phút đó trở đi chính gã chất từng bao xi măng mới lên cổ
tôi, ánh mắt gã chỉ dõi theo mình tôi trên đường đến chiếc xe tải và quay lại,
và gã gọi tôi lên trước ngay cả khi lẽ ra theo hàng đúng ra phải đến lượt những
người khác. Cuối cùng đã đến mức như tôi và gã chơi trò chơi với nhau, cả hai
đã biết nhau, tôi thấy trên mặt gã một sự mãn nguyện, sự khích lệ nào đó, chứ
chưa muốn nói là vẻ kiêu hãnh, và từ một góc độ nào đó tôi phải công nhận gã
hoàn toàn có lý; dù loạng choạng, dù cúi gập người xuống, dù tối sầm mắt mũi lại,
nhưng tôi vẫn trụ được, vẫn đi lại, vẫn khuân vác trên lưng mà không hề đánh
rơi một bao nào, và xét cho cùng điều đó - phải công nhận - đã chứng minh gã
đúng. Mặt khác, cũng từ cuối ngày hôm đó tôi cảm thấy một điều gì đó đã đổ vỡ
không thể cứu vãn nổi trong tôi, từ đó mỗi sáng thức dậy tôi đều tin rằng đó là
buổi sáng cuối cùng mình còn thức dậy nổi, sau mỗi bước chân tôi đều tin rằng
mình không bước thêm nổi một bước nữa, sau mỗi cử động tôi đều tin rằng mình
không thực hiện nổi thêm một cử động nào hết; thế nhưng rồi, sau đó tôi vẫn thực
hiện bao nhiêu lần nữa.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét