Không số phận
(Nguyên tác: Sorstalanság)
Tác giả: Kertész Imre
Dịch giả: Giáp Văn Chung
Nhà xuất bản Lao Động - 08/2010
5
Có lẽ không một tù nhân
nào - tôi nghĩ - ban đầu lại không có chút ngạc nhiên trong tình hình này: trên
khu sân mà chúng tôi ra sau khi tắm dở dang, lúc đầu bọn con trai chúng tôi
nhìn nhau, ngắm nghía và xoay nhau khá lâu. Tôi còn chú ý đến một người đứng gần,
nom bề ngoài còn trẻ, anh ta xem xét, sờ nắn từ đầu đến chân bộ quần áo trên
mình một cách kỹ lưỡng, gần như bần thần, cứ như anh chỉ muốn biết về chất lượng
vải, cũng như về mức độ thật của nó. Sau đó anh ta nhìn lên, như người muốn nói
một điều gì đó, nhưng khi thấy xung quanh cũng chỉ có một kiểu quần áo ấy, cuối
cùng anh im lặng - ít nhất là trong lúc ấy, đương nhiên có thể lầm lẫn, nhưng
tôi cảm thấy như thế. Dù cái đầu trọc và bộ quần áo tù hơi cộc bởi cái dáng cao
cao, tôi vẫn nhận ra, từ nét mặt gầy xương của anh, đó là anh chàng đang yêu,
người cách đây một giờ - vì chừng ấy thời gian đã trôi đi từ khi chúng tôi tới
đây đến khi thay đổi vẻ bề ngoài - khó nhọc lắm mới buông cô gái tóc đen khỏi
tay mình. Nhưng tôi bỗng cảm thấy rất ân hận vì một điều gì đó ở chỗ này. Khi
còn ở nhà có lần tôi đã lấy hú họa từ trên giá xuống một cuốn sách nằm kín đáo
hơn, đầy bụi bặm - tôi nhớ - đã từ lâu không đọc. Tác giả cuốn sách là một người
tù, sau đó tôi cũng không đọc hết, vì không theo kịp luồng suy nghĩ của tác giả,
hơn nữa các nhân vật đều có tên dài lê thê, ít nhất gồm ba thành phần không thể
nhớ nổi, và cuối cùng vì tôi chẳng quan tâm tẹo nào, hơn nữa thú thực tôi còn
hơi ngán cuộc sống của các tù nhân: thế là đến lúc cần thì tôi mù tịt. Tôi chỉ
còn nhớ rằng người tù, tác giả của cuốn sách này, theo khẳng định của ông, nhớ
đến ngày đầu tiên ở tù - nghĩa là ngày đã cách xa hơn - kỹ hơn là nhớ đến những
ngày sau đó - nghĩa là những ngày gần với thời điểm ông viết cuốn sách hơn. Khi
ấy tôi cho rằng điều này khá mơ hồ, thậm chí còn hơi phóng đại. Thế mà giờ đây
tôi nghĩ có thể ông đã viết sự thật: bản thân tôi cũng nhớ đến hai ngày đầu
tiên chính xác hơn những ngày tiếp sau.
Lúc đầu, có thể nói, tôi
mới chỉ cảm thấy mình như một người khách trong tù, điều này có thể giải thích
được, và về cơ bản mỗi chúng ta, xét cho cùng, đều có xu hướng dễ bị ảo tưởng của
bản chất con người, tôi nghĩ thế. Khu sân nắng chang chang này ở đây nom có vẻ
hơi trơ trụi, tịnh không thấy bóng dáng sân bóng đá, vườn
rau, bãi cỏ đâu. Chỉ có một ngôi nhà gỗ đơn sơ, bề ngoài giống một nhà kho lớn:
có vẻ đó là chỗ ở của chúng tôi. Tôi được biết: chúng tôi chỉ được vào đó trước
khi đi ngủ vào ban đêm. Phía trước, phía sau là hàng dài những nhà kho giống
như thế, chạy xa tít tắp, và phía bên tay trái cũng là một dãy đúng như thế, mặt
trước, mặt sau, bên cạnh các nhà cách nhau một khoảng đều tăm tắp. Phía sau, một
con đường nhựa rộng, chói mắt - lại một con đường nhựa nữa, vì từ sau khi ra khỏi
nhà tắm, đường sá, những quảng trường và những tòa nhà giống hệt nhau trên khu
đất rộng bằng phẳng này đã không thể phân biệt nổi, ít nhất là dưới cái nhìn của
tôi. Ở những chỗ đường chính cắt qua những con đường chạy ngang nằm giữa các
nhà ở, một thanh chắn đường nom giống đồ chơi, xinh xắn, sọc trắng đỏ, mảnh mai
chắn ngang lối qua lại. Còn phía bên phải là hàng rào dây thép gai đã rất quen
thuộc, như tôi bất ngờ được biết có mắc điện, và đúng vậy, lúc đó tôi nhận ra
trên đỉnh những cột bê tông là các trụ sứ trắng, giống như ở nhà tôi đã thấy
trên các đường dây tải điện và dây điện thoại. Người ta đảm bảo điện có thể giật
chết người; chỉ cần bước lên con đường cát nhỏ chạy dọc theo chân hàng rào là từ
chòi canh (người ta đã chỉ cho tôi thấy, và tôi nhận ra đó chính là những cái
chòi mà từ ngoài ga tôi tưởng là chòi canh thú), không cần một âm thanh hay một
lời nhắc nhở duy nhất, lính gác có thể bắn chết - những người đã thông thạo hơn
cảnh báo từ mọi phía, làm ra vẻ quan trọng và rất hăng hái. Chẳng bao lâu nhóm
người tình nguyện cũng đến, giữa những âm thanh náo nhiêt, lặc lè dưới sức nặng
của những cái nồi lớn màu đỏ gạch. Từ trước đó tin đã được loan ra, chỗ nào
cũng thấy kháo nhau, thấy nhắc đến, thấy truyền miệng trên khắp khu sân: “Chúng
ta sắp được chia xúp!”. Khỏi phải nói, tôi cũng cho là đã đến lúc, tuy nhiên
bao nhiêu gương mặt rạng rỡ, sự biết ơn, niềm vui đặc biệt có vẻ gần như con trẻ
khi đón nhận tin này làm tôi thấy có chút kinh ngạc: tôi cảm thấy như thể niềm
vui ấy không phải vì món xúp, mà chủ yếu là vì sự quan tâm - cuối cùng đã tới
sau bao nhiêu bất ngờ ban đầu - ít ra cảm giác của tôi là như thế. Tôi còn nhận
thấy rất có thể thông tin này xuất phát từ người tù có vẻ như là người hướng dẫn
chúng tôi kể từ đây, chứ tôi chưa muốn nói: chủ nhà của chúng tôi. Cũng như người
tù trong nhà tắm, anh ta mặc bộ quần áo hợp với vóc người, mái tóc anh ta đối với
tôi quả thực đã có vẻ bất thường, bên trên chụp một chiếc mũ may từ loại nỉ
dày, màu xanh đen mà ở bên nhà thường gọi là “mũ hàm ếch,” chân đi đôi giày khá
đẹp màu vàng, trên cánh tay đeo chiếc băng đỏ chứng tỏ uy quyền của anh ta, và
tôi bắt đầu phải công nhận: tôi phải cải chính cái hình ảnh lý tưởng vẫn được dạy dỗ ở bên nhà, rằng “không phải quần áo làm nên
con người”.
Trên ngực anh ta còn có một tam giác màu đỏ - để ngay lập tức cho mọi người thấy
anh ta có mặt ở đây không phải vì dòng máu, mà chỉ vì cách suy nghĩ của anh ta,
như không lâu sau đó tôi được biết. Đối với chúng tôi, anh ta có phần chừng mực
và kiệm lời, nhưng thân thiện, anh vui vẻ giảng giải những điều cần thiết, và
khi đó tôi cũng không thấy như thế có gì lạ, vì dẫu sao anh đã ở đây trước, tôi
nghĩ. Nom anh cao, gầy, hơi bơ phờ, luộm thuộm, nhưng nhìn chung là một người
có vẻ mặt thân thiện. Tôi còn nhận thấy anh hay đứng riêng ra một chỗ, và từ
xa, đôi lần tôi bắt gặp một cái nhìn khác lạ, khó hiểu nào đó, và trên khóe miệng
anh nở một nụ cười bất giác, như thể anh ngẩn ngơ nhìn chúng tôi, tôi không hiểu
vì sao. Sau này người ta bảo anh là người gốc Slovákia. Một vài người trong
chúng tôi nói được ngôn ngữ của anh, và họ thường tụ tập quanh anh thành một
nhóm nhỏ.
Chính anh chia xúp cho
chúng tôi bằng một chiếc thìa gỗ cán dài nom rất lạ, hình dạng nom đúng như một
cái phễu. Hai người khác, có vẻ là phụ việc và cũng không thuộc số chúng tôi,
chia cho chúng tôi những chiếc đĩa sơn đỏ và những chiếc thìa ăn cũ mòn, méo mó - hai
người một chiếc, họ bảo vì số lượng không đủ, ăn xong phải trả ngay dụng cụ ăn -
họ nói thêm. Một lát sau tôi cũng đến lượt. Tôi nhận được xúp, đĩa và thìa
chung với tay “thợ làm đồ da”: tôi không hào hứng lắm vì không quen ăn chung
đĩa chung thìa với người khác, nhưng hoàn cảnh bắt buộc - tôi nhìn nhận - đôi
khi đưa đến những tình cảnh như thế. Đầu tiên cậu ta nếm trước, sau đó liền đưa
thìa cho tôi. Nom mặt cậu ta rất kỳ quặc. Tôi hỏi món xúp thế nào, cậu ta bảo
tôi cứ nếm thử đi. Nhưng đến lúc đó tôi đã thấy ở quanh tôi bọn con trai đứa
thì sững sờ, đứa thì nhịn cười nhìn nhau. Thế là tôi cũng nếm thử: phải công nhận
rằng đáng tiếc là không thể ăn nổi. Tôi hỏi cậu “thợ làm đồ da” xem nên làm thế
nào, cậu ta bảo phần của cậu ta thì tôi có thể đổ bỏ. Đúng lúc đó phía sau lưng
tôi vang lên một giọng nói vui vẻ: “Món này gọi là tạp pí lù”, giọng nói giải thích.
Tôi liếc thấy một người đẫy đà, đã có tuổi, dưới cánh mũi là vết trắng hơn của
bộ ria nhọn vừa cạo, khuôn mặt ông toát ra vẻ phúc hậu. Ông đang nói với mấy
người mặt mũi nhăn nhó còn đứng quanh chúng tôi, tay vẫn cầm cặp lồng và thìa.
Ông kể ông đã từng tham gia cuộc chiến tranh trước, hơn nữa từng là sĩ quan.
“Tôi đã có đủ dịp để tìm hiểu kỹ về thứ xúp này”, ông bảo, cùng với các chiến hữu người Đức trên mặt
trận, “những người mà bấy giờ chúng tôi cùng sát cánh chiến đấu” ông nói. Theo
ông đây thực chất không là gì khác
ngoài món xúp “rau sấy khô”. Dĩ nhiên, ông nói thêm một cách thông cảm, và nở
nụ cười với vẻ rộng lượng nhất định, đối với dạ dày người Hung thì nó hơi lạ.
Nhưng ông khẳng định, có thể quen, thậm chí cần phải quen với nó, vì trong đó
“có nhiều chất dinh dưỡng và vitamin”, được đảm bảo, ông giải thích, bằng phương pháp sấy
khô và sự thông thạo của người Đức trong công việc này. “Hơn nữa”, ông nói thêm và lại mỉm
cuời, “với một người lính tốt, nguyên tắc đầu tiên là: ăn tất cả những gì hôm
nay được cấp phát, vì không biết ngày mai người ta có cho ăn nữa không”, đó là những gì ông đã
nói. Sau đó đúng là ông đã ăn hết suất xúp của mình, bình thản, đều đều, không
hề nhăn nhó, đến giọt cuối cùng. Nhưng tôi thì dẫu sao cũng đã hắt phần xúp của
mình vào chân tường, giống như tôi nhìn thấy một vài đứa con trai và người lớn
đã làm. Nhưng tôi trở nên lúng túng khi liếc thấy cái nhìn từ xa của người phụ
trách chúng tôi, và tôi ngại liệu anh ta có khó chịu vì điều đó, nhưng tôi chỉ
nhận ra cách thể hiện rất đặc biệt, tựa như lại thấy nụ cười khó xác định kia
thoáng qua trên nét mặt anh. Rồi tôi đem trả đĩa, thế vào đó tôi nhận được một
lát bánh mì dày, bên trên là một miếng màu trắng giống viên trò chơi xếp hình
và cả về độ lớn cũng xấp xỉ bằng ấy: một miếng bơ - không, bơ thực vật, như người
ta nói. Tôi đã ăn hết chỗ thức ăn này, mặc dù chưa hề nhìn thấy loại bánh mì
như thế: lát bánh mì hình vuông, từ trong ra ngoài như được nướng từ bùn đen, bột
bánh lẫn cả những sợi rơm và sạn, khi nhai thấy lạo xạo, nhưng dẫu sao cũng là
bánh mì, vả lại sau chặng đường dài tôi cũng đã đói meo. Vì không có dụng cụ
ăn, tôi dùng ngón tay quết miếng bơ
thực vật lên bánh mì, theo kiểu Robinson, đúng như tôi nhìn thấy những người
khác đã làm. Ăn xong tôi ngó quanh tìm nước, thật khó chịu nhưng té ra không
có: hừ, tôi bực mình, rồi chúng tôi lại có thể bị khát như trên tàu hỏa thôi.
Lúc đó, cuối cùng chúng
tôi mới để ý hơn đến một thứ mùi. Thật khó xác định: nó ngòn ngọt nhưng dính dấp,
hơi lẫn thứ mùi hóa chất đã quen thuộc, đến nỗi tôi sợ miếng bánh mì vừa nuốt sẽ
trào ngược ra khỏi cổ. Không khó khăn lắm chúng tôi đã phát hiện ra: thủ phạm
là một ống khói, nằm bên trái về phía con đường, nhưng xa hơn nhiều. Có thể thấy
ngay đó là ống khói của một nhà máy, và người phụ trách chúng tôi cũng cho mọi
người biết như vậy, anh còn nói thêm: đó là của nhà máy thuộc da, cũng như nhiều
người đã biết ngay từ đầu. Tôi chợt nhớ: trước đây vào Chủ nhật đôi khi tôi
cùng cha đi xem bóng đá ở sân Újpest [Újpest: Tên một
vùng nay là quận IV của Budapest, cũng là tên một đội bóng đá có sân vận động nằm
trong khu vực này], tàu điện
cũng chạy ngang qua một nhà máy thuộc da, và trên đoạn đường đó bao giờ tôi
cũng phải bịt mũi lại. Mọi người còn bảo, thật may là chúng
tôi sẽ không làm việc trong nhà máy ấy: nếu mọi việc tiến triển tốt, nếu chúng
tôi không bị tả, kiết lỵ hay dịch bệnh khác thì, chúng tôi được trấn an, chẳng
bao lâu nữa chúng tôi sẽ được đi nơi khác dễ chịu hơn. Chính vì thế mà chúng
tôi chưa đeo số trên quần áo, và nhất là trên da, giống anh chàng chỉ huy của
chúng tôi, “chỉ huy Block” [Block: tòa nhà, dãy nhà, như mọi người gọi
anh ta bây giờ. Nhiều người đã thấy tận mắt chữ số này: nó có màu mực xanh lá
cây nhạt, họ đồn nhau, được viết lên cổ tay, được xăm, chạm bằng kim chuyên dụng,
không thể rửa sạch. Gần như đúng vào lúc đó tôi nghe tiếng mấy người tình nguyện
chia xúp nói chuyện với nhau. Họ cũng đã nhìn thấy những con số xăm trên tay
các tù phạm cũ, trong nhà bếp. Một câu trả lời đặc biệt được truyền miệng từ
người nọ sang người kia mà người ta còn cắt nghĩa và nhắc đi nhắc lại quanh tôi
mãi, là câu trả lời của một tù phạm khi một người trong chúng tôi hỏi đó là cái
gì: “Himmlische Telephonnummer, [Himmlische Telephonnummer (tiếng Đức): số điện thoại của
Trời, hoặc số điện thoại may mắn] - tức “số điện thoại của Trời”,
hình như phạm nhân ấy đã nói thế. Tôi thấy việc này nhìn chung đã làm mọi người
suy nghĩ rất lung, và mặc dù không hiểu hết những từ này, rõ ràng tôi cũng lấy
làm lạ. Mọi người bắt đầu vây quanh “chỉ huy Block” và hai người phụ
việc, họ đi tới đi lui, căn vặn, tra vấn bằng đủ các câu hỏi, chẳng hạn như có
dịch bệnh không? “Có”, đó là câu đáp; điều gì xảy với những người bệnh? “Họ chết”.
Thế những người chết thì sao? “Họ bị thiêu”, chúng tôi được biết. Sự thật là,
không rõ bằng cách nào, vì không theo dõi chính xác câu chuyện, nhưng tôi dần dần
nhận ra, cái ống khói đối diện bên kia không phải của nhà máy thuộc da, mà là của
một Crematorium, một lò thiêu xác như chúng tôi được nghe cắt nghĩa
của từ này. Nếu vậy thì tôi cũng phải nhìn kỹ hơn: một cái ống khói lùn, có góc
cạnh, miệng loe rộng, trên đỉnh như bị bất chợt phạt ngang một nhát. Có thể nói
rằng ngoài sự kính nể nhất định, và tất nhiên ngoài cái mùi mà thực sự chúng
tôi đã ngập ngụa ở trong như một thứ bùn nhão trong đầm lầy ra, tôi không cảm
thấy điều gì khác. Nếu không nói là ở phía xa, chúng tôi liên tục bất ngờ khi
nhìn thấy thêm một cái, rồi thêm một cái nữa và ở phía chân trời sáng rực lại
thêm một cái ống khói như thế nữa, trong số đó hai cái đang nhả lên bầu trời thứ
khói giống hệt như cái ở gần chúng tôi, và có lẽ những người nghi ngờ rằng còn
một đám khói nữa đang cuộn lên từ phía sau một khu bãi có nhiều bờ bụi thấp kia
có lý, và theo tôi, họ có quyền nghĩ: chẳng lẽ dịch bệnh lại lớn tới mức nhiều
người chết đến thế?
Tôi có thể tuyên bố rằng
từ buổi tối của ngày đầu tiên còn chưa tới, về cơ bản tôi đã biết đại thể mọi
việc. Đúng là giữa chừng chúng tôi cũng đã đi qua nơi đi vệ sinh của khu nhà -
một nơi có ba cái bệ đặt theo hàng dọc, trên mỗi bệ có hai hàng lỗ tròn, tổng cộng
là sáu hàng lỗ: phải ngồi lên trên hay đi đúng lỗ, tùy từng người, tùy cảnh.
Nhưng đâu có nhiều thời gian, vì chỉ lát sau đã xuất hiện một phạm nhân rất
nóng nảy, tay đeo băng đen, cầm một cây gậy có vẻ nặng, thế là tất cả phải đi
ngay. Thêm vài phạm nhân cũ, ăn mặc đơn giản cũng đi lại gần đó: họ có vẻ hiền
lành hơn, còn vui vẻ chỉ dẫn vài lời. Với sự chỉ đạo của anh chàng “chỉ
huy Block”, chúng tôi phải đi lại trên một đoạn đường dài, con đường
chạy bên cạnh một khu nhà ở rất lạ: sau hàng rào dây thép gai là những nhà giống
nhà kho như đã biết, giữa các ngôi nhà là những phụ nữ nom rất kỳ quái (tôi phải
lập tức quay mặt đi khi trông thấy một người, qua vạt áo để hở một đứa bé đầu
trọc nhẵn bóng dưới ánh nắng đang cố bám vào một cái gì đó thõng xuống lủng lẳng)
và những người đàn ông còn kỳ quái hơn, nhìn chung đều mặc áo quần rách mướp,
nhưng vẫn giống như quần áo người ta mặc ngoài đời thường, tôi phải nói như vậy.
Khi quay lại thì tôi cũng đã nhận thấy: đó là trại của người Digan. Tôi hơi ngạc
nhiên: ở bên nhà gần như tất cả mọi người, kể cả tôi, đều nhận xét rất thận trọng
đối với người Digan, tất nhiên, nhưng cho đến giờ tôi chưa bao giờ nghe nói họ
cũng có tội. Đúng lúc đó thì một chiếc xe đi đến, phía sau hàng rào của họ, chiếc
xe do bọn trẻ con kéo, trên vai lũ trẻ quàng dây cương, nom chúng giống như những
chú ngựa nhỏ; một người có bộ ria mép rậm bước đi bên cạnh, cầm trong tay cây
roi. Hàng trên xe được phủ bằng chăn dạ thô, nhưng qua khe hở thấy ló ra những
chiếc bánh mì, mà là bánh mì trắng, tròn dài, không thể nhầm lẫn được: từ đó
tôi suy ra rằng
có vẻ như dẫu sao họ cũng đứng hàng trên chúng tôi. Còn một hình ảnh khác nữa
cũng lưu lại trong trí nhớ tôi trong lúc đi lại ấy: ở hướng khác, có một người
mặc đồ trắng trên đường, hai bên ống quần trắng viền những sọc đỏ rộng, đội một
chiếc mũ nồi to, đen, kiểu mũ mà nhân vật trong tranh các họa sĩ thời Trung cổ
thường đội, tay ông ta cầm một chiếc ba toong lớn, từ đầu đến cuối ông cứ vừa
đi vừa nhìn trái nhìn phải suốt, và tôi thật khó tin rằng - theo lời người ta -
con người khả kính ấy cũng là một tù nhân như chúng tôi.
Tôi có thể thề rằng trên
đoạn đường này tôi không hề nói chuyện với bất kỳ một người lạ nào. Thế nhưng từ
khi đó trở đi, đúng là tôi có thể coi như mình đã có những hiểu biết chính xác.
Ở phía bên đối diện kia, trong giây phút này, những người
bạn đồng hành với tôi trên một chuyến tàu đang bị thiêu cháy, tất cả những người
xin lên ô tô, những người già cả hoặc vì những lý do khác tỏ ra không thích hợp
trước mặt bác sĩ, cũng như bọn trẻ con và những bà mẹ đi cùng chúng hay những
người sắp làm mẹ, những người đã thấy dấu hiệu có thai, như người ta nói. Từ
nhà ga họ cũng đi vào nhà tắm. Họ cũng được phổ biến về các móc treo quần áo, về
những con số, về cách thức tắm đúng như chúng tôi. Đám thợ cạo cũng có mặt đúng
như thế, - như người ta nói, - và người ta cũng gí xà phòng vào tay họ. Rồi sau
đó họ cũng vào tới nhà tắm, trong đó, tôi nghe nói, cũng có các đường ống và
vòi hoa sen: chỉ có điều từ các vòi hoa sen ấy người ta không xả nước, mà là xả
hơi gas xuống đầu họ. Tất cả những điều đó không phải tôi biết ngay một lúc, mà
biết dần dần từng tí một, mỗi lúc lại thêm vài tình tiết, có điều biết qua những
cuộc tranh cãi, có điều phải chấp nhận và bổ sung thêm những cái mới. Giữa chừng,
tôi được biết, rằng từ đầu đến cuối người ta đối đãi với họ rất vui vẻ, họ được
lo lắng, được chăm sóc tử tế, bọn trẻ con chơi bóng và hát hò, và nơi họ bị xả
hơi ngạt nằm giữa những thảm cỏ, vườn cây, luống hoa rất đẹp: chính vì thế tất
cả những điều đó đã gây cho tôi cảm giác hơi giống trò đùa, hoặc như một trò
tinh quái học trò nào đó. Thêm nữa, nếu nghĩ lại, thì tất cả, chẳng hạn việc họ
đã thay đổi áo quần cho chúng tôi một cách khéo léo như thế nào, chỉ bằng sáng
kiến về những chiếc móc áo và con số, hay dọa những người có tư trang bằng việc
chiếu tia Röntgen, cuối cùng đều là những lời nói suông cả. Dĩ nhiên, tôi phải
công nhận rằng tất cả không phải là trò đùa, nếu như nhìn từ khía cạnh khác -
xin được nói như vậy - dưới con mắt tôi, và chủ yếu tôi cũng đã khẳng định được
điều này qua cái dạ dày mỗi lúc như muốn lộn mửa của mình; tuy nhiên đó là ấn
tượng của tôi, và về cơ bản - hoặc ít nhất tôi cũng tưởng tượng như vậy - thì
điều này hẳn không thể diễn ra theo cách khác cho lắm. Rốt cuộc chỉ ở đây họ mới
ngồi lại với nhau, có thể nói có lẽ họ đã chụm đầu lại với nhau, dù họ không phải
là lũ học trò, mà là những người đã trưởng thành, cũng có thể, thậm chí gần như
chắc chắn - tôi nghĩ - họ là những người khả kính, ăn mặc chững chạc, miệng ngậm
xì gà, có cấp bậc, có khi toàn là các cấp chỉ huy, những người giờ đây không thể
bị làm phiền nữa - tôi tưởng tượng thế. Một người trong số họ nghĩ đến khí gas,
một người khác nghĩ ngay đến nhà tắm, người thứ ba nghĩ đến xà phòng, người thứ
tư thêm vào những luống hoa, và cứ thế tiếp tục. Cũng có khi họ còn có thể
tranh cãi lâu hơn về một ý tưởng nào đó, họ có thể sửa đổi, trong khi những người
khác ngay lập tức sướng phát điên lên, và họ nhảy cẫng lên (không hiểu tại sao,
nhưng tôi cứ đinh ninh: họ đã nhảy cẫng
lên) đập lòng bàn tay vào nhau - mọi chuyện đều có thể được suy diễn ra rất cụ
thể, ít nhất là đối với tôi. Sau đó, những gì các bậc chỉ huy tưởng tượng ra đã
trở thành hiện thực bởi nhiều bàn tay mẫn cán và công việc hối hả, và tôi phải
công nhận rằng không thể nghi ngờ thành công của các ý tưởng đó. Không còn nghi
ngờ gì nữa, bà cụ già nghe lời con ngoài sân ga, cậu bé đi đôi giày trắng và bà
mẹ tóc vàng, bà có vóc người to lớn, ông già đội mũ phớt đen hay người bị thần
kinh khi đứng trước ông bác sĩ đều đã bị như thế. Tôi nhớ đến cả ông “chuyên
gia”: thật đáng thương, chắc hẳn ông ta rất kinh ngạc. “Rozi” cũng vừa lắc đầu
thương hại vừa bảo: “Khổ thân Moskovics!” và tất cả chúng tôi đồng tình với cậu
ta. “Chàng trai lụa” cũng kêu lên: “Jesus Maria!”. Cậu tiết lộ với chúng tôi, đúng như bọn con trai
đã đoán: giữa cậu và cô gái ở nhà máy gạch quả là “đã xảy ra mọi chuyện”, và giờ đây cậu nghĩ đến
hậu quả việc làm của mình, với thời gian biết đâu sẽ biểu hiện trên cơ thể cô
gái. Chúng tôi công nhận cậu lo ngại hợp lý, mặc dù ngoài nỗi lo lắng, trên mặt
cậu còn thấy một điều gì đó khác nữa, một biểu hiện tình cảm khó xác định, và bọn
con trai - trong giây phút ấy - đã nhìn cậu với vẻ tôn trọng nhất định, điều đó
đối với tôi, dĩ nhiên, không khó hiểu chút nào.
Một việc khác cũng làm
tôi có đôi chút suy nghĩ vào ngày hôm đó là sự việc tôi biết được rằng, nơi
này, công trình này đã có từ nhiều năm nay, nó tồn tại, hoạt động ngày này qua
ngày khác giống nhau; và mặc dù tôi thấy ý nghĩ này có thể hơi thái quá - nhưng
dù sao vẫn có vẻ như nó đã chờ tôi tới. Bất luận thế nào, thì “chỉ huy Block”
của chúng tôi - nhiều người nhắc với sự công nhận đặc biệt nào đó, có thể nói
là gần như hãi hùng - đã sống ở trại này từ cách đây bốn năm. Bấy giờ tôi mới sực
nhớ ra rằng năm đó cũng là năm rất quan trọng đối với tôi, bởi vì đúng năm đó
tôi ghi tên vào trường trung học. Tôi còn nhớ khá kỹ cả về buổi lễ khai giảng -
hôm ấy tôi mặc bộ đồ màu xanh thẫm, nẹp áo đính dải gấp khúc, kiểu Hung, còn gọi
là trang phục
“Bocskai”. [Bocskai: Gọi theo tên của Bocskai István (1557-1606),
Vương công của vùng Translyvania (thời kỳ 1605-1606), người đóng vai trò quan
trọng trong phong trào cải cách tôn giáo, chính trị (Reformation) tại châu Âu
thế kỷ 16]. Tôi cũng
còn nhớ những lời của thầy hiệu trưởng - bây giờ nghĩ lại, thấy ông quả là một
con người khả kính, dáng vẻ bề ngoài hơi giống một vị chỉ huy, với đôi kính mắt
nghiêm nghị và bộ ria trắng rất đẹp. Để kết thúc bài nói, tôi nhớ ông đã trích
lời một nhà thông thái cổ đại: “non scolae sed vitae discimus” - “không
học cho nhà trường, mà cho cuộc đời”. Nếu như thế thì, tôi nghĩ, lẽ ra tôi phải học về
Auschwitz từ đầu chí cuối. Lẽ ra người ta phải giảng giải công khai, tử tế, có
ý nghĩa về tất cả. Chỉ có điều ở trong trường, suốt bốn năm, tôi không nghe nói
về nó dù chỉ một từ. Nhưng tất nhiên, tôi thấy nếu nói về nó thì chỉ gây lo ngại mà thôi, vả lại nó cũng
không thuộc về những kiến thức chung. Thiếu sót đó khiến cho đến giờ tôi mới được
khai trí ở nơi này, chẳng hạn như chúng tôi đang sống trong “Kozentrationslager”, một “trại tập trung”. Các trại này cũng không
giống nhau, người ta giải thích thế. Ví dụ trại này là “Vernichtungslager”, nghĩa là “trại hủy diệt”.
Còn “Arbeitslage”, nghĩa là “trại lao động”, người ta nói thêm, thì hoàn toàn khác: ở đó cuộc
sống dễ chịu hơn, các điều kiện sinh hoạt và ăn uống, nghe đồn, không thể so
sánh được, và điều này cũng là lẽ tự nhiên, vì xét cho cùng, mục đích ở đó
khác. Chúng tôi cũng sẽ được tới một nơi như thế, nếu như giữa chừng không xảy
ra chuyện gì, mà ở Auschwitz, - xung quanh tôi người ta đều công nhận, - chuyện
gì đó có thể xảy ra. Bất luận thế nào cũng không nên báo ốm, người ta tiếp tục
khuyên. Khu bệnh viện nằm phía đằng kia, ngay dưới chân một ống khói, như những
người thông thạo khi nói với nhau chỉ gọi ngắn gọn: ở chân “Số 2”. Mối họa chủ yếu tiềm ẩn
trong nước, nước không đun sôi, ví dụ như thứ nước mà tôi cũng đã uống trên đường
từ nhà ga về tới nhà tắm - nhưng lúc đó thì tôi chưa thể biết. Chắc chắn, ở đó
đã có biển báo, không cần bàn cãi, nhưng lẽ ra tay hiến binh cũng phải nói chứ,
tôi nghĩ. Nhưng dù sao đi nữa, tôi sực nhớ, cũng phải biết kết quả cuối là quan
trọng: may nhất, ơn Chúa, là tôi cảm thấy người khỏe khoắn, và tới giờ tôi cũng
chưa nghe thấy bọn con trai phàn nàn.
Sau đó, trong ngày hôm ấy
tôi còn làm quen với nhiều điều cần biết, nhiều khung cảnh, và các thói quen
khác. Tựu trung lại, có thể nói là buổi chiều tôi nghe được khá nhiều tin tức,
quanh tôi người ta nói về những viễn cảnh, khả năng và hy vọng liên quan đến
tương lai của chúng tôi nhiều hơn về cái ống khói. Có những lúc, tựa như nó
không hề đứng đó, vì chúng tôi chỉ để ý đến luồng hơi của nó: tất cả phụ thuộc
vào hướng gió, như nhiều người nhận ra. Ngày hôm ấy lần đầu tiên tôi còn nhìn
thấy đám phụ nữ. Một nhóm người hồi hộp tụ tập gần hàng rào dây thép chỉ cho
tôi đúng là họ ở đó, dù tôi nhận ra họ rất khó khăn, mà chủ yếu là không nhận
ra nổi họ là những phụ nữ, đang ở bên kia khoảng đồng đất sét mở ra xa xa phía
trước chúng tôi. Tôi cũng hơi giật mình vì họ, và nhận thấy xung quanh tôi, sau
niềm vui ban đầu, sau cảm giác hồi hộp của phát hiện, mọi người đều trở nên khá
im lặng. Chỉ có một nhận xét cộc lốc, hơi khàn khàn ở rất gần đập vào tai tôi:
“Họ trọc đầu”. Rồi đúng lúc đó, giữa tĩnh lặng, lần đầu tiên tôi nghe trong từng đợt gió
nhẹ chiều mùa hè, rất mỏng manh, phập phồng và gần như mơ hồ không thực, nhưng
không nghi ngờ gì nữa: đó là tiếng nhạc đem lại nét
thanh bình, rộn rã, thứ nhạc trong khung cảnh này, cùng với những gì đập vào mắt,
đã làm tất cả mọi người, kể cả tôi, hết sức kinh ngạc. Lần đầu tiên tôi đứng, lúc
đó còn chưa biết để chờ điều gì, trong một hàng phía cuối khối mười hàng người
trước cửa nhà của chúng tôi - cũng như trước cửa tất cả những nhà khác - toàn bộ
tù nhân đều đang đứng chờ, hai bên, phía trước, phía sau, nhìn đâu cũng thấy
như vậy, lần đầu tiên tôi bỏ mũ xuống khỏi đầu, đúng theo yêu cầu được phát ra,
trong khi phía ngoài đường chính, có dáng ba người lính đi xe đạp, lướt qua chậm
chạp, êm nhẹ không tiếng động trong làn không khí loãng của buổi hoàng hôn: tôi
cảm thấy đó là một hình ảnh đẹp, trang nghiêm theo cách nào đó. Cũng lúc đó tôi
nghĩ: ô hay, đúng là đã từ lâu tôi không gặp những người lính. Chỉ có điều tôi
cần ngắm kỹ, những người ấy đứng phía bên kia thanh chắn đường, nghe những điều
“chỉ huy Block” của chúng tôi (anh ta
cũng bỏ mũ cầm tay) nói với họ từ phía bên này, họ nghe với vẻ lạnh lùng, băng
giá, từ một độ cao không thể gần gũi nổi - một người trong số họ còn ghi chép
gì đó vào một quyển sổ dài. Tôi thật khó nhận ra - những con người không hề đáp
lại bằng một lời hay một cử chỉ nào trên con đường lớn vắng hoe kia, ở một tầm
uy quyền gần như một điềm dữ kia, lại chính là thành viên của cái đơn vị hòa
nhã, vui vẻ vừa đón chúng tôi sáng nay ngoài ga tàu. Cùng lúc ấy tôi nghe có tiếng
động nhỏ, một giọng nói, và ở bên phải, tôi thấy một nét mặt hướng ra phía trước,
thấy đường viền vồng lên của một lồng ngực: đó là ông cựu sĩ quan. Ông lẩm bẩm,
giữa chừng đôi môi gần như không động đậy: “Điểm danh buổi tối”. Ông khẽ gật đầu,
với một nụ cười, bằng nét mặt của người biết rằng mọi việc đang diễn ra đối với
ông đều dễ hiểu, hoàn toàn sáng tỏ, và ở một mức độ nào đó đã gần như theo ý
thích của ông vậy. Rồi đúng lúc đó, lần đầu tiên tôi nhìn thấy - vì bóng tối đã
ập xuống với chúng tôi - màu đêm ở đây, và cả một hiện tượng này nữa: pháo hoa,
pháo hoa thực sự của những ngọn lửa và tia sáng trên nền chân trời phía bên
trái. Quanh tôi nhiều người thì thầm, lẩm bẩm nhắc đi nhắc lại: “Những lò
thiêu!...” mà sự thực, tôi có thể nói rằng những lời này giờ đây chỉ còn như sự
ngạc nhiên trước một hiện tượng tự nhiên. Sau đó là: “abtreten”, [Abtreten (tiếng
Đức): giải tán, lui, biến] và hình như tôi đã hơi đói, nhưng rồi
tôi được biết bữa ăn tối chính là miếng bánh mì mà tôi đã ăn lúc sáng, về dãy
nhà, về “Block” thì đã rõ là bên trong hoàn toàn trống rỗng, không có đồ gỗ,
không trang thiết bị, thậm chí đèn cũng không, nền nhà bằng xi măng, trên cái nền
này việc nghỉ đêm chỉ có thể được giải quyết giống như trong chuồng ngựa của cảnh
binh: tựa lưng vào gióng chân một cậu nào đó ngồi phía sau tôi, còn người ngồi
trước thì tựa vào đầu gối tôi; và vì
tôi cũng đã mệt và buồn ngủ sau bao nhiêu ấn tượng, trải nghiệm và cảm giác mới,
chẳng bao lâu tôi chìm vào giấc mơ.
Những ngày tiếp theo -
cũng gần như những ngày trong nhà máy gạch - chỉ đọng lại trong tôi một ít chi
tiết, đúng hơn là sắc thái của chúng, một cảm giác, có thể nói là một ấn tượng
chung. Chỉ có điều ấn tượng này rất khó xác định. Trong những ngày này vẫn còn
những điều mới biết, mới thấy và mới trải nghiệm. Thỉnh thoảng trong những ngày
này, một cảm giác lạnh lẽo kỳ quặc và xa lạ đã chạm đến tôi, tôi bắt gặp cảm
giác này lần đầu tiên khi nhìn thấy đám phụ nữ, một vài lần tôi thấy mình giữa
đám người bơ phờ, những khuôn mặt vêu vao, những con người ngơ ngác nhìn nhau,
những người cứ hỏi nhau hoài: “Thế nào? Ông thấy thế nào?” - và câu trả lời thường
là im lặng, hoặc chỉ là: “Kinh khủng”. Nhưng không phải là từ này, không hẳn là ấn tượng
này - tất nhiên là đối với tôi - là những gì mà tôi có thể dùng để đặc tả chính
xác về Auschwitz. Trong số mấy trăm người ở cùng Block với tôi có cả ông già
thiếu may mắn nọ. Nhìn ông hơi ngộ trong bộ quần áo tù rộng thùng thình, với
chiếc mũ rộng lúc lúc lại trượt xuống trán. “Các vị thấy thế nào?” ông hỏi, “Ý
các vị thế nào?...”, nhưng
dĩ nhiên chúng tôi không thể nói điều gì. Sau đó tôi không còn theo kịp những lời
lắp bắp và lộn xộn của ông nữa. Ông không được suy nghĩ, hay là có nhưng lúc
nào cũng chỉ có thể và cần phải nghĩ tới một điều, tới những người mà ông đã “bỏ
lại ở nhà”,
và vì họ ông “phải trở nên cứng rắn”, vì họ đợi ông về: vợ ông và hai đứa con - đó gần
như là tất cả những gì tôi có thể nhớ. Nhưng điều lo ngại nhất ở đây của ông về
cơ bản cũng như ở trong trạm thuế quan, trên tàu hỏa và trong nhà máy gạch: đó
là độ dài của ngày. Ngày giữa mùa hè bắt đầu rất sớm, ngay sau lúc mặt trời mọc
buổi sáng một lúc. Đến bây giờ tôi mới biết những buổi sáng mùa hè ở Auschwitz
lạnh như thế nào: bọn con trai chúng tôi tụm lại ở hướng trông ra hàng rào dây
thép gai của dãy nhà, ép sát vào nhau, sưởi ấm cho nhau, đối diện với vầng mặt
trời đỏ rực, méo mó vừa nhô lên. Mấy tiếng sau thì chúng tôi đã phải tìm đến chỗ
có bóng mát rồi. Dẫu vậy thời gian ở đây vẫn cứ trôi; tay “thợ làm đồ da” cũng
có mặt ở đây với chúng tôi, và vẫn còn nghe thấy một đôi câu chuyện tiếu lâm; ở
đây cũng có - không phải những đinh đóng móng ngựa mà là sỏi, để “chàng trai lụa”
thắng hết của chúng tôi: và ở đây thỉnh thoảng cũng vẫn thấy giọng nói của
“Rozi”: “Bây giờ ta hát bằng tiếng Nhật nhé!”. Ngoài ra mỗi ngày hai lần đi vệ sinh, buổi
sáng vào nhà tắm (một chỗ giống nhà vệ sinh, nhưng thay cho các bục đặt suốt dọc
theo chiều dài là những bồn tráng kẽm,
bên trên chạy ống thép có khoan các lỗ nhỏ sát nhau, từ những lỗ ấy
nước ri rỉ chảy ra), chia thức ăn, điểm danh buổi tối, và dĩ nhiên, cả tin
tức nữa - tôi phải bằng lòng với chừng ấy, đó là trình tự của một ngày.
Thêm vào đó là những ấn tượng: như sự kiện “Blocksperre”, hoặc “đóng Block”, vào tối hôm thứ hai -
đó là lần đầu tiên tôi thấy chỉ huy của chúng tôi sốt ruột, thậm chí có thể nói
là bực tức - với những âm thanh hỗn độn từ xa vọng lại, mà lắng tai nghe kỹ
chúng tôi cho rằng mình đã nghe thấy tiếng la hét, tiếng chó sủa và tiếng súng
nổ trong bóng tối hơi ngột ngạt của dãy nhà; hay một cảnh nữa, cũng phía sau
hàng rào thép gai, một đoàn người đi làm về như người ta bảo, và tôi cũng phải
tin, vì chính tôi cũng nhìn thấy trên các đống rách nát mà những người đi phía
sau lôi về, không nghi ngờ gì nữa, đúng là những xác người, như mọi người xung
quanh tôi khẳng định. Những ấn tượng đó, trong một thời gian dĩ nhiên đã đánh
thức trí tưởng tượng của tôi. Tuy nhiên, tôi khẳng định, chúng không đủ để giết
hết thời gian nhàn rỗi trong suốt một ngày dài. Tôi đã nhận ra: ngay cả ở
Auschwitz có vẻ như cũng có thể buồn chán, cho dù ta có được ưu đãi. Chúng tôi
cứ chờ đợi, chờ đợi, mà tôi nghĩ thực ra là để đừng xảy ra chuyện gì. Sự
chán chường này, cùng với sự chờ đợi kỳ quặc này, tôi nghĩ, cái ấn tượng này,
phải, gần như là chính nó thực sự có nghĩa là Auschwitz, tất nhiên là trong mắt
tôi.
Còn một điều nữa tôi phải
công nhận: ngày hôm sau tôi đã ăn hết, thậm chí ngày thứ ba tôi còn mong món
xúp. Nói chung, ở Auschwitz tôi cũng phải ngạc nhiên vì trật tự ăn uống. Buổi
sáng chẳng mấy chốc người ta đã mang đến một thứ nước gì đó, mà họ bảo là cà
phê. Bữa trưa, nghĩa là món xúp, được đưa đến sớm bất ngờ, mới khoảng chín
giờ. Nhưng sau đó không xảy ra điều gì về mặt này, cho đến tận lúc chia bánh mì
và bơ thực vật vào chiều tối, trước giờ điểm danh: thế là đến ngày thứ
ba tôi đã buộc phải làm quen với cảm giác khó chịu của cái đói, và tất cả bọn
con trai đều ca cẩm. Chỉ có cậu nghiện thuốc bảo cảm giác ấy đối với cậu
ta chẳng có gì mới, và cậu chỉ thèm thuốc - ngoài cái kiểu cách cộc lốc, lạ
lùng thường thấy ở cậu ta, trên mặt cậu ta còn biểu lộ của một vẻ mãn
nguyện nào đó khiến giờ tôi hơi bực mình, và cả bọn con trai, tôi nghĩ vì thế
mà phẩy tay nhanh chóng cho qua.
Thật ngạc nhiên, khi tính
lại vẫn là sự thực: tôi mới chỉ ở Auschwitz được đúng ba ngày. Tối
ngày thứ tư tôi đã ngồi trên tàu hỏa, trong một toa xe chở bò đã quen thuộc.
Đích đến, như chúng tôi được biết, là “Buchenwald” [Buchenwald: trại tập trung nằm gần thành phố Weimar, là
trại lao động khổ sai, giam giữ tù nhân Do Thái, tù chính trị và tù binh làm việc
trong các nhà máy, khu công nghiệp quân sự quanh vùng. Trại này hoạt động từ
năm 1935-1945], và dù giờ
đây tôi đã thận trọng hơn đôi chút với những cái tên đầy hứa hẹn như thế, nhưng
sự thân thiện, có thể nói là sắc thái khó nhầm lẫn được ở mức độ nào đó của sự ấm
áp, sắc thái của cảm thức dịu dàng, mơ mộng, chút ghen tị nhất định của một vài
người trong đám tù phạm đi tiễn chúng tôi, không thể chi là sự nhầm lẫn, tôi cảm
thấy như thế. Tôi cũng phải công nhận, trong số họ có nhiều phạm nhân cũ, thông
thạo, cũng như nhiều người được trọng thị, thể hiện ở các băng đeo tay, mũ và
giày họ mang trên người. Ở trên tàu tất cả cũng do họ điều hành, tôi chỉ nhìn
thấy vài người lính đứng phía xa, trên đường ke. Và ở nơi yên tĩnh này, trong
các sắc màu hiền hòa của buổi tối mùa hè thanh bình này, không một điều gì - bất
quá chỉ có sự rộng lớn của nó - gợi cho tôi nhớ đến cái nhà ga náo nhiệt bởi sự
hồi hộp, bởi ánh sáng, bởi sự chuyển động, bởi âm thanh, chỗ nào cũng phập phồng,
dồn dập, nơi mà tôi đã đáp xuống cách đây đúng ba ngày rưỡi.
Về chuyến đi này, giờ đây
tôi có thể kiệm lời hơn: tất cả diễn ra theo cách đã biết. Lần này chúng tôi gồm
không phải sáu mươi, mà là tám mươi người, tuy nhiên bây giờ chúng tôi không có
đồ đạc và cũng không phải chăm lo đến phụ nữ. Vẫn có chiếc nồi, chúng tôi vẫn
chịu nóng và khát, nhưng chúng tôi ít phải chịu đựng sự cám dỗ hơn, ý nói là về
mặt đồ ăn: khẩu phần - bánh mì được nhiều hơn, hai miếng bơ thực vật và một thứ
gì đó, một mẩu bề ngoài gợi nhớ đến món xúc xích nhỏ nhồi thịt bò xay ở nhà, gọi
là “wurst” [Wurst: món thịt dồi, giống như xúc xích] - được chia trên tàu, và tôi chén liền, trước
hết vì tôi đói, sau nữa vì trên tàu cũng không biết để vào đâu, và cũng vì người
ta không thông báo chuyến đi lần này sau đó cũng sẽ kéo dài ba ngày.
Chúng tôi cũng đến
Buchenwald vào buổi sáng, trong tiết trời nắng nhưng nhiều mây và có những đợt
gió mát nhẹ thổi, tươi mát, trong lành. Ga xe lửa ở đây, ít nhất cũng xếp sau
Auschwitz, chỉ như một nhà ga tỉnh lẻ, hiền hòa. Tiếp đón đã kém phần thân thiện
- ở đây không phải các phạm nhân mà là bọn lính mở cửa toa, thậm chí - tôi nhớ -
phải nói đây là lần đầu tiên, một cách thực sự, tôi mới có dịp trực tiếp liên
quan đến họ gần sát như thế, tiếp xúc với họ cận kề như thế. Tôi chỉ nhìn mọi
việc diễn ra nhanh chóng ra sao, với sự chính xác chuẩn tắc thế nào. Một vài khẩu
lệnh ngắn: “Alle raus!” [(tiếng Đức): Tất cả ra ngoài!] - “Los!” [Nhanh lên!] - “Fünferreihen!” [Xếp hàng năm!] - “Bewegt euch!” [Bước đi!], mấy tiếng kêu lịch bịch, mấy tiếng va đập, tiếng
dập ủng, tiếng thúc của một mũi súng, vài tiếng kêu ngắn - và thế là đoàn người
chúng tôi đã hình thành, đã di chuyển như được lên dây cót. Đến cuối đường ke,
lần nào cũng bằng nửa vòng xoay giống
hệt nhau, từ hai phía áp tới mỗi bên một tên lính, tôi để ý thấy cứ cách năm
người một theo hàng năm, nghĩa là hai mươi lăm người mặc áo kẻ thì có hai tên
lính đi cách hàng người chừng một mét, không rời mắt giây nào, hoàn toàn câm lặng,
chỉ định hướng và giữ nhịp bằng bước chân, duy trì cho tất cả vận hành đều đặn -
giống như thời trẻ con tôi vẫn dùng các mẩu giấy và que dẫn lũ nhộng đi vào hộp
diêm - thành một dòng người chuyển động và lượn sóng không ngừng; tất cả có vẻ
gì đó làm tôi hơi choáng váng, và hoàn toàn thán phục. Tôi còn hơi mỉm cười,
khi nghĩ đến kiểu áp tải cẩu thả, có thể nói hơi với vẻ ái ngại của đám cảnh
binh ở bên nhà, vào hôm họ dẫn đoàn chúng tôi về trại cảnh binh. Nhưng ngay cả
những gì thái quá của đám cảnh binh, tôi công nhận, cũng chỉ có thể coi là trò
làm bộ quan trọng ầm ĩ so với tính chuyên nghiệp lầm lì, thích hợp một cách
hoàn hảo đến từng chi tiết này. Và mặc dù, tôi nhìn rõ mặt họ, màu mắt hay màu
tóc họ, một vài nét riêng, thậm chí khiếm khuyết của họ, một nốt mụn trên da chẳng
hạn, nhưng tôi vẫn không thể nào nắm bắt được, đến nỗi tôi đã nghi ngờ; bất chấp
tất cả những gì đã thấy, liệu những kẻ đi bên cạnh chúng tôi kia có phải là những
sinh linh về cơ bản giống như chúng tôi, liệu có phải dù sao họ cũng được cấu
thành đại loại từ những chất liệu con người bình thường như chúng tôi? Nhưng
tôi chợt nhớ ra, cách nhìn nhận của tôi như thế là sai lầm, vì tôi không thể giống
như họ, dĩ nhiên.
Dù vậy tôi vẫn để ý thấy
chúng tôi đang từng bước, từng bước đi dần lên một con dốc thoai thoải, trên một
con đường khá tốt, nhưng không thẳng tuột như ở Auschwitz, mà vòng vèo. Những
vùng phụ cận quanh tôi có nhiều vạt xanh tự nhiên, những ngôi nhà xinh xắn, xa
hơn là những biệt thự ẩn sau lùm cây, những công viên, vườn tược, tất cả cảnh sắc,
mọi kích thước, tỉ lệ đều khiêm nhường, tôi có thể mạnh dạn nói rằng phong cảnh
nom rất thiện cảm, ít nhất là đối với những con mắt đã quen với Auschwitz. Ở
bên lề đường phải, chúng tôi chợt nhận thấy một vườn thú nhỏ: cư dân là những
chú hoẵng, lũ thú gặm nhấm và những loài thú khác, trong đó có cả một chú gấu
nâu trụi lông xơ xác, nghe tiếng bước chân của chúng tôi nó vội vàng ngồi ở tư
thế xin ăn, rồi biểu diễn ngay vài động tác gây cười trong cũi, nhưng lần này tất
nhiên cố gắng của nó là vô ích. Sau đó chúng tôi đi qua một pho tượng dựng trên
khoảng trống nơi con đường tách vòng ra hai ngả. Bức tượng đặt trên một bệ màu
trắng và cũng được tạc từ thứ đá trắng, mềm, hạt thô và không bóng như đá làm bệ
tượng, theo tôi thì đó là một tác phẩm hơi thô và cẩu thả về mặt nghệ thuật. Từ những đường rãnh trên quần áo, từ cái đầu
trọc lốc, mà đặc biệt từ tổng thể hình dáng có thể thấy ngay nó muốn mô tả một
tù phạm. Cái đầu chúi về phía trước, một chân vung ra phía sau như đang chạy,
hai tay co quắp luồn xuống dưới cố nhấc một tảng đá hình khối vuông cực lớn lên
lòng. Lúc đầu tôi chỉ nhìn nó với con mắt thưởng thức nghệ thuật - như đã được
học trong nhà trường - chứ không có bất kỳ chủ ý gì, nhưng rồi tôi chợt nghĩ
pho tượng chắc hẳn phải có ý nghĩa của nó, và thực chất có thể coi nó là một dấu
hiệu không mấy tốt lành. Nhưng đã thấy mạng lưới dây thép gai dày đặc, rồi hai
cổng sắt nằm giữa hai cột đá lớn mở ra, phía trên đập vào mắt tôi một công
trình ốp kính, nom tựa cây cầu chỉ huy trên tàu thủy, liền sau đó tôi đi qua
bên dưới nó: tôi đã vào trại tập trung Buchenwald.
Trại Buchenwald nằm ở lưng
chừng một vùng cao đồi núi và thung lũng. Không khí trong lành, nhìn phía nào
cũng thấy cảnh sắc rất đa dạng, xung quanh đâu cũng thấy rừng, dưới các thung
lũng là những ngôi nhà nông dân lợp ngói đỏ. Nhà tắm nằm phía bên trái. Tù nhân
đa số đều thân thiện, dù theo kiểu khác so với ở Auschwitz. Sau khi đến, ở đây
cũng có nhà tắm, thợ cạo, và khử trùng, thay quần áo là những việc đã chờ sẵn
chúng tôi. Các đồ lề trong phòng thay quần áo cũng đúng như ở Auschwitz. Chỉ tội
ở đây phòng tắm nóng hơn, đám thợ cạo cũng làm việc cẩn thận hơn, và người phát
quần áo, dù chỉ nhìn liếc qua, nhưng cũng cố gắng để ý đến kích cỡ của bạn. Sau
đó bạn ra một hành lang, đứng trước một cửa đẩy bằng kính, và người ta hỏi bạn
có răng vàng hay không. Rồi một người đồng bào của bạn, đầu có tóc, đã ở đây từ
trước, ghi tên bạn vào một cuốn sổ lớn, rồi anh ta phát cho bạn một hình tam
giác màu vàng, một miếng vải xé rộng - một tấm băng, cả hai đều bằng vải thô. Ở
giữa tam giác vàng, để đánh dấu bạn cũng là dân Hungary có một chữ U [U,
chữ cái đầu của từ Ungarn (tiếng Đức): Hungary], trên băng vải bạn có thể đọc thấy hàng chữ số in
hoa, chẳng hạn của tôi là 64921. Tôi được biết, nên học phát âm rõ ràng, dễ hiểu
và rành mạch cả bằng tiếng Đức, thế này: “Vier-un-sechzig, neun,
ein-un-zwanzig”, [Vier-un-sechzig, neun, ein-un-zwanzig: 64-9-21],
vì từ nay trở đi đây luôn là câu trả
lời của tôi, nếu được hỏi về sự hiện diện của mình. Nhưng con số này ở đây người
ta không ghi lên da bạn, và nếu như vì vậy mà bạn lo lắng hỏi từ trước, lúc vào
nhà tắm, thì người tù già sẽ giơ tay lên và ngước mắt lên trần nhà phản đối:
“Aber Mensch, um Gotteswillen! Wir sind doch kier nicht in Auschwitz!”, [“Khỉ
ạ, lạy Chúa! Nơi chúng ta đang ở đâu phải là Auschwitz!”] ông nói. Đồng thời, cả chữ số, cả miếng tam
giác này đến tối bạn phải đeo lên ngực áo, với sự giúp đỡ những người duy nhất sở hữu kim chỉ: thợ may; nếu
bạn chán ngán cảnh phải đứng xếp hàng đến tối, thì bằng một phần nhất định của
suất bánh mì và bơ thực vật bạn có thể làm cho họ dễ tính hơn, nhưng không có
nó thì họ vẫn vui vẻ làm, vì xét cho cùng đó là trách nhiệm của họ, họ bảo thế.
Ở Buchenwald thời tiết lạnh
hơn ở Auschwitz, ban ngày thường u ám và lất phất mưa. Nhưng tại Buchenwald có
khi họ làm ta bất ngờ vì món xúp bột nấu với mỡ ngay từ sáng; cũng ở đây tôi học
được thêm rằng suất bánh mì tử tế là một phần ba, có ngày là một nửa - chứ
không phải một phần tư hay một phần năm như ở Auschwitz, rằng xúp buổi trưa đặc,
trong đó có thể thấy những vẩn thịt, thậm chí gặp trường hợp may mắn có khi là
cả một mẩu thịt còn nguyên, cũng tại đây tôi đã làm quen với khái niệm “Zulage” [tiếng
Đức: món thêm, món bù, phụ] - từ dùng của viên sĩ quan có mặt ở đây, và vào những lúc thế này ông
ta luôn luôn tỏ vẻ mãn nguyện - mà bạn có thể xin thêm ngoài một mẩu bơ thực vật hoặc một thìa mứt
quả. Ở Buchenwald chúng tôi sống trong các lều, trong “Zeltlager” - “trại lều”, hay theo cách gọi khác
là “Kleinlager” - “trại nhỏ”, và ngủ trên chỗ nằm trải rơm, dù không có phân
cách và hơi chật, nhưng bằng phẳng. Ở đây hàng rào dây thép gai phía sau không
có điện, nhưng kẻ nào bước ra khỏi lều vào ban đêm sẽ bị chó sói xé nát - người
ta cảnh cáo, và sự nghiêm trọng của lời nhắc nhở ấy dù thoạt nghe có thể gây bất
ngờ, nhưng xin bạn đừng hoài nghi. Còn cạnh hàng rào thép gai kia, nơi những
con đường lát đá của khu trại chính, những dãy nhà đơn sơ màu xanh lá cây và những
ngôi nhà đá một tầng trải ra trên sườn đồi, tối nào cũng có thể mua thìa, dao,
cặp lồng và quần áo của các tù phạm địa phương và những cư dân gốc vẫn ra buôn
bán. Một người trong số họ đã gạ tôi mua chiếc áo len, giá chỉ có nửa cái bánh
mì, anh ta mời chào, ra hiệu, giải thích mãi - nhưng rồi tôi cũng không mua vì
mùa hè tôi đâu cần tới áo len, còn mùa đông thì - tôi nghĩ - còn lâu mới tới.
Vào các buổi tối đó, tôi còn thấy có rất nhiều tam giác màu khác nhau và trên
các hình tam giác có vô số kiểu chữ cái, mà rốt cuộc chẳng mấy khi tôi xác định
được: vậy thì Tổ quốc của ai là ở đâu? Nhưng ở ngay quanh chỗ tôi đây cũng nghe
thấy nhiều giọng nói tiếng Hung lơ lớ tỉnh lẻ, thậm chí nhiều lần tôi còn nhận
ra thứ ngôn ngữ lạ hoắc mà lần đầu tôi nghe thấy ở Auschwitz, trên toa xe lửa. Ở
Buchenwald không có điểm danh đối với những người sống trong Zeltlager, chỗ rửa
ráy ở ngoài trời, chính xác hơn là ở dưới bóng cây, cũng bố trí như ở
Auschwitz, nhưng các chậu rửa bằng đá có nước nhỏ ra, phun ra hay ít nhất rỉ ra
suốt ngày qua các lỗ trên đường ống, và kể từ khi rơi vào nhà máy gạch, lần
đầu tiên đã xảy ra chuyện kỳ lạ ở đây là tôi
có thể uống nếu khát, thậm chí ngay cả khi nào bỗng thấy hứng lên muốn uống. Ở Buchenwald cũng có
Crematorium, dĩ nhiên, nhưng tất cả vỏn vẹn có một, và nó cũng không phải là mục
đích, bản chất, linh hồn, ý nghĩa của trại này - tôi có thể khẳng định như vậy -
mà người ta chỉ dùng nó để thiêu người đã chết trong trại, trong những điều kiện
sống bình thường của trại. Tại Buchenwald - có lẽ lời đồn này bắt nguồn từ những
tù phạm cũ và cũng truyền đến tôi - phải thận trọng nhất với mỏ đá, mặc dù người
ta nói thêm, bây giờ nó gần như đã hết hoạt động, chứ không như ngày trước, lúc
họ còn làm việc trong đó. Trại này, tôi được biết, đã hoạt động bảy năm nay,
nhưng còn có những trại cũ hơn nữa, trong số đó tôi được làm quen với những cái
tên như “Dachau”, hay “Oranienburg” và “Sachsenhausen”.
[Dachau: trại tập trung đầu tiên của Đức Quốc xã,
thành lập từ năm 1933, nằm cách thành phố München 20 km, được lấy làm mẫu mực để
thiết kế những trại tập trung sau này]
[Oranienburg: tên một trại tập trung nằm ở tại
Oranienburg, thủ phủ của huyện Oberhavel, một đô thị nhỏ ở Barndenburg, cách
trung tâm Berlin 35 km]
[Sachsenhausen: tên một trại tập trung thành lập từ năm
1938, tại Sachsenhausen, một đô thị thuộc huyện Weimarer Land, bang Thuringe,
cách thủ đô Berlin 35 km]
Cũng vào thời gian đó tôi
đã hiểu nụ cười có vẻ bao dung khi nhìn thấy chúng tôi trên gương mặt của một
vài nhân vật khả kính ăn vận chu tất đứng phía bên kia hàng rào thép gai, trên
người họ tôi nhìn thấy những con số mười ngàn, hai mươi ngàn, cả những số có bốn
và ba chữ số. Tôi được biết gần trại chúng tôi là thành phố Weimar, một nơi nổi
tiếng về văn hóa, giáo dục mà tất nhiên về tiếng tăm của nó tôi đã được học từ
khi còn ở nhà: tại đây, bao nhiêu người đã sống và sáng tạo, trong đó có một
người mà thi phẩm “Wer reitet so spät durch Nacht und Wind”* của ông tôi đã thuộc
lòng, và - như người ta đồn - cái cây tự tay ông trồng - từ đó đến nay đã thành
cổ thụ, được gắn bảng tưởng niệm và quây rào thép gai để ngăn cách chúng tôi,
những tù phạm - cũng nằm đâu đó trong khu trại chúng tôi - người ta bảo thế. Nói
tóm lại không khó chút nào để hiểu được những gương mặt ở Auschwitz ấy: công bằng
mà nói thì chẳng bao lâu sau tôi cũng đã thích Buchenwald.
*[“Wer reitet
so spät durch Nacht und Wind?” (tiếng Đức):
Ai cưỡi ngựa muộn màng giữa đêm khuya và gió? - câu đầu tiên trong bài thơ
“Chúa rừng” của Johann Wolfgang von
Goethe]
Zeitz, hay đúng hơn là trại
tập trung mang tên địa danh này, cách Buchenwald một đêm đi tàu hàng, sau đó
thêm hai mươi phút đi bộ, có lính áp tải trên con đường chạy qua những ruộng
cày được chăm sóc cẩn thận, những phong cảnh làng quê, như chính tôi đã có cơ hội
trải nghiệm. Giờ đây, ít nhất chỗ này sẽ là nơi an cư cuối cùng dành cho chúng
tôi - người ta đảm bảo - chính xác hơn là cho những người nào trong số chúng
tôi có tên gọi theo thứ tự ABC đứng trước chữ M; những người khác sẽ tới trại
lao động ở thành phố Magdeburg mà nhờ vào những hiểu biết lịch sử, tên gọi của
nó đối với tôi khá quen thuộc - chúng tôi được thông báo như vậy, khi còn ở
Buchenwald, cũng vào tối ngày thứ tư, trên một bãi rộng khủng khiếp
được chiếu sáng bằng đèn hồ quang, - bởi các phạm nhân ăn vận đủ các đồ khả kính khác nhau,
trong tay cầm những bản danh sách dài. Tôi chỉ tiếc rằng thế là tôi phải chia
tay vĩnh viễn với nhiều đứa con trai, đặc biệt là với “Rozi”, và rồi sự ngẫu
nhiên của những cái tên mà theo đó chúng tôi được xếp ngồi lên chuyến tàu nào,
đáng tiếc đã tách tôi ra khỏi những người khác nữa.
Có thể nói không có gì khổ
sở, không có gì ngao ngán hơn những mệt nhọc khó chịu mà chúng tôi phải trải
qua mỗi lần đến một trại tập trung mới, ít nhất sau Auschwitz và
Buchenwald tôi đã nghiệm thấy như thế. Tuy nhiên, ngay lập tức tôi nhận ra lần
này mình đã đến một trại tập trung nhỏ, sơ sài, hẻo lánh, có thể nói chỉ như một
trại tập trung nhà quê. Tìm kiếm nhà tắm hay thậm chí là một lò thiêu ở
nơi này chỉ vô ích: dường như những thứ trang hoàng đó chỉ thuộc về các trại tập
trung có tầm quan trọng hơn. Xung quanh trại lại là một vùng đất trơ trụi buồn
tẻ, chỉ từ phía cuối trại mới nhìn thấy một vệt màu xanh mờ - “vùng
núi Türingia”, tôi nghe ai đó nói. Hàng rào dây thép gai, với bốn góc là chòi canh, nằm
ngay sát đường quốc lộ. Bản thân trại thì hình vuông, về cơ bản là một khu bãi
bụi bặm, mặt phía cổng trông ra con đường, còn ba phía kia bao bọc bởi những ngôi nhà lớn hoặc
các lều bạt như rạp xiếc. Việc tính đếm kéo dài, sắp xếp, xô đẩy, chen lấn té
ra là để phân nhóm và dồn đến cho các lều, các “Block” - như người ta gọi
chúng - theo trật tự hàng mười, những nhân khẩu tương lai của các lều.
Tôi cũng bị xô đẩy về lều, chính xác hơn là đến cái lều ngoài cùng
bên phải của dãy cuối cùng, nếu đứng quay mặt về phía cổng và quay lưng về
phía lều để định hướng, như tôi đã đứng khá lâu, tới khi chân tê dại, dưới
ánh nắng mỗi lúc một trở nên khó chịu. Tôi lướt mắt tìm bọn con trai, nhưng vô
ích, quanh tôi toàn người lạ. Bên trái tôi là một người cao gầy, hơi kỳ cục,
luôn lẩm bẩm gì đó và thân trên cứ nhịp nhàng gật gù từ trước ra sau, từ
sau ra trước, còn bên phải tôi là một người thấp lùn vai rộng, giết thời gian bằng
cách cứ sau một khoảng thời gian đều đặn lại nhổ một bãi nước bọt nhỏ, nhọn, rất
chính xác xuống đám cát bụi trước mặt. Anh ta cũng nhìn tôi, lúc đầu chỉ lướt
qua, rồi sau đến lần thứ hai đã soi mói hơn, bằng đôi mắt xếch, sắc lẹm. Bên dưới
đôi mắt, tôi thấy một cái mũi nhỏ đến nực cười, gần như không xưong, anh ta tinh
nghịch đội chiếc mũ tù lệch về một bên. Lần thứ ba anh ta hỏi, và tôi nhận ra
anh thiếu mấy chiếc răng cửa, tôi từ đâu đến? Khi tôi bảo từ Budapest thì thấy
anh hoạt bát hẳn lên: Đường Körút [Körút: đường vòng cung nhỏ nhất, rất sầm uất
và cổ kính, của thủ đô Budapest] còn không và tàu điện số 6 có còn chạy như “lần cuối cùng anh ra đi” hay
không, anh hỏi liền. Sao lại không,
tôi đáp, tất cả vẫn y nguyên như thế. Anh ta có vẻ hài lòng. Anh còn tò mò muốn biết tôi đã bị “lưu lạc sang đây”
thế nào, và tôi bảo: “Đơn giản thôi. Họ bắt xuống khỏi xe bus”. “Thế rồi sao?” anh hỏi
tiếp, và tôi bảo: “Thế thôi, có gì hơn nữa: họ chở đến đây”. Anh có vẻ hơi ngạc
nhiên, tựa như không hiểu lắm những diễn biến của cuộc sống bên nhà, và tôi muốn
hỏi anh ta... nhưng không kịp, vì đúng lúc ấy tôi bị một cú tát từ phía bên kia.
Thực ra tôi đã ngã ngồi
xuống đường rồi mới nghe tiếng bốp của cái tát, mạnh đến nỗi làm tôi thấy nửa mặt
bên trái bỏng rát. Một người đứng trước mặt tôi, từ đầu đến chân trong bộ quần
áo đi ngựa màu đen, mũ nồi đen, tóc, thậm chí cả bộ ria mép mỏng trên khuôn mặt
nâu sẫm cũng màu đen, một mùi gì đó làm tôi ngạc nhiên: không nghi ngờ gì nữa,
đúng là mùi nước hoa có hương ngọt ngào. Trong tiếng quát hỗn loạn tôi chỉ nghe
ra được từ “Ruhe”, nghĩa là “im lặng” vang lên nhiều lần. Nói gì thì nói, nom ông ta có vẻ
đáng nể, điều đó được nhấn mạnh bằng con số thấp sang trọng, cũng như chữ “Z” [Z:
Chữ cái đầu của từ “Zigeuner” (tiếng Đức), nghĩa là “người Digan] bên trong hình tam giác màu xanh lá cây, ngực bên
kia được trang trí bằng chiếc còi bạc lủng lẳng trên sợi dây chuyền kim loại,
thêm nữa trên cánh tay có hai chữ cái “LA” màu trắng có thể nhìn thấy từ xa. Nhưng
dẫu sao tôi cũng rất bực mình, vì tôi không quen bị người ta đánh, và dù đó là
ai đi nữa, và dù tôi đang ngồi và chỉ trên nét mặt, nhưng tôi đã cố thể hiện dấu
hiệu của sự giận dữ này. Có thể ông ta đã nhận ra điều đó, tôi nghĩ, vì tôi thấy,
dù vẫn quát tháo liên hồi, nhưng ánh nhìn của đôi mắt to đen như bơi trong dầu
của ông ta dần dần dịu lại, cuối cùng đã gần như có biểu hiện thanh minh, trong
khi ông ta chăm chú nhìn tôi khắp lượt, từ chân lên mặt: một cảm giác khó chịu,
lúng túng thế nào đó. Rồi ông ta biến mất theo lối mà mọi người dãn ra cho ông
ta đi, cũng đột ngột như khi ông ta đến lúc nãy.
Sau khi tôi lò dò đứng dậy,
người đứng bên phải hỏi ngay có đau không. Tôi trả lời anh ta, chủ ý và dõng dạc:
không hề đau tẹo nào. “Thế thì” anh ta bảo, “tốt nhất là cậu hãy lau mũi đi”. Tôi đưa tay lên mũi:
đúng là ngón tay vấy đỏ. Anh ta chỉ cho tôi cách ngả đầu ra sau để máu ngừng chảy,
anh còn nói về người mặc bộ đồ đen: “Lão Digan”, rồi sau một giây suy nghĩ anh khẳng định thêm: “Một
gã đồng tính, chắc chắn”. Tôi không thật hiểu anh muốn nói gì, và tôi đã hỏi anh ý nghĩa của khái niệm
này. Nghe thế anh mỉm cười, và nói: “Gã ái đấy!”. Vậy là tôi đã rõ hơn về khái niệm này, tương đối
đúng, tôi nghĩ thế. “Nào”, anh nói tiếp và còn đưa tay ra, “tớ là Citrom
Bandi”, thế
là tôi cũng nói với anh tên mình.
Anh cho tôi biết anh được
đưa từ trại lao động tới đây. Người ta đã gọi anh đi ngay khi mới bắt đầu cuộc
chiến, vì đúng lúc đó anh hai mươi mốt: tuổi tác, dòng máu, sức khỏe đều thích
hợp với trại lao động, và từ bốn năm nay anh cũng chưa về nước. Anh từng đi gỡ
mìn ở Ucraina. “Thế răng anh làm sao thế?”, tôi hỏi. “Chúng nó đánh gãy đấy”, anh đáp. Đến lượt tôi ngạc
nhiên: “Thế là thế nào?”. Nhưng anh ta chỉ bảo “chuyện dài lắm” và không nói thêm nhiều về lý do.
Chung quy lại là anh đã “cãi nhau với đội trưởng” và ngoài những thứ khác cả
xương mũi anh cũng gãy vào dịp đó - anh cho tôi biết chừng ấy. Về công việc gỡ
mìn, anh cũng nói đủ ngắn gọn: một cái xẻng, một đoạn dây thép, và cần thêm may
mắn, theo cách nói của anh. Chính vì thế mà chỉ còn lại rất ít người trong “đại
đội bị trừng phạt” khi người Đức đến thay thế các đơn vị lính Hung. Họ đã vui mừng,
vì ngay lập tức người ta vẽ ra một viễn cảnh công việc nhẹ nhàng hơn và sự
đối xử tốt hơn. Sau đó từ trên tàu hỏa, dĩ nhiên rồi, họ đã xuống Auschwitz.
Tôi đang tò mò muốn hỏi
tiếp anh thêm chút nữa, thì đúng lúc ấy có ba người quay trở lại. Trước đó khoảng
chừng mười phút, từ sự kiện diễn ra ở phía trước, đúng hơn là tôi chỉ chú ý đến
một cái tên, chính xác hơn là đến tiếng gọi đồng thanh ở phía trước, tất cả đều
kêu một cái tên ấy: “Bác sĩ Kovács!”. Nghe tiếng gọi, một người đàn ông béo tốt, mặt
hơi sệ, xung quanh đầu nhẵn thín vì máy húi tóc, còn đỉnh đầu hói tự nhiên,
khiêm nhường, ngần ngại bước ra, như chiều theo tiếng kêu giục giã của đám
đông, sau đó còn hai người nữa thì đã do ông giới thiệu. Rồi cùng với người mặc
bộ đồ đen, cả ba đi khỏi ngay, và chỉ sau này tôi mới biết, tin tức cũng lan đến
cả những hàng sau rằng thực ra chúng tôi vừa chọn chỉ huy, mà họ gọi là
“Blockältester”, và các “Stubendienst” - nghĩa là “hầu phòng,” như tôi vừa dịch qua loa cho
Citrom Bandi hiểu, vì anh không biết tiếng Đức. Sau đó người ta muốn dạy cho họ
vài khẩu lệnh và động tác họ sẽ thường dùng, những thứ mà - người ta nhắc họ, họ
lại nhắc chúng tôi - sẽ không ai dạy chúng tôi thêm một lần nữa. Một vài từ như
“Achtung!” “Mützen... ab!” và “Mützen… auf!” [“Achtung! Mützen… ab! Mützen… auf” (tiếng Đức): “Chú ý! Bỏ mũ xuống! Đội mũ… lên!”] thì về cơ bản theo kinh nghiệm đến lúc này
tôi đã biết, còn “Korrigiert!” nghĩa là “Chỉnh lại!” - tất nhiên là chỉnh lại
mũ, còn “Aus!” [“Aus!” (tiếng Đức): “Thôi!”] - thì chúng tôi phải dập tay đánh bốp vào
sát đùi, theo lời họ. Sau đó chúng tôi đã tập thử nhiều lần tất cả những động
tác này. Viên Blockältester, chúng tôi được biết, những lúc như thế này còn có
công việc riêng: báo cáo, việc này được ông ta thử nhiều lần trước mặt chúng
tôi: Stuben-dienst, một gã mập, mặt đỏ như đang sốt phát ban, hai má màu tím - đóng vai người lính. “Block fünf”, - tôi nghe tiếng anh ta, - “ist zum Appel
angetreten. Es soll zweihundert fünfzig, es ist…”* - và cứ tiếp tục thế, nhờ đó mà tôi biết tôi là nhân
khẩu của Block 5, có quân số 250 người.
*[“Block fünf ist zum Appel angetreten. Es soll zweihundert
fünfzig, es ist…” (tiếng Đức): “Block 5 đã có mặt theo lời kêu gọi. Quân số 250
người, có mặt…”]
Sau vài lần lặp đi lặp lại,
tất cả đã rõ ràng, dễ hiểu và có thể trình diễn hoàn hảo, mọi người đều thấy thế.
Rồi lại đến những phút chẳng có việc gì, và bởi vì giữa chừng tôi chú ý thấy một
đống đất trên khoảng trống phía bên phải lều của chúng tôi, bên trên đống đất
là một cây sào dài và có thể đoán phía sau nó là một hào sâu, tôi hỏi Citrom
Bandi không hiểu thực chất nó được dùng vào việc gì. “Latrina” [Latrina
(tiếng Latin): cầu tiêu ngoài trời], anh đáp ngay sau một cái liếc mắt. Anh còn hơi lắc đầu, vì thấy tôi
không hiểu từ này. “Đúng là có vẻ như từ trước đến nay cậu chỉ quen bám váy mẹ”, anh bảo. Anh còn nói
thêm, tôi xin dẫn nguyên văn: “Này, khi nào ỉa đầy cái rãnh kia, thì chúng ta sẽ
được tự do!”. Tôi cười, nhưng anh thì giữ nguyên vẻ hơi nghiêm nghị, cứ như người đã biết
chắc chắn, chứ chưa muốn nói là cứ như anh đã quyết định thế. Nhưng anh không
nói thêm gì về niềm tin này nữa, vì từ phía cổng đã thấy bóng ba người lính,
nom ăn vận nghiêm chỉnh và tươm tất, thong thả nhưng rất đĩnh đạc, đàng hoàng
đang cùng tiến lại gần, thấy thế viên Blockältester liền hô - trong giọng anh
ta có một sắc thái mới lạ, hăng hái và như hét lên - mà trong khi tập thử tôi
chưa hề nghe thấy: “Achtung! Mützen… ab!”, và dĩ nhiên, giống như mọi người, giống như tôi,
anh ta cũng giật mũ xuống khỏi đầu.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét