Kathi Appelt
Nơi trú ẩn
51
Gar Face cũng biết về những
hồn ma. Kể từ khi hắn nhìn thấy con cá sấu chúa, hắn tự hỏi có phải là đầu óc hắn
đang đùa cợt với hắn. Có thực sự là hắn đã nhìn thấy một con cá sấu dài đến cả
chục mét không? Một sinh vật như thế có thực sự tồn tại hay không? Câu hỏi về
cái khả năng đó đã hút trọn toàn bộ tâm trí hắn.
Hết đêm này sang đêm
khác, hắn chèo con thuyền độc mộc cũ của mình ngược lên rồi lại xuôi xuống dòng
sông Bayou Tartine, ngọn đèn dầu kerosene chiếu thành một quầng sáng vàng lên mặt
nước đục bùn. Không thể nào nhìn thấy gì sâu quá ba tấc bên dưới mặt nước màu
rượu whisky; sự tối tăm đã phủ một lớp bùn dày che giấu những cư dân bên dưới.
Dù vậy, ánh sáng ấm áp
cũng mời gọi, đặc biệt là với đàn muỗi và những con bướm đêm. Và đương nhiên là
một con dơi nhỏ màu nâu cũng lượn lờ xung quanh cái vầng sáng đó để đớp côn
trùng. Gar Face chẳng phàn nàn gì lũ côn trùng và đàn dơi. Hắn chỉ quét chúng
ra khỏi mặt khi hắn chăm chú nhìn vào dòng nước mặn. Con cá sấu đang ở đâu?
Gar Face đã trưởng thành
hơn rất nhiều so với thằng nhóc vụng về bắn hươu của cái thời xa xưa đó. Hắn
không còn là một tay súng tồi tệ nữa mà đã trở nên một thiện xạ. Hắn có thể bẫy
và lột da bất cứ con gì, kể cả rắn. Chỉ có linh miêu là thoát được khỏi những
mánh khóe săn mồi của hắn và đó là do lỗi của con chó. Không phải lỗi của hắn.
Nhưng bây giờ thì chính lũ cá sấu mới là kẻ thúc đẩy hắn. Chỉ có những con cá sấu
mới thách thức được hắn, mới cân tài ngang sức với hắn, chỉ có cá sấu mới đáng
là đối thủ của hắn. Những loài thú khác không xứng với sự mưu trí và tài sử dụng
súng khéo léo của hắn. Không, cá sấu thì hoàn toàn khác. Dữ tợn và lạnh lùng.
Chúng là những đối thủ đáng nể.
Cũng vì thế, cá sấu mới
là món hàng được giá nhất, phần da ở bụng của chúng được chế biến thành những
cái bóp cho các quý bà đi xem kịch ở New York và London, được làm thành những
đôi ủng mềm dẻo để cho các quý ông mang những đôi vớ lụa và không phải lang
thang vào những đầm lầy hay vào rừng, tạo ra những chiếc cặp da cho các quản trị
viên ngồi ở những chiếc bàn giấy hết sức êm ái và nhìn ra những con đường đầy
nghẹt taxi. Cá sấu là thế, quý như vàng.
Thế nhưng vàng vẫn chưa
phải là thứ làm cho Gar Face quan tâm. Mà là một thứ gì đó còn hơn cả vàng. Hắn
chỉ muốn xem bộ mặt của những người khác sẽ ra sao, những người đàn ông thường
quay mặt đi khi hắn đẩy cửa bước vào cái quán rượu cũ trên con đường khuất nẻo.
Những người đàn ông và những câu chuyện của họ, luôn cố gắng để vượt qua những
người khác.
Những khuôn mặt. Hắn cười
khinh bỉ. Bộ mặt của họ rồi cũng sẽ xấu xí như mặt của hắn thôi khi họ nhìn thấy
hắn đem đến bộ da của con cá sấu dài hơn ba mươi mét. Hắn biết là họ sẽ dẩu môi
lên trong một cú sốc xấu xí vì ngạc nhiên. Lòng tham và sự ghen tị luôn làm cho
người ta trở nên xấu xí. Phải, hắn nghĩ thế. Nó còn quý giá hơn cả vàng.
Hắn nhấp một hơi sâu hơn
từ chai rượu, cảm thấy chất lỏng ấm áp trượt qua cổ họng và lắng xuống bao tử.
Hắn biết rằng con cá sấu đang ở gần đây. Hắn có thể cảm nhận thấy sự hiện diện
của nó. Có thể cảm thấy con vật già nua đó đang ẩn nấp ngay bên dưới vầng sáng
của ánh đèn.
“Ta sẽ tìm ra mi thôi,
anh bạn”, hắn nói thì thầm. “Mi có thể tin chắc vào điều đó”.
Ở sâu hơn ba mét phía dưới
mặt nước, con cá sấu chúa mỉm cười. Và khi nó cười, hàng triệu bọt khí nổi lên
mặt nước, làm đu đưa chiếc thuyền độc mộc ở trên đó. Gar Face vươn tay ra để
níu lấy be thuyền. Hắn nhìn qua mạn thuyền để trông xuống dưới nước.
Nếu lúc đó mà hắn nhìn
vào ngọn đèn treo ở mũi thuyền thì hẳn là hắn sẽ thấy con chim ruồi đang bay lởn
vởn quanh đó, ngay trong quầng sáng. Nếu mà hắn nhìn thấy con chim ruồi đó, hẳn
là hắn sẽ còn kinh ngạc nhiều hơn là sự ngạc nhiên do con thuyền lúc lắc gây
ra. Chim ruồi mà lại bay lượn trong đêm, điều này bắt đầu xảy ra từ khi nào vậy?
Có cái gì đó to lớn đang ở
ngay dưới đáy thuyền hắn. Hắn đoan chắc như thế. Hắn nuốt thêm một ngụm nữa từ
cái chai bẹt đựng rượu.
52
Puck.
Ngứa ngáy.
Thất vọng.
Đói lả.
Buồn bã.
Hic!
Có thể nào cuộc đời còn tồi
tệ hơn thế chăng? Như thể để khẳng định cho điều đó, nó cảm thấy một con bọ
chét đậu vào ngay đỉnh tai bên phải. Nó dùng bàn chân sau để gãi.
Có vẻ là nó không thể chấm
dứt được tình trạng ngứa ngáy, nỗi buồn, sự thất vọng, hoặc là cơn nấc cụt,
nhưng nó có thể chấm dứt được cái đói. Nó bước đến bên miệng hang nhỏ bé của
mình và nhìn ra ngoài. Đã qua một đêm dài cô đơn. Mặt trời vừa mới nhú lên. À,
mặt trời. Trong một khoảnh khắc, nó nhớ lại cái ánh sáng vàng chói đó, được
chúi người vào trong cái hơi ấm tuyệt vời đó.
Và cũng chỉ trong một khoảnh
khác, nó nhớ lại cái bẫy mà nó đã bước vào. Nó nhìn vào những tia sáng dịu dàng
lọt qua những ngọn cây, Làm sao mà một thứ dịu ngọt như vậy lại có thể nguy hiểm
đến thế?
Hãy ở trong Gầm sàn, các
con sẽ được yên ổn dưới Gầm sàn. Nó rút lui vào trong cái xó tối tăm của mình.
Cơn sợ hãi chảy tràn lên
người nó. Mặt trời hôm nay thật là hấp dẫn. Cũng giống hệt như ngày hôm qua. Tất
cả đều sáng lấp lánh và ấm áp. Mọi thứ đều rất dễ chịu. Nhưng chẳng phải là mặt
trời đã từng lừa dối nó sao? Chẳng phải là mặt trời đã cám dỗ nó bước ra khỏi
cái tổ ấm an toàn của nó và đưa nó vào bẫy hay sao?
Đột nhiên một cảm xúc mới
len vào. Cơn giận!
Từ một nơi nào đó sâu bên
trong cơ thể nó... Hissss!!!
Rồi nó lại xảy ra lần nữa.
Hissss!!! Những tiếng rít giận dữ này làm cho con mèo nhỏ cảm thấy dễ chịu
hơn.
Ngay lập tức nó biết mình
cần phải làm gì. Nó nên kinh sợ mặt trời! Nó hít một hơi dài rồi để cho cơn giận
dữ lớn nhất đời nó thoát ra, HISSSS!!! Toàn bộ lông trên lưng nó dựng đứng lên.
Nó nhìn ra phía khoảng trống bên ngoài. Mặt trời vẫn còn nguyên đó. Vẫn dịu
đàng tỏa xuống những tia nẳng sưởi ấm đám cây cối xung quanh nó. Làm sao mà một
con mèo nhỏ với bộ lông quết lại thành bánh lại có thể sợ hãi mặt trời nhỉ? Nó
phóng xuống đất và chăm chú nhìn ra. Nó gần như có thể nghe thấy tiếng Sabine
đang cười nhạo nó. Sabine. Chị nó bây giờ đang ở đâu nhỉ? Ranger đang ở đâu?
Nó hít một hơi thở sâu.
Rồi nó lại hít thêm một
hơi nữa.
- Cái gì thế này?
Hình như là những tiếng
rít tức giận đã xua tan cơn nấc cụt. Trong một giây phút ngắn ngủi, nó cảm thấy
tự hào về chính mình. Ít ra thì nó cũng đã chiến thắng được những cơn nấc cụt.
Nó ngồi hơi thẳng người lên và hít thêm một hơi nữa cho chắc. Không còn nấc cụt
nữa. Nhưng giây phút cảm thấy hài lòng thật là ngắn ngủi. Cái bụng của nó vẫn
còn đau. Và đám bùn khô lại làm cho nó cảm thấy khát nước.
Nó đã nằm đó một lúc lâu.
Khi nó ngồi dậy thì mặt trời đã chiếu sáng hơn và bao tử của nó lại càng trống
rỗng hơn. Nó bắt đầu cảm thấy choáng váng vì đói. Ngay lập tức nó biết rằng nó
cần phải ra khỏi tổ, đi tìm thứ gì đó để ăn và nó không nghĩ là nó có thể đợi đến
khi đêm xuống một lần nữa. Nó tập trung sự can đảm của mình lên đến mức cao nhất
và bước ra ngoài. Ánh nắng mặt trời chiếu rọi nó từ đầu đến chân, len vào bộ
lông dính bết của nó. Có lẽ là mặt trời, cái ông mặt trời ấm áp và vàng chói
này cũng không đến nỗi tệ, và trong vòng một giây nó chợt cảm thấy hơi hối hận
vì đã giận dữ với mặt trời. Chỉ một chút thôi. Nó hít sâu vào thêm một hơi nữa,
vẫn không thấy nấc cụt, nó cảm thấy phấn khởi với những tiếng rít đó.
Khi đã bước ra khỏi hang,
hai tai nó tràn ngập những tiếng động lạ. Khi nó còn sống bên dưới ngôi nhà
nghiêng ngả thì nó chỉ nghe rất ít những tiếng động của gia đình mình - tiếng rừ
rừ của Sabine, giọng nói của mẹ nó, tiếng bước chân mạnh mẽ từ đôi ủng nặng nề
của người đàn ông, tiếng động cơ rít lên ken két từ chiếc xe tải, tiếng tru của
Ranger.
Ranger đang ở đâu? Sao
ông ta lại không tru lên? Đâu rồi cái tiếng tru có thể dẫn đường cho nó quay lại,
để trở về Gầm sàn? Nó cố gắng tập trung hết sức để tìm nghe tiếng tru của
Ranger. Nó không biết được là mình đang ở cách xa gầm sàn bao nhiêu, hay là phải
lắng nghe từ hướng nào. Nhưng chắc chắn là Ranger sẽ gọi nó mà?
Nó ngồi yên bất động. Những
âm thanh mới tràn vào hai bên tai. Tiếng chim non kêu chiêm chiếp, tiếng dế
gáy, tiếng líu lo và lách cách, tất cả những tiếng động bình thường của một khu
rừng. Mẹ nó đã từng kể cho nó nghe về những thứ tiếng này, về các loài chim và
côn trùng, và về những con sóc huyên thuyên.
Nó lắng nghe. Rồi nó nghe
thấy một thứ tiếng khác... có phải đó là tiếng gió không? Là cơn gió nhẹ đang
lướt qua ngọn cây? Nó ngước nhìn lên, nhưng những ngọn cây đang đứng yên và im
lặng. Nó quay về phía tiếng động. Là tiếng gì vậy? Nó bước về phía đó. Thế rồi
nó cảm thấy ớn lạnh.
Là con sông. Tất nhiên rồi!
Con sông chỉ cách nó độ một mét. Một cơn xóc nhẹ chợt nảy lên và chạy dọc theo
sống lưng xoắn bết của nó.
Kẻ thù không phải là mặt
trời. Mà chính là nước! Nó nên đi xa thật xa khỏi con sông này! Nhưng chợt nó dừng
lại.
Con sông!
Con sông chính là câu trả
lời. Không hiểu sao nó biết rằng con sông này chứa đựng điều gì đó liên quan tới
chuyện tìm đường quay về nhà của nó.
Trở về nhà. Puck ngoái đầu
qua vai để nhìn vào cái hang nhỏ và tối của nó. Cái hang khô ráo và an toàn.
Cái hang này có một chỗ ngủ rộng rãi, lại có cả một cái mùi dễ chịu mà căn nhà
nghiêng không hề có. Nhưng ở đây không có mèo mẹ. Không có Ranger. Cũng chẳng
có Sabine.
Nó rón rén đi ra trên những
đôi chân màu hoe vàng. Bước vào vùng ánh sáng. Rồi nó bước đến gần bờ sông hơn.
Ngay bên dưới nó là con sông “Nỗi U sầu nhỏ bé” đang ào ào chảy qua. Nó nhìn lướt
ngang mặt nước để trông sang bờ bên kia. Từ bên bờ sông đầy ánh nắng nơi nó
đang đứng, bờ sông phía bên kia trông có vẻ tối tăm và lạnh lùng. Sabine và
Ranger đang ở nơi đó. Làm sao mà nó biết được điều đó thì nó cũng không hiểu được.
Nó chỉ cảm nhận được thôi.
Đi về nhà. Quay trở về. Về
nhà thôi.
Bao tử nó lại lên tiếng
càu nhàu.
Con phải chặt đứt sợi dây
xích.
Nhắm mắt lại và lắng nghe
tiếng nước đang cuồn cuộn chảy bên dưới.
Hãy hứa là con sẽ quay về
nhé.
Ở sâu bên dưới gốc cây
già, Grandmother rúc mũi vào bên dưới tấm thân dài ngoằng của mụ. Ôi, những lời
hứamụ nghĩ. Mụ đã từng biết về những lời hứa. Sssssịttttt... mụ đã từng hứa một
lần rất lâu trong quá khứ. Mụ xoay tròn trong cái bình. Thêu dệt nên một mạng
lưới chằng chịt những lời hứa. Mụ biết rõ về những lời hứa. Luôn luôn phải trả
giá.
53
Hãy để đám cây cối đưa bạn
quay trở lại quá khứ một ngàn năm trước, trở về khu vực sâu nhất và tối tăm nhất
của cánh rừng, khu rừng nằm bên kia con sông “Nỗi U sầu nhỏ bé”, nơi có một con
sông nhánh lớn và một con sông khác nhỏ hơn tụ vào bãi đất nông lầy lội. Hãy
quay lại đó và ngắm nhìn Grandmother Moccasin, xem mụ sôi sục đến thế nào trong
cơn giận dữ, suốt năm này qua năm khác, ngày này tiếp theo ngày khác. Sau khi
Night Song bỏ đi cùng với Hawk Man, sự cay độc của Grandmother cũng tăng lên
cùng với chu vi vòng thân của mụ. Nhiều năm trôi qua và mụ cũng to lên nhiều. Nọc
độc trong miệng mụ trở nên đáng sợ hơn. Cuối cùng, sau đúng mười năm xảy ra cái
ngày định mệnh ấy, ngày mà Hawk Man đã tách rời Night Song ra khỏi mụ, mụ đi đến
một quyết định, một quyết định đã được ấp ủ suốt mười năm khốn khổ. “Ta chờ đợi
đã khá lâu rồi”, mụ kêu to lên.
Từ bên dưới cành cây nơi
mụ đang quấn trên cây bách đầy mấu sần sùi, ngay bên cạnh con sông lớn, mụ kêu
người bạn duy nhất còn sót lại của mình, con cá sấu.
“Này cậu em”, mụ nói, “đã
đến lúc rồi”.
Từ sâu dưới những làn nước
u ám của con sông nhánh, con cá sấu nổi lên mặt nước và nhấp nháy đôi mắt màu
vàng, đôi mắt nhìn giống như mặt trời. Nó quay cái nhìn chằm chằm sang mụ với
ánh mẳt trang nghiêm. “Bà chị”, nó nói, “chị phải chắc chắn đã”.
“Đương nhiên là ta đã chắc
chắn rồi” - mụ đáp lại ngay lập tức. Đã bao nhiêu lần mụ nói về cái kế hoạch dụ
dỗ Night Song quay trở lại. Mụ đã từng mơ bao nhiêu giấc mơ về cả hai mẹ con
cùng leo lên những cành cây, cùng khám phá những hang động nằm bên dưới nước,
cùng chén những con tôm càng sông và cá da trơn, cùng phơi nẳng trong ánh sáng
mặt trời đang sưởi ấm từng khoảnh nền đất ẩm ướt của khu rừng. Mụ đã từng mơ giấc
mơ này biết bao nhiêu lần đến nỗi mụ có thể nhấm nháp được nó. Như thể để chứng
minh quan điểm của mình, mụ vụt nhẹ cái lưỡi dài dọc theo hàm dưới.
“Hậu quả sẽ khốc liệt đấy”,
con cá sấu chúa nhắc nhở mụ.
“Ssssịttt”, mụ rít lên.
“Ta biết là hậu quả sẽ ra sao”. Tất nhiên là mụ đã biết. Mụ biết là nếu Night
Song quay trở lại lốt rắn thì nàng sẽ không bao giờ có thể khoác lên mình lớp
da của loài người được nữa. Đó là một quy luật rất hợp ý Granmother Moccasin.
“Thế Night Song có biết điều đó
hay không?”, con cá sấu hỏi.
Grandmother không trả lời câu hỏi
đó. Điều quan trọng duy nhất là mụ sẽ lại có được con gái bên cạnh mình. Thế
thôi.
Con cá sấu chúa nhìn vào mụ,
nhưng mụ quay đi chỗ khác. Nó nhắc lại một lần nữa. “Chị phải nói cho nó biết
trước khi nó chọn lựa”.
“Đủ rồi”, Grandmother nói. “Ta sẽ
báo cho nó biết vào đúng thời điểm”. Vừa nói xong, mụ trườn ngay xuống cây bách
và bắt đầu bò sang phía bên kia khu rừng.
Nhưng khi mụ vừa trườn đi thì mụ
nghe thấy tiếng con cá sấu gọi mụ.
“Chị phải hứa là sẽ báo cho nó biết
trước khi nó chọn lựa đấy nhé”. Nói rồi nó nhắm mắt lại và lặn xuống đáy sông đầy
bùn.
“Ta hứa”, mụ thì thầm. Nhưng chẳng
ai tin lời mụ, ngay cả đám cây cối.
54
Làm thế nào một con mèo có thể giữ
được lời hứa khi nó đang đói bụng? Có một điều tốt lành là loài mèo được sinh
ra để săn mồi. Đôi chân sau khỏe mạnh của chúng được tạo ra để bật mạnh. Những
cái móng sắc là để móc vào con mồi. Và những chiếc răng bén nhọn thì thật là
tuyệt vời khi dùng để cắn. Bây giờ khi cơn nấc cụt đã qua đi, nó có thể thực hiện
những cuộc săn rình bao nhiêu lần cũng được. Với những cái chân dẻo dai, có vẻ
như Puck sẽ chẳng gặp khó khăn nào trong việc săn tìm một vài con mồi cho bữa
ăn sáng.
Rốt cuộc thì nó cũng đã quan sát
Sabine săn bắt những con thằn lằn và chuột nhắt mà mẹ nó đem về cho chúng.
Chẳng phải thế sao?
Nó bắt đầu lên đường.
Suốt buổi sáng đó nó đánh hơi tìm
chuột nhắt, thằn lằn chân ngắn, hay bất cứ cái gì di động. Nhưng sau vài giờ, thứ
duy nhất mà nó xoay sở bắt được chỉ là một đôi dế nhảy thẳng vào ngay trước mũi
nó, làm cho nó ngạc nhiên đến sửng sốt nhưng cũng nhanh chóng trở thành bữa ăn
điểm tâm giòn giòn dẫu là chẳng được vừa ý cho lắm.
Bản chất của vấn đề là nó phải
công nhận rằng Sabine đã làm gần hết phần việc khó khăn trong những buổi thực tập
săn mồi ở bên dưới căn nhà nghiêng ngả và dành cho nó phần dễ dàng còn lại. Giữa
hai chị em thì Puck có thể thấy chị nó là tay thợ săn lành nghề hơn. Làm sao nó
có thể biết được là trong thế giới loài mèo thì kẻ dẫn đầu cuộc săn thường là
mèo cái? Đơn giản chỉ vì Sabine là kẻ truyền nhân thực thụ của các tổ tiên của
nó, những con sư tử cái, những cọp cái, những bà mèo rừng Nam Mỹ, thế thôi.
Sabine. Nghĩ về con mèo chị lại
đem đến cho nó một nỗi đau khác. Từ trước đến nay nó chưa hề lìa xa người chị
sinh đôi đó dù chỉ là vài tấc. Nỗi đau nhói lại căng lên, như thể có một sợi
dây được căng từ đỉnh đầu cho đến chót đuôi nó. Người ta nói rằng mối liên hệ
giữa những trẻ sinh đôi thì luôn chặt chẽ hơn là mối suy nghĩ giữa những cặp
anh chị em bình thường, tim của chúng đập cùng một nhịp chính xác, không hề lệch
dù chỉ một giây. Và một khi bị tách rời ra, những trẻ sinh đôi trở nên bối rối.
Đang bị cơn đói và ngứa ngáy hành hạ, Puck cảm thấy mình cũng rối tung lên.
Nỗi nhớ cuộn lên khắp người nó
như một đám mây dày. Nhớ Sabine. Nhớ mẹ. Nhớ Ranger. Cơn đau lại nhói lên liên
tục.
Nó bước vào một vệt nắng và nằm
xuống. Trong hơi ấm mặt trời lúc ban trưa đang thấm sâu vào lớp da ngứa ngáy,
nó căng óc nhớ lại những lần mèo mẹ đem về những món quà nho nhỏ mà nay nó mới
thấy lớn lao biết chừng nào. Nó lần tìm trong kí ức để tìm ra cách làm thế nào
để nằm rạp xuống, nó nghĩ đến Sabine đang thu mình lấy đà sau cái lờ cá cũ kĩ,
chờ đợi một con mồi bất cẩn chạy ngang qua, rồi bất ngờ nhảy ra vào ngay đúng
thời điểm. Nó lặp đi lặp lại những hành động này.
Nó nằm trong vầng ánh sáng, đang
cố nhớ lại, thì bất chợt nó thấy mặt trời đang lẩn đi. Nó cảm thấy một cái bóng
mát lạnh trôi ngang qua bên trên nó. Một cơn ớn lạnh chạy khắp người nó. Rồi nó
để ý thấy đột nhiên xung quanh trở nên lặng lẽ như thể cả khu rừng xung quanh
đang nín thở.
Nó ngó xuống đất để nhìn xem liệu
có đoán ra được là mặt trời đang đi chuyển về nơi nào. Nó bước đến một vùng được
chiếu sáng khác trong ánh nắng màu vàng chói, nhưng ngay khi nó vừa bước đến đó
thì cái vùng sáng đó cũng biến mất. Có phải là mặt trời đang trêu chọc nó chăng?
Hay là mặt trời tức giận vì những tiếng rít lúc nãy của nó? Nó tìm kiếm một
vùng sáng khác và khi nó vừa nhìn thấy tia nắng thì nó chụm hai chân sau lại
và... nhảy phóng đi!
Nó nhảy vừa kịp lúc để tránh bị
chụp bởi một con chim khổng lồ! Ái chà! Puck chạy, chạy thật nhanh, chạy hết sức
lực về cái tổ an toàn của nó. Con sẽ được an toàn ở dưới Gầm sàn. Con chim nhào
xuống ngay sau lưng nó. Puck có thể cảm thấy được luồng không khí ở phía sau
lưng nó bị quạt hất lên bởi đôi cánh to lớn của con chim. Nó trượt nhanh vào tổ,
nhưng cũng quay lại vừa kịp để nhìn thấy con chim to tướng đang trừng mắt nhìn
nó, đôi mắt sáng lấp lóe.
Puck hít một hơi thở sâu và...
buông ra một tiếng hét đinh tai nhức óc. MEEEOOOOM! Và nó ngạc nhiên khi thấy
hóa ra tiếng hét đó lại có tác dụng. Con chim bay vút đi.
Có rất nhiều chim trong khu rừng
thông này - nào là cú, chim cắt, chim ưng đuôi đỏ và cả những con chim nước
chân cao nữa, con diệc lông xanh to lớn và những con hạc ở đồi cát, thế nhưng
Puck không tài nào nhận ra được con chim vừa rồi thuộc về giống chim gì.
Tất cả những gì nó biết được là
con chim đó rất to lớn. Nó rúc mình vào cái góc xa nhất ở trong hang, chui sâu
vào, sâu hơn nữa, xa khỏi miệng hang, càng xa càng tốt. Ở đó, nó nằm khoanh
mình lại một lúc lâu, thật lâu, cuộn người cho chặt lại như một quả bóng tròn,
hổn hển. Làm sao nó có thể biết được là liệu con chim đó có đang rình đợi nó ở
bên ngoài giống như Sabine đã từng nấp sau cái lờ bắt cá để chờ bắt con thằn lằn
hay không? Có thể là con chim vẫn còn ở ngay ngoài kia. Đang chờ đợi. Ý nghĩ
này làm cho Puck run lên bần bật. Hai bên hông nó phập phồng lên xuống.
Nhưng sau một lúc, cơ thể nó trở
nên mỏi mệt vì cứ phải cuộn mình lại thật chặt. Những đôi chân của nó bắt đầu
đau nhức vì căng cứng. Hai bên sườn thì nhức nhối và miệng nó thì khô ran sau
những đợt thở hổn hển gấp gáp. Và thêm một lần nữa, dạ dày của nó lại trống rỗng,
cứ réo ầm ầm mặc dù nó vừa nuốt hai con dế trước đó. Nó không thể cứ nằm co mãi
trong bóng tối như thế. Nó đứng dậy và cố gắng giũ bỏ những nỗi đau buồn. Sớm
muộn gì nó cũng phải đi ra, nếu không thì nó sẽ chết rũ trong cái góc tối nhỏ
bé này. Nó từ từ duỗi những đôi chân nhức nhối và rón rén bò ra cửa hang. Một
khi đã ra được đến đó, nó thò đầu ra và cẩn thận nhìn xung quanh, cả hai bên và
phía trên đầu. Ngày đã gần tàn và bóng râm đã phủ lên khu rừng. Vẫn chưa thấy dấu
hiệu nào của con chim. Nó bước ra, những cái ria mép tập trung trong cơn cảnh
giác cao độ. Nó hít hít không khí để đánh hơi.
Không ngửi thấy mùi con chim.
Nhưng nó ngửi thấy mùi chuột nhắt.
Kìa, ở ngay đằng trước mặt nó, nằm
ngay phía bên ngoài cửa hang là một con chuột vừa mới chết hãy còn tươi rói. Rõ
ràng là con chim đã giật mình và đánh rơi con chuột khi Puck buông ra tiếng hét
the thé.
Ngay cả khi Puck nhận ra là con
chuột đã chết, nó quyết định sẽ giết con vật thêm một lần nữa, làm thế chỉ để
cho nó cảm thấy yên tâm hơn. Nó cố nhớ lại cách mà Sabine sẽ làm trong trường hợp
này. Vì vậy nó cố hết sức giũ bộ lông đã quến bùn khô cứng thành bánh, cong
lưng lên cao hết cỡ, và giương hết bốn chân ra vồ lấy cái cơ thể bất động. Nó hất
con chuột từ bên này sang bên kia và tung lên không. Nó chụp lấy với những chiếc
móng sắc chí tử và nhai rào rạo với những chiếc răng nhọn hoắt. Sau cùng, hài
lòng vì đã giết được con chuột hoàn toàn và triệt để, nó ngậm cái đuôi chuột
vào giữa hai hàm răng rồi mang về tổ và ăn dần từng miếng. Nó chưa từng được ăn
con chuột nào ngon lành như thế. Nó ăn từng miếng nhỏ, cả lông lẫn xương, cho đến
khi những gì còn sót lại chỉ còn là một mẩu chót đuôi. Nó ợ ra một tiếng xong rồi
nuốt luôn cái chót đuôi. Trong khi ăn nó nghĩ đến chị nó, kẻ săn mồi. Đêm nay
chị nó đang ăn món gì? Liệu chị nó có đảm đương phần việc của mẹ và phải rời khỏi
nơi an toàn dưới Gầm sàn để đi săn mồi cho bản thân và cho Ranger hay không?
Puck liếm miếng thịt. Đó quả là một con chuột rất ngon. Nó hi vọng là Sabine
cũng đang có một bữa đầy đủ như nó. Ôi, Sabine. Nó ước gì có thể chia được con
chuột này với người chị duy nhất của mình. Nó sẽ sẵn sàng dành cho chị nó phần
lớn hơn. Một cách vui vẻ. Cuối cùng thì bụng đã no nê, nó cuộn tròn mình như một
quả bóng và nhanh chóng ngủ thiếp đi.
Từ trên một cành cây của cây đu mọc
gần đó, một con chim đơn độc đang quan sát, đôi mắt sẫm màu của nó sáng rực lên
trong bóng tối đang tràn đến. Rồi nó dang rộng đôi cánh màu đồng và bay đi.
55
Chúng ta hãy cùng quay trở lại một
ngàn năm trước.
Trong ngôi làng mọc lên bên sông,
thời gian trôi vùn vụt. Hawk Man và Night
Song với khả năng lắng nghe, đã thành những người có vai trò quan trọng làng; sự
thông thái, biết rành rọt các lối đi rừng, nắm vững điểm mùa, có thể báo khi
nào thì cơn bão đến gần hoặc là đàn trâu sẽ chuyển vùng, dân cư tìm chàng để hỏi
xin ý kiến hoặc xin được làm bạn chàng.
Tuy chàng không phải là người
cùng dòng giống với họ nhưng họ vẫn yêu quý chàng. Night Song thì được biết đến
với những chiếc bình gốm xinh đẹp và vì những bài hát không lời huyền bí của
nàng. Đặc biệt là những đứa trẻ rất thích lắng nghe nàng hát khi chúng dần ngủ
thiếp đi.
Hawk Man và Night Song
cùng quan sát đứa con gái nhỏ của họ lớn lên. Trong những năm qua, cô bé đã lớn
lên rất nhanh giống cha và xinh đẹp như mẹ. Về hầu hết các phương diện thì cô
bé hoàn toàn giống như những đứa trẻ khác trong làng. Chỉ trừ một điểm.
Nếu mặt trời chiếu vào da
cô bé theo hướng thẳng góc thì có vẻ như bé phát ra một thứ ánh sáng rực rỡ.
Khi ngày sinh nhật thứ mười
của bé sắp đến, Night Song quyết định sẽ làm tặng cho con mình một cái bình đặc
biệt, một chiếc bình của riêng bé. “Con gái của chúng ta sẽ sớm trở thành một
thiếu nữ”, nàng nói với chồng, “và một thiếu nữ thì sẽ cần đến một cái bình cho
riêng mình”. Nó sẽ là một chiếc bình đẹp đẽ. Một chiếc bình để đựng dâu, quả hạch
và tôm càng, một cái bình để chứa bắp hạt và nước. Nó sẽ là một cái bình đáng
giá cho cô con gái cưng.
Ngày hôm sau Night Song
đi đến bờ sông để thu nhặt đất sét đỏ đặc quánh cho vào giỏ. Rồi nàng dùng lòng
bàn tay để quấn đất sét thành từng cuộn dài rồi lại nén các cuộn đất lên nhau
cho đến khi chúng có hình dạng một chiếc bình. Tiếp theo, nàng nhúng mấy ngón
tay vào nước và xoa lên các cuộn đất cho chúng liền lại với nhau đến khi bề mặt
trở nên nhẵn mịn cả ở mặt ngoài lẫn bên trong. Khi đã vừa ý với bề mặt mịn màng
trơn láng đó, nàng ấn ngón tay cái lên phía gần mép bình. Nàng mỉm cười. Ngón
tay để lại hình một mặt trăng lưỡi liềm thật đẹp. Một vầng trăng non. Nàng nghĩ
đến đứa con gái và mỉm cười. Một vầng trăng mới nhú. Một năm mới vừa sang. Nàng
xoa nhẹ ngón tay lên hình mặt trăng bé nhỏ. Rồi, nàng lại dùng ngón tay cái để ấn
thêm nhiều những hình trăng lưỡi liềm theo một mẫu hình xoáy tít trên khắp phần
thân trên của bình cho đến khi đủ số một trăm. Một trăm mặt trăng lưỡi liềm.
Khi nàng đã làm xong, nàng đặt chiếc bình lên một hòn đá phẳng và để cho nó khô
đi trong ánh mặt ười.
Khi mặt trời bắt đầu lặn,
“Đã đến lúc đem nung chiếc bình”, nàng bảo Hawk Man và họ cùng nhau đi thu nhặt
củi cho lò nung, đánh đá lửa để nhóm rồi họ đợi cho ngọn lửa bốc cao lên đến
khi thật nóng. Họ hạ thấp chiếc bình bằng đất sét hãy còn sống xuống để nó vào
trong lò nung và chờ đợi. Đợi cho ngọn lửa thực hiện.
56
So với tất cả mọi cư dân
trong cánh rừng thông thì một con mèo con sẽ được xếp vào loại “các giống sinh
vật nhỏ con hơn”. Vài hôm sau cái ngày Puck gặp con chim, nó cũng trực tiếp chạm
mặt một con gấu trúc lớn, rồi lại một con lợn cỏ peccary rất nặng mùi và ồn ào.
Trong cả hai trường hợp, nó đều có thể gây sửng sốt cho cả hai con thú với những
tiếng thét to đầy đe dọa.
MEEEOOOOWWW!!!
Tiếng hét của nó xé toạc
bầu không khí. Cả con gấu trúc lẫn con lợn cỏ đều quay lại và chạy bán sống bán
chết. Nếu như chúng quay lại nhìn thì sẽ thấy là chính Puck cũng đang bỏ chạy
theo hướng ngược lại. Dù vậy, con mèo bé nhỏ cũng nhận thức được bên canh bộ
móng, những chiếc răng nhọn và những đôi chân dẻo dai thì tiếng hét the thé
cũng có thể là một thứ vũ khí hữu hiệu.
Chẳng bao lâu sau thì
Puck đã học được cách sử dụng tất cả các công cụ của mình. Trong khu vực gần
cái hang của nó, nó nhanh chóng phát hiện ra những vị trí rất tốt để bẫy chuột
nhắt và thằn lằn. Thậm chí có lần nó còn tìm thấy cả một con chuột chũi, đang
nhô đầu lên khỏi mặt đất khi Puck tình cờ đi ngang qua. Và cuối cùng thì nó tập
trung hết can đảm để bước xuống bờ sông và táp lấy những ngụm nước trong. Nước
hơi mặn, nhưng nó vẫn uống. Sau khi uống xong, nó ngồi bên dòng nước và ngắm
nhìn con sông đang cuộn chảy ùng ục. Nó không còn cảm thấy đói và khát nữa.
Việc mà nó cần làm bây giờ
là phải vượt qua sông. Ranger và Sabine đang ở phía bờ bên kia. Nó chắc chắn
như thế. Nếu nhìn từ nơi cao nhất của bờ sông thì dòng sông có vẻ không rộng lắm,
có vẻ như chỉ cần một cú nhảy lấy đà là nó đã có thể phóng qua được. Nhưng ở
đây, ngay mép nước, nơi những ngón chân nó có thể chạm vào dòng nước lạnh, nơi
nhiệt độ thấp hơn và nền đất cũng mềm hơn thì khi nó dõi mắt nhìn ngang qua
sông, bờ bên kia trông như là ở vào một lục địa nào khác và bản thân con sông
thì giống như một đại dương vậy.
Nó nhìn chăm chú vào bờ
sông bên kia. Và ngay lúc đó, nó chợt thấy lóe lên một tia sáng, giống như một
ánh cầu vồng nhỏ, đang lơ lửng ở mép nước. Con chim ruồi!
Nó chớp mắt và khi mở mắt
ra thì con chim đã biến mất.
57
Tất cả mỗi người chúng ta
đều yêu quý một thứ gì đó. Bầu trời ưa thích những ngôi sao chổi. Làn gió ưu ái
các hẻm núi. Cơn mưa lưu luyến những mái nhà. Thế còn cây cối thì sao? Bởi vì
chúng sống lâu năm nên những thứ mà chúng yêu thích cũng thay đổi theo từng thời
kì. Nhưng nếu bạn hỏi một cây thông lá dài hay một cây dâu tằm, hoặc một cây liễu
rủ thì chúng sẽ nói cho bạn biết rằng vào một ngàn năm trước đây thì người mà
chúng yêu mến chính là Night Song. Phải, Night Song và khúc hát ru đẹp đẽ của
nàng. Chúng yêu mến nàng ngay từ khi nàng mới đến đây.
Khi đứng bên cạnh lò lửa,
Night Song nhìn chăm chú vào chiếc bình mà nàng đã làm ra. Nàng đã nghĩ về Grandmother
biết bao nhiêu lần, và cứ mỗi lần nhớ đến mẹ, nàng lại nghĩ đến những khi cả
hai cùng nổi lên trên lưng của đàn cá sấu hàng nhiều giờ liền, cùng nhau săn bắt
những con tôm càng trốn trong hang dưới đáy nước của chúng, cùng quấn quanh những
cành cây cao nhất. Night Song ngước nhìn lên. Nàng khum bàn tay phía trên mắt để
che bớt những tia nắng mặt trời sáng chói đang trượt qua những chiếc lá. Trong
một khoảnh khắc, nàng chợt nghĩ là những cành cây đang vẫy gọi nàng. Lúc này
đây, khi niềm khát khao mong muốn sắc nhọn và dữ dội đang xuyên thấu qua làn da
người của nàng như một mũi dao khiến nàng phải nín thở.
Nàng đã nhớ mong
Grandmother trong suốt từng ấy năm. Nhưng nàng đã cố quên, đã từ chối không
nghĩ đến. Nỗi mong nhớ thật là nặng nề. Nhưng bây giờ thì hình ảnh sắc sảo giống
hệt Grandmother đang sáng lên rạng rỡ trên bề mặt chiếc bình xinh đẹp, nó nhắc
nàng rằng bên cạnh người chồng và đứa con gái thì vẫn còn một ai đó cũng rất
thương yêu nàng.
Một ngàn năm sau đó, một
con mèo con cũng đang ngồi bên bờ con sông này và cũng đang nhớ đến người mẹ đã
chết đuối của mình. Nó cũng nhớ đến người chị sinh đôi có bộ lông ánh bạc. Nó
nhớ đến người cha dượng Ranger luôn vui vẻ của mình. Phải, nỗi mong nhớ đang
bàng bạc lan tỏa khắp mọi nơi.
58
Bên dưới căn nhà xiêu vẹo,
Ranger cựa mình. Bên ngoài trời vẫn còn tối và tất cả những gì mà nó nghe được
chỉ là tiếng dế gáy nho nhỏ và những tiếng rừ rừ khe khẽ lúc cao lúc thấp của
Sabine đang ngủ say. Nó liếm vào đỉnh đầu con mèo con với cái lưỡi to lớn kêu sồn
sột. Nó ngắm nhìn con mèo cái nhỏ bé đang duỗi mình ra rồi lăn tròn. Rồi nó lại
nằm thẳng ra và ngủ tiếp.
Ranger nhổm dậy và nhè nhẹ
bước ra khoảng sân bẩn thỉu với những chai lọ cũ tích tụ từ nhiều năm vương vãi
khắp nơi cùng với những mẩu xương khô của những con thú mà Gar Face đã bắn hạ bằng
khẩu súng trường và lột da phơi trên hàng hiên. Chính Ranger cũng đã liếm sạch
phần xương của mình được chia từ những mẩu xương đó. Nó liếm mép. Đã lâu lắm rồi
kể từ khi Ranger còn tham dự những chuyến săn đó, được chén thịt tươi, được
cùng chia phần với Gar Face một con possum vừa mới bắt được, hay một con gấu
trúc hoặc một con thỏ đầm lầy. Nó đã từng là con chó săn giỏi nhất khu rừng này
và Gar Face biết rõ nó, một con chó sinh ra từ một dòng dõi với nhiều thế hệ
chó săn từng đoạt các giải thưởng, những con chó nuôi lớn lên ngay bên bờ con
sông nước bạc Sabine, con sông rộng và lấp lánh ánh bạc chảy đến phía đông của
khu rừng này. Ranger đã từng nhiệt tình phục vụ chủ, nó đã săn lùng những con hải
ly, hươu và gấu trúc. Có một lần nó đã dồn một con gấu đen quý hiếm vào một
góc, có thể đó là con gấu duy nhất còn sót lại trong khu rừng thẳm này. Gar Face
đã thưởng cho con chó một miếng thịt được cắt ra ngay từ chính con gấu đó.
Chỉ có một lần nó ngập ngừng
trong khi săn. Chỉ một lần duy nhất. Đó là lần nó thấy con linh miêu. Con vật dừng
lại ngay trước mặt nó và nhìn trừng trừng vào nó. Ngay lúc đó thì Ranger không
thể hiểu được tại sao nó lại ngập ngừng, nó chỉ biết là con mèo đang nhìn xuống
nó với đôi mắt màu vàng. Ranger sủa lên nhưng con mèo vẫn cứ nhìn nó. Ranger dừng
lại và trong một khoảnh khắc nó hiểu ra. Những con mèo con. Phải, con linh miêu
đang mang thai.
Nó cúi thấp đầu xuống. Rồi
nó đổi thế đứng. Con linh miêu trốn thoát.
Bây giờ thì nó sung sướng đón nhận
cái tô đựng những mẩu đẩu thừa đuôi thẹo từ tay chủ nó, người đã cột sợi xích
xung quanh cổ nó và bỏ mặc nó nằm ở đây. Viên đạn ngày xưa vẫn còn nằm trong cẳng
chân bỏng rát của nó.
Ranger giật mạnh sợi xích. Cổ nó
hãy còn chảy máu vì lần giằng co lúc nãy với sợi xích. Bên sườn thì đau nhói
khi bị Gar Face đá vào. Sợi xích vẫn căng ra, siết mạnh vào lông và da nó. Sợi
xích này đây. Sợi xích gỉ sét. Sợi dây xích đã ràng buộc nó vào phạm vi vòng
tròn chỉ có sáu mét này.
Khi con mèo tam thể còn ở với nó
thì Ranger ít khi để ý đến sợi xích. Nhưng giờ đây trong khi giật mạnh thì sợi
dây xích nhắc nó nhớ lại người bạn đã mất, người bạn tốt nhất mà nó từng biết.
Và Puck nữa. Con mèo đực bé bỏng của nó. Điều gì đã xảy ra với hai mẹ con nó?
Và đám cây cối mọc xung quanh căn
nhà nghiêng, những kẻ đã quan sát con chó săn già trong suốt thời gian dài đó,
đã yêu thích những nốt nhạc buồn buồn của nó, chúng cũng hạ thấp những cành
nhánh của mình xuống và thở dài.
59
Đã từng có thời Gar Face sống vui
vẻ với con chó vốn được hắn trộm lấy từ một nông trại đâu đó ở phía đông khu
này, gần con sông Sabine. Hắn vui sướng vì có một kẻ để bầu bạn và con chó săn
đã tỏ ra xứng đáng là một người bạn, một trợ thủ khi đi săn. Nó trung thành với
chủ, sung sướng khi được ra ngoài khoảng trống, lang thang qua khu rừng đầm lầy,
vương quốc lầy lội của cả hai. Cả hai đều trơ trọi trong cánh rừng, một người
đàn ông cô đơn cùng với con chó trung thành của gã.
Nhưng rồi cái đêm đó xảy đến, khi
cả hai cùng vây bắt một con linh miêu. Con chó lấy hết sức để sủa vang trong
khi Gar Face vội vã tìm cách giết con vật. Nhưng ngay trước khi hắn kịp bóp cò
súng thì con chó ngu ngốc lại lao tới trước nòng súng của gã, để cho con linh
miêu sổng ra khỏi tầm bắn. Gar Face hãy còn nhớ rõ cái đêm đó, đôi mắt con mèo
sáng lập lòe trong đêm tối, tất cả hai hàm răng nhọn và bộ móng sắc của nó, những
cái móng cứa vào chân Gar Face khi nó phóng vụt qua, để lại một vết cắt dài và
sâu nhức nhối trên bắp chân gã. Gar Face gầm lên. Hắn không quan tâm tới con
chó đã lãnh trọn viên đạn vào cẳng chân trước.
Với bất cứ một người nào khác thì
hẳn là đã cảm thấy hối hận, rất buồn vì một tai nạn như thế. Nhưng Gar Face thì
chẳng phải là loại người như bất cứ ai khác. Đối với hắn thì con chó đã phản bội
chủ khi bước vào ngay giữa cây súng trường và con linh miêu. Vì vậy hắn đã xiềng
con chó săn ngu xuẩn này vào cái cọc và bỏ mặc nó ở đó, ở cái sân dơ bẩn để tự
nhắc nhở mình.
Đừng tin tưởng vào bất cứ ai.
Chớ bao giờ.
60
Ngày nay thì chẳng còn ngôi làng
nào bên cạnh con sông này, nhưng vào một ngàn năm trước thì đã từng có. Khi mụ
trườn mình về phía những mái lều tròn của ngôi làng, Grandmother đẩy về phía
sau cơn giận mà mụ đã ấp ủ trước đó và tập trung vào rất nhiều những thời khắc
tươi đẹp mà mụ đã cùng chung hưởng với con gái. A, mụ nghĩ với chính mình, rồi
chúng ta sẽ lại sớm có với nhau những giờ phút vui vẻ đó. Ý nghĩ đó làm cho mụ
chuyển động nhanh hơn, nhanh như một con rắn khổng lồ và cổ xưa có thể chuyển động.
Sớm thôi, mụ rít lên. Và những hàng cây đang đứng nhìn chợt run lên lo sợ.
Cũng cùng lúc đó tại ngôi làng,
khi Night Song đang khắc hình lên mặt bình, hình dạng của Grandmother Moccasin,
lòng nàng chợt dâng đầy một khát khao muốn gặp mẹ, người đã chăm sóc và nuôi dưỡng
nàng. Làm sao nàng biết được là người mẹ đó cũng đang trên đường đi tìm nàng?
Buổi sáng hôm sau, nàng trao tặng
chiếc bình cho con gái. Đó là một cái bình thật to, lớn hơn bất cứ cái bình nào
mà nàng đã làm ra. Nó lớn gần bằng con gái nàng. Thật vậy, khi cô bé bước vào
bên trong thì cái bình cao gần đến cằm của cô.
Con gái nàng choàng tay ôm lấy chiếc
bình và phải còn một chút xíu nữa thì hai cánh tay cô bé mới giáp vòng chu vi
chỗ rộng nhất, ngay chính giữa thân bình.
“Ôi”, cô kêu lên, “con chưa bao giờ
thấy bất cứ thứ gì đẹp như thế này”. Rồi cô xoay vòng quanh và dùng hai bàn tay
xoa dọc theo bề mặt nhẵn nhụi bên ngoài chiếc bình. Night Song đứng yên lặng
khi con gái nàng dùng đầu ngón tay cẩn thận lần theo một trăm hình trăng lưỡi
liềm trên vành bình. Sau đó, nàng nín thở khi cô bé sờ theo hình dáng của
Grandmother Moccasin. Night Song có thể nhìn thấy rõ là con gái mình đang bắt đầu
phát ra ánh sáng lờ mờ khi những đầu ngón tay con bé lần theo những đường lượn
và những chiếc vảy trên thân người bà con xa xưa của mình. Rồi bất chợt cô đứng
bật dậy và hỏi, “Đâu rồi? Bà ngoại đâu rồi?”
Cô chỉ từng được nghe kể đôi chút
về Grandmother Moccasin. Có vẻ như mẹ cô buồn khi nghe nói về Bà ngoại. Thế
nhưng vào ngày hôm nay, ngày sinh nhật lần thứ mười, cô muốn được biết nhiều
hơn nữa.
Night Song ngập ngừng. Nàng tìm
cách trì hoãn câu trả lời; rồi nàng nói với đứa con gái đang chập chờn sáng
lên, “Bà ngoại biết tất cả các bí mật của những dòng sông, của cây cối và các
con sông nhánh. Bà đã từng sống ở đây rất lâu”.
Cô bé chăm chú lắng nghe. Rồi cô hỏi,
“Nhưng bây giờ thì bà đâu rồi? Bà ngoại Moccasin đang ở đâu?”
Night Song ngần ngừ rồi bảo con,
“Hãy băng qua con sông này đến bờ bên kia và đi mãi cho đến khi con tới một nơi
có nền đất rất mềm, nơi mà những dấu chân của con sũng đầy nước. Cứ tiếp tục đi
thêm một lát nữa. Khi con thấy nơi mà những cây bách mọc lên ngay giữa dòng nước,
nơi có những đám rêu rủ xuống như những tấm rèm dày đến nỗi chúng che hẳn ánh mặt
trời, nơi mà đất dừng lại và hạ thấp xuống, ở đó con sẽ tìm thấy Bà ngoại”.
Nàng nhìn đứa con đang vỗ nhẹ vào hình dáng của con rắn cổ xưa khắc trên chiếc
bình.
Tiếp theo, vì một lí do nào đó mà
nàng không giải thích được, nàng nói tiếp với đứa con gái đang sáng lấp lánh,
“Không ai biết rõ khu rừng này bằng bà ngoại. Nếu có lúc nào đó con bị lạc hay
cần đến bà, bà sẽ giúp đỡ con”, từ sâu trong tim mình, nàng cũng tin như thế.
Nàng ngắm nhìn con gái đang đưa chiếc bình ra xa để chăm chú nhìn vào những
hình khắc trên mặt bình.
Đây là đứa con gái của chính nàng.
Niềm mơ ước của trái tim nàng. Đứa con được sinh ra từ một tình yêu thật sâu đậm
giữa nàng và Hawk Man, sâu đậm đến nỗi vì nó mà nàng đã lìa bỏ Grandmother
Moccasin, người đã dạy cho nàng biết các đường đi lối lại trong khu rừng, đã chỉ
cho nàng biết những thời điểm biến đổi của các mùa trong năm và đã kể cho nàng
nghe rất nhiều câu chuyện.
Vào lúc này, với con gái đang ngồi
kề bên, lòng Night Song chợt dâng lên một niềm biết ơn. “Cảm ơn, mẹ”, nàng thì
thầm. Và lúc đó, cây cối, những ngôi sao và dòng nước, toàn thế giới cùng tỏa
lên một ánh sáng mờ mờ.
-------------
Còn tiếp...
Còn tiếp...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét