Thứ Bảy, 7 tháng 9, 2013

Chiếc xe của Thần Chết - Selma Lagerlöf (chương 7)

Selma Lagerlöf

Chiếc xe của Thần Chết

Ngọc Thọ dịch

7

Người đánh xe bò đã đưa Đavit Hôm vào một căn phòng lớn, cửa sổ có chăng lưới sắt, tường màu sáng và trần trụi. Một dãy giường kê dọc tường, nhưng chỉ một giường có người nằm. Họ ngửi thấy mùi thuốc nhạt thếch. Một người mặc đồng phục gác ngục ngồi ở mép giường; và Đavit Hôm hiểu rằng y đang ở trong bệnh xá của một trại giam.
Một bóng đèn điện treo trên trần, và nhờ ánh sáng đèn, Đavit Hôm thấy trên giường một người bệnh trẻ tuổi, gương mặt đẹp nhưng hốc hác. Vừa thoáng nhìn thấy người tù, y liền giật mình. Y quên mất rằng y đã có một tình cảm dịu dàng hơn đối với Giorgiơ. Bây giờ y lại sắp sửa xông vào hắn với cơn thịnh nộ của y.
- Mày đến đây làm gì? - Y kêu toáng lên. - Nếu mày động đến người đang nằm kia thì mày với tao sẽ là tử thù, và mãi mãi sẽ là như vậy. Mày có nghe tao nói không?
Người đánh xe bò quay lại và đưa mắt nhìn y với vẻ thương hại hơn là trách móc:
- Bây giờ tớ mới biết ai đang nằm kia, trên cái giường ấy, Davit ạ. Khi mới vào, tớ chưa biết là ai cả.
- Mày có biết hay không biết, điều ấy không quan trọng. Nhưng bây giờ mà...
Y ngừng bặt. Giorgiơ đưa tay làm một cử chỉ oai vệ và Đavit Hôm lùi lại lặng câm, bị khuất phục vì một nỗi sợ hãi không thể cưỡng lại và không thể giải thích được.
- Hai chúng ta chỉ được phép tuân lệnh và phục tùng, - người đánh xe bò nói. - Cậu chẳng có gì để mong muốn và đòi hỏi, cậu chỉ có việc đợi lệnh, bình tĩnh và nhẫn nhục mà thôi.
Rồi Giorgiơ kéo sụp cái mũ trùm đầu của hắn xuống để ra hiệu rằng hắn không muốn trao đổi lời nào với y nữa, và trong sự yên lặng tiếp theo đó, Đavit Hôm nghe tiếng người tù bắt đầu nói chuyện với người gác ngục.
- Ông có tin rằng cháu sẽ có lúc trở lại thành người tử tế không? - Người bệnh hỏi với một giọng nói đã yếu đi rất nhiều, nhưng hoàn toàn không chán nản.
- Nhất định thế, Hôm ạ, nhất định thế. - Người gác ngục trả lời một cách nhân hậu mặc dù hơi có vẻ ngập ngừng. - Chỉ cần cậu nghỉ ngơi một ít và cậu khỏi được cái chứng sốt này.
- Ông biết rõ rằng cháu không nói về chứng sốt, - người bệnh nói, - cháu hỏi ông rằng ông có tin chắu sẽ có lúc hồi phục được không? Khi đã bị buộc tội giết người thì không dễ dàng gì đâu ông nhỉ?
- Đối với cháu rồi thì sẽ tốt thôi, Hôm ạ. Bởi vì cháu đã nói với ta rằng cháu sẽ biết đi đâu không được ra khỏi đây, - người gác ngục trả lời. - Đến đấy cháu sẽ được đón tiếp tốt, có phải không?
Trên nét mặt mệt mỏi của người bệnh thoáng qua một nét cười đẹp:
- Ông bác sĩ khám cho cháu tối nay... ông ấy bảo, thế nào nhỉ? - Anh ta lại hỏi.
- Không có gì nguy hiểm, Hôm ạ, không có gì nguy hiểm cả. Bác sĩ cứ nói mãi rằng: “Chỉ cần cho nó ra khỏi bức tường này là tôi sẽ làm cho nó bình phục chóng thôi”.
Người tù ngẩng đầu lên và suýt soa:
- Ra khỏi những bức tường này! Anh ta thở dài.
- Ta chỉ kể lại lời mà ông bác sĩ quen nói thôi - người gác ngục nói tiếp. - Cháu đừng hiểu nói như vậy là bảo rằng cháu phải trốn đi! Đừng có trốn như cháu đã làm cách đây một năm! Làm như thế thì chỉ tổ kéo dài thời hạn của cháu mà thôi. Đấy, bỏ trốn thì chỉ được lợi như vậy thôi.
- Ông đừng sợ, bây giờ cháu đã biết điều hơn rồi. Cháu chỉ còn nghĩ ở cho đến hết hạn tù của cháu. Sau đó cháu sẽ thử làm lại cuộc đời mới.
- Cháu nói phải đấy, Hôm ạ, sẽ làm một cuộc đời mới, - người gác ngục nói với vẻ trang nghiêm.
Trong thời gian cuộc nói chuyện này diễn ra, Đavit Hôm đã vô cùng đau đớn.
- Nó đã mắc bệnh ở đây, - y thầm nghĩ, lắc lư người một cách bồn chồn, - và thế là nó nguy rồi; nó vốn đẹp trai, khỏe mạnh và vui tươi biết mấy.
- Ông có...- người bệnh lại bắt đầu nói, nhưng anh ta dừng lại giữa câu vì người gác ngục để lộ ra một cử chỉ hơi sốt ruột, và anh ta hỏi:
- Có lẽ nội quy cấm không cho được nói chuyện phải không ạ?
- Không, không, đêm nay cháu được phép nói chuyện nhiều bao nhiêu cũng được.
- Đêm nay...?- Người bệnh ngập ngừng...- À, chắc là vì lễ thánh Xinvetxtrơ.
- Phải đấy, - người gác ngục nói, - bởi vì là một năm mới tốt lành đang bắt đầu với cháu.
- Người này biết rằng em ta sẽ chết đêm nay, - Đavit Hôm rên rỉ trong sự bất lực của mình. - Vì thế nên ông ta mới dịu dàng như vậy.
- Ông có nhận thấy rằng, - người tù lại tiếp tục câu hỏi lúc nãy bị ngắt quãng giữa chừng. - Ông có nhận thấy rằng từ cái lần cháu bỏ trốn ấy, cháu đã thay đổi nhiều không? Từ bấy đến nay cháu không làm ông vất vả nữa chứ?
- Cháu đã hiền lành như một con cừu non, và cháu không hề gây cho ta một sự bất bình nào. Nhưng dù sao ta cũng vẫn nói với cháu: đừng có lặp lại chuyện ấy nữa.
Người bệnh mỉm cười:
- Thế ông có tự hỏi do đâu mà cháu thay đổi như vậy không? Có lẽ ông tưởng rằng đó chỉ là sức khỏe cháu đã kém đi trong lần vượt ngục?
- Phải, chúng ta cũng đã nghĩ đại khái như vậy đấy.
- Chẳng phải thế đâu, - người bệnh lại nói. - Lý do hoàn toàn khác. Trước đây cháu không dám nói, nhưng đêm nay cháu sẽ kể cho ông nghe.
- Ta sợ rằng cháu sẽ phải nói nhiều quá, Hôm ạ, - người gác ngục nói.
Nhưng thấy mặt người ốm sa sầm lại, ông ta dịu dàng nói tiếp:
- Không phải là ta chán không muốn nghe cháu nói đâu, ta nói thế là muốn có lợi cho cháu thôi.
- Ở nhà tù đây các ông không lấy làm lạ là cháu đã tự ý về sao? - Người bệnh nói, - không ai ngờ được chỗ cháu trốn, thế nhưng cháu đã ra cho người ta bắt lại. Các ông có biết vì sao cháu làm vậy không?
- Chúng ta nghĩ rằng chắc cháu khổ sở quá nên cháu thấy trở lại là hơn, - người gác ngục nói.
- Đúng là những ngày đầu thì cháu có khổ thật. Nhưng cháu đã trốn đến ba tuần lễ. Thế các ông tin rằng suốt cả thời gian ấy, cháu ở trong rừng hoang, ngủ ngoài trời, giữa mùa đông ư?
- Cháu đã nói thế thì cũng phải tin như thế thôi.
Người tù có vẻ thích thú:
- Đó là những điều phải nói với nhà chức trách để khỏi liên lụy đến những người đã giúp đỡ mình. Phải nói như vậy chứ ông? Khi có những người dám cả gan cho người tù vượt ngục trú ẩn, và đối xử tốt với người ấy thì phải tìm cách che chở cho người ta. Ông cũng đồng ý như vậy chứ?
- Cháu hỏi ta như vậy ta không thể trả lời được Hôm ạ. - Người gác ngục nói với vẻ dịu dàng mà ông vẫn biểu lộ từ trước đến giờ.
Người tù trẻ tuổi buông một tiếng thở dài nuối tiếc.
- Chà miễn sao cháu có thể chịu đựng được cho đến ngầy cháu được trả lại tự do và có thể trở về với họ! Nhà của ở họ cạnh bờ rừng.
Anh ta ngừng lời, thở hổn hển vì ngạt thở. Người gác ngục lo lắng nhìn anh ta và đưa tay với lấy cốc thuốc nước để trên bàn, nhưng cốc đã cạn.
- Ta phải đi lấy thuốc đây. - Ông vừa nói vừa đi ra khỏi phòng.
Lát sau, người đánh xe bò đã ngồi vào chỗ người gác ngục. Hắn đặt cái hái sang bên để cho người bệnh không nhìn thấy, và hất cái mũ trùm đầu của hắn ra đằng sau.
Đavit Hôm không nén nổi một tiếng rên, giống như là tiếng khóc của một đứa bé, khi thấy người đàn ông đáng sợ kia ngồi gần em mình như vậy. Nhưng chính người em thì lại chẳng tỏ ra sợ hãi chút nào. Bị rối loạn vì cơn sốt, anh ta không nhận ra là có một người vừa mới đến, cứ tưởng là vẫn nói chuyện với người gác ngục của mình.
- Căn nhà tồi tàn của họ mới bé làm sao. - Anh ta vừa nói vừa thở hổn hển.
- Cậu đừng nói làm gì cho mệt, - người đánh xe bò nói. - Nhà chức trách biết hết mọi chi tiết mọi chi tiết chủa chuyện này, nhưng chẳng bao giờ họ đả động đến cả.
Người bệnh ngạc nhiên mở rất to đôi mắt.
- Phải, cậu nhìn ta ngơ ngác, - người đánh xe bò nói tiếp, - nhưng cứ đợi rồi cậu sẽ thấy! Cậu tưởng rằng chúng ta không biết một buổi chiều có một người lén lút đột nhập vào một căn nhà nhỏ, căn nhà cuối cùng của một làng dài. Người ấy tưởng sẽ không gặp một ai trong nhà cả. Người ấy đã nấp ở bìa rừng chờ cho bà chủ nhà đi khỏi. Y biết rằng người chồng đi làm vắng, và y cũng không thấy có bóng dáng của trẻ con. Khi người vợ xách xô đi vắt sữa, y liền lấy chiếc chìa khóa mà bà đã giấu trước mặt y và đi vào nhà.
- Làm sao, làm sao mà ông biết được chuyện đó?- Người bệnh kêu lên và làm một cử chỉ như muốn ngồi nhổm dậy.
- Cứ nằm yên, - người đánh xe bò nói với giọng rất hiền từ. - Đừng lo gì cho những người bạn của cậu. Người ta không vô nhận đạo trong việc quản lý các nhà tù đâu. Ta sẽ kể cho cậy nghe những chuyện khác nữa mà chúng ta đã biết! Khi người đàn ông đã vào căn buồng độc nhất của căn nhà, y sợhãi lùi lại vì trong nhà không phải không có người nào như y đã tưởng: ở phía cuối buồng, trên một chiếc giường rộng có một đứa trẻ ốm đang nhìn y. Y lại gần, nhưng đứa trẻ nhắm mắt lại và nhất định không chịu mở ra, cứ nằm im thin thít như chết.
- Tại sao giữa ban ngày mà em lại nằm? - Người đàn ông hỏi, - Em ốm à?
Đứa trẻ không nhúc nhích.
- Đừng sợ gì cả! - Người đàn ông nói tiếp, - ta không muốn làm hại em đâu, chỉ cần em nói cho ta biết có thể tìm thấy cái gì ăn được rồi ta sẽ đi ngay lập tức.
Đứa trẻ cứ nằm yên. Người đàn ông bèn rút một cọng rơm ở ổ rơm ra và cù vào mũi nó. Đứa trẻ hắt hơi, người đàn ông bật cười. Lúc đầu đứa trẻ nhìn y một cách sợ hãi, nhưng rồi nó cũng bật cười nốt.
- Em định làm cho anh tưởng rằng em đã chết, - nó nói.
- Anh đã thấy rõ như vậy, nhưng cần gì phải làm thế?
- Anh hẳn biết rằng nếu anh gặp một con gấu ở trong rừng thì anh phải nằm ngay xuống đất và giả vờ chết, - đứa trẻ giải thích, - thế là con gấu liền đi đào một cái hố để ném anh vào, và lúc ấy anh có thể chuồn luôn.
Người đàn ông bỗng đỏ mặt.
- Thế em tưởng anh sẽ đi đào hố à? - Y hỏi.
- Em ngốc như thế đấy, - mà lại còn ngốc hơn thế nữa bởi vì dù sao em cũng không thể chạy trốn được. Em bị đau ở hông và không đi được.
Người tù mỗi lúc một ngạc nhiên hơn.
- Có lẽ cậu chán nghe tôi kể rồi sao? - Người đánh xe bò hỏi.
- Không, không, - người bệnh trả lời. Cháu muốn được nghe nhắc lại tất cả những chuyện đó. Nhưng cháu không hiểu vì sao...
- Ta biết được những chuyện này thì cũng chẳng có gì là lạ. Ta sẽ nói cho cậu nghe làm sao ta biết được chuyện ấy. Có một kẻ lang thang tên là Giorgiơ; cậu đã nghe nói đến y chưa? Trong một chuyến đi lang thang y biết được chuyện ấy, rồi y kể lại với những người khác, và cứ thế chuyện ấy đến tai chúng ta ở nhà tù.
Im lặng một lát, rồi người bệnh hỏi với một giọng rất yếu:
- Rồi sau thì người đàn ông và đứa trẻ ấy ra sao?
- Thế này, người đàn ông lại hỏi xin thức ăn một lần nữa. “Thường thường có người nghèo đến xin ăn không?” - Y hỏi.
- Có chứ, đứa trẻ đáp.
- Và mẹ em có cho gì không?
- Có, nếu trong nhà có một chút gì thì mẹ em cho.
- Đó là điều anh muốn hỏi em. Anh là một người nghèo đang bị đói. Em hãy nói cho anh biết chỗ để cái gì có thể ăn được, và anh sẽ chỉ lấy vừa đủ ăn cho đỡ đói mà thôi.
Đứa trẻ nhìn y với vẻ tinh quái.
- Mẹ em đã nghĩ đến người tù vượt ngục, nghe nói đang trốn ở trong rừng, và mẹ em đóng hết các tủ ở hốc tường rồi.
- Nhưng hẳn em biết mẹ em giấu chìa khóa ở đâu, và em sẽ nói cho anh biết chứ? Nếu không thì anh buộc phải phá cửa tủ.
- Phá cửa chẳng dễ dàng đâu, - đứa trẻ nói. - Tủ đứng và tủ hốc tường nhà em đều có khóa rất chắc..
- Người đàn ông đi quanh gian phòng để tìm chìa khóa. Y lục lọi trong các ngăn kéo bàn và trên nóc lò sưởi, nhưng chẳng tìm thấy gì. Đứa trẻ ngồi trên giường vẫn nhìn y. Bỗng nó đưa mắt nhìn ra cửa sổ rồi kêu lên:
- Có người đi trên đường,họ đang đi đến đây, mẹ em và mấy người khác nữa.
Người tù nhảy phốc một cái đến gần cửa.
- Anh mà ra thì họ bắt ngay, - đứa trẻ nói, - anh trốn vào cái tủ đứng ấy.
Người đàn ông lưỡng lự.
- Nhưng anh không có chìa khóa, - y nói.
- Em có, - đứa trẻ đắc thắng kêu lên, và nó đưa cho y một chiếc chìa khóa to tướng nó nắm trong tay.
Người tù vượt ngục cầm lấy chiếc chìa khóa, nhảy bổ đến cái tủ và mở ra.
- Bây giờ anh ném chìa khóa cho em rồi đứng trong tủ chốt cửa lại.
 Y làm theo và tự nhốt mình trong tủ.
Trông ngực kẻ vượt ngục khốn khổ chắc phải đập dữ lắm khi y đứng sau cách cửa tủ nghe ngóng những người đuổi bắt mình. Y nghe tiếng mở cửa, một giọng đàn bà the thé kêu lên:
- Có ai vừa ở đây không?
- Có, đứa bé trả lời, - mẹ vừa đi khỏi thì một người đàn ông chẳng gõ cửa gì cả mà cứ thế bước vào nhà.
- Lạy Chúa, người đàn bà rên lên, - đúng như người ta nói với tôi là họ thấy hắn ra khỏi rừng và đi vào đây.
Người tù vượt ngục lẩm bẩm một tiếng rủa đứa trẻ đã phản bội y. Y đã bị mắc kẹt như là trong một cái bẫy chuột. Y sắp sửa đẩy tung cách cửa để thử lợi dụng lúc mọi người đang sửng sốt chưa kịp trở tay mà nhảy vọt ra khỏi nhà, thì vừa lúc y nghe thấy một giọng nói khác hỏi xem kẻ vượt ngục chạy đi đâu.
- Anh ta không còn ở đây nữa, - cái giọng trong trẻo của đứa bé lại cất lên, - chắc thấy các bác đến nên anh ta sợ.
- Hắn có lấy mất cái gì không?
- Không, anh ta có xin chút gì ăn, nhưng con chẳng có gì cho anh ta ăn cả.
- Thế hắn không làm gì con à? - Giọng nói vẫn lo lắng hỏi.
- Anh ta lấy cọng rơm ngoáy vào mũi con. - đứa trẻ nói.
Và kẻ vượt ngục nghe thấy có tiếng cười trong trẻo.
- Anh ta cù con à,- bà mẹ reo lên. Bà cũng cười, như đã cất được gánh nặng.
- Hắn đã đi mất rồi thì ta còn đứng đây ngắm mấy bức tường kia làm gì nữa. - Một giọng đàn ông nói.
Và những tiếng chân báo cho người vượt ngục biết là họ đã bỏ đi.
- Thế chị ở lại nhà à, chị Lizza? - Một người nào đó hỏi.
- Vâng, hôm nay tôi không thể để thằng bé ở nhà một mình nữa.
Người vượt ngục nghe tiếng đóng cổng ngoài và hiểu rằng chỉ còn hai mẹ con ở nhà. Nhưng y vẫn không dám ra.
- Ta sẽ ra sao đây? - Y tự hỏi.
- Vừa lúc ấy y nghe tiếng chân bước lại gần cái tủ.
- Này anh kia ơi, đừng sợ gì cả, - tiếng người đàn bà gọi, - nhưng mà anh ra đây cho tôi hỏi chuyện.
Cùng lúc ấy, một chiếc chìa khóa cắm vào ổ khóa và một bàn tay kéo cánh cửa tủ.
- Đó là cậu ấy bảo tôi trốn vào đấy, - anh ta nói và chỉ đứa bé.
Thằng bé cười. Cái chuyện mạo hiểm này làm cho nó thích thú quá vỗ tay ầm lên.
- A! Thằng này đấy hả? - Người mẹ nói với vẻ kiêu hãnh. - Nó cứ nằm mãi ở đây mà suy nghĩ và nghiền ngẫm, nên mới trở nên ranh ma như thế này đấy! Rồi chẳng mấy chốc nó sẽ tinh khôn hơn chúng ta cho mà xem.
Người vượt ngục hiểu rằng người mẹ sẽ không tố cáo y, bởi vì y đã được con trai bà che chở.
- Quả thật, - y nói, - cậu bé tinh quái lắm. Tôi vào đây để cố kiếm tí gì đó ăn cho đỡ đói, thé mà cậu nhóc ấy cứ nhất định không nói cho tôi biết chìa khóa để đâu. Cậu ấy còn bạo dạn hơn rất nhiều kẻ có đôi chân lành lặn đấy.
 Bà mẹ thừa hiểu là anh ta khen như vậy để lấy lòng bà, nhưng bà vẫn rất thích thú khi nghe anh ta nói.
- Tôi sẽ dọn cho anh ăn - bà nói.
Trong khi người tù vượt ngục ăn, cậu bé bắt đầu hỏi về chuyện vượt ngục của anh ta, và anh ta kể hết từ đầu đến cuối không dấu diếm một tí gì. Đó không phải là một việc có dự định trước, tự nhiên thời cơ đã đến vào một hôm khi anh ta đang làm việc ở sân nhà giam và cổng thì mở để chở than vào. Cậu bé cứ hỏi và nghe kể không biết chán anh ta làm sao mà vượt qua thành phố và đi được vào rừng. Hai ba lần người đàn ông muốn đi, nhưng đứa bé cứ giữ anh ta lại. Cuối cùng bà mẹ nói:
- Thôi anh cũng nên ở lại đây mà chuyện trò với Bécna. Có thể người ta vẫn còn lùng anh đấy.
Khi ông bố trở về, người vượt ngục vẫn còn ở trong nhà. Trời đã tối và ông tưởng là một người hàng xóm nào đó đang nói chuyện với con ông.
- Cậu Pie đang kể chuyện cho con đấy à? - Ông hỏi.
Tiếng cười của thằng nhóc bật ra.
- Không phải đâu bố ạ!, không phải anh Pie đâu, còn hơn thế rất nhiều. Bố lại đây con nói cho mà nghe.
Ông bố đi lại gần giường, nhưng ông phải đưa sát tai vào miệng nó thì nó mới chịu nói.
- Đó là người tù vượt ngục đấy. - Nó thì thào.
- Hừ Béc na, con cứ nói vớ vẩn.
- Thật đấy mà, - đứa bé đáp.- Anh ấy đã kể cho con nghe anh ấy đã vượt ngục như thế nào, rồi anh ấy đã ở ba đêm giữa rừng trong một cái lều của những người đốn củi. Con biết hết.
Bà mẹ vội vàng mang lại một cây đèn, và ông chủ nhà nhìn người đàn ông lúc này đã đi đến gần cửa.
- Thế này là thế nào nhỉ? - Ông ta hỏi.
Đứa bé và bà mẹ cùng tranh nhau nói, cả hai đều sôi nổi. Ông chủ nhà là một nông dân đã có tuổi, vẻ mặt thông minh và biết điều. Ông ta ngắm người vượt ngục một lúc lâu trong khi vợ con ông kể chuyện. “Anh ta ngó bộ ốm, gần như sắp chết, tội nghiệp! - Ông ta tư nhủ, - rét thế này mà ở trong rừng thêm một đêm nữa thì anh ta đi đứt”.
- Còn nhiều kẻ lang thang trên đường chẳng bị ai lùng bắt mà còn nguy hiểm gấp mấy anh, - ông ta nói sau khi vợ con ông ta ngừng kể.
- Tôi chẳng nguy hiểm gì lắm đâu, - người vượt ngục nói.- Một tối tôi say rượu, có một người đàn ông chế diễu và thách thức tôi...
Nhưng người nông dân không muốn nghe anh ta nói nhiều hơn trước mặt đứa trẻ, ông ta ngắt lời anh:
- Phải, tôi cũng cho là sự việc diễn ra như thế.
Im lặng một lúc, người nông dân ngẫm nghĩ, mấy người kia lo lắng nhìn ông. Không ai dám lên tiéng nữa. Cuối cùng ông ta quay về phía vợ:
- Không biết tôi làm thế này là sai hay đúng, nhưng đói với tôi, cũng như đối với mình, con nó đã nhận che chở cho anh ta thì tôi không thể đuổi anh ta đi được.
Thế là họ quyết định để cho người vượt ngục ở lại một đêm áy và sẽ ra đi vào sáng hôm sau. Nhưng hôm sau anh ta lên cơn sốt nặng và không đứng lên được. Thế là phải để anh ta ở lại. Suốt hai tuần anh ta ở trong căn nhà nhỏ ấy.
Hai anh em cùng chăm chú nghe kể câu chuyện này, và khi người đánh xe bò kể đến đoạn người vượt ngục bị ốm được nuôi giấu trong nhà người nông dân thì người hấp hối thanh thản và nhẹ nhàng nằm lại xuống giường. Những nỗi đau đớn dường như đã rời khỏi anh ta: anh ta đang sống lai một quá khứ hạnh phúc. Người anh của anh ta còn nghi ngại, lo rằng có một cái bẫy ở trong chuyện này. Nhiều lần y cố gắng một cách vô hiệu cho em mình chú ý, nhưng anh ta vẫn nằm yên.
- Những con người tội nghiệp trong căn nhà nhỏ ấy không dám mời thầy thuốc, người đánh xe bò kể tiếp, - cũng không dám đến hiệu mua thuốc. Người bệnh đành là chẳng có thuốc men gì. Khi có ai đến gần nhà, đứa bé báo cho mẹ nó biết, bà liền ra đứng ở ngưỡng cửa và báo cho khách biết rằng Bécna bị một chứng phát ban khắp cả người kỳ lạ lắm và rất có thể đó là bệnh tinh hồng nhiệt. Vậy nên bà không dám để cho ai vào nhà cả.
Sau hai tuần, người tù vượt ngục bắt đầu khá hơn. Anh ta liền tự nhủ rằng mình không thể là gánh nặng cho những người tốt bụng này nữa. Anh ta cảm ơn họ và muốn ra đi.
Người nông dân và bà vợ ông ta bèn nói với anh ta về một điều gì đó thoạt đầu với anh ta có vẻ ghê tởm. Đó là một buổi tối khi Bécna hỏi anh ta sẽ định làm gì.
- Lại trở vào rừng, anh nghĩ vậy.- Anh ta trả lời.
- Anh biết tôi nghĩ thế nào không? - Người đàn bà nông dân nói. - Lang thang trong những khu rừng vắng vẻ làm gì? Cứ như tôi thì tôi sẽ thu xếp công việc cho xong chuyện với nhà chức trách sớm được ngày nào hay ngày đấy. Vui thú gì mà cứ lang thang trong rừng như một con thú bị đuổi bắt?
- Bị giam thì cũng chẳng vui thú hơn.
- Hẳn là chẳng vui thú gì, nhưng nếu tôi sớm muộn gì cũng phải vào nhà giam, tôi thì cứ muốn là vào quách đi ngay cho xong chuyện.
- Khi tôi bỏ trốn, hạn tù của tôi cũng không còn lâu nữa, - anh ta nói, - nhưng bây giờ họ sẽ giam tôi lâu hơn, tôi đoán thế.
- Có lẽ vậy, cái việc anh trốn tù thật chẳng hay ho gì.- Người đàn bà trả lời.
- Không, - người vượt ngục kịch liệt phản đối. - Không, tôi chưa bao giờ làm một việc gì mà lại ít có lý do hối tiếc như việc này.
Vừa nói câu ấy anh ta nhìn cậu bé và mỉm cười, và cậu bé cũng mỉm cười đáp lại. Anh ta mến cậu bé. Nếu có thể anh đã muốn đưa cậu bé đi theo. Ông bố lúc ấy đang ngồi cạnh bếp lửa và thấy hai người mỉm cười với nhau liền cũng tham gia vào câu chuyện.
- Có lẽ anh sẽ không gặp lại được Bécna nếu anh cứ lang thang suốt đời như một kẻ khốn khổ.
- Nếu tôi bị bắt giam lại thì lại càng ít có cơ hội được gặp cậu ấy hơn nữa.
- Chúng tôi đã quen sống chung với anh. Anh đi rồi chúng tôi sẽ nhớ đấy, - ông ta chậm rãi và nói tiếp theo thói quen của mình. - Nhưng chúng tôi không thể giữ anh lâu hơn nữa vì còn có hàng xóm chung quanh. Nếu anh đã được tha ra thì lại đi một nhẽ.
 Người vượt ngục thoáng có một ý nghi ngờ. Có lẽ những người này muốn thuyết phục anh ta tự ý trở về nhà tù để họ khỏi bị rầy rà chăng?
Anh ta trả lời:
- Tôi đã khỏe, mai là tôi có thể đi được.
- Tôi nói thế không phải là muốn bảo anh đi. - bác nông dân nói, - nhưng nếu như anh đã được tự do thì tôi sẽ đề nghị anh ở lại đây để giúp tôi việc đồng áng.
Người vượt ngục không lạ gì những khó khăn đối với một tên tù khổ sai được tha mà muốn tìm một việc làm, nên rất cảm kích lời đề nghị ấy. Nhưng anh ta thấy ghê tởm nếu phải trở lại nhà tù, và anh ta cứ lặng im.
Tối hôm ấy đứa trẻ bị đau nhiều hơn ngày thường.
- Liệu có phải đưa cậu ấy đi nhà thương không? - Người tù hỏi.
- Nó đã đi nhà thương nhiều lần rồi, nhưng người ta bảo chỉ có một cách chữa cho nó khỏi bệnh là tắm biển, mà chúng tôi làm sao có đủ tiền để cho nó đi tắm biển được?
- Phải đi xa à? - Người tù hỏi.
- Đi thì không ngại lắm, có điều là chúng tôi lấy đâu ra tiền để thuê nhà ở và trả tiền ăn cho nó? - Thật đấy. - Người đàn ông nói.
Anh ta im lặng một lúc, đắm mình trong suy nghĩ. Ý nghĩ anh ta xoay quanh vấn đề này: làm sao kiếm được tiền để cho cậu bé đi tắm biển.
Bỗng anh ta quay lại phía người nông dân và nối lại câu chuyện bỏ dở:
- Bác không sợ thuê một thằng tù khổ sai làm công cho bác à? - Anh ta chậm rãi hỏi.
- Tôi tin chắc mọi việc sẽ đâu vào đấy thôi. - Người nông dân trả lời, - miễn là anh không phải loại người chỉ sống được ở thành thị.
- Khi tôi bị giam trong xà lim, tôi không hề nghĩ đến thành thị bao giờ. - Người vượt ngục nói. - Tôi chỉ nghĩ đến cánh đồng xanh và rừng thôi.
- Khi nào anh hết hạn tù, anh sẽ cảm thấy được giải thoát khỏi nhiều cái bây giờ đang đè nặng lên anh. - Người nông dân nói.
- Chính tôi cũng đã nói với anh ấy như vậy đấy.- Bà vợ nói.
- Tối nay con hát cho cả nhà nghe một bài gì có được không Bécna? - Bà mẹ đề nghị. - Nhưng có lẽ con mệt quá chăng?
- Không, không.
- Ấy là mẹ nghĩ sẽ làm cho bạn con vui thích. - Bà mẹ nói.
Người vượt ngục cảm thấy trong lòng bứt rứt như là trước một tai họa. Anh ta những muốn bảo cậu bé đừng làm gì cả. Nhưng cậu đã cất giọng hát một ca khúc. Cậu có giọng hát trong và êm; và khi nghe tiếng hát của cậu, hơn lúc nào hết, người ta không thể nào không nghĩ rằng chính cậu cũng là một người tù chung thân đang mong mỏi tự do.
Người tù khổ sai đưa hai bàn tay che mặt, và những giọt nước mắt rơi xuống qua kẽ tay của anh ta.
- Ta là kẻ chẳng còn mong thành tựu gì nữa ở trên đời. - Anh ta tự nhủ, - ta phải làm một cái gì đó cho cậu bé này mới được.
Sáng hôm sau anh ta từ biệt những con người tốt bụng ấy và ra đi. Không ai hỏi anh đi đâu. Mọi người chỉ chúc anh ta: “Trở về may mắn”.
- Phải, đúng thế! - Người bệnh đột ngột kêu lên, ngắt hẳn câu chuyện của người đánh xe bò. - Phải, tất cả họ đã kêu lên với tôi: “Trở về may mắn”. Đó là điều tốt đẹp nhất mà tôi sẽ nhớ mãi suốt đời.
Anh ta dừng lại, một vài giọt nước mắt từ từ lăn xuống má. Rồi anh ta nói tiếp:
- Cháu lấy làm mừng vì ông đã biết chuyện đó. Từ nay cháu sẽ có thể nói chuyện với ông về Bécna... Trong khi ông kể chuyện, cháu có cảm tưởng cháu đã được tự do. Cháu tưởng như đang ở gần cậu bé ấy... Có ai ngờ rằng cháu đã qua một đêm hạnh phúc như vậy?...
Người đánh xe bò mỗi lúc một cúi sát xuống người bệnh.
- Anh nghe ta nói đây, - Hôm, - y bảo. Nếu ta thu xếp cho anh được đi gặp ngay lập tức những người bạn của anh, nhưng bằng cách khác mà anh chưa nghĩ tới, thì anh bảo sao? Nếu ta cho anh được thoát khỏi những năm dài chờ đợi và cho anh được tự do ngay đêm nay anh có đồng ý không?
Khi nói những lời cuối cùng này, người đánh xe bò đã kéo cái mũ trùm đầu lên và cầm lấy cái hái. Người bệnh nhìn y với đôi mắt mở to mỗi lúc một chứa đầy niềm luyến tiếc não nùng.
- Anh có hiểu ta muốn nói gì không? - Người đánh xe bò hỏi. - Anh có hiểu rằng ta là người mở cửa tất cả các nhà tù, là kẻ có thể đưa anh thoát ra mà những người truy bắt anh không bao giờ đuổi kịp anh không?
- Tôi hiểu điều ông muốn nói. - Người tù thì thầm. - Nhưng như thế thì có khổ cho Bécna không? Ông biết rằng tôi trở về nơi đây để một ngày kia sẽ được trả tự do một cách lương thiện và có thể giúp được cậu ấy.
- Anh đã làm cho cậu ấy điều hy sinh lớn nhất mà anh có thể làm được, - người đánh xe bò nói, - và để thưởng cho hành động tốt đẹp ấy của anh, nên hạn tù của anh đã được rút ngắn và cõi tự do rộng lớn mà không ai có thể tước đoạt mất của anh nữa sẽ được ban cho anh. Anh không còn gì phải lo lắng cho cậu ấy nữa.
- Nhưng lẽ ra tôi phải đưa cậu ấy đi tắm biển, - người bệnh phản đối. - Khi chia tay nhau, tôi đã ghé vào tai cậu ấy hứa một ngày kia tôi sẽ trở về và sẽ đưa cậu ấy đi. Đã hứa với một đứa trẻ điều gì, ta có nghĩa vụ phải giữ lời hứa ấy.
- Như vậy là anh không đồng ý ta đưa lại tự do cho anh chứ gì? - Người đánh xe bò hỏi và đứng dậy.
- Ôi! Ông đừng bỏ đi! - Người hấp hối kêu lên và nắm lấy cái mũ trùm đầu của người đánh xe bò. - Ông không biết rằng tôi mong mỏi điều ấy biết bao nhiêu! Giá mà có người nào giúp cậu bé được! Nhưng chỉ có tôi mà thôi.
Anh ta ngước mắt lên và bỗng thốt ra một tiếng kêu vui sướng:
- Đavit! Anh Đavit của tôi! Anh ấy ngồi kia kìa! Vậy thì ổn rồi. Tôi sẽ yêu cầu anh ấy chăm sóc cho Bécna.
- Anh Đavit của anh! - Người đánh xe bò nói với một giọng khinh bỉ. - Đó chẳng phải là người mà ta có thể yêu cầu chăm sóc cho một đứa trẻ. Anh còn không biết anh ta chăm sóc con anh ta như thế nào ư?
Y ngừng lại vì Đavit Hôm đã đến ngồi phía bên kia giường và cúi xuống người em trai mình và nóng lòng muốn giúp đỡ anh ta.
- Anh Đavit, - người hấp hối nói, - em thấy trước mặt em là những bãi cỏ xanh và một mặt biển rộng rãi phóng khoáng. Anh hiểu không? Em bị nhốt đã lâu biết mấy! Em không thể cưỡng lại được sự cám dỗ bởi vì người ta hứa cho em được tự do mà không làm hại đến ai cả. Nhưng còn đứa bé này, anh biết điều em đã hứa với nó.
- Em chớ lo lắng gì! - Đavit Hôm nói, giọng run run, - đứa bé kia, những người đã cứu giúp em, anh nói cho em biết rằng, đến lượt anh, anh sẽ cứu giúp họ. Em hãy đi đến chốn tự do, hãy yên lòng ra đi. Anh đảm nhiệm việc ấy. Em hãy thanh thản mà ra khỏi nhà tù của em.
Nghe những tiếng này, người hấp hối liền buông mình xuống gối.
- Cậu đã nói với nó những lời của Thần Chết đấy, Đavit ạ, - người đánh xe bò bảo. - Thôi đi thôi. Đã đến lúc chúng mình phải đi thôi. Linh hồn đã được giải thoát không được gặp những linh hồn còn bị đày đọa trong tăm tối.
-------------
Còn tiếp...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét