Selma Lagerlöf
Chiếc xe của Thần Chết
Ngọc Thọ dịch
10
Đavit chống khuỷu tay nhổm dậy và nhìn quanh mình. Những cây
đèn đường đã tắt đi, nhưng bầu trời đã rạng và mảnh trăng nửa vành đang chiếu
sáng. Y chẳng chút khó khăn nhận ra mình đang nằm trên bãi cỏ héo trong công
viên nhà thờ, dưới đám cành cây vươn dài trụi lá.
Y cố sức để đứng dậy. Y cảm thấy yếu vô cùng, người y lạnh
cóng, đầu y quay cuồng. Nhưng rồi y cũng đứng lên được. Y chuyệnh choạng bước mấy
bước trên lối đi, nhưng lại phải dực vào thân cây để nghỉ.
- Ta không còn đủ sức để đi về nhà, - y tự nhủ, - không bao
giờ ta về kịp...
Y không một phút nào có cảm giác là chuyến đi của y cùng với
Giorgiơ là không có thật. Trái lại y vẫn giữ được ấn tượng rất sáng sủa và rõ
ràng về những sự việc xảy ra trong đêm.
- Người đánh xe bò của Thần Chết đang ở trong nhà ta, - y
nghĩ, - ta phải nhanh lên mới được.
Y rời khỏi chỗ dựa ở thân cây và đi được thêm vài bước nữa,
nhưng lại khuỵu gối xuống.
Thế nhưng trong giây phút bơ vơ và tuyệt vọng này, một cái
gì lướt khẽ trên trán y. Đó là một bàn tay, hay một đôi môi, hay một vật ảo mờ
mờ trong suốt. Nó đủ để làm cho trái tim y hạnh phúc vô biên.
- Nàng đã trở lại bên ta, - y phấn khởi reo lên. - Nàng đang
ở cạnh ta. Nàng che chở cho ta.
Y giang tay, hân hoan vì hạnh phúc: tình yêu của xơ Êđi bao
trùm cả người y, tình yêu ấy đến bây giờ vẫn còn làm cho trái tim y dạt dào êm
ái, mặc dù y đã trở lại cuộc sống trần gian.
Bỗng y nghe thấy có tiếng chân. Một người đàn bà nhỏ nhắn, đội
sụp trên đầu cái mũ rộng vành của đội viên Cứu tế đang đi lại gần.
- Xơ Maria, - Đavit Hôm gọi. - Xơ Maria, giúp tôi với.
Cô đội viên Cứu tế hẳn phải nhận ra giọng nói này, vì cô giật
mình, quay đầu và tiếp tục đi.
- Xơ Maria, tôi không say đâu. Tôi bị ốm. Xơ hãy giúp tôi trở
về nhà với.
Chắc nàng không hề tin lời y, nhưng không nói một tiếng,
nàng tiến lại gần, giúp y đứng dậy và dìu y đi.
Vậy là cuối cùng y đã trên đường về nhà! Nhưng ôi, đi mới chậm
làm sao! Có thể trước khi y về đến nơi thì mọi việc đã xong xuôi cả rồi. Y dừng
lại.
- Xơ Maria, chị sẽ giúp tôi một việc rất lớn nếu chị vui
lòng về trước và nói cho nhà tôi biết...
- Rằng anh sẽ về nhà say mèm như mọi ngày, phải không anh
Hôm? Cần gì phải làm thế?
Y cắn môi và tiếp tục đi, lấy hết sức lực cuối cùng để bước
nhanh hơn. Nhưng cơ thể y bị rét cóng, không thể tuân theo ý muốn.
Lần thứ hai, y lại thuyết phục xơ Maria:
- Khi tôi còn nằm ở đằng kia, tôi đã có một giấc mơ, - y
nói, - tôi đã thấy xơ Êđi chết. Tôi đã nhìn thấy chị, xơ Maria, bên giường của
nàng... Tôi cũng đã thấy những người trong nhà tôi, vợ tôi, các con tôi... Vợ
tôi nó mất trí rồi. Tôi nói thật với chị, xơ Maria ạ, nếu chị không chạy về
nhanh, vợ tôi sẽ gây ra một chuyện gì đó...
Tiếng y lắp bắp, thều thào. Cô đội viên Cứu tế không hề chú
ý đến. Cô đã có thói quen không để ý đến những lời nói của kẻ say rượu.
Nhưng cô giúp đỡ y một cách tận tâm. Y hiểu rằng như thế đối
với cô là một sự hy sinh lớn, và cũng là một sự ghê tởm không nhỏ khi để cho
con người mà cô coi là đã gây ra cái chết cho xơ Êđi dựa mình mà đi.
Trong khi Đavit Hôm loạng choạng bước đi như vậy, ruột y thắt
lại vì một nỗi lo lắng mới: một khi y đã không làm cho Xơ Maria tin y, thì làm
sao khi về nhà, vợ y vốn đa nghi, lại chịu tin vào sự thành khẩn của y?
Cuối cùng họ dừng lại trước nhà Đavit Hôm, và cô đội viên Cứu
tế giúp y mở cửa:
- Bây giờ anh có thể tự xoay sở lấy một mình, - cô nói và sắp
sửa bỏ đi.
- Xơ Maria, chị gọi hộ nhà tôi ra giúp tôi bước lên cầu
thang thì tốt quá.
Cô đội viên Cứu tế nhún vai.
- Đavit Hôm ạ, vào đêm khác, có lẽ tôi sẽ giúp anh nhiều
hơn, nhưng đêm nay, tôi không còn hơi sức nữa, thế là đủ rồi.
Giọng nàng nghẹn trong một tiếng nức nở, và nàng bỏ chạy.
Bước lên cái cầu thang dựng đứng một cách khó nhọc, Đavit
Hôm tưởng mình về chậm quá mất rồi. Và làm thế nào, làm thế nào để thuyết phục
vợ y rằng cô ấy có thể tin vào y? Y đã suýt cam lòng chịu thất bại vì nản lòng
và mệt mỏi, nhưng một lần nữa cái vuốt ve dịu dàng lại lướt trên trán y: “Nàng
đang ở bên ta, - y tự nhủ. - Nàng vẫn chăm chút đến ta”.
Và y lại đủ sức để bước lên bậc thang cuối cùng.
Khi y mở cửa thì thấy vợ y đứng ngay trước mặt, hình như chị
ta chạy vội ra để chốt cửa. Thấy không kịp nữa chị lùi lại và đứng quay lưng lại
bếp lò, như để che khuất một cái gì ở đó. Chị vẫn giữ vẻ mặt đờ đẫn như lúc
Đavit Hôm ra đi, và y tự bảo mình: “Ta về kịp rồi, cô ấy chưa làm được gì cả”.
Đưa nhanh mắt nhìn, y yên trí mấy đứa bé đang còn ngủ.
Y giơ tay đến chỗ y đã để Giorgiơ ở lại, và cảm như thấy một
bàn tay khác đang xiết chặt tay y: “Cảm ơn!” - y khẽ thì thầm. Giọng y run run
và một màn sương che mắt y.
Y chuyệnh choạng đi vài bước trong căn phòng rồi ngồi phịch
xuống một chiếc ghế dựa. Vợ y lấm lét theo dõi những cử chỉ của y như người ta
rình một con thú dữ sắp xông ra ngoài.
“Chắc cô ấy cũng tưởng là ta say”. - y nghĩ thầm.
Y rời rã cả người, y vô cùng mệt mỏi, rất muốn được nghỉ
ngơi. Ở gian buồng nhỏ cạnh bên có một cái giường, y những muốn được nằm duỗi
thẳng lên đấy mà ngủ, nhưng y không dám rời khỏi nơi đây một phút nào. Y mà
quay lưng đi thì lập tức vợ y sẽ thực hiện ngay cái việc mà chị ta đã sửa soạn.
Chỉ còn một cách là chống lại cơn mệt mỏi kinh khủng này và canh chừng chị ta.
- Xơ Êđi chết rồi, - Y đánh bạo nói, - tôi đã đến nhà cô ấy.
Tôi đã hứa với cô ấy sẽ ăn ở tử tế với mình và các con. Ngày mai mình có thể
cho chúng đến nhà Cứu tế.
- Tại sao anh nói dối? - Người vợ bảo, - Guttapxơn đã đến
đây để báo cho bà đội trưởng biết là xơ Êđi đã chết. Và anh ấy nói rõ ràng rằng
là anh không đến đấy.
Đavit Hôm ngã vật ra chiếc ghế dựa. Và chính y cũng ngạc
nhiên là y đã òa lên khóc nức nở. Y khóc vì sự trở về vô ích của y trong cái thế
giới chậm hiểu và mù tịt này. Y khóc vì chán nản tin rằng không bao giờ y thoát
ra khỏi cái hàng rào vây kín do chính những hành vi của y đã dựng lên quanh y.
Y khóc vì mong muốn, mong muốn một cách luyến tiếc và thiết tha vô hạn được trở
lại bên linh hồn mà y cảm thấy đang phản phất quanh y, gần gụi nhưng không thể
nào chạm vào được.
Trong khi những tiếng khóc thê thảm đang làm rung động cả tấm
thân to lớn của y, y bỗng nghe tiếng nói của vợ: “Anh ấy khóc”. Vợ y tự nói với
mình bằng một giọng ngạc nhiên không thể tả được. Một lúc sau chị lại nhắc:
“Anh ấy khóc à?”. Chị rời khỏi chỗ đứng ở cạnh bếp lò và đến gần y với một vẻ
có phần thông cảm:
- Anh khóc à, Đavit? - Chị hỏi y.
Y ngẩng bộ mặt đầm đìa nước mắt lên nhìn vợ:
- Tôi sẽ trở thành con người khác, - y nghiến răng nói. -
Tôi muốn trở thành một con người tử tế, nhưng không ai tin tôi cả. Như vậy mà
không khóc sao?
- Mình thấy đấy, Đavit, - người vợ hơi ngập ngừng trả lời, -
thật khó tin biết mấy. Nhưng dù sao em cũng tin mình vì mình đã khóc. Em tin
mình.
Như để chứng tỏ cho y thấy rằng chị tin y, chị ngồi bệt xuống
đất cạnh chân chồng, gục đầu vào gối chồng.
Chị lặng yên một lúc, cuối cùng cũng bật lên khóc nức nở.
Y rùng mình.
- Mình cũng khóc à?
- Em không thể không khóc được. Em sẽ không sao sung sướng
được trước khi khóc hết nỗi đau khổ và buồn rầu của em.
Lại một lần nữa y thấy luồng gió mát lướt qua trán y. Y thôi
khóc và nở một nụ cười bí hiểm.
Y đã thực hiện việc thứ nhất trong những điều mà các biến cố
đêm qua đã buộc y phải làm. Rồi y còn phải giúp cậu bé mà em trai y đã yêu mến.
Y còn phải chứng tỏ cho xơ Maria và các đồng đội của cô ấy thấy rằng xơ Êđi đã
không sai lầm khi ban tình yêu cho y. Y phải vực lại cái gia đình của y đã bị
khánh kiệt. Cuối cùng y còn phải truyền đạt đến mọi người lời nhắn nhủ của người
đánh xe bò cho Thần Chết...
Y ngồi trên cái ghế dựa, cảm thấy mình già đi vô cùng. Y trở
nên nhẫn nại và phục tùng như những người già thường quen như vậy. Y chỉ biết
chắp hai bàn tay lại và đọc khẽ lời cầu nguyện của người đánh xe bò:
- Lạy Chúa, xin hãy để cho linh hồn con đạt đến độ trưởng
thành trước khi bị phạt đứt đi.
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét