Selma Lagerlöf
Chiếc xe của Thần Chết
Ngọc Thọ dịch
4
Đó là một gian phòng hẹp và dài, khá rộng rãi; cái căn nhà
nhỏ ở ngoại ô này chỉ gồm có gian phòng ấy và một gian khác nhỏ hơn dùng làm buồng
ngủ. Gian phòng có một bộ đèn treo chiếu sáng, và dưới ánh sáng đèn, gian phòng
trông có vẻ niềm nở và tươi vui. Người ta thấy những người trong nhà này thích
thú bày biện làm cho gian phòng này có vẻ là một căn hộ. Cửa ra vào mở ra ở một
bên, và bên cạnh cửa là một bếp lò nhỏ. Đó là nhà bếp, và tất cả các dụng cụ
gia đình đều được tập trung tại đó. Chính giữa gian phòng được bày biện thành
phòng ăn với một cái bàn tròn, hai ba chiếc ghế dựa bằng gỗ sồi, một chiếc đồng
hồ treo tường lớn, và một tủ buýp phê nhỏ để đựng bát đĩa. Bộ đèn treo ở trên
bàn, đủ để chiếu sáng cả phòng khách, tức là phía cuối gian phòng, gồm cái
tràng kỷ bằng gỗ gụ, cái bàn tròn độc trụ, tấm thảm hoa, một cây cọ trồng trong
chậu bằng sứ xinh đẹp, và rất nhiều ảnh.
Cách sắp xếp gian phòng như thế này hẳn phải mang kại nhiều
thích thú. Nhưng những người đi vào đó trong đêm tất niên, sau giao thừa một
lúc thì jhg có những ý nghĩ tươi vui và nhẹ nhõm như vậy. Đó là hai người đàn
ông, ăn mặc rách rưới và thảm hại. Người ta có thể tưởng tượng rằng đó là hai kẻ
du thủ du thực, nếu một trong hai người không mặc trùm lên những quần áo rách
rưới của mình một cái áo choàng đen có mũ trùm và cầm ở tay một cái hái. Đối với
kẻ kẻ du thủ du thực, cách ăn mặc lố lăng đó thật là kỳ dị, và kỳ dị hơn nữa là
cách hắn đi vào trong nhà mà không xoay núm ổ khóa và không mở cánh cửa đang
đóng chặt. Người thứ hai không mang những biểu trưng đáng sợ, nhưng y cũng miễn
cưỡng đi vào nhà, bị bạn y lôi theo, và nom y còn có vẻ hung dữ hơn cả người
kia nữa. Mặc dù y bị trói cả chân tay và bị quăng ở dưới đất như là một đống giẻ
rách, nhưng y làm cho người ta sợ hãi trước cơn thịnh nộ man rợ đang hừng hực
trong đôi mắt và làm cho gương mặt y co rúm lại.
Hai người đàn ông khi vào nhà, thầy trong nhà không phải là
không có người. Ngồi cạnh cái bàn tròn là một chàng trai có nét mặt thanh tú,
đôi mắt thơ ngây và dịu dàng, và một phụ nữ nhiều tuổi hơn một ít, bgg nhỏ nhắn
mảnh dẻ. Chàng trai mặc một chiếc áo săngđay màu đỏ, có in dòng chữ “Đội quân Cứu
tế” ở ngang ngực. Người phụ nữ mặc toàn màu đen không có huy hiệu nào cả, nhưng
ở trên bàn bên cạnh chị để một cái mũ kiểu những đội viên Cứu tế thường đội.
Cả hai người hết sức buồn rầu. Người phụ nữ lặng lẽ khóc và
luôn chùi nước mắt với một chiếc khăn tay nhàu nát. Cử chỉ của chị vội vàng tưởng
như những giọt nước mắt ngăn chị làm một nhiệm vụ nào đó. Đôi mắt chàng trai
cũng đỏ lên vì xúc động, nhưng anh ta nén được sự đau buồn bởi vì đâu phải chỉ
có một mình anh ta.
Lâu lâu hai người lại trao đổi với nhau một vài câu, qua đó
thấy rằng ý nghĩ của họ không rời khỏi gian buồng bên cạnh ở đó có một cô gái hấp
hối và bà mẹ cô ta. Nhưng mặc dầu họ tập trung tư tưởng đến thế nào vào câu
chuyện của họ, thì cũng thật lạ lùng là cả chàng trai lẫn cô gái đều không chú
ý gì đến hai kẻ lang thang vừa đi vào nhà kia.
Quả thật là hai kẻ kia đều lặng câm, một người đứng dựa vào
khung cửa, người kia thì nằm sóng soài dưới chân người này. Nhưng làm sao mà giải
thích được rằng hai người ở trong nhà không hề sợ hãi khi thấy hai người khách
giữa đêm tối kia đi vào nhà qua cánh cửa vẫn đóng kín?
Ít ra, đó cũng là câu hỏi mà người nằm dưới đất đặt ra cho
mình, y còn ngạc nhiên hơn nữa vì rất nhiều lần họ quay mặt về phía y.
Y chưa bao giờ đặt chân vào phòng này, nhưng y nhận ra hai
người ngồi cạnh cái bàn; và y hiểu rằng y đang ở nhà của ai. Nếu có một cái gì
đó có thể làm tăng cơn thịnh nộ của y, thì đó chính là y thấy mình đột nhiên bị
đưa đến cái nơi mà hôm qua y đã từ chối không chịu đến.
Bỗng chàng Đội viên Cứu tế đẩy chiếc ghế dựa:
- Bây giờ đã quá nửa đêm, - chàng trai nói, - chị vợ của
Đavit Hôm tin rằng anh ta sẽ trở về nhà vào giờ này. Tôi sẽ đến thử một lần cuối
cùng nữa xem sao.
Chàng trai từ từ đứng dậy, như là luyến tiếc và cầm lấy chiếc
áo khoác của mình vắt trên lưng chiếc ghế dựa.
- Tôi hiểu, - Guttapxơn ạ, anh cho là đưa anh ta đến đây
cũng chẳng có ích lợi gì lắm, - người phụ nữ trẻ vừa nói vừa cứ phải nén những
giọt nước mắt đang làm chị nghẹn lời, - nhưng anh tự bảo mình rằng đó là việc
làm cuối cùng anh có thể giúp được cho xơ Êdi.
Chàng Đội viên Cứu tế đang mặc áo khoác bỗng dừng lại.
- Xơ Maria, - chàng nói, - mặc dù như chị nói đây là việc
làm cuối cùng tôi có thể giúp chị ấy; nhưng tôi cũng cứ mong rằng Đavit Hôm
không về nhà, hoặc là không chịu theo tôi. Hôm nay tôi đã theo lời đội trưởng
và của chị đi tìm anh ta nhiều lần, nhưng tôi vẫn hài lòng rằng cả tôi lẫn mọi
người không ai đưa được anh ta đến.
Người đàn ông nằm ở dưới đất giật mình khi nghe nói đến tên
y, và miệng méo đi vì một cái nhếch mép hằn học. “Thằng cha này ít ra còn biết
điều đôi chút” - y nói thầm.
Người phụ nữ nhìn người lính của Đội quân Cứu tế và nói với
giọng có phần chua chát, giọng nói của chị không còn bị nghẹn lại vì những tiếng
khóc nữa:
- Lần này, anh nên truyền đạt thế nào cho Đavit Hôm để cho
anh ta hiểu là cần phải đến.
Với vẻ mặt của một người thi hành lệnh mà tin tưởng vào kết
quả, người đội viên Cứu tế đi đến gần cửa. Đến đây, chàng ta đột nhiên quay mặt
lại:
- Thế nếu anh ta say bí tỉ thì cũng phải đưa đến à? - Chàng
hỏi.
- Chết sống gì thì cũng đưa anh ta đến, Guttapxơn ạ. Trường
hợp xấu nhất, ta sẽ để cho anh ta ngủ cho giã rượu ở đây. Điều quan trọng là
tìm cho được anh ta.
Chàng đội viên Cứu tế đã đặt tay lên núm ổ khóa bỗng quay phắt
lại và trở về cạnh cái bàn:
- Tôi không thể chịu đựng được để cho Đavit Hôm đến đây. -
Chàng kêu lên và mặt tái đi vì xúc động. - Chị cũng biết rõ như tôi, xơ Maria,
anh ta là hạng người như thế nào. Chị cho rằng nơi đây là chỗ của anh ta hay
sao? Xơ Maria? - Và chàng chỉ vào cánh cửa dẫn sang buồng bên cạnh.
- Nếu cho tôi cho rằng... - chị thầm thì. Nhưng chàng trai
không để cho chị nói hết câu.
- Chị không biết, xơ Maria, anh ta sẽ chế nhạo chúng ta hay
sao? Con người huênh hoang khoác lác ấy sẽ nói rằng có một nữ đội viên Cứu tế
đã mê anh ta đến nỗi nếu không gặp được anh ta thì không thể nhắm mắt được.
Xơ Maria ngẩng đầu lên và mấp máy môi như để đập lại ngay,
nhưng rồi chị ta mím môi lại và ngẫm nghĩ.
- Tôi không sao chịu nổi để cho anh ta nói đến chị ấy, nhất
là sau khi chị ấy mất! - chàng trai hùng hổ nói tiếp.
Sau một lúc im lặng, xơ Maria trả lời, nghiêm trang và kiên
quyết:
- Anh có dám chắc rằng Đavit Hôm không có quyền nói như vậy
không, Guttapxơn?
Người bị trói rùng mình vì một nỗi vui đột ngột. Chính y
cũng ngạc nhiên vì điều đó.Và y lấm lét nhìn Giorgiơ xem hắn có nhận thấy gì
không. Người đánh xe bò vẫn bất động và thản nhiên như thường.
bị câu trả lời của xơ Maria làm cho choáng váng đến nỗi đưa
bàn tay quờ quạng nắm lấy một chiếc ghế dựa. Bốn bức tường của gian phòng quay
cuồng trước mặt anh ta.
- Tại sao chị nói với tôi một điều như vậy, xơ Maria? -
Chàng lắp bắp nói. - Chị không muốn cho tôi tin rằng...
Xơ Maria bồn chồn xúc động đến cực độ. Nàng nắm chặt chiếc
khăn tay, trong khi những lời nói từ môi nàng tuôn ra vội vã. Nàng dường như sợ
không nói hết được hết mọi điều trước khi phải dừng lại để suy nghĩ.
- Vậy ai là người chị ấy yêu hơn cả? Cả hai chúng ta,
Guttapxơn, và tất cả mọi người biết chị ấy, tất cả chúng ta đều để cho chị ấy cải
hóa và thu phục. Chúng ta không hề kịch liệt cưỡng lại chị ấy đến cùng. Chúng
ta không hề biến chị ấy thành trò cười và nhạo báng chị ấy. Cả anh và tôi,
Guttapxơn ạ, chúng ta không phải là nguyên nhân làm cho chị ấy đến nông nỗi như
bây giờ.
Chàng đội viên Cứu tế có vẻ nhẹ nhõm đi vì những lời nói
này.
- Tôi không hiểu là chị nói về tình yêu đối với kẻ phạm tội,
Xơ Maria ạ.
- Tôi cũng không phải nói thế đâu, Guttapxơn.
Nghe những lời nói rõ rệt này, Đavit Hôm lại cảm thấy vui mừng
như lúc nãy. Tuy nhiên y cố nén cảm giác này lại, vì y mơ hồ ý thức được rằng
cơn thịnh nộ của y, sự quyết tâm của y dứt khoát chống lại Người đánh xe bò của
Thần Chết, sẽ có nguy cơ bị tan biến trong cảm giác vui mừng này.
Xơ Maria im lặng một lúc, cắn chặt đôi môi để kềm chế cơn
xúc động. Bỗng nhiên nàng như có một quyết định.
- Tôi có thể kể anh nghe điều tôi biết, Guttapxơn ạ. - Nàng
nói. - Bây giờ chị ấy sắp mất thì không có gì quan hệ nữa. Anh ngồi xuống đây một
lát rồi tôi sẽ giải thích cho anh nghe điều tôi nghĩ.
Chàng trai lại cởi áo khoác ra và ngồi lại chỗ cũ cạnh bàn.
Không nói một lời nào, nóng lòng chờ đợi, chàng đưa đôi mắt đẹp chân thật của
mình nhìn Xơ Maria...
- Tôi sẽ bắt đầu kể cho anh nghe buổi tối ngày lễ thánh
Xinvetxtrơ năm ngoái của tôi và xơ Êđi. - Nàng nói, - Mùa Thu năm ngoái ban chỉ
huy đội đã quyết định đặt một trạm ở đây, trong thành phố này của chúng ta. Êđi
và tôi đã làm việc cật lực để tổ chức nhà cứu tế , và ngoài ra chúng tôi cũng
được các thành viên khác giúp sức. Và đến ngày trước năm mới thì mọi việc đã
khá tươm tất để có thể dọn đến nhà mới. Nhà bếp và phòng ngủ cũng đã sẵn sàng.
Và chúng tôi hy vọng là ngày đầu năm là có thể mở cửa được; nhưng rồi không thể
được vì lò hấp khử trùng và nhà giặt chưa làm xong.
Lúc bắt đầu nói, Xơ Maria rất khó khăn mới ngăn được nước mắt,
nhưng càng nói, giọng nàng càng rành rọt hơn:
- Thời kỳ ấy anh chưa tham gia Đội quân Cứu tế, Guttapxơn ạ.
Nếu không, anh đã được tham dự ngày lễ thánh Xinvetxtrơ vui vẻ ấy. Nhiều đồng đội
đã đến thăm chúng tôi, và lần đầu tiên chúng tôi mời khách uống trà ở nhà mới.
Guttapxơn, giá mà anh biết được xơ Êđi đã vui sướng biết bao vì được đặt cái trạm
này ở ngay trong thành phố mà chị ấy đã sinh ra và biết rõ từng người nghèo khổ.
Chị ấy ngắm không chán mắt những tấm nệm và những chiếc khăn mới tinh và những
bức tường quét sơn men và những đồ dùng nhà bếp bằng đồng sáng loáng treo trên
tường. Chị ấy hớn hở như một đứa trẻ. Và anh hẳn biết, Guttapxơn, khi xơ Êđi
vui sướng thì ai nhìn chị ấy cũng phải vui lây.
- Lạy Chúa lòng lành vô cùng! Tôi biết chứ, - chàng đội viên
Cứu tế trả lời.
- Niềm vui của chị ấy kéo dài suốt trong thời gian các đồng
đội còn ở chơi. - Xơ Maria nói tiếp, - nhưng sau khi họ ra về, chị ấy bị một cảm
giác bồn chồn và lo lắng dữ dội xâm chiếm, và chị ấy yêu cầu tôi cùng cầu nguyện
với chị ấy để cho điều dữ đang lảng vảng khắp nơi không thể thắng được chúng
tôi. Chúng tôi quỳ xuống, và chúng tôi cầu nguyện cho nhà cứu tế và cho cả
chúng tôi, và cho tất cả những ai mà chúng tôi hy vọng sẽ cứu giúp. Và trong
khi chúng tôi đang quỳ như vậy, thì chuông cửa vang lên. Các đồng đội mới vừa về
xong, chúng tôi tự nhủ có lẽ một người nào đã bỏ quên cái gì đó và quay lại lấy.
Cả hai chúng tôi đi xuống mở cửa. Chúng tôi không thấy đồng đội nào cả, mà thấy
một người đàn ông, một trong những kẻ mà nhà cứu tế lập ra để phục vụ họ. Thú
thật với anh, Guttapxơn ạ, người đàn ông mà chúng tôi thấy hiện ra ở khung cửa,
cao lớn, rách rưới và say lảo đảo, đối với tôi có vẻ đáng sợ đến nỗi những muốn
không cho vào, bởi vì nói chung nhà cứu tế chưa mở cửa. Nhưng xơ Êđi thì vui mừng
vì Chúa đã đưa đến cho chị ấy một người khách. Chị ấy tin rằng là như vậy Chúa
muốn tỏ ý khen ngợi ciệc làm của chúng tôi, và chị ấy đưa người đàn ông vào. Chị
ấy mời anh ta ăn tối, nhưng anh ta trả lời bằng một lời rủa: anh ta chỉ muốn ngủ
thôi. Được đưa vào phòng ngủ, anh ta nằm vật xuống giường sau khi đã cởi áo vét
tông ra, và anh ta lập tức ngủ say.
- Đấy! Đấy! - Đavit
Hôm thốt ra. - Cô ta đã sợ mình.
Y hy vọng rằng con người đứng trơ trơ ở đằng sau y sẽ hiểu rằng
y vẫn là Đavit Hôm như trước kia.
- Tiếc rằng cô ta không thể thấy được mình bây giờ như thế
này. Nếu thấy được, cô ta sẽ ngất đi vì khiếp sợ.
- Xơ Êđi vẫn có ý nghĩ sẽ làm một việc tốt lành nho nhỏ cho
người khách đầu tiên đến nhà cứu tế của chúng tôi, người nữ đội viên Cứu tế tiếp
tục kể, - và tôi thấy chị ấy đã có vẻ thất vọng khi người ấy ngủ ngay đi như thế..
Nhưng chị ấy đã nhanh chóng tự an ủi mình, vì chị ấy đã nhìn thấy cái áo vét
tông mà anh ta vừa ném xuống đất. Guttapxơn ạ, tôi tin rằng tôi chưa hề nhìn thấy
một cái gì rách rưới đến thế, kinh tởm đến thế, tồi tệ đến thế. Nó sặc sụa mùi
rượu và mùi hôi hám bẩn thỉu, phải, chỉ chạm vào cũng đủ ghê cả tay. Thấy xơ
Êđi vồ lấy cái áo và xem xét nó, tôi đâm sợ, và tôi van chị ấy bỏ nó ra, vì
chúng tôi chưa có xưởng giặt và lò hấp khử trùng. Nhưng anh phải hiểu,
Guttapxơn ạ, xơ Êđi, người đàn ông này là người khách mà Chúa đã đưa đến, và đối
với chị ấy, sửa sang lại chiếc áo vét tông thảm hại của anh ta là một việc làm
thú vị xiết bao, nên tôi không thể thuyết phục chị ấy từ bỏ được. Và chị ấy nhất
định không cho phép tôi cùng làm giúp. Vì chính tôi đã nói rằng mó vào chiếc áo
ấy là có thể bị nguy hiểm vì lây bệnh nên chị ấy không để cho tôi được sờ vào.
Nhưng chị ấy thì lại sửa sang khâu vá lại chiếc áo vét tông kia trong suốt cả
đêm lễ thánh Xinvextrơ ấy.
Chàng đội viên Cứu tế ngồi ở phía bên kia bàn ngây ngất giơ
hai cánh tay lên và chắp hai bàn tay lại.
- Lậy Chúa lòng lành vô cùng. - Anh ta thốt lên. - Xin đội
ơn Chúa đã ban xơ Êđi cho chúng con.
- Amen! Amen! - Xơ Maria nói, và mặt nàng tươi sáng hẳn lên.
- Thật vậy, xin đội ơn cảm tạ Chúa đã ban xơ Êđi cho chúng ta. Đó là điều ta phải
nhắc đi nhắc lại khi đau buồn cũng như khi vui sướng. Xin đội ơn Chúa đã ban
cho chúng ta xơ Êđi, một người có thể suốt đêm ngồi gập mình trên chiếc áo rách
rưới ghê tởm kia mà lòng vui sướng như thể đang cầm trong tay một cái áo choàng
của nhà vua.
Con người trước kia là Đavit Hôm có một cảm giác lạ lùng và
thư thái khi hình dung thấy người con gái trẻ, một mình trong đêm khuya, ngồi mạng
lại cái áo vét tông của một kẻ lang thang khốn khổ. Sau tất cả những nỗi xúc động
và sự giận dữ của y, ý nghĩ này tác động vào y như một thứ dầu thơm. Nếu như
không có Giorgiơ đứng đằng sau, lầm lì, bất động theo dõi tất cả những cử chỉ của
y, thì y cũng muốn để cho ý nghĩ của mình lưu luyến với hình ảnh ấy.
- Lại xin đội ơn Chúa thêm nữa. - Xơ Maria tiếp tục, - vì xơ
Êđi không bao giờ hối tiếc là đã thức suốt đêm ấy để đính lại những chiếc khuy,
và vá lại những chỗ rách cho đến tận sáng, không hề nghĩ đến sự hôi hám và sự
truyền nhiễm mà chị ấy hít phải! Vâng, xin đội ơn Chúa vì chị ấy không hề hối
tiếc đã ở lại trong gian phòng rộng không được sưởi ấm ấy, nơi cái rét tê buốt
đêm đông luồn vào và ngấm khắp người chị.
- Amen! Amen! - Đến
lượt chàng trai thốt lên.
- Chị ấy rét cóng cả người khi làm xong việc. - Cô xơ nói, -
tôi thấy cô ấy cứ nằm trăn trở trên giường, chị ấy không làm sao cho người ấm lại
được. Chị ấy mới ngủ được một tí thì đã phải thức dậy nhưng tôi đã thuyết phục
được chị ấy cứ nằm trên giường để tôi lo liệu cho vị khách của chúng tôi khi
anh ta thức giấc.
- Chị vẫn luôn luôn là người bạn tốt. - Chàng đội viên Cứu tế
nói.
- Tôi biết rằng đó là một điều hy sinh đói với chị ấy, - Xơ
Maria hé cười nửa miệng. - Chị ấy đã hy sinh cho tôi. Nhưng chị ấy cũng không nằm
yên được lâu bởi vì người đàn ông, khi ngồi uống cà phê đã hỏi tôi có phải tôi
đã sửa sang lại cái áo vét tông của anh ta không? Và khi tôi trả lời là không
phải thì anh ta yêu cầu tôi đi tìm cô xơ là người đã làm việc ấy cho anh ta.
Anh ta bình tĩnh, cơn say của anh ta đã hết, và anh ta nói năng với những từ ngữ
chọn lọc hơn là những người thuộc loại như anh ta nói chung thường dùng.. Vì
tôi biết xơ Êđi sẽ vui sướng khi được nghe những lời cảm ơn của anh ta và được
nói chuyện với anh ta, nên tôi đã đi gọi chị ấy. Khi chị ấy đến, rõ ràng chị ấy
không có vẻ gì là một người đã thức suốt đêm, má chị ấy đỏ hồng, và trong nỗi
vui mừng chờ đợi, chị ấy đẹp đến nỗi người đàn ông khi trông thấy chị ấy có vẻ
như bị sững sờ mất một lúc. Anh ta đợi chị ấy ở cửa, vẻ mặt cáu kỉnh nhưng rồi
lại tươi lên. Điều đó chẳng có gì lạ: ai mà lại muốn làm điều không hay cho chị
ấy?
- Lạy Chúa lòng lành vô cùng. Chàng đội viên Cứu tế đồng
tình.
- Nhưng mặt anh ta lại trở nên sa sầm, và khi chị ấy đến gần
anh ta, anh ta mở phanh cái áo vét tông mạnh đến nỗi làm văng ra cả những chiếc
khuy vừa mới được đơm lại. Rồi anh ta thọc mạnh hai tay vào hai túi áo đã vá lại
làm cho chúng bục ra và cuối cùng anh ta giật đứt lần vải lót làm cho nó chẳng
mấy chốc lại lòng thòng rách bươm còn tệ hơn trước nữa.
- Cô thấy đấy, - thưa cô - anh ta nói, - tôi có thói quen ăn
mặc như thế này. Tôi thấy như vậy thoải mái và tiện lợi hơn. Tôi lấy làm tiếc
vì cô đã tự chuốc lấy bao vất vả một cách vô ích, nhưng tôi không thể làm khác
được.
Đavit Hôm thấy khuôn mặt rạng rỡ đọt nhiên tối sầm; và suýt
nữa thì y thú nhận rằng cái trò tinh nghịch trẻ con ấy thật là độc ác và vô ơn,
nhưng nghĩ đến Giorgiơ, y lại ngăn cái cử chỉ tốt đẹp đó lại. Y tự nhủ: “Cần phải
để cho Giorgiơ biết ta là người thế nào, nếu như hắn chưa biết. Đavit Hôm không
chịu đầu hàng ngay từ cái đánh đầu tiên đâu. Hắn tàn nhẫn và độc ác, và hắn ưa
làm cho những kẻ nhạy cảm phát điên lên được”.
- Cho đến lúc ấy tôi vẫn chưa nhìn kỹ người đàn ông, - Xơ
Maria kể tiếp. - Nhưng khi thấy anh ta giở trò phá tung cái áo mà xơ Êđi đã
khâu vá lại với biết bao ân cần dịu dàng như thế, tôi mới nhìn kỹ anh ta. Tôi
thấy đó là một người đàn ông cao lớn và có thân hình đẹp đến nỗi nhìn anh ta,
người ta chỉ có thể khâm phục đấng Tạo hóa đã sáng tạo nên một tác phẩm như vậy.
Tư thế của anh ta cũng chững chạc và rất khoan thai. Khuôn mặt anh ta nay đã đỏ
mọng và phị ra, nhưng trước kia hẳn là phải đẹp.
Mặc dù anh ta hành động với một cái cười độc ác, đôi mắt
vàng khè giữa những mi mắt đỏ cạch của anh ta nhìn chúng tôi một cách dữ tợn,
nhưng tôi tin là Xơ Êđi chỉ nghĩ rằng trước mặt chúng tôi là một con người sinh
ra để sống một cuộc đời cao thượng mà lại đang tự dấn mình vào con đường sa đọa.
Tôi đã thấy rõ là lúc đầu chị ấy lùi lại như bị một cái tát, nhưng trong đáy mắt
chị ấy lóe lên một ánh sáng, và chị ấy lại tiến thêm một bước đến gần anh ta.
Chị ấy chỉ nói với anh ta một vài câu: chị ấy nói rằng trước
khi anh ta ra đi, chị ấy muốn yêu cầu anh ta sẽ trở lại ngôi nhà này vào dịp lễ
thánh Xinvetxtrơ năm sau. Và khi thấy anh ta nhìn mình một cách ngạc nhiên, chị
ấy nói thêm: “Anh có biết không? Đêm nay tôi đã cầu Chúa ban cho người khách đầu
tiên của nhà Cứu tế chúng tôi một năm tốt lành và tôi muốn gặp lại anh để xem
Chúa có chấp nhận lời nguyện ước của tôi không”.
Cuối cùng khi đã hiểu chị ấy muốn nói gì, người đàn ông văng
ra một tiếng rủa: “Tôi xin hứa với cô như vậy, thật đấy,- anh ta nói,- tôi sẽ đến
để cho cô thấy rằng ông ấy chẳng hề quan tâm đến cô cũng như những điệu bộ
nhõng nhẽo của cô”.
Đavit Hôm sực nhớ lại lời hứa đã quên đi ấy, nhưng đã được
thực hiện ngoài ý muốn của y, trong một lúc tự cảm thấy mình như một cây sậy
trong tay một kẻ mạnh hơn mình. Sự phản kháng đối với người đánh xe bò phải
chăng cũng sẽ là một điều vô ích?- Y tự hỏi. - Nhưng y vội ngăn ý nghĩ này lại.
Y không muốn khuất phục, y sẽ không chịu khuất phục. Y sẽ kháng cự cho đến ngày
phán xét cuối cùng nếu cần thiết.
Chàng đội viên Cứu tế mỗi lúc một bồn chồn trong khi Xơ
Maria kể chuyện. Anh ta không còn có thể ngồi yên được nữa, mà vừa đứng dậy vừa
kêu lên:
- Chị chưa nói cho tôi biết tên của kẻ du thủ du thực kia,
Xơ Maria, nhưng tôi hiểu đó là Đavit Hôm.
Cô Xơ trẻ gật đầu.
- Lạy Chúa! Lạy Chúa! Xơ Maria, - chàng kêu lên và giơ hai
tay ra như để đẩy lùi một vật gì, - làm sao chị có thể muốn tôi đưa y đến đây
được? Chị có nhận thấy y tốt hơn một chút nào không? Vậy ra chị muốn cho Xơ Êđi
tự nhủ rằng chị ấy đã cầu khẩn Chúa một cách vô ích? Tại sao lại gây cho chị ấy
một nỗi buồn lớn như vậy?
Cô đội viên Cứu tế nhìn anh ta với một vẻ sốt ruột gần như tức
giận:
- Tôi vẫn chưa kể hết...- cô nói.
Nhưng chàng trai ngắt lời cô:
- Xơ Maria ạ, chúng ta phải đề phòng những cái bẫy, mà ý muốn
phục thù dù là không nói ra đoi khi giăng ra để bẫy chúng ta. Trong tôi có con
người tự nhiên đầy tội lỗi muốn đưa anh ta đến đây để anh ta ngỡ ngàng và chỉ
cho anh ta thấy con người đã vì anh ta mà chết. Tôi tin, Xơ Maria ạ, rằng chị
hy vọng sẽ làm cho Đavit Hôm bàng hoàng, chị sẽ nói với anh ta rằng chính cái
áo đã được vá lại và bị xé rách bởi sự vô ơn của anh ta, đã truyền bệnh cho Xơ
Êđi. Tôi đã nghe chị nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng Xơ Êđi không có một ngày
khỏe mạnh kể từ ngày lễ thánh Xinvétxrơ năm ngoái. Nhưng phải dè chừng, Xơ
Maria ạ. Chúng ta, những người đã từng sống gần Xơ Êđi và bây giờ còn nhìn thấy
chị ấy ở trước mặt mình, chúng ta phải tránh đừng có làm theo ác tâm của chúng
ta.
Xơ Maria cúi người ra phía trước và nói mà không ngẩng đầu
lên, như thể là nói với những hình vẽ trên bàn:
- Sự báo thù ư? - Cô nói. - Phải chăng là sự báo thù khi làm
cho một người hiểu anh ta đã nắm được một kho báu hiếm quý nhất mà anh ta lại để
mất đi ư? Nếu như tôi bỏ một thanh sắt gỉ vào lửa để cho nó trở lại sáng và
bóng, thì như vậy là báo thù hay sao?
- Tôi ngờ là như vậy đấy, Xơ Maria ạ! - Chàng trai kêu lên -
Chị hy vọng cải hóa Đavit Hôm bằng cách làm cho sự ăn năn như một gánh nặng đè
lên anh ta! Nhưng Xơ Maria, chị có dám chắc rằng, dù sao đó cũng không phải
chính là ý muốn báo thù của chúng ta mà chúng ta đã nung nấu trong lòng? Ở đây
có một cái bẫy tinh vi, Xơ Maria ạ. Người ta dễ bị đánh lừa lắm.
Cô Xơ bé nhỏ mặt nhợt nhạt nhìn người đội viên Cứu tế với
đôi mắt sáng long lanh niềm vui của sự hy sinh quên mình. “Tối nay tôi không đi
tìm lợi ích riêng cho bản thân tôi”, cái nhìn của cô nói rõ như vậy.
- Quả thật là bẫy có nhiều loại lắm, - cô trả lời, nhấn mạnh
vào từng chữ.
Chàng trai đỏ bừng mặt. Anh ta muốn đáp lại nhưng không thể
nói lên được tiếng nào. Đột nhiên anh ta gục xuống bàn, hai tay che lấy mặt và
òa khóc nức nở.
Xơ Maria yên lặng để cho anh ta khóc, nhưng môi nàng bật ra
một lời cầu nguyện:
- Lạy Đức Chúa Trời, Đức Chúa Giêsu khoan hòa của chúng con,
xin Chúa hãy giúp anh ấy vượt qua cái đêm khủng khiếp này. Xin Chúa hãy ban cho
con sức mạnh để trợ lực và an ủi những người bạn của con, xin Chúa ban cho con
đây là kẻ yếu đuối nhất và ít am hiểu nhất về chuyện đó.
Kẻ bị bắt ở cạnh cửa không hề nghĩ đến lời buộc tội là y đã
làm cho Xơ Êđi bé nhỏ ấy bị lây bệnh, nhưng khi thấy chàng đội viên Cứu tế bật
khóc thì y rùng mình dữ dội, và y hình như không che dấu sự xúc động của y với
người đánh xe bò. Y lấy làm hài lòng vì người con gái mà anh chàng đẹp trai kia
yêu dấu đã yêu y hơn, chính y, Đavit Hôm.
Khi những tiếng khóc nức nở của chàng trai đã bắt đầu dịu
đi, Xơ Maria nói với anh ta bằng một giọng dịu dàng và thương hại:
- Tôi hiểu anh đang nghĩ đến điều tôi đã nói với anh ban nãy
về xơ Êđi và Đavit Hôm.
Đầu anh ta cúi gục nghẹn ngào thốt lên một tiếng “Vâng”, và
toàn thân anh rùng mình đau đớn.
- Ý nghĩ này gây cho anh một nỗi đau khổ lớn lao, - tôi hiểu
như vậy, - nàng nói tiếp. - Tôi biết một người khác cũng hết lòng yêu mến Xơ
Êđi, và khi chị ấy nhận ra điều đó thì lúc đầu chị ấy không thể tin được. Lúc ấy
tôi đã tự bảo mình rằng nếu chị ấy yêu một người nào đó thì đó phải là một người
hơn hẳn chị ấy. Chúng ta có thể hiến đời mình cho những kẻ nghèo đói và những
người khốn khổ, nhưng tình yêu của chúng ta thì chúng ta để dành cho những người
khác. Bây giờ khi tôi nói với anh rằng xơ Êđi không phải như chúng ta, thì anh
coi đó là một điều làm chị ấy bị hạ thấp xuống, và anh đau khổ vì điều đó.
Người trai trẻ không nhúc nhích. Anh ta vẫn gục đầu trên
bàn. Kẻ bị bắt trói vô hình ở cánh cửa làm một động tác như muốn dịch lại gần để
nghe cho rõ hơn, nhưng người đánh xe bò nghiêm khắc ra lệnh cho anh ta phải nằm
yên.
- Lạy Chúa lòng lành vô cùng! - cô đội viên Cứu tế kêu lên,
vẻ mặt kích động. - Chúng ta là ai mà được phán xét chị ấy? Anh thấy không,
Guttapxơn, khi một trái tim tràn đầy kiêu hãnh, nó hiến tình yêu của mình cho
những người cao cả, và những kẻ có quyền lực trên thế gian này; nhưng khi trái
tim ấy chỉ chứa sự khiêm nhường và lòng từ thiện, nó sẽ hiến tình yêu nồng nhiệt
nhất của nó cho ai nếu không phải là kẻ nào đáng thương xót nhất, sa đọa nhất,
lầm lạc nhất, chai sạn nhất?
Chàng trai trẻ ngẩng đầu lên nhìn cô xơ với một vẻ nài nỉ.
- Cũng còn những điều khác nữa, xơ Maria ạ, - chàng chậm rãi
nói.
- Phải, Guttapxơn, tôi hiểu điều anh muốn nói. Nhưng ta nhớ
rằng lúc đầu xơ Êđi không biết Đavit Hôm đã có vợ. Vả chăng, - nàng nói tiếp
sau một vài giây lưỡng lự, - tôi nghĩ rằng ít ra thì tôi cũng khó hình dung sự
việc một cách khác, tôi nghĩ rằng tất cả tình yêu của chị ấy là nhằm để cải hóa
anh ta. Đến ngày nào mà chị ấy thấy anh ta xưng tội trên bục nhà thờ, ắt chị ấy
sẽ lấy làm sung sướng.
Chàng trai đã nắm lấy bàn tay cô xơ, và mắt anh ta uống từng
lời nói của nàng, anh ta thốt ra một tiếng thở dài nhẹ nhõm.
- Vậy thì đó chẳng phải là tình yêu. Anh ta kết luận.
Xơ Maria khẽ nhún vai trả lời:
- Tôi chưa bao giờ được nghe xơ Êđi tâm sự về vấn đề ấy. Có
thể là tôi đã nhầm.
- Nếu xơ Êđi chưa nói với chị một điều gì đặc biệt, thì quả
thật là tôi tin rằng chị đã nhầm, - chàng trai nghiêm trang nói.
Cái bóng ma ở cạnh cửa sa sầm mặt lại. Câu chuyện xoay ra
như vậy chẳng làm cho y thích thú.
- Tôi không nói rằng Xơ Êđi đã cảm thấy một điều gì khác
ngoài lòng thương hại đối với Đavit Hôm lần đầu tiên chị ấy gặp anh ta, - cô đội
viên Cứu tế trả lời. - Và chắc chị ấy cũng chẳng có nhiều lý do để yêu anh ta về
sau này, vì trên đường đi của mình, chị ấy đã nhiều lần gặp anh ta, và anh ta
luôn đối đầu với chị ấy. Có những người vợ công nhân đến than phiền với chúng
tôi rằng chồng họ bỏ công bỏ việc vì bị Đavit Hôm lôi kéo. Những hành động hung
bạo và thói trụy lạc tăng lên. Bất kỳ nơi nào chúng tôi đến thăm những người khốn
khổ, chúng tôi đều nhận thấy điều đó, và ở đâu người ta cũng cho là có bàn tay
của Đavit Hôm dính vào. Và với tính nết của Xơ Êđi, anh phải hiểu rằng điều đó
càng làm cho chị ấy hăng hái thêm trong việc cảm hóa anh ta trở về với Chúa.
Anh ta giống như một con thú mà chị ấy truy đuổi với những vũ khí tốt, tin tưởng
ở thắng lợi cuối cùng bởi vì chị ấy cảm thấy trong hai bên thì chị ấy mạnh hơn.
- Lậy Chúa lòng lành vô cùng! - Chàng đội viên Cứu tế trẻ tuổi
kêu lên. - Phải, chị ấy mạnh, Xơ Maria, chị có nhớ một buổi tối chị cùng chị ấy
đến một quán rượu để phân phát những tờ áp phích mới về nhà cứu tế mới thành lập
của các chị không? Xơ Êđi nhìn thấy Đavit Hôm ngồi cùng bàn với một chàng trai
trẻ đang nghe anh ta kể chuyện và hùa với anh ta mà cười nhạo chế diễu những
người đội viên cứu tế. nhưng Xơ Êđi đã chú ý đến chàng trai trẻ, và chị ấy xúc
động vì thương xót. Chị ấy dịu dàng nhìn chàng trai trẻ, đến gần anh ta, và van
xin anh ta đừng để bị lôi kéo vào vòng sa đọa. Chàng trai không trả lời, nhưng
không còn có thể nhếch mép cười được nữa. Anh ta vẫn ngồi yên ở chỗ cũ và lại
còn rót đầy cốc rượu của mình một lần nữa, nhưng không thể quyết định đưa cốc
rượu lên môi. Đavit Hôm và những người uống rượu khác chế nhạo anh ta, nói rằng
cô đội viên Cứu tế đã làm cho anh ta sợ. Không phải là sợ đâu, Xơ Maria ạ, đó
là sự thương xót mủi lòng trong cái nhìn của chị ấy đã làm cho anh ta cảm động
và chịu khuất phục để đi theo chị ấy. Chị biết rằng điều tôi nói đây là có thật,
và chị cũng biết người trai trẻ ấy là ai, Xơ Maria.
- Amen! Amen! Thật thế. Tôi biết người ấy là ai, và tôi cũng
biết rằng từ ngày hôm ấy anh ta là bạn và là người trợ thủ tốt nhất của chúng
tôi. - Cô Xơ trả lời với một cái gật đầu thân ái. - Tôi không phủ nhận rằng Xơ
Êđi đã ngẫu nhiên thắng được Đavit Hôm một lần. Nhưng phần lớn là chị ấy thua.
Chị ấy cũng đã bị cảm lạnh nặng trong cái đêm năm mới ấy và cứ vật lộn với một
chứng ho dai dẳng mà rồi ra cũng không bao giờ khỏi được nữa. Người ta cảm thấy
ở chị ấy một sự nản lòng do bệnh tật gây nên; có lẽ vì thế mà chị ấy không còn
có được khả năng chiến thắng trong đấu tranh như trước nữa.
- Xơ Maria, chàng trai bác bẻ, - trong những điều chị nói
không có gì chứng tỏ là chị ấy yêu anh ta vì ái tình cả.
- Anh nói có lý. Lúc đầu thì chẳng có gì làm ta tin như vậy.
Nhưng tôi sẽ kể điều đã làm cho tôi tin như thế. Chúng tôi quen một người đàn
bà khốn khổ làm nghề khâu thuê bị mắc bệnh lao, chị ta tìm đủ mọi cách đề phòng
cực kỳ cẩn thận để tránh cho con chị ta khỏi bị lây bệnh. Chị ta kể với chúng
tôi rằng một hôm đi ngoài phố chị ta đang bị một cơn ho dữ dội thì một kẻ lang
thang đến gần chị ta và nói: " Tôi, tôi cũng bị bệnh lao, và bác sĩ khuyên
tôi giữ gìn cẩn thận. Tôi đếch cần, tôi ho vào mũi mọi người, tôi khạc nhổ khắp
nơi và tôi hy vọng như vậy sẽ làm lợi cho họ. Tại sao họ lại được sung sướng
hơn chúng ta? Tôi muốn biết điều đó". Kẻ lang thang ấy nói xong bỏ đi,
nhưng người đàn bà trẻ thì xúc động đến nỗi phát ốm ngày hôm đó. Chị ta tả cho
chúng tôi hình dáng người qua đường này là một người cao lớn tuyệt đẹp mặc dù
ăn mặc rách rưới. Chi ta không nhớ được gương mặt người ấy, nhưng trong suốt mấy
giờ liền, chị ta không thể quên được đôi mắt của anh ta, giống như những cái vạch
màu vàng dữ tợn, sáng lóe lên dưới những mi mắt sưng đỏ. Điều làm chị ta sợ hãi
nhất, là người đàn ông này không hề có vẻ say rượu hoặc hoàn toàn trụy lạc, mặc
dù anh ta biểu lộ một sự hằn học hung dữ đối với đồng bào của mình. Xơ Êđi chẳng
do dự gì mà đoán được ngay đó là Đavit Hôm, nhưng tôi ngạc nhiên thấy chị ấy
bênh vực anh ta. Chị ấy muốn thuyết phục người đàn bà trẻ rằng anh ta chỉ đùa để
làm cho chị ta sợ mà thôi. Chị ấy nói: “Chị hẳn hiểu rằng một người đàn ông có
dáng lực lưỡng như vậy không thể là người mắc bệnh lao. Tôi tin là anh ta khá độc
ác nên mới làm cho chị sợ hãi, nhưng anh ta sẽ không cố tình đi gieo rắc sự
truyền nhiễm nếu anh ta có bệnh. Dù sao, anh ta cũng không phải là con quái vật”.
Chúng tôi không đồng ý với chị ấy: chúng tôi tin chắc rằng anh ta chẳng làm ra
vẻ độc ác hơn là anh ta ác thật. Nhưng chị ấy bênh vực anh ta một cách hăng hái
đến nỗi cuối cùng chị ấy phát cáu lên.
Lúc này người đánh xe bò lại một lần nữa tỏ ra y vẫn theo
dõi câu chuyện, vì y cúi xuống người tù của y và nhìn vào tận đáy mắt hắn:
- Tớ nghĩ rằng cô đội viên Cứu tế có lý. Đavit ạ: cái người
con gái không chịu tin là cậu xấu chắc phải yêu cậu ghê lắm.
- Điều ấy chẳng có nghĩa lý gì hết, Guttapxơn ạ. - Xơ Maria
nói tiếp, - và điều mà tôi quan sát được hai ngày sau đó có lẽ lại ít ý nghĩa
hơn. Đó là một buổi tối, Xơ Êđi và tôi đi về nhà. Xơ Êđi mệt mỏi và chán nản vì
những chuyện phiền phức đã xảy đến cho một số người đang được chị ấy che chở. Vừa
lúc ấy Đavit Hôm đến gần chị. Anh ta nói bằng cái giọng ngạo mạn nhất của anh
ta , rằng anh ta chỉ muốn báo cho chị biết từ nay chị có thể yên tâm và sung sướng
bởi vì anh ta sẽ rời khỏi thành phố này. Lúc ấy tôi nghĩ rằng quả thật Xơ Êđi sẽ
hài lòng, nhưng nghe giọng nói của chị ấy chị ấy, tôi lại thấy là chị ấy buồn
vì điều đó. Chị ấy nói thành thật với anh ta rằng chị ấy những muốn anh ta ở lại
để chị ấy được thêm một thời gian nữa có dịp đọ sức với anh ta. Anh ta trả lời
cũng bằng một giọng ngạo nghễ như vậy, rằng anh ta lấy làm tiếc, nhưng anh ta
buộc lòng ra đi để tìm khắp nước Thụy Điển một người mà anh ta nhất thiết phải
tìm cho được. Và anh biết không, Guttapxơn, Xơ Êđi hỏi bằng một giọng lo lắng
rõ rệt rằng người ấy là ai, đến nỗi tôi suýt nữa phải rỉ tai nói chị ấy một lời
nhắc nhở. Anh ta trả lời rằng lúc nào anh ta tìm được người ấy thì chị sẽ nghe
nói đến. Lúc ấy, chị sẽ có thể mừng cho anh ta, vì anh ta sẽ chẳng còn phải chạy
rông khắp xứ như một kẻ lang thang hay một tên du đãng nữa. Nói xong anh ta bỏ
đi, và anh ta chắc chắn đã làm đúng như lời anh ta nói. Một thời gian dài chúng
tôi không gặp lại anh ta. Tôi đã hy vọng rằng sẽ không bao giờ nghe nói đến anh
ta nữa, bởi vì anh ta chỉ đem tai họa đến bất cứ nơi nào mà anh ta ló mặt tới. Ấy
thế mà có một hôm, một người đàn bà đến gặp xơ Êđi và hỏi tin tức về Đavit Hôm.
Chị này thổ lộ với xơ Êđi rằng chị là vợ của Đavit Hôm, nhưng chị không thể tiếp
tục sống với anh ta vì anh ta nghiện rượu và phóng đãng. Chị đã bỏ anh ta và
đưa con trốn đi, và chị đã đến ơt thành phố này là nơi chị cho rằng khá xa nên
anh ta sẽ không nghĩ đến việc đến đây để tìm chị. Chị đã tìm được một việc
trong nhà máy đủ để nuôi sống chị và các con. Đó là một người đàn bà ăn mặc
tươm tất và gây được lòng tin cậy. Chị ta rất nhanh chóng trở thành hướng dẫn
viên ở nhà máy và đã có được một căn nhà xinh xắn. Trước kia khi còn sống với
chồng, chị và các con chị đói khát khổ sở. Ấy thế mà bây giờ chị ấy lại nghe
nói rằng chòng chị ở trong thành phố này và các đội viên Cứu tế có biết chồng
chị. Vậy nên chị đến để hỏi tin tức anh ta. Guttapxơn ạ, nếu lúc ấy anh có mặt ở
đấy, nếu anh thấy và nghe xơ Êđi nói, anh sẽ không bao giờ quên được. Khi người
đàn bà xưng tên ra, xơ Êđi tái mét mặt đi như người sắp chết, nhưng rồi chị ấy
trấn tĩnh lại, và đôi mắt chị ấy có một vẻ đẹp cao siêu. Rõ ràng là chị ấy đã tự
thắng được mình và không còn đòi hỏi gì ở cuộc sống nữa. Và chị ấy nói với người
đàn bà bằng một giọng nói dịu dàng đến nỗi làm cho chị ta cảm động ứa nước mắt.
Chị ấy không hề trách người đàn bà một câu, nhưng gợi cho chị ta một ít hối hận
vì đã bỏ chồng mà đi. Tôi cho rằng người đàn bà này cuối cùng cũng thấy mình
tàn nhẫn quá. Và Guttapxơn ạ, anh có biết không, xơ Êđi đã biết cách làm thức dậy
mối tình xưa, mối tình thời son trẻ, mối tình của chị ta đối với chồng khi họ mới
cưới nhau. Chị ấy gợi cho người vợ nhớ lại thời kỳ trăng mật và luyến tiếc người
chồng. Chị ấy không hề dấu diếm tình trạng thảm hại của ông ta, nhưng chị ấy đã
truyền cho người vợ sự khát vọng y như chính của chị ấy đã muốn vực Đavit Hôm dậy.
Lần thứ ba, người đánh xe bò lại cúi xuống tù nhân của mình,
nhưng lần này hắn ngẩng lên ngay không nói với kẻ kia một tiếng nào. Có biết
bao bóng tối âm u tụ đặc xung quanh khuông mặt to lớn nằm ở dưới đất khiến cho
người đánh xe bò phải dựa lưng vào tường và kéo sụp cái mũ trùm đầu xuống đến tận
mắt để không nhìn thấy hắn.
Chắc hẳn là trong lòng người vợ đã có mầm mống hối hận.- Xơ
Maria nói tiếp. - Những mầm mống này cứ phát triển lên trong những nói chuyện
giữa chị ta với xơ Êđi. Nhưng trong buổi nói chuyện đầu tiên này, chúng tôi thỏa
thuận với nhau rằng không cho người chồng biết chỗ ở của người vợ. Chỉ sau đó rất
lâu, sau nhiều lần gặp gỡ khác, chúng tôi mới thay đổi ý định. Xơ Êđi không trực
tiếp khuyên, nhưng tôi biết chị ấy mong cho người vợ gọi người chồng về, và tôi
buộc phải thú nhận rằng sự xích lại gần nhau đac đem tai họa đến cho chị vợ của
Đavit Hôm này chính là công trình của xơ Êđi. Tôi đã suy nghĩ nhiều, và tôi chắc
rằng xơ Êđi sẽ không dám gánh lấy trách nhiệm như vậy nếu chị ấy không yêu
Đavit Hôm.
Xơ Maria nói những lờ cuối cùng này một cách tin tưởng đén nỗi
hai con người lúc nãy đã bối rối khi lần đầu nghe nàng nói đến mối tình của cô
xơ nhỏ, lần này thản nhiên không dao động. Chàng đội viên Cứu tế ngồi yên, tay
vẫn che lấy mặt, và người đàn ông nằm cạnh cửa lại trở lại vẻ mặt hằn học ủ ê
như là lúc bị cưỡng bức lôi vào căn nhà này.
- Lúc ấy chẳng ai biết Đavit Hôm đi đâu. - Xơ Maria nói tiếp
- nhưng xơ Êđi qua những kẻ lang thang khác đã nhắn với anh ta rằng có thể cho
anh ta biết tin tức vợ con, nếu anh ta trở lại. Và xơ Êđi đã làm cho hai vợ chồng
đoàn tụ, sau khi sắm sửa cho anh ta ăn mặc tươm tất và tìm cho anh ta công việc
làm ở một nhà thầu xây dựng. Chị ấy không yêu cầu anh ta sẽ tu chí làm ăn, cũng
không bắt anh ta cam kết bất cứ một điều gì. Chị ấy biết không thể ràng buộc một
con người như anh ta bằng những lời hứa, nhưng chị hy vọng trồng lại trong mảnh
đất tốt hạt lúa mì đã bị rơi vào đám cỏ gai, và chị ấy tự tin chắc chắn sẽ đạt
được kết quả. Và có lẽ xơ Êđi sẽ hoàn thàng công trình tốt đẹp của mình nếu như
chị ấy có thể tiếp tục chăm nom nó. Nhưng không may là chị ấy đã bị bệnh. Đầu
tiên là sung huyết phổi, rồi sau khi khỏi bệnh sung huyết, đáng lẽ hồi phục, chị
ấy lại héo hon mòn mỏi đi, và phải đưa chị ấy vào bệnh viện điều dưỡng. Đavit
Hôm đã đối xử với vợ như thế nào tôi chẳng cần nói, anh cũng biết, Guttapxơn ạ.
Người duy nhất không biết điều đó, hay ít nhất là do chúng tôi cố dấu kín không
cho biết, đó là xơ Êđi, bởi vì chúng tôi thương hại chị ấy. Chúng tôi hy vọng
là chị ấy sẽ không nghe nói gì đến chuyện này trước khi mất, nhưng bây giờ, tôi
không còn hiểu ra sao nữa, tôi sợ rằng chị ấy đã biết hết rồi.
- Làm sao mà chị ấy biết được?
- Sợi dây nối liền chị ấy với Đavit Hôm bền chặt đến nỗi tôi
nghĩ rằng chị ấy biết được tất cả những gì liên quan đến anh ta bằng những con
đường tinh tế chứ không phải bằng cách thông thường. Chính là vì chị ấy biết hết
nên chị ấy mới một hai đòi gặp anh ta cho bằng được như vậy, ít ra đó cũng là
điều mà tôi tin chắc. Chị ấy đã đưa đến cho vợ con anh ta một nỗi đau khổ vô hạn,
và bây giờ chị ấy cảm thấy chỉ còn một ít thời gian ngắn ngủi nữa để sửa chữa lại
điều tai họa chị ấy đã gây ra. Và chúng ta thì nhu nhược đến nỗi không thể nào
đưa anh ta đến đây được.
- Nhưng, xơ Maria, đưa anh ta đến đây liệu có ích gì? -
Chàng trai vẫn bướng bỉnh hỏi, - chị ấy sẽ không thể nói chuyện được với anh
ta. Chị ấy yếu quá rồi.
- Tôi sẽ nói thay chị ấy, - cô xơ trẻ tuổi trả lời, giọng đầy
tin tưởng, - và anh ta sẽ nghe được những lời người ta nói với anh ta ta bên cạng
giường của xơ Êđi đang hấp hối.
- Thế vhị định nói gì với anh ta? - Chị định nói là chị ấy
yêu anh ta à?
Xơ Maria đứng dậy. Nàng chắp tay trước ngực, ngẩng mặt lên
trời và nhắm mắt lại:
- Lạy Chúa! - Nàng cầu nguyện. - Xin người hãy xui khiến cho
Đavit Hôm đến đây trước khi xơ Êđi mất! Lạy Chúa xin Người hãy khiến cho anh ta
thấy và cảm nhận được mối tình của chị ấy, xin Người hãy khiến cho ngọn lửa của
mối tình này làm tan chảy tâm hồn băng giá của anh ta! Lạy Chúa chẳng phải là
Người đã linh nghiệm gây nên mối tình này để cho nó chiến thắng trái tim sắt đã
kia sao? Lạy Chúa xin Người hãy ban cho con lòng dũng cảm để không nghĩ đến
chuyện gượng nhẹ đối với chị ấy mà dám dìm linh hồn người đàn ông này vào trong
tình yêu của chị ấy. Lạy Chúa xin Người hãy để cho anh ta cảm nhận mối tình ấy
như một làn gió nhẹ êm dịu và ấm áp, như hơi thoảng của một cánh chim, như ánh
hồng tỏa rạng ban mai đẩy lùi màn đếm tăm tối. Lạy Chúa xin Người đừng để cho
anh ta tưởng lầm rằng con muốn báo thù anh ta! Xin Người hãy làm cho anh ta hiểu
rằng xơ Êđi chỉ yêu cái bản thể sâu kín nhất của anh ta, cái bản thể mà chính
anh ta muốn bóp nghẹt và giết chết! Lạy Chúa...
Xơ Maria rùng mình và mở mắt ra. Chàng trai trẻ đang mặc áo
khoác vào người.
- Tôi đi tìm anh ta đây! - Chàng nói, giọng bối rối. - Tôi sẽ
không trở về nếu không có anh ta đi theo.
Kẻ nằm cạnh cửa quay về phía người đánh xe bò và cuối cùng
nói với hắn:
- Giorgiơ, câu chuyện này kéo dài như thế là đủ rồi đấy chứ?
Lúc đầu những chuyện họ nói cũng có đôi chút gì đáng cảm động đấy, lẽ ra cậu đã
có thể làm tớ dịu đi như vậy, nhưng đáng lý phải báo trước cho họ đề phòng: tại
sao họ lại nói đến vợ tớ?
Người đánh xe bò không trả lời mà chỉ tay về phía căn buồng
kia. Cửa buồng mở ra và một bà già đi vào.
Bà rón rén đi lại gần hai người đội viên Cứu tế và nói với một
giọng run run điều bà báo cho họ biết:
- Em nó không muốn nằm trong căn buồng nhỏ ấy nữa. Nó muốn ra ngoài này. Bây giờ thì cũng chẳng còn được bao lâu nữa.
-------------
Còn tiếp...
- Em nó không muốn nằm trong căn buồng nhỏ ấy nữa. Nó muốn ra ngoài này. Bây giờ thì cũng chẳng còn được bao lâu nữa.
-------------
Còn tiếp...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét