Chương 11
- Anh
ngủ tốt chớ, anh Hiên?
Không ngẩng lên,
Huỳnh Ngự vừa lúi húi soạn chồng hồ sơ trên bàn vừa hỏi tôi thay lời chào.
Tôi biết thừa: y
chẳng bận gì hết, y làm ra vẻ bận bịu để bắt tôi phải chờ, cho những gì sẽ xảy
ra sau đó thêm quan trọng.
- Cảm ơn, tôi ngủ
được. - tôi nhạt nhẽo đáp.
Ngồi vào vị trí
thường ngày, tôi lơ đãng nhìn quanh.
Công việc hỏi cung
được Huỳnh Ngự tiến hành theo lối du mục, không cố định một nơi, nay phòng này
mai phòng khác, không hiểu tại Hỏa Lò thiếu phòng làm việc hay do nguyên nhân
nào khác. Căn phòng hôm nay hẹp nên có vẻ ấm hơn. Cách bài trí bên trong thì
phòng nào cũng như phòng nào - bàn chấp pháp đặt sát tường hậu, sau lưng chấp
pháp là chân dung chủ tịch Hồ Chí Minh, với vài băng khẩu hiệu bên dưới. Ghế
cho phạm(1) được đặt cách chỗ ngồi của chấp pháp hơn một tầm với, đề phòng sự
tấn công bất ngờ. Bên phải hoặc bên trái, là cái bàn nhỏ dành cho phạm viết lời
khai, phần lớn là bàn mộc, cái nào cái nấy lem nhem mực tím. Ghế cho phạm là
ghế đẩu, thấp hơn ghế chấp pháp. Ở vị trí này bao giờ người bị hỏi cung cũng
phải ngước mắt lên nhìn kẻ hỏi mình. Một cách tính toán để nâng cao uy thế cho
chấp pháp. Cũng có lần tôi được đưa tới một căn phòng khác loại, bài trí theo
kiểu phòng khách, được ngồi ghế có tựa, ở khoảng cách gần chấp pháp. Ðó là khi
tôi chấp nhận một sự lùi bước.
- Hừm, bữa hổm ta làm
tới mô rồi hè? Anh nói anh ngủ được, hả? Vậy mà trong y bạ của anh vừa lấy về
tui thấy bác sĩ toàn kê thuốc ngủ với thuốc an thần. - Huỳnh Ngự nói, giọng
thân mật cố ý - Dùng nhiều mấy thứ nớ hại lắm đó.
Tôi hiểu ẩn ý câu
nói: anh bạn, tụi tui nghiên cứu anh kỹ lắm, anh coi, tài liệu cả đống nè, tụi
tui biết về anh không ít đâu.
Huỳnh Ngự sắp xếp
xong đống giấy má, đặt chúng gọn gàng vào góc bàn.
- Còn nếu khó ngủ thì
tốt nhứt là trước khi đi ngủ anh thở theo khí công. Anh biết luyện khí công
chớ?
- Không. Tôi chưa tập
khí công bao giờ.
Tôi nói dối. Tôi biết
khí công và yoga. Nhưng tôi thích nói dối Huỳnh Ngự, cho dù trong những chuyện
chẳng có gì quan trọng, nhằm kiểm tra sự hiểu biết của Huỳnh Ngự về tôi. Cách
tốt nhất để đối thủ không hiểu được mình là tạo ra một mê cung lẫn lộn cái thật
và cái giả. Vả lại, nói dối để thấy đối thủ bị mắc lừa âu cũng là một thú vui
trong tù.
Huỳnh Ngự nghiêng ngó
nhìn tôi :
- Tui sẽ bày cho anh
cách chữa căn bản. Coi tui thị phạm (2) cho anh nè. Cứ làm theo cách tui bày ít
lâu là bịnh mất ngủ hết liền.
Y ngả người trên ghế,
nhắm mắt lại, chầm chậm hít vào thở ra nhiều lần. Tôi cười thầm. Cách nói đi
ngẩu thay cho đi ngủ làm tôi nhớ tới cách anh bạn tôi nhại vợ mình : “Eng ơi
eng téc đèng đi ngẩu(3)”. Ở vợ anh cái gì anh cũng ưa, trừ cách phát âm của cô,
anh uốn mãi nhưng cô không sửa được. Trong giọng nói, cách nói của Huỳnh Ngự
sau hơn chục năm ở đất Bắc đã không còn nguyên chất giọng quê hương, nhưng khi
nào tức giận lên y nói một tràng dài mà tôi không hiểu gì.
- Phải hít cho thiệt
sâu, hít vô bụng dưới nè, đẩy cái khí nớ xuống, nhịn thở lâu thiệt là lâu, sau
đó mới thở ra từ từ, từ từ như rứa cho tới khi hết khí rồi vẫn còn vận nó lên
hoành cách mô đặng tống cho bằng hớt ra ngoài. Cứ thở như vậy lối mươi, mười
lăm phút là ngủ liền hà. - Huỳnh Ngự cười hì hì - Anh không biết chớ nhiều
người ở Hỏa Lò nầy một thời gian ra là hớt sạch mọi bịnh đó.
Thảo nào, để tăng
cường sức khỏe cho nhân dân, Nhà nước tăng số lượng nhà tù lên vòn vọt trong
một thời gian kỷ lục !
Chúng tôi thong thả
uống trà, nói chuyện vãn. Huỳnh Ngự có sắc khí của người hài lòng về mình. Y có
vẻ vừa vượt qua một chặng đường vất vả. Tôi đồ rằng cái đó có liên quan tới
tình hình mới. Từ khi biết Ðảng có quyết định mới về cách xử lý vụ án, có thể
anh em trong vụ tôi cũng bớt căng thẳng với y.
Ngoài tôi ra Huỳnh
Ngự còn làm việc ít nhất cũng với mấy người nữa. Y ra đầu đề, nói theo cách của
y, bảo tôi ngồi viết, rồi tất bật chạy đi đâu đó. Lát sau y chạy về, sắc mặt
khi buồn khi vui, bực bội nhiều hơn phấn khởi, thỉnh thoảng còn nổi khùng lên
một cách rất vô lý, chắc hẳn vừa trải qua một cuộc cãi cọ.
Hỏi thăm sức khỏe tôi
xong, Huỳnh Ngự huyên thuyên đủ mọi chuyện tầm phào. Thậm chí y còn quan tâm
tới sắc đẹp của tôi nữa. Y hỏi tôi có muốn cạo râu không, râu tôi mọc dài,
trông gớm chết, mất cả đẹp trai. Tôi cảm ơn, nói bữa khác cạo cũng được, trong
xà lim bộ râu chẳng làm phiền tôi bao nhiêu, cái mà tôi cần bây giờ là bàn chải
và thuốc đánh răng. Y phàn nàn nói đã nhắn vợ tôi gửi mấy thứ đó vào cho tôi
rồi mà sao vẫn chưa gửi, chắc bả bận đi công tác địa phương. Y nói dối ráo
hoảnh - nhà tôi đông người, không người này đi gửi thì người khác đi, không khi
nào để tôi ở đây phải thiếu.
- Trong tù mọi người
đều dối trá, cả anh cai ngục lẫn anh tù. Môi trường nhào nặn con người theo mẫu
của nó. - Thành nhận xét.
Chẳng cần nhiều thời
gian ở tù tôi mới thấy Thành nói đúng.
- Mấy bữa rầy tui bận
quá xá! - Huỳnh Ngự cười hì hì, tự mãn - Anh biết không, từ hôm biết tin Vũ Thư
Hiên bị bắt, bè bạn anh nườm nượp kéo tới văn phòng xin được báo cáo, tiếp
không xuể. Ðành phải lên lịch tiếp từng người một. Bộ anh không tin hả?
Tôi trương lên vẻ mặt
hồn nhiên nhất
- Có gì mà không tin.
Gặp cơ hội kiếm chác được trong thời buổi khó khăn này khắc có khối kẻ bâu lại.
Ðảng rất khuyến khích sự lập công: “thành khẩn bộc lộ khuyết điểm của mình và
hăng hái tố cáo người khác là thước đo lòng trung thành với Ðảng”, họ sẽ được
Ðảng chiếu cố. Có điều những người này có thực là bạn tôi hay không? Bạn của cơ
quan công an là cái chắc rồi, không còn nghi ngờ gì nữa.
- Nè, bỏ cái lối xóc
óc đi nghen. Chẳng có lợi chi cho anh đâu, thiệt đó. May cho anh gặp tui, chớ
phải người khác họ quyết không để cho anh yên.
- Tôi cũng nghĩ thế,
may thật!
Huỳnh Ngự nguýt tôi
một cái dài.
Công bằng mà xét,
Huỳnh Ngự không phải người xấu. Y chẳng qua là một công bộc trung thành với nhà
nước hoặc với cái ghế y được ngồi, y làm việc như một robot không biết đến hỏng
hóc. Y ngầy ngà, y dài hơi, nhưng y cũng không làm gì tồi tệ hơn, đôi lần tôi
còn thấy y có vẻ ái ngại cho tôi nữa là khác. Nếu Ðảng mang tôi đi bắn chắc y
cũng bùi ngùi một phút, mà cũng có thể là hai.
- Hôm nay ta không làm
tiếp việc bữa trước, mà bắt đầu làm việc chính thức. - y bình thản nối điếu
thuốc kế tiếp rồi thong thả nhả khói về phía tôi. - Trước tui hỏi anh, anh trả
lời, nay anh tự khai báo với Ðảng những tội lỗi của anh cũng như của những kẻ
mà anh có liên quan.
- ???
- Tức là tui sẽ đề ra
câu hỏi. Anh trả lời bằng miệng. Tui gợi ý thêm. Anh khai vô giấy. Ðơn giản vậy
thôi hà. Anh hiểu chớ?
Buồn cười thật! Tôi
tự khai báo, nhưng y vẫn hỏi cung tôi. Như cũ.
Tôi đáp gọn lỏn :
- Không.
Cặp kính trắng loáng
lên :
- Không cái chi?
- Tôi không hiểu.
- Sao lại không? Có
chi khó hiểu đâu.
Huỳnh Ngự ngừng hút,
điếu thuốc thây lẩy trên môi. Tôi cũng làm ra vẻ ngỡ ngàng.
- Tôi không phải là
phạm nhân, sao lại phải khai?
Huỳnh Ngự hiểu ra.
- Bộ anh không thấy
anh là người có tội với Ðảng à?
- Tội gì?
- Anh nghĩ đi, nghĩ
cho kỹ, anh sẽ thấy anh có tội chi! Nếu không có tội thử hỏi Ðảng bắt anh làm
chi?
Cái lô-gích tuyệt vời
này chỉ có ở những kẻ ấm đầu! Nhưng tôi không muốn cãi nhau với y. Tôi chỉ muốn
cù nhầy một chút để suy nghĩ : thằng cha định lái câu chuyện đi hướng nào?
- Anh không phủ nhận
anh có tội với Ðảng chớ?
- Tôi phủ nhận.
Câu trả lời tỉnh bơ
làm y sững sờ.
- Anh? Phủ nhận?
- Tôi đã kiên nhẫn
chờ đợi,- tôi lạnh lùng.- nhưng rất tiếc, cho đến hôm nay tôi vẫn chưa được
nghe Ðảng công bố cho tôi biết tôi phạm tội gì?
Huỳnh Ngự trợn mắt. Y
bắt đầu mất bình tĩnh.
- Anh không biết
thiệt? Ðến hôm ni vẫn không biết?
- Ðúng thế! Khi bị
bắt, tôi nghĩ Ðảng buộc phải đưa tôi vào đây để hỏi vài điều gì đó mà để tôi ở
ngoài hỏi thì không tiện. Sau, được nghe trên phổ biến tôi lại càng tin mình
hiểu đúng.
- Hứ?
- Thật vậy, một mâu
thuẫn đã được coi là mâu thuẫn nội bộ thì không phải là vụ án. Mà đã không có
vụ án thì không thể có phạm nhân. Tôi hoan nghênh Ðảng đặt việc này trong phạm
trù mâu thuẫn nội bộ. Nhưng tôi thắc mắc: bất kỳ đảng chính trị nào cũng chỉ có
những hình thức kỷ luật như phê bình, cảnh cáo, nặng quá thì khai trừ, tuyệt
nhiên không có chuyện giam giữ, đúng thế không ạ?
- Hừm.
- Muốn giam giữ một
công dân chế độ nào cũng phải thông qua các thủ tục tố tụng thông thường, phải
có lệnh khởi tố, lệnh tạm giam, mà tạm giam cũng chỉ được phép trong thời hạn
luật định. Tôi không hiểu sao trong vụ này lại không có những cái tôi vừa nói.
Như vậy có quá đáng không? Hơn nữa, tôi thấy tôi chẳng có tội gì nếu đối chiếu
các việc làm của tôi với Hiến pháp và luật pháp nhà nước...
Huỳnh Ngự lúng túng.
Y không chờ đợi ở tôi một thái độ ngang như cua sau khi đã được nghe phổ biến
về ân sủng của trên..
- Tui đã biểu anh rồi
mà, cứ nghĩ cho kỹ đi khắc hiểu vì sao anh bị bắt.
- Nghĩ kỹ đến mấy
cũng thế mà thôi. Tôi thật sự không hiểu, và nếu Ðảng không cho biết thì tôi
đành chịu tiếng ngu mà hỏi nữa, hỏi mãi cho tới khi nào hiểu được mới thôi.
- Tui đã biểu đừng
vội mà. Chưa nghĩ kỹ đừng trả lời.
Vui thật, thì ra
người ta bắt tôi vào đây để ra cho tôi một câu đố: đố đằng ấy biết tại sao đằng
ấy bị bắt?
- Một công dân bị bắt
có quyền đặt câu hỏi: họ bị bắt vì tội gì, thậm chí có quyền không trả lời khi
chưa được gặp luật sư của mình.
Huỳnh Ngự cười ngất.
Tiếng cười hé hé căng thẳng, giả tạo của y vang to đơn độc trong căn phòng
trống.
- Chà, sao mà hai cha
con nhà anh giống nhau quá vậy! Anh còn trẻ hổng nói làm chi chớ ông già anh
hoạt động cách mạng từng ấy năm mà vẫn còn mơ hồ mới lạ! Trong đầu cha con nhà
anh rặt một thứ khái niệm dân chủ tư sản! Anh phải hiểu: nền dân chủ của ta
khác hẳn nền dân chủ tư sản, như ánh sáng và bóng tối, như đêm với ngày, nghĩa
là khác về chất, rõ chưa nào? Bởi vì nó là nền dân chủ được xây dựng trên cơ sở
chuyên chính vô sản, một nền chuyên chính vì lợi ích của đại đa số nhân dân lao
động chống lại thiểu số bóc lột... Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới thiệt là
dân chủ, nó dân chủ gấp triệu lần nền dân chủ của các ngài tư sản, như Lênin đã
dạy...
Lại một cách chạy
trốn câu hỏi trực diện.
- Tuyên bố với người
phạm tội về tội của họ phỏng có mâu thuẫn gì với chuyên chính vô sản? - tôi tấn
công tiếp - Chuyên chính vô sản là đường lối công khai, Ðảng tuyên bố thẳng
thắn, Ðảng cần gì phải giấu giếm hành động chuyên chính của mình?
Huỳnh Ngự đỏ bừng
mặt.
- Anh tưởng Ðảng
không biết chi về những hành động của các anh sao? Chẳng qua Ðảng muốn anh tự
giác nhận ra tội mình mà thành khẩn khai báo, để qua đó đánh giá mức độ giác
ngộ của anh mà thôi.
Tôi vặn lại :
- Nhưng nếu chính tôi
không biết mình phạm tội gì thì làm sao tôi có thể trình bày với Ðảng tội của
tôi được. Tội lỗi là một khái niệm không đồng nhất. Cái mà người này coi là
tội, người kia lại coi là không.
Huỳnh Ngự phát bẳn.
- Nói rứa mà nghe
được! Vô đây mà còn lý sự. Trước hết anh phải thấy mình có tội với Ðảng đã! -
giọng y bắt đầu the thé - Anh phải khẳng định một ngàn lần rằng Ðảng - bao - giờ
- cũng - sáng - suốt. Bắt cán bộ của mình lòng Ðảng xót xa lắm chớ. Anh không
có tội thì không đời nào Ðảng bắt anh. Anh có biết phương châm Ðảng chỉ ra cho
chúng tôi ra răng không? Nếu bắt cũng được mà không bắt cũng được thì kiên
quyết không bắt!
Trong các nghị quyết
của Ðảng tôi không thấy có phương châm này. Theo tôi biết, nó là một câu nói
của Trần Quốc Hoàn trong một huấn thị cho cán bộ công an, rồi được ngành này
khoe khoang ầm ĩ như thể đó là mẫu mực của lòng nhân ái vô sản. Tại sao lại có
thể bắt cũng được mà không bắt cũng được? Ðáng ngạc nhiên là một chủ trương phô
bày sự đần độn như thế lại được tờ Học Tập, tạp chí lý luận của Ðảng tán dương.
- Thế những người bị
xử trí oan trong Cải cách ruộng đất thì sao? - mặc cho Huỳnh Ngự giận dữ, tôi
lại vặn tiếp - Họ bị quy kết, bị bắt buộc phải nhận tội, rồi sau đó Ðảng phải
thừa nhận sai lầm, phải xin lỗi, phải sửa sai...
- Anh đừng có móc máy
chuyện Cải cách ruộng đất! - y vỗ bàn, gầm lên - Từ bấy tới chừ cách mạng ta đã
tiến bộ rất nhiều, cả về lý luận lẫn thực tiễn. Không phải Ðảng cứ sai một lần
thì những lần khác Ðảng cũng sai mô... Rồi coi: lần ni Ðảng có sai không?
Tôi mỉm cười, nhớ tới
câu nói dân dã : “Một lần ỉa bậy, lần sau thấy cứt người ta gọi đến”.
Mặt Huỳnh Ngự tím lại
:
- Nè, đừng giỡn mặt
tui nghen. Bất cứ khi mô Ðảng cũng có thể thay đổi nhận định hôm ni đối với lũ
các anh. Tới lúc đó thì chỗ của các anh không phải xà lim nữa, mà là pháp
trường, pháp trường! Các anh là bọn phản Ðảng. Mà phản Ðảng coi bằng phản quốc.
Chỉ có đem bắn. Bắn tuốt!
Bàn tay cầm điếu
thuốc của y run bần bật.
Chúng tôi nhìn thẳng
vào mắt nhau. Giống như trong trò chơi trẻ con, bên nào chớp mắt trước bên ấy
thua, chúng tôi nhìn nhau trừng trừng, không ai chịu ai.
Tôi quyết thắng. Nếu
tôi thua, tôi không chỉ thua trong trò chơi. Tôi thua có nghĩa là tôi sợ Huỳnh
Ngự, có nghĩa là tôi có tội, nhưng không có can đảm nhận tội.
Huỳnh Ngự bỏ cuộc. Y
quay đi, không chịu nổi cái nhìn lạnh giá của tôi. Nhưng chẳng bao giờ tôi có
địa vị kẻ thắng, ngay cả trong trò chơi này. Vấn đề thua hay không thua chỉ đặt
ra trước một mình tôi thôi.
Tôi được đưa trở lại
xà lim.
Tôi làm mất thời giờ
bạn đọc, kể một câu chuyện nhạt phèo. Nhưng câu chuyện dù có nhạt tới mấy thì
cũng không nhạt bằng cái thực tế mà tôi gặp. Nó chẳng những nhạt mà còn phi lý.
Phi lý đến mức không tưởng tượng nổi. Như thực tế trong một nhà thương điên.
Tôi mệt rũ. Tôi chán
nản. Tôi tuyệt vọng.
Thành đã trải qua cảm
xúc đó. Anh khuyên tôi phải luyện cho mình thói quen không ngạc nhiên trước bất
cứ điều gì :
- Ông ngây thơ lắm.
Với Nhà nước ta công dân nào mà chẳng có tội. Khác nhau ở chỗ tội nhiều hay tội
ít mà thôi. Nghĩ mà xem: nếu mỗi công dân lúc nào cũng nơm nớp thấy mình có tội
thì tiện cho Ðảng lắm chứ! Ðảng chỉ còn việc nghĩ xem có nên bắt thằng A hay
thằng B không, bắt hôm nay hay để đến mai? Ông cho là tôi nói quá à? Tôi không
nói quá đâu. Ông cười? Ðừng cười, bởi vì nó đúng là như thế đấy. Bộ máy chính
quyền nào cũng gồm những con người, như ông với tôi đây, nó cũng biết nghĩ đấy,
nó có cách suy luận của nó đấy, nó có bản năng tự vệ của nó đấy... Bộ máy chính
quyền nào cũng sĩ diện lắm. Nó thích được ca ngợi, nó không thích bị chỉ trích,
bao giờ nó cũng tìm cách phô rằng nó sạch sẽ... Ông có biết rằng khi bắt một
đảng viên người ta phải khai trừ anh ta trước đã để làm gì không? Ðể đến lúc bị
bắt anh ta không còn là người của Ðảng nữa, để Ðảng không phải xấu hổ...
Chuyện khai trừ Ðảng
trước khi bị bắt đã không xảy ra với những người trong vụ nhóm xét lại hiện đại
(4). Tại sao, tôi không hiểu. Tôi cho rằng trong thời điểm đó những nhà lãnh
đạo chưa có thái độ dứt khoát trong sự trấn áp những người cộng sản bất tuân.
Việt Nam không phải là Trung Quốc. Những việc mà người Trung Quốc làm phứa
không cần suy tính thì ở Việt Nam người ta còn phải dò dẫm, cân nhắc.
Cái ngoại lệ này kể
cũng lạ. Tên cục trưởng Cục chấp pháp nói đúng chăng? Hiểu theo lời y thì một
hình thức trấn phản chưa có tiền lệ đang được dùng cho chúng tôi: vừa bắt vừa
không bắt.
Xử lý nội bộ được
hiểu như những người bị Ðảng còng tay đưa đi không phải bị giam giữ, mà chỉ bị
tập trung lại một chỗ để giáo dục thôi (!).
- Khi bắt một con
người, việc trước tiên người ta phải làm là bắt hắn nhận tội cái đã. - Thành
giảng giải - Có tội hay không có tội, mặc. Ðã bảo Ðảng không bao giờ sai lầm cơ
mà. Thế thì trong tay Ðảng phải có bản nhận tội của thằng bị Ðảng bắt cái đã.
Nó có nhận tội thì Ðảng mới không sai. Vụ việc để đó, xem xét sau cũng chẳng
muộn...
Huỳnh Ngự đang cố
gắng áp dụng bài bản này với tôi. Tôi muốn Thành phát triển đề tài nên giả vờ
thích thú :
- Như thế đâu có
được.
- Rồi ra ông còn biết
ối chuyện lạ hơn nữa kia. - Thành nói - Tôi biết có người hoàn toàn vô tội, ở
tù sơ sơ cũng vài năm, thế mà ra tù cậy miệng anh ta cũng không dám nói anh ta
bị oan. Thậm chí anh ta còn một mực nói Ðảng bắt anh ta là đúng, rằng sở dĩ anh
ta được tha, không bị xử là nhờ lượng khoan hồng của Ðảng... Ông có biết vì sao
không? Là vì anh ta nhận tội rồi, ký vào bản cung người ta mớm cho rồi, bây giờ
há miệng mắc quai, lại còn sợ bị trả thù vì phản cung nữa chứ. Tội nghiệp, bị
oan rồi mà đến một cái lệnh tha cũng chẳng được cấp, chỉ được thí cho một cái
lệnh tạm tha thôi. Tạm tha là thế nào? Là người ta tạm cho về, nhưng coi chừng,
bất cứ lúc nào anh cũng có thể bắt lại, đừng có đùa! Trong lệnh tạm tha người
ta ghi : xét tội trạng chưa tới mức phải xử lý theo pháp luật...
Tôi kêu lên :
- Như thế là vi phạm
nhân quyền !
Thành cười hức hức :
- Ông bạn ngốc nghếch
của tôi ơi! Ðể có thể vi phạm một cái quyền thì phải có nó trước đã, ông ạ!- Rồi
anh thở dài, giọng yếm thế: - Trong xã hội chúng ta, ông ạ, mỗi công dân chỉ là
một người tù dự khuyết.
Tôi im lặng. Tôi
buồn.
Có tiếng gào khóc
thảm thiết ở đâu đó vọng đến, không biết từ xà lim nào. Thành lắng tai nghe.
- Cái gì thế, anh
Thành ?
- Tôi không rõ. Trong
xà lim nghe tiếng khóc là chuyện thường. Khi nào nghe người ta cười, ấy là có
người đã phát điên.
- Công an ở đây có
tra tấn tù không ?
Thành lắc đầu :
- Không. Nghe nói
thỉnh thoảng người ta cũng đánh bọn lưu manh. Bọn ấy đánh là phải, tôi không
thương. Với những can phạm khác thì không, họ không đánh, tôi chưa thấy. Âu
cũng còn là cái tốt của chế độ. Tra tấn can phạm bây giờ bị cấm ngặt.
Chuyện bọn lưu manh
bị đánh tôi có nghe. Nhưng đó là việc xảy ra ở những trại xa nào chứ ở Hỏa Lò
thì tuyệt nhiên không có. Anh bạn tôi tên Quý, biệt hiệu Quý Cao, làm công an
trong Hỏa Lò chuyên hỏi cung tù hình sự kể rằng bọn lưu manh đã biết tính anh.
Ðứa nào bị anh hỏi cung mà cho một cái tát đuổi về thì đứa ấy mừng rơn, tí tởn
khoe với bè bạn: “Bố Quý vừa tát tao một cái!”. Ðó là điềm lành, nó cầm chắc
được tha. Chúng sợ nhất khi anh ân cần hỏi thăm gia cảnh, tỏ vẻ thương hại, cho
điếu thuốc hút tại chỗ rồi vỗ vai cho về - như thế sẽ còn nằm lâu, có thể đến
mùa quít. “Không phải mình có ý gì hoặc giở trò nghịch ác đâu,- Quý Cao nói,-
mình thương chúng nó lắm chứ, chúng nó xấp xỉ bằng thằng lớn nhà mình”. Từ hôm
vào Hỏa Lò tôi có ý nhìn ngó xem có thấy Quý Cao không, nhưng không thấy. Trước
khi bị bắt tôi hay chạy lại anh để hỏi thăm tin tức cha tôi, nhưng anh chẳng
biết gì. Vụ án được giữ bí mật, ngay cả với công an.
Tôi bao giờ cũng cẩn
thận cắt đuôi rồi mới tới Quý Cao, nhưng làm sao biết chắc không còn cái đuôi
nào vẫn lẵng nhẵng theo được tới nhà anh ?
Có lần tôi đang bị
hỏi cung thì nghe có tiếng kêu khóc trong một phòng gần đấy, kèm theo là tiếng
vật lộn huỳnh huỵch, tiếng quát tháo om xòm. Tôi đoán đây là trò Huỳnh Ngự bày
ra nhằm áp đảo tinh thần tôi. Tôi chưa lần nào bị tra tấn, chính mắt tôi cũng
chưa thấy người khác bị tra tấn. Khi tôi ra tù có nhiều bạn hỏi, tôi có trả lời
nhưng họ không tin. Không phải tôi sợ không dám nói, mà đúng vậy - chuyện tra
tấn là không có, tôi không thấy.
Nhục hình khác thì
có, chẳng hạn những người không chịu khai, hoặc có hành động chống lại trong
khi hỏi cung thì bị cùm chân dài ngày, có khi cả tháng. Tuy nhiên, theo quan
điểm của tôi nhục hình chưa phải là cái ác lớn nhất. Có cái còn ác hơn.
Do nhu cầu hiểu biết
tôi có dịp làm quen với hình pháp học. Những tác phẩm về ngành học này không có
nhiều ở nước ta, tôi có được vài cuốn là nhờ người đi nước ngoài mua giùm.
Nhưng hồi đó tôi còn nhìn mọi vấn đề qua lăng kính đấu tranh giai cấp, cho nên
tôi đọc không công bằng. Chỉ cần thấy Cezare Lombroso(5), Durkheim(6) không
phải mác-xít là tôi đã coi nhẹ tác phẩm của hai ông rồi. Trong lĩnh vực này tôi
chỉ thừa nhận mỗi một Kudriavsev(7) với những luận điểm siêu hình của ông ta,
như sau này tôi hiểu ra. Nhưng cái đáng tiếc nhất là những cuốn sách về khoa
học hình sự của cả phe xã hội chủ nghĩa lẫn phe tư bản chủ nghĩa đã chẳng mang
lại cho tôi điều gì hữu dụng trong thực tế.
Thành nhận xét trong
công tác giam giữ, công an Việt Nam về cơ bản du nhập kinh nghiệm Trung Quốc.
Gần đây người ta có xu hướng học tập Cộng hòa Dân chủ Ðức, cho rằng trong phe
xã hội chủ nghĩa nước này có nhiều thành tựu tiên tiến nhất do phải trực diện
đối đầu với đế quốc. Ấy là gần đây thôi, chứ trước kia mọi thứ của Liên Xô đều
hay nhất, tốt nhất. Sau Ðại Hội XX người ta coi mọi cái của Liên Xô đều xấu đều
dở. Hệ thống trừng phạt vốn đã khắc nghiệt của Liên Xô, theo báo chí phương Tây
mô tả, vẫn còn bị phê phán. Người ta nói nó bị ảnh hưởng nặng nề chủ nghĩa xét
lại hiện đại, thậm chí trong luật pháp Liên Xô cũng còn đầy rẫy yếu tố tư sản.
Xà lim ở một số trại
giam hiện nay được rập khuôn theo hình mẫu Stasi(8), hiện đại hơn của thực dân
Pháp nhiều - có nước máy dẫn vào tận nơi, tù cả năm không bước chân ra ngoài
trừ khi đi cung, phòng hỏi cung thì lại được đặt ngay trong khu xà lim, tiện
lắm. Như vậy khả năng quan sát vị trí nhà tù bị hạn chế tối đa, triệt tiêu ý
muốn vượt ngục. Hệ thống nghe trộm điện thoại của Ðức nhập về đã hoàn tất năm
1964.
- Dân có điện thoại
đâu mà phải nghe trộm họ nói gì? - tôi ngạc nhiên.
Vào thời kỳ này hầu
như chẳng có nhà dân nào có điện thoại. Tôi nói hầu như cho chắc ăn, lỡ có
ngoại lệ nào chăng, biết đâu có nhà được mắc điện thoại mà mình không biết.
Ðiện thoại chỉ có ở các cơ quan và trong nhà các ông kễnh(9).
Thành cười khục khục
trong họng.
- Các vị theo dõi
nhau là chính chứ. - anh thì thào - Ông tưởng các ông kễnh tin nhau lắm sao?
Còn lâu. Thời nào cũng vậy.
Tôi đồng ý với anh.
Ðến ngay hoàng đế Napoléon cũng còn sử dụng mật thám riêng nữa là. Có điều mình
quen hình dung xã hội chủ nghĩa là tốt đẹp, là tình nghĩa, cho nên mình mới ngỡ
ngàng, mình mới cho là không có chuyện đó mà thôi.
Vào thời kỳ có cuộc
đấu tranh giữa hai đường lối việc nhiều nhân vật cao cấp bị công an mật theo
dõi không còn là chuyện lạ. Thậm chí các công an viên được phân công theo dõi
đại tướng Võ Nguyên Giáp còn khoe với bè bạn công việc vinh quang của họ. Ðến
nhà cách mạng cao niên rất mực hiền lành Tôn Ðức Thắng cũng không thoát khỏi
con mắt cú vọ của Lê Ðức Thọ. Mà cụ đâu phải người thèm muốn chức quyền. Với
đám con cháu, cụ Tôn bảo : “Tụi bay đừng có kêu tao bằng phó chủ tịch nước,
nghe ngứa cái con ráy lắm ! Người ta đặt đâu tao ngồi đó, chớ tao không màng
cái chức chi hết”. Ngoài việc dự các nghi lễ long trọng bắt buộc phải có mặt
cụ, cụ không làm việc gì khác ngoài một việc cụ thích thú hơn cả là sửa xe đạp.
Làm phó chủ tịch nước, ông thợ máy ngày trước buồn tay buồn chân. Hết xe đạp
hỏng cho cụ chữa, anh em bộ đội bảo vệ và nhân viên phục vụ phải lấy xe của
người nhà mang vào cho cụ kẻo ngồi không cụ buồn.
Thương cụ quá, đôi
khi họ còn làm cho xe trục trặc đi để dắt đến nhờ cụ sửa giùm. Một người bạn
tôi quen thân với cụ Tôn, cha anh trước kia là đàn em cụ, kể rằng một hôm anh
đến thăm cụ, vào thời gian Nghị quyết 9, thì cụ dắt anh vào phòng riêng thì
thào: “Mầy có thấy lính kín(10) theo mầy tới đây không mầy?” Anh ngạc nhiên
quá. Tưởng anh lo lắng cho cụ, cụ mỉm cười hiền hậu: “Là tao lo cho tụi bây,
chớ tao hổng lo cho tao. Trong nhà tao nè, lính kín hổng có thiếu”.
Tôi ngày càng mến
Thành. Tuy nhiên, tôi vẫn tránh đụng chạm tới chuyện chính trị. Nhưng có chuyện
gì ở nước này mà không dính dáng tới chính trị kia chứ? Ðành phải ngậm miệng
khi Thành vô tình hỏi đến vụ án chúng tôi. Thành linh cảm được điều đó và anh
lảng xa vùng cấm.
Tôi chắc Thành cũng
biết mong manh về tôi. Anh không có ý moi móc những gì tôi không muốn nói, và
là cái công an muốn biết. Rất có thể người ta đã chiêu mộ anh làm chỉ điểm, cái
thế của anh buộc anh phải nhận, không nhận không xong với họ, nhưng trong thâm
tâm anh không tán thành việc làm vô sỉ đó, vì thế anh nhận đấy nhưng lại hành
động ngược lại. Mấy ngày ở gần anh cho tôi cảm giác như vậy. Ðể giúp tôi đối
phó với chấp pháp anh kín đáo đưa ra những lời khuyên dưới dạng những câu
chuyện kể về đời tù, những chuyện tiếu lâm vô thưởng vô phạt.
Nhờ những lời khuyên
của anh tôi biết cách ứng xử khéo léo hơn trong những cuộc hỏi cung, và nói
chung chúng rất có ích cho tôi trong cuộc sống trong tù những năm sau.
Ngoài sân, con chó
béc-giê được thả vào. Nó bắt đầu lồng lộn trong những chồng tôn vứt hỗn độn.
Nhưng chúng tôi đã quen rồi.
Phía xà lim xế cửa có
tiếng sụt sùi.
Thành nói anh tù vừa
được tin mẹ chết. Anh này nằm xà lim đã hơn ba năm. Bình thường là người tù có
kỷ luật bỗng dưng anh ta nổi khùng, chửi loạn xạ từ ông quản giáo đến ông Ðảng,
ông Nhà nước. Phớt lờ những hình phạt mà người tù xà lim nào cũng sợ, anh ta cứ
chõ ra hành lang mà kể lể. Rằng mẹ anh ta ở nhà chết đói mà anh ta chẳng tội
tình gì thì cứ phải ở mãi nơi này. Rằng anh ta là đứa con duy nhất, tại Ðảng mà
trở thành bất hiếu, không nuôi được mẹ, để mẹ chết thảm. Quản giáo rầm rập chạy
vào, đè nghiến anh ta xuống, nhét giẻ vào miệng, cùm lại.
Việc xảy ra buổi
sáng, lúc tôi đi cung. Nhân sự kiện này Thành kể cho tôi nghe ở một số trại còn
có cả dụng cụ chuyên dùng để bịt miệng những người tù kêu la. Nó trông tựa cái
hàm thiếc ngựa.
Nếu người tù chửi
bới, anh ta sẽ bị đóng hàm thiếc vào, cùm chân lại, cho tới khi thôi chửi bới. Ở
trong khu xà lim chuyện này thường xảy ra. Chẳng phải những người tù có tư
tưởng chống Ðảng chống điếc gì hết. Bị giữ trong xà lim quá lâu, thế là vào một
ngày nào đó họ nổi cơn điên.
K. Mác viết trong
cuốn Gia Ðình Thiêng Liêng rằng chế độ giam giữ người trong xà lim cá nhân quá
lâu là vô nhân đạo. “Con người chỉ có thể chịu đựng một sự giam giữ như thế
trong giới hạn năm năm. Vượt quá giới hạn này người bị giam sẽ mất trí”, ông
nhận định như vậy trong khi điểm cuốn Những Bí Mật Thành Paris của Eugène Sue.
Những kẻ tự xưng là
học trò Mác, là người kế tục sự nghiệp của Người (viết hoa) đang thực hiện điều
mà Mác lên án.
Tôi muốn an ủi Mác
quá: thôi mặc họ, ông ơi, chấp làm gì ba cái chuyện vặt! Mà ông cũng chẳng phải
xấu hổ - đám mao-ít vô học và thất học nọ có bao giờ là học trò ông đâu. Họ
chưa bao giờ đọc ông, trừ những cuốn giản lược mà nội dung đã bị vo tròn bóp
méo đến mức, nói thật, đến mức chính ông cũng không nhận ra là của ông nữa. Ông
không biết đấy thôi, Mác của tôi ơi, chứ sách của ông cũng bị làm mồi cho lửa
đấy. Cùng với sách của các đại văn hào được cả loài người kính trọng. Nói cho
công bằng, những nhà chuyên chính vô sản ở nước tôi cũng không chủ bụng đốt
sách của ông đâu, dù sao ông cũng được họ tôn làm thầy kia mà, cũng xưng là trò
của ông kia mà. Khốn nạn là sách của ông, cũng như sách của bất cứ ai, phàm
được in bằng tiếng Tây, đều bị đốt tất, không cần phân biệt, trong những đợt
truy quét văn hóa độc hại. Cũng có một số sách may mắn không bị đốt mà chỉ bị
thu, chúng được chất thành đống trong kho Hỏa Lò.
Chính mấy anh bạn
công an đã tha về cho tôi một số sách của ông, và của cả ông Engels nữa, từ khi
tôi còn chưa biết Hỏa Lò là thế nào.
Ông nên lấy làm mừng
đã ra đời ở một thế kỷ khác, ở một nước khác, chứ không phải ở Việt Nam (hay
Trung Quốc, hay Bắc Triều Tiên) trong những năm rồ dại này. Với tư tưởng ngạo
ngược của ông, tôi đoan chắc ông phải ở đâu đây, bên cạnh tôi, trong một xà lim
nào đó.
Xà lim Hỏa Lò làm cho
con người mất trí nhanh hơn xà lim thời ông nhiều, Mác ạ.
Với sự giúp đỡ của
những con chó.
-------------
Chú thích
(1) Mọi người bị bắt
đều bị gọi chung là phạm, gọi tắt phạm nhân.
(2) Làm mẫu cho học
trò học.
(3) Anh ơi anh, tắt
đèn đi ngủ.
(4) Sau khi ra tù tôi
mới được biết các ủy viên Trung ương Ðặng Kim Giang, Lê Liêm, Bùi Công Trừng,
Ung Văn Khiêm và các cán bộ Trung ương Hoàng Minh Chính, Vũ Ðình Huỳnh, Lưu
Ðộng... bị khai trừ cùng một lúc vào tháng 5 năm 1968.
(5) Cezare Lombroso
(1836-1909) bác sĩ thần kinh, giáo sư pháp y ở Turin (Italia). Cùng với Enricco
Ferri (1856-1929), Raffaele Garofalo (1851-1954) sáng lập ra trường phái hình
pháp học nhân chủng, chủ trương nguồn gốc tội phạm nằm trong sự cấu thành con
người về mặt nhân chủng, nói cách khác, những tên tội phạm sống trong xã hội
loài người như một loại hình riêng xét về nhân chủng học.
(6) Emile Durkheim (1858-1917),
nhà xã hội học người Pháp, tác giả Le Suicide (Kẻ Tự Sát) và cùng với Adolf
Prins, tác giả La Défense Sociale et Les Transformations du Droit Pénal (Sự
Phòng Vệ Xã Hội và Những Biến Thể của Luật Hình), được các nhà tội phạm học
châu Âu ngưỡng mộ bởi cách lý giải nguồn gốc tội phạm từ những điều kiện xã
hội.
(7) Kudriavsev, tác
giả cuốn Hình pháp học - Kriminologia), được coi như sách gối đầu giường của
công an các nước xã hội chủ nghĩa, giải thích nguồn gốc tội phạm như hậu quả
của xã hội có giai cấp, nơi ngự trị những quy luật người bóc lột người. ở Việt
Nam tôi không thấy có bản dịch cuốn này, hoặc nó có ở dạng tài liệu nội bộ mà
tôi không biết.
(8)
Staatssicherheitsdienst, Bộ Mật vụ quốc gia của Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Ðức,
tồn tại từ năm 1957 tới năm 1989. Cơ quan này có 85.000 nhân viên và 500.000
chỉ điểm viên. Người lãnh đạo Stasi từ năm 1957 là Erich Mielke, bị tống giam
năm 1989.
(9) Ông to, quan lớn.
(10) Mật thám, cách
gọi thông thường ở miền Nam hồi trước.
Chương 12
Sáng
chủ nhật, khác với thường lệ, tôi bỗng bị gọi đi cung.
Khi Hách mở cửa, tôi
còn ngái ngủ. Ngày thường tù xà lim phải dậy sớm để lúc nào cũng trong tư thế
sẵn sàng đi cung, tuy chuyện đi cung đối với số đông tù xà lim chỉ năm thì mười
họa. Cũng theo quy định, khi quản giáo mở cửa cho tù đi đổ bô, rửa ráy và ăn
sáng thì tù phải ăn vận nếu không tề chỉnh thì cũng không được lôi thôi. Cái đó
chứng tỏ sự tôn trọng chính quyền. Tiếng là ăn sáng, là điểm tâm cho oai, chứ
cái suất ăn sáng ở đây chỉ điểm vào cái tâm mình một cái khe khẽ gọi là có. Một
khúc sắn ôi, ba củ khoai hà - bữa lót dạ cho tù là thế.
Chủ nhật tù không có
tiêu chuẩn ăn sáng, quản giáo vào xà lim chậm, cho nên tha hồ dậy muộn. Cứ
tưởng trong xà lim ngày nào cũng như ngày nào, hóa ra không phải. Người tù xà
lim cũng như người ở ngoài kia, cũng ngong ngóng mong chủ nhật như thường,
không phải vì nó là ngày nghỉ, mà vì nó là cái mốc thời gian. Mỗi chủ nhật qua
đi là anh ta tiến gần thêm cái đích trở về ở chân trời xa tít. Còn có một nét
tâm lý này nữa: được một ngày khác với ngày thường, dù sao cũng vẫn là ngày
không bị dựng dậy đi cung, người tù có thể nằm ườn đến tận trưa, cái đó làm cho
anh ta thấy mình giống với người ở bên ngoài.
Trong Hỏa Lò hiếm khi
tù đi cung vào chủ nhật. Trường hợp đi cung chủ nhật chỉ xảy ra với những can
phạm vừa mới bị bắt, mà phải là can phạm trọng án kia, chấp pháp cần lấy cung
gấp kia, chứ can phạm thường thì có thể yên tâm ngủ kỹ. Chủ nhật mọi người đều
nghỉ, cả kẻ bắt tù lẫn kẻ ở tù. Không hiểu Huỳnh Ngự giở giói bắt tội tôi phải
thức dậy khi chưa đẫy giấc làm gì? Y chưa chán đấu khẩu với tôi sao?
Tính ra đã bốn tuần
lễ trôi qua kể từ hôm tôi bị bắt. Ðúng là thời gian thấm thoắt thoi đưa! Ấy là
nhờ Thành thông báo tôi mới biết chứ tôi chẳng nhớ gì hết. Tôi đã nhất định
không tính đếm là không tính đếm. Ðếm những ngày ngồi tù làm gì kia chứ? Ðể vận
công thức nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại ra mà so mình với ông Bành Tổ
chăng? Chao ôi, khi nghĩ tới thời gian thì cái thời gian xà lim nó dài lắm,
chẳng có cái thời gian nào dài bằng nó! Tốt nhất là quên đi, quên ngày quên
tháng, quên mẹ quên cha, quên con quên vợ, quên nhiều thứ khác nữa, quên tuốt.
Như thế mới chịu đựng nổi, mới không phát điên, mới không xé quần áo chăn màn
ra mà bện lấy một sợi thừng treo cổ. Chỗ để treo thì bao giờ cũng có, ở đâu
cũng có, mặc dầu thoạt nhìn thì cái xà lim trống trơn có vẻ như chẳng có chỗ
nào để mà treo. Thành kể có người tù buộc dây ngay vào cái song sắt bé tí tẹo
nơi cửa kiểm tra (le judas) mà treo. Thế mà chết đấy! Nhưng phải rất quyết tâm
kia, phải rất có gan kia : le judas chỉ cao ngang mặt một người tầm thước.
Tôi hình dung mình
treo ở cái song sắt đó, đầu ngoẹo về một bên. Không, mình sẽ không chọn cái
chết như thế. Trông chẳng ra làm sao cả!
Thỉnh thoảng, như để
động viên tôi, Thành lại ngâm nga hai câu thơ chẳng rõ của anh hay của ai:
Còn trời còn đất còn non nước,
Có lẽ ta đâu mãi thế này !
Hách chăm chú quan
sát tôi mặc thêm áo bông, đi giày. Tôi cảm thấy cái nhìn của y lướt trên thân
mình, như thể cái nhìn của y có sức nặng. Hách có cái nhìn vô tình, nhìn người
mà như thể nhìn vào khoảng không hoặc nhìn đồ vật. Dưới cái nhìn như thế người
tù thấy mình thuộc về cái phần nhân loại bỏ đi theo cách phân loại nazi (1),
không đáng được sống mà đáng quẳng vào lò thiêu. Hách chẳng thương xót cũng
chẳng ghét bỏ. Y ở trên cao, dửng dưng ngó xuống.
Cũng có khi tôi tưởng
tượng ra điều không có, tôi suy diễn, chứ trong khi đi cùng y ra phòng hỏi cung
Hách cư xử với tôi cũng chẳng đến nỗi nào. Ngắm cái đầu bù xù của tôi một lát,
y nói bằng giọng khá thân tình :
- Tóc anh tốt rồi
đấy! Chiều rỗi, tôi cắt cho.
Huỳnh Ngự đón tôi
trong chiếc áo bông khoác ngoài bộ dạ đen kiểu Tôn Trung-sơn thường lệ. Trời
lạnh cắt da. Ngồi trong phòng đóng kín cửa mà tôi vẫn còn thấy cái run từ trong
ruột.
Trong tù không có
gương. Chẳng biết mình già, trẻ? Thành vẫn thường ngâm nga câu ấy. Nhìn cổ tay
tôi biết mình gày đi nhiều. Còn già đi bao nhiêu thì không biết. Trong Hỏa Lò
tôi chưa bao giờ gặp một cái gương. Tôi mới ba mươi tư tuổi. Nỗi lo sợ cái già
chưa làm phiền tôi.
Bên ấm trà, Huỳnh Ngự
tào lao với tôi một lúc lâu. Qua câu chuyện lấp lửng, đầy những câu úp mở của
y, tưởng chừng lấp ló đâu đây, ngay sau lưng y một tương lai nếu chưa sán lạn
thì cũng rất dễ chịu - chẳng còn bao lâu nữa chúng tôi sẽ được trở về với gia
đình. Rồi đây Ðảng vô cùng anh minh và rất mực nhân từ (2) sẽ bố trí cho chúng
tôi mỗi người một công tác thích hợp và một vị trí xứng đáng.
Tôi im lặng nhấp từng
ngụm trà đặc, lơ đãng nghe y ba hoa.
Nghe y tán như khướu
tôi lại nhớ tới câu nói “nghe Việt Minh nói kiến trong lỗ cũng phải bò ra” mà
bật cười. Thế mà hồi trước nghe ai nói thế tôi giận lắm đấy. Tôi cũng là Việt
Minh mà. Về sau này, khoảng 1954 trở đi, dần dà thiên hạ biết sợ, không còn ai
dám nói cái giọng châm chọc ấy ra nữa.
Một người đàn ông
đứng tuổi bước vào, lẳng lặng ngồi xuống ghế bên cạnh Huỳnh Ngự. Người đàn ông
có gương mặt xương xương này dường như tôi đã gặp ở đâu đó nhưng tôi không nhớ
ra.
Chỉ thấy Huỳnh Ngự có
vẻ kính nể anh ta, định ngừng lời để chào hỏi, nhưng anh ta phẩy tay ra hiệu cứ
tiếp tục. Về sau mới biết là một nhân vật quan trọng - cục trưởng Cục bảo vệ
Ðảng Nguyễn Trung Thành.
Ðang thao thao bất
tuyệt, bỗng Huỳnh Ngự sực nhớ ra điều gì, y lục lọi trong các túi rồi rút ra
một mảnh giấy :
- Nè, anh nhận ra nét
chữ ai đây không ?
Y vui vẻ khoắng
khoắng mảnh giấy trước mặt tôi.
Tôi nhận ra ngay nét
chữ của cha tôi, mặc dầu khoảng cách khá xa. Cha tôi thuộc thế hệ nho học cuối
cùng, bỏ chữ nho đi học chữ quốc ngữ. Vào thời ông còn trai trẻ, và rất lâu sau
đó, người ta đặc biệt chú trọng chữ viết - học trò phải tập viết nắn nót cho
đến khi đạt được cách viết chữ đẹp như chữ mẫu trong sách giáo khoa. Trong học
đường giờ viết tập được coi trọng không kém gì các môn học khác. Không hiểu
thực dân Pháp cần đào tạo lớp thư lại mẫu mực cho chính quyền thuộc địa hoặc
giả nền giáo dục thời trước thích bề ngoài hào nhoáng, nhưng thế hệ cha tôi đã
được rèn cặp để viết chữ rất đẹp. Thế hệ tôi viết tồi hơn nhiều. Thế hệ sau tôi
còn tồi hơn nữa.
Tôi vờ nheo mắt, chăm
chú. Rồi lắc đầu :
- Không, tôi không
nhận ra.
Huỳnh Ngự đưa mảnh
giấy lại gần thêm chút nữa :
- Nhận ra chưa nào?
Tôi vẫn lắc đầu.
- Mắt anh kém đến thế
kia à?
- Cũng không đến nỗi
kém lắm.
- Vậy mà anh không
nhận ra đó.
Y thú vị với trò trẻ
con của y.
- Chừ nhận ra chưa?
Màn kịch hôm ấy về
sau hóa ra có lợi. Tưởng tôi cận thị nhẹ không chịu mang kính, Huỳnh Ngự thường
hớ hênh để những bản cung trên bàn không che đậy, trong tầm mắt tôi. Nhờ đó tôi
biết ai mới bị bắt, ai đã yếu lòng.
- Nè, thư ông già anh
gởi cho anh đó! - Huỳnh Ngự đặt mảnh giấy xuống trước mặt tôi, ôn tồn - Ðọc đi.
Tui qua bển một lát.
Y đứng lên cùng với
cục trưởng Cục bảo vệ Ðảng. Hai người đi ra ngoài.
Thư cha tôi viết :
“Con của bố,
Bố mấy hôm nay trong
người yếu lắm. Bố rất lo lắng cho mẹ và các con ở nhà. Mẹ và các con cứ yên tâm
về bố, ở đây bố có đủ thuốc men và được chăm sóc chu đáo. Ðảng bắt bố là việc
vạn bất dắc dĩ, Ðảng buộc lòng phải làm như vậy vì bố có tội với Ðảng. Là đảng
viên hoạt động cách mạng lâu năm, nhưng bố có khuyết điểm chỉ nhìn thấy những
điều bất đồng chứ không nhìn thấy cái chung lớn lao, do thiếu ý thức tổ chức mà
phạm vào những sai lầm nghiêm trọng có phương hại cho Ðảng. Bố mong con nghe
lời bố thật thà báo cáo hết với Ðảng những sai lầm khuyết điểm của mình trong
bước ngoặt này của cách mạng. Phương châm của Ðảng là trị bệnh cứu người, chứ
với cán bộ cách mạng Ðảng không có mục đích trừng trị. Bố”.
Tôi nghiến ngấu đọc
bức thư không chờ đợi.
Cảm giác duy nhất của
tôi lúc ấy, khi đọc xong, tôi nhớ rất rõ, là xấu hổ, xấu hổ vô cùng.
Mặt tôi nóng bừng. Mồ
hôi vã ra. Ðúng như người ta thường nói, tôi muốn có một lỗ nẻ để chui xuống
đất.
Nguyên nhân nào đã
khiến cha tôi viết cho tôi một bức thư như thế? Chao ôi, đó là cái gì nếu không
phải là sự đầu hàng nhục nhã. Trong khi chúng tôi vô tội. Trong khi chúng tôi
đang cắn răng lại để được ngẩng cao đầu. Trong khi chúng tôi đang đòi bọn độc
tài phải trả lời trước công luận.
Bức thư của ông đặt
vào tay chúng bằng chứng nhận tội. Một bức thư không có lợi gì cho chúng tôi.
Tôi như nhìn thấy bộ mặt Huỳnh Ngự nhăn nhở trong tiếng cười khoái trá.
Những dòng chữ thân
thương của cha tôi quay cuồng trước mắt.
Trời hỡi, cha tôi, mà
tôi quen nhìn như một anh hùng, lại hèn nhát đến thế ư?
Trong phút ấy, lạy
Trời, tôi là đứa con bất hiếu! Tôi chỉ muốn cha tôi chết đi, nhưng hãy chết như
một anh hùng! Tôi không muốn ông sống hèn hạ như thế này! Chết đứng còn hơn
sống quỳ, chẳng phải chính ông đã dạy tôi như vậy sao?
Chúng tôi, những đứa
con của ông, chúng tôi đã yêu ông biết mấy, đã kính trọng ông biết mấy!
Ý nghĩ đầu tiên đến
với tôi là tôi sẽ đứng vững đến cùng. Cha tôi có thể đầu hàng, nhưng tôi thì
không(3)!
Trong phút ấy tôi sợ
nhất phải gặp Huỳnh Ngự để y nhìn thấy sắc mặt tôi biến đổi. Y có thể quay về
bất cứ lúc nào. Cái rét run biến đâu mất. Mồ hôi toát ra. Tôi chưa đầu hàng.
Vậy mà cha tôi đã kéo cờ trắng thay cho tôi. Tôi sẽ chẳng dám nhìn thẳng vào
mặt Huỳnh Ngự như trước. Nước mắt tôi trào ra.
Tôi cứ ngồi bất động,
đọc đi đọc lại bức thư, trong lòng tê tái. Tôi quên hẳn anh chàng công an phụ
tá của Huỳnh Ngự vẫn ngồi lặng lẽ trong một góc, một người thấp bé, trán hói,
gương mặt hiền lành, giống một thầy giáo làng.
Cục 2 (4), người ta
kể, có những tay tổ trong nghề giả mạo chữ viết trong bộ phận chuyên làm giả
giấy tờ cho các điệp viên. Chưa từng có điệp viên nào bị lộ vì sử dụng giấy tờ
của họ. Sau khi hòa bình lập lại (1954) Nha Công an Việt Nam đổi thành Thứ bộ
Công an rồi Bộ Công an, Cục 2 đã chuyển cho Cục Tình báo của bộ này một số
chuyên gia của nó.
Bức thư có thể là của
giả chăng ?
Ðáng buồn cho tôi,
càng đọc kỹ, càng xem kỹ, tôi càng tin rằng công an không làm giả bức thư.
Chính là nét chữ của
cha tôi.
Nhưng tôi cũng không
tin cha tôi hèn nhát. Ông không phải người như thế. Cần bình tĩnh tìm bên trong
bức thư quá khiêm nhường này những lời nhắn nhủ khác.
Trước ngày bị bắt,
công an có chuyển đến cho tôi một bức thư cũng của cha tôi, trong đó ông khuyên
tôi đến Ban tổ chức Trung ương để báo cáo về những khuyết điểm của mình. Tôi
không tin đó là cha tôi viết. Tôi cũng không đến Ban tổ chức Trung ương. Không
dại gì đi nhận những cái tội không có, để Lê Ðức Thọ sử dụng nó vào việc hại
người.
Liệu cha tôi có biết
tôi bị bắt không? Căn cứ lời lẽ trong thư, tất nhiên không rõ ràng, thì nhiều
phần là không, ông chưa biết tôi bị bắt. Thì đây, nếu biết tôi bị bắt ông đã
không viết “bố rất lo lắng cho mẹ và các con”. Như vậy là ông viết trong hoàn
cảnh muốn bảo vệ vợ con trước sự đe dọa của những kẻ nắm quyền. Cha tôi muốn
cứu tôi. Ông sợ nếu tôi cũng bị bắt nốt thì một mình mẹ tôi sẽ khó bề xoay xỏa.
Tại sao bức thư lại
bị cắt ngắn ở phía dưới. Phải chăng người ta đã cắt đi dòng đề ngày tháng?
Hoặc ở đó có dòng tái
bút không vừa ý kẻ kiểm duyệt?
Tại sao ông lại viết
: “Bố rất lo lắng cho mẹ và các con”? Cái gì làm ông phải lo lắng ? Ông lo ông
bị bắt, không có lương của ông thì mẹ tôi không nuôi nổi con cái chăng ? Ðành
rằng Ðảng đã xích chặt cán bộ với mình bằng đồng lương - cán bộ đã quen sống
bao cấp đến nỗi anh ta không thể sống nổi nếu như anh ta bị cắt lìa khỏi cái vú
Nhà nước. Mẹ tôi là người tháo vát. Bà có thể ra đường với một gánh hàng rong
chứ không chịu vì mình mà chồng phải khuất phục cường quyền. Ông rất hiểu điều
đó. Chưa bao giờ tôi thấy ông viết một câu tương tự trong những bức thư gửi cho
mẹ tôi. Mẹ tôi đã cho ông thấy không phải một lần rằng bà biết tự mình chèo
chống khi vắng ông. Mà ông thường xuyên vắng nhà trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của hai người.
Ghép những câu đùa
bỡn của bạn bè cha mẹ tôi với những câu chuyện mẹ kể về thời trẻ của hai ông
bà, tôi mường tượng ra mối tình của hai người. Nó bắt đầu từ cuộc gặp gỡ giữa
hai tổ chức yêu nước để bàn việc hợp nhất. Tổ chức của mẹ tôi gồm một nhóm nữ
sinh tự động kết hợp với nhau mà thành (5). Trong sách sử người ta ghi lại tình
hình này bằng câu: các tổ chức cách mạng mọc lên như nấm. Trong thời kỳ này mẹ
tôi, một nữ sinh, đã cùng các bạn học tổ chức cuộc bãi khóa bảo vệ Phạm Tất Ðắc
(6), tác giả bài thơ nổi tiếng Chiêu Hồn Nước.
Thành lập năm 1925,
Thanh niên Cách mạng Ðồng chí hội hồi bấy giờ đã là một tổ chức vững chắc, có
uy tín trong dân chúng. Cha tôi đại diện cho tổ chức này đi chắp nối với các tổ
chức yêu nước khác, kêu gọi hợp nhất để tăng thêm sức mạnh. Mối tình của hai
người nẩy nở từ những cuộc gặp gỡ đó (7). Ðó là một mối tình lãng mạn, đầy chất
thơ cộng với lòng yêu nước của những con người bất bình với thân phận nô lệ.
Chúng tôi lần lượt ra
đời. Không thể nào cả hai ông bà cùng đi hoạt động để không còn ai trông nom
dạy dỗ con cái. Trong hai người phải có một người ở nhà làm việc đó. Người phải
ở nhà tất nhiên là mẹ tôi. Bà vừa trông con, vừa làm các công tác thích hợp
được Ðảng giao phó - lo toan kinh tế cho đoàn thể, giữ liên lạc với các đồng
chí. Các ông Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Trần Huy Liệu,
Trần Ðình Long, Xuân Thủy, Nguyễn Duy Trinh, Lê Quang Ðạo, Văn Tiến Dũng, Lê
Thanh Nghị, Trần Ðăng Ninh, Khuất Duy Tiến, Ðặng Châu Tuệ, Ðặng Kim Giang, Bùi
Lâm, Ðặng Việt Châu... đều đã qua lại cơ sở được đảm bảo chắc chắn này của cách
mạng.
Vậy thì lần này, lần
kế tiếp của những sóng gió xảy ra trong cuộc đời đôi vợ chồng cách mạng, cái gì
đã làm cho cha tôi lo lắng đến như thế ?
Tôi suy nghĩ rất
lung.
Cuối cùng rồi tôi
cũng nhận ra những lời đích thực mà cha tôi muốn nhắn nhủ, đặt những dòng viết
vào trong văn cảnh thời hiện tại : “bố lo bọn chúng sẽ không từ một thủ đoạn
khủng bố nào để đàn áp những người dám cưỡng lại ý chúng…”
Chính mẹ tôi cũng đã
căn dặn chúng tôi :
- Xem ra chuyện này
không đơn giản đâu, các con ạ. Nó không phải chuyện địch dựng vụ để ta tàn sát
lẫn nhau như đã từng xảy ra (8). Có điều chính quyền ngày nay không phải của ta
nữa rồi. Bọn lợi dụng thành quả cách mạng chỉ chưa xưng vương được mà thôi.
Chúng đã leo được lên đầu lên cổ nhân dân, chúng sẽ không dừng lại. Phải biết
giả câm giả điếc mà sống qua giai đoạn này. Nếu chúng nó bắt mẹ thì Hiên trông
các em. Nếu Hiên cũng bị bắt thì đến Phương... Cứ thế mà trông nom nhau.
Bà đưa chúng tôi vào
Hà Ðông để thăm bác Ðinh Chương Dương.
Bác Ðinh là người đưa
cha tôi vào đường cách mạng, cho nên cha tôi coi bác như nghĩa huynh. Hai người
gặp nhau khi cha tôi còn là một học sinh 15 tuổi, tại thị xã Tuyên Quang. Ông
Vũ Ðình Linh, anh cả của cha tôi, hồi ấy làm công chức cho Pháp trên cái tỉnh
mạn ngược này.
Những người tù chính
trị làm cỏ-vê (9) ở núi Cố đã giác ngộ lòng yêu nước cho cha tôi, trong đó bác
Ðinh gần gụi với cha tôi hơn cả. Cha tôi đã nhịn quà sáng, xin thêm tiền chị
dâu để sắm quần áo cho cuộc vượt ngục của bác Ðinh và một số đồng chí. Sau đó,
mất liên lạc với bác Ðinh, cha tôi tự viết truyền đơn, tự tay đi rải ở thị xã
Thái Bình và bị bắt lần đầu.
“Huỳnh ơi! Huỳnh ơi!
Huỳnh ơi!”, nghe tin dữ bác Ðinh đang nằm liệt đập tay xuống giường kêu lên ba
lần, khóc nức nở. Nhìn người già lăn lộn khóc lóc, lòng tôi đau quặn. Mẹ tôi
nói với bác Ðinh: “Em cũng có thể bị chúng nó bắt, bởi vì em cũng biết nhiều
điều bí mật chồng em biết. Nếu em bị bắt thì cháu Hiên sẽ thay mặt vợ chồng em
vào thăm bác, cháu Hiên bị còn cháu Phương, còn lại một đứa nào trong mười đứa
con em thì còn có đứa vào đây thăm bác”. Rồi mẹ tôi nghẹn ngào, nụ cười méo
xệch: “Ðẻ nhiều đâm ra những lúc như thế này lại có lợi, bác ạ !”. Bác Ðinh hỏi
tôi: “Cháu có nhớ chuyện “giật giải mũ” (10) không?”. Tôi thưa có. Bác nói: “Người
xưa còn thế được, người nay mà thế a ?!”.
Mẹ tôi ít đọc sách,
nhưng trái tim trong sáng luôn mách bảo bà, giúp bà nhìn thấu bản chất sự việc.
Tại sao tôi lại không nghĩ ra nhỉ ? Phải chăng trong góc sâu kín nào của tâm
hồn tôi vẫn còn ngờ có những điều cha tôi giấu tôi. Phải chăng vì ông giao du
với những người mưu toan cướp chính quyền nên lãnh đạo Ðảng mới bắt ông? Nhiều
người ngây thơ cũng đã nghĩ như tôi, sau này ra tù rồi tôi mới được biết. Chúng
tôi tin Ðảng, như bây giờ người ta nói, hơi bị nhiều.
Dưới thời Sta-lin
không ít người cộng sản vô tội bị hãm hại, giờ ai cũng biết. Ðiều ít ai biết là
những người này, sau một thời gian được xử lý tại các xà lim, đã nhận những tội
họ không hề phạm, đã nói những lời ăn năn, hối lỗi. Những nhà nghiên cứu đã tìm
hiểu hiện tượng này và họ thống nhất trong nhận định: nguyên nhân của sự đầu hàng
chóng vánh là bộ máy đàn áp hứa hẹn chắc chắn sẽ thanh toán cả gia đình họ nếu
họ không chịu nhận tội. Trong nỗi tuyệt vọng trước viễn cảnh đen tối những
người bị trấn áp chỉ còn một con đường duy nhất: làm ra vẻ khuất phục để ít
nhất cũng cứu được vợ con (11).
Huỳnh Ngự nhắc khéo
tôi :
- Hôm rồi vợ anh dắt
các cháu tới đây xin cho các cháu gặp ba! Các cháu xinh xắn hỉ? Chị khóc, các
cháu khóc, chúng nó nhớ ba, trông mà ái ngại. Anh phải nghĩ tới vợ con anh chớ.
Ai cho vợ một tên chống Ðảng ở trong biên chế Nhà nước? Mất việc rồi lấy chi
nuôi con? Rồi đây con cái anh sẽ ra sao? Chúng nó sẽ đứng đường một khi anh vẫn
ngoan cố, vẫn không chịu hối cải để được Ðảng khoan thứ (12). Ðừng sợ Ðảng
trừng trị mà giấu giếm tội lỗi. Hãy lo mình chưa tận trung. Ðảng bao giờ cũng
giơ cao đánh sẽ...
Một hôm khác y dụ dỗ
:
- Này, anh phải cố
gắng lên chứ. Anh Sáu nói ảnh sẽ bố trí thời gian cho anh được gặp đấy. Nhưng
anh phải thế nào chứ cứ thế này thì ảnh chẳng cho gặp đâu. Ðược gặp anh Sáu anh
cứ xin ảnh, biết đâu ảnh chẳng thương tình mà cho về...
- Tôi không hiểu cố
gắng nghĩa là thế nào.
- Còn nghĩa là thế
nào nữa! Là phải thành khẩn khai báo, phải nhận mọi tội lỗi với Ðảng, thì Ðảng
sẽ khoan hồng.
Cha tôi nói ông “có
tội với Ðảng... thiếu ý thức tổ chức, do đó phạm những sai lầm nghiêm trọng có
phương hại cho Ðảng”. Những sai lầm nghiêm trọng nào? Ông nhận tội gì kia chứ?
Ông nhận ông thiếu ý thức tổ chức, nhưng ý thức tổ chức là cái gì khi chính cái
tổ chức không còn là tổ chức của ông?
Thời gian cuối trước
khi hai cha con bị bắt, do thường xuyên công tác xa nhà tôi ít có dịp gần cha
tôi. Qua những buổi tâm sự rời rạc tôi hiểu cha tôi cuối cùng đã giác ngộ được
điều mà người ngoài Ðảng đã biết từ lâu: Ðảng không còn là đảng trước kia nữa.
Tôi không tin ông
chống Ðảng theo quan niệm thông thường. Do tính cố chấp nhà nho, lòng ông bất
nhẫn khi phải chống lại tổ chức mà trước kia ông từng là thành viên.
Hay ông bị người khác
lôi cuốn vào những việc làm chống Ðảng mà chính ông không biết? Có thể người ta
lợi dụng ông, người ta cần đến những nhà cách mạng lão thành như cần một ngọn
cờ? Chuyện đó cũng không thể có. Ông không đến nỗi ngây thơ để bị lợi dụng. Ông
cũng chưa lú lẫn. Trong ông niềm tin ở Ðảng chưa tắt. Ông vẫn hi vọng Ðảng sẽ
thay đổi. Không thể nào một Ðảng đã kiên cường đấu tranh cho độc lập dân tộc
như thế lại không hiểu được rằng nền độc lập sẽ không thể là độc lập khi lệ
thuộc ngoại bang, rằng tự do không thể là tự do nếu không có tự do tư tưởng.
Vậy thì mâu thuẫn gây
ra cuộc trấn áp tàn bạo chỉ nằm trong sự không đồng nhất của những quan điểm về
chủ nghĩa cộng sản chăng?
Khi Lê Ðức Thọ xưng “Ðảng
là tao!”, khi Lê Duẩn tuyên bố “Kẻ nào không theo ta, kẻ đó chống ta”, thì bất
cứ ai nghĩ khác họ trong bất cứ lĩnh vực nào cũng là kẻ chống Ðảng. Và kẻ chống
Ðảng phải bị trấn áp.
Nhờ ảnh hưởng văn hóa
phương Tây, ảnh hưởng tinh thần tự do của Ðại Cách mạng Pháp, cha tôi không
sùng bái cá nhân. Tuy nhiều năm làm việc với ông Hồ, cha tôi chỉ kính trọng ông
như kính trọng một nhà cách mạng kiên cường, một nhà lãnh đạo tài ba, nhưng
không bao giờ mù quáng sùng phục ông Hồ. Với cha tôi, không có thánh nhân trong
các đồng chí. Mỗi người cộng sản lãnh một chức trách để thực hiện mục đích của
cách mạng. Vị trí anh ta ở đó, giá trị anh ta cũng ở đó. Ông khinh bỉ thói luồn
cúi.
Cũng không phải ông
Hồ Chí Minh khó chịu với cha tôi mà cho Lê Ðức Thọ bắt ông. Giữa hai người quả
đã có những mâu thuẫn về quan điểm đối với vấn đề ruộng đất, trong thái độ đối
xử với trí thức, với những nhà tư sản và địa chủ yêu nước. Lê Ðức Thọ, và rất
có thể cả Lê Duẩn, chắc phải xúc xiểm nhiều lắm, bịa đặt nhiều lắm mới làm cho
ông Hồ bằng lòng bỏ tù một loạt cán bộ có công với cách mạng.
Cha tôi khẳng định
người chịu trách nhiệm chính trong sự gây ra những sai lầm trong Cải cách ruộng
đất là ông Hồ Chí Minh chứ không phải Trường Chinh, như đã có sự ngộ nhận kéo
dài nhiều năm. Trường Chinh là con dê tế thần cho sai lầm của ông Hồ.
Nhưng, lại cũng công
bằng mà nói, ông Hồ không hề có ý định làm Cải cách ruộng đất trong kháng chiến
chống Pháp. Ông không muốn khuấy động sự ổn định của chính quyền cách mạng
trong lúc trước mặt là kẻ thù xâm lược. Ông đã buộc phải làm Cải cách ruộng đất
khi bị Mao nhắc nhở. Trong quyết định này khía cạnh tâm lý có tầm quan trọng
lớn: ông Hồ không muốn bị vu vạ thêm một lần như ông đã từng bị vu vạ rằng ông
là người không có lập trường cách mạng kiên quyết.
Như vậy, Cải cách
ruộng đất được quyết định trong hoàn cảnh có sự thúc ép mạnh mẽ từ bên ngoài.
Nó bắt đầu vào những năm 1953-1954, khi tình hình các chiến trường, tình hình
trong nước và thế giới trở nên đặc biệt thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống
Pháp, làm cho ông Hồ có cảm giác chiến thắng cuối cùng đã gần kề.
Những nhân vật kế cận
ông Hồ như Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Hoàng Văn Hoan (13), Lê Văn Lương,
Hoàng Quốc Việt... vốn là những mao-ít nòi. Họ vừa thúc bách ông, vừa hùn vào
quyết định còn đang lung lay của ông. Tuy nhiên, đối với ông Hồ Chí Minh họ lúc
nào cũng giữ tư cách những học trò khiêm tốn. Bên cạnh ngôi sao sáng Hồ Chí
Minh, tổng bí thư Trường Chinh không có vai trò lớn như nhiều người lầm tưởng.
Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Võ Nguyên Giáp không bao giờ dám, và cũng không
bao giờ được phép tự mình quyết định những chủ trương lớn.
Vào giai đoạn cuối
cuộc kháng chiến chống Pháp, khi ở vùng tự do Thanh Hóa, Nghệ An thuộc Liên khu
4 cán bộ giảm tô giảm tức kích động nông dân hành hạ dã man những địa chủ, nói
cho đúng là những nông dân giàu có, cha tôi tức tốc lên Việt Bắc báo cáo tình
hình xảy ra với chủ tịch. Ông Hồ hốt hoảng hạ lệnh đình chỉ tức khắc cuộc giảm
tô giảm tức cường đạo và gửi thư xin lỗi đồng bào.
Ông đã nghe cha tôi
vào thời kỳ ấy, nhưng đến Cải cách ruộng đất thì ông không nghe nữa. Lúc ấy ông
đã bị các cố vấn Trung Quốc và những lý thuyết gia mao-ít nội hóa thuyết phục.
Ông nghe làm sao được khi trên báo Nhân dân ngày nào cũng tràn ngập tin tức về
những thắng lợi rực rỡ của cuộc cách mạng long trời lở đất.
Câu chuyện về Hồ Chí
Minh trong thâm tâm chống lại chủ trương Cải cách ruộng đất, bực bội vì nó mở
màn bằng việc bắn một người đàn bà, như một số người muốn bào chữa cho ông là
chuyện tầm phào.
Một lệnh ông Hồ ban
ra không chỉ cứu một bà Nguyễn Thị Năm (14), nó còn cứu hàng ngàn người bị giết
oan trong cả Cải cách ruộng đất lẫn Chỉnh đốn tổ chức do Lê Văn Lương song song
tiến hành. Ông Hồ đã không cứu bà Năm. Ông không cứu ai cho tới khi những sai
lầm tích tụ lại thành cái nhọt bọc. Lúc cái nhọt bọc vỡ ra ông mới tỉnh cơn mê.
Nhưng đã muộn.
Trong những ngày u ám
đó cha tôi được cử làm bí thư Ðoàn ủy một đoàn Cải cách ruộng đất. Là người có
kinh nghiệm vận động quần chúng, ông thấy Cải cách ruộng đất đang mắc sai lầm.
Nó đi chệch mục tiêu “người cày có ruộng”, biến thành một cuộc tàn sát chỉ để
tàn sát, một dịch cuồng amok(15) của châu Á. Trong cuộc đời cách mạng của ông,
ông đi nhiều, tiếp xúc nhiều, ông hiểu đất nước ông, ông hiểu đồng bào ông. Ông
không tin kết luận của các thầy Tàu nói phàm nông dân giàu có đều là địa chủ
chống cách mạng, chống kháng chiến. Ông tin ở lòng yêu nước của đồng bào. Chính những nông dân giàu có,
những địa chủ nhỏ, theo ông, là những người sớm giác ngộ cách mạng do ý thức
được phải tự giải phóng khỏi thân phận nô lệ hơn lớp bần cố nông do quá nghèo
đói và mù chữ không có điều kiện tiếp xúc với trí tuệ cách mạng. Những
nông dân giàu đã có công lớn trong việc nuôi cán bộ, bộ đội trong những ngày
đầu kháng chiến, khi chính quyền cách mạng còn trứng nước. Không phải sự nghèo khổ làm cho
người ta có ý thức cách mạng. Trong chuyện này người ta quên hẳn lời những nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác “Ý thức cao nhất của công nhân chỉ là ý thức công
đoàn”.
Sự tráo trở được dựng
thành lý thuyết: những nhà giàu mà người ta gọi bằng các nhà hằng tâm hằng sản
khi cần đến sự giúp đỡ của họ chỉ là đồng minh giai đoạn, gọi theo đúng chữ
dùng trong các tài liệu học tập cho cán bộ. Giờ đây, khi cách mạng đã qua cái
giai đoạn cần họ thì họ bị coi như kẻ thù.
Lại một lần nữa, cha
tôi bỏ công việc về Hà Nội gặp ông Hồ Chí Minh. Ðang trong cơn đau gan nặng,
ông chống gậy lên Chủ tịch phủ. Ông nói lớn với ông Hồ: “Máu đồng bào, đồng chí
đã đổ mà Bác còn ngồi yên được à? Chúng ta tuy không có học, chúng ta dốt,
chúng ta phải vừa làm vừa học xây dựng chính quyền, vì dốt nát chúng ta mắc mọi
sai lầm, nhưng chúng ta không có quyền để tay chúng ta nhuốm máu đồng bào, đồng
chí!(16)”
Sau sai lầm Cải cách
ruộng đất, ông Hồ và những người phụ tá luôn bị ám ảnh rằng mọi người đều lên
án họ. Do đó ai nói đụng tới Cải cách ruộng đất cũng đều làm cho họ khó chịu.
Trường Chinh ngay trong Cải cách ruộng đất đã phàn nàn rằng cha tôi giờ bất mãn
với Ðảng, trở thành cái loa cho bọn tư sản, địa chủ.
Mà cha tôi bất mãn
thật. Ông bất mãn về nhiều việc làm của Ðảng mà ông cho là không quân tử, không
đạo đức. Ông bất mãn vì nhìn thấy cuộc cách mạng mà ông tham gia cuối cùng đã
dựng nên một xã hội không tử tế.
Ông không bằng lòng
cách Ðảng giải quyết vụ Nhân văn-Giai phẩm, trấn áp và hạ nhục nhiều trí thức
và văn nghệ sĩ, là những người có tâm huyết với đất nước. Ông buồn rầu nói với
các bạn:
“đối xử với nhân sĩ,
trí thức như thế không phản động họ cũng thành phản động”.
Cha tôi thương Nguyễn
Hữu Ðang, đồng chí của ông từ thời kỳ hoạt động bí mật. Khi ở Liên Xô về, tôi
hỏi ông về vụ Nhân văn - Giai phẩm thì cha tôi nói: “Ðó là một vụ bày đặt.
Nguyễn Hữu Ðang đâu có ý định chống Ðảng. Anh ta chỉ muốn cách mạng tốt hơn. Vu
oan giá họa cho người ta là không quân tử”.
Ông Ðặng Kim Giang có
mặt hôm đó nói: “Ðang cũng có khuyết điểm, lúc Ðảng gặp khó khăn làm tình hình
đã rối rắm rồi lại càng rối rắm thêm, thì không nên. Nhưng cách Ðảng giải quyết
vụ này cũng rất tồi”.
Ông kính trọng sĩ khí
của cụ Phan Khôi(17): “Ðó là một nhà nho đúng nghĩa nhà nho, không biết cúi
đầu. Có thể tranh luận với ông ấy, nhưng dùng lối bịt miệng, vu cáo người ta
thì hèn quá!”
Vào thời kỳ ấy, cả
cha tôi, cả ông Ðặng Kim Giang, và nói chung những người cộng sản thuộc thế hệ
già, chưa thoát khỏi cách suy nghĩ bị trói trong khuôn phép của cái gọi là ý
thức tổ chức. Họ không đồng tình với Ðảng đấy, nhưng họ chỉ biết than thở với
nhau. Nếu thấy hậu quả việc làm của Ðảng không đến nỗi quá tai hại, quá nghiêm
trọng, theo như họ nghĩ, thì họ buồn rầu cho qua, tôn trọng quyết định của lãnh
đạo.
Những chính sách của
Ðảng sau khi Lê Duẩn lên ngôi làm cho cha tôi không bằng lòng ngày một nhiều
thêm. Mỗi ngày ông xa Ðảng thêm một chút.
Cha tôi không bằng
lòng việc đẩy nhân sĩ trí thức ra ngoài bộ máy Nhà nước để thay vào đó những
đảng viên bất tài, kém học. Ông cảm thấy ông có lỗi với những người trước kia
ông vật nài, lôi kéo họ tham gia chính phủ lâm thời năm 1945-1946, như các ông
Nguyễn Văn Tố, Bùi Bằng Ðoàn, Phan Kế Toại, Hoàng Minh Giám, Ðặng Phúc Thông,
Nghiêm Xuân Yêm, Nguyễn Văn Huyên, Hồ Ðắc Di, Trần Ðăng Khoa, Vũ Ðình Tụng (18)...
Chế độ đảng trị càng vững chắc thì quyền dân chủ của nhân dân càng mỏng manh,
càng bị cắt xén.
Cha tôi cũng không
đồng tình với đường lối lấy chiến tranh làm phương sách duy nhất để thống nhất
đất nước. Ông cho rằng từ giữa thập niên 50 tình hình thế giới đã có những tiền
đề thuận lợi cho việc giải quyết các cuộc tranh chấp mà không cần tới bạo lực.
Cuộc chiến tranh nồi da nấu thịt giữa hai miền Nam Bắc đem đến đau khổ cho mọi
nhà. Cần phải tích cực tìm kiếm giải pháp hòa bình, chứ không loại trừ nó ngay
từ đầu. Không tìm là sai lầm. Tìm mà không được là chuyện khác.
Nhân chuyện thống
nhất đất nước, tôi xin nói tới một mẩu lịch sử ít người biết. Sau khi Cách mạng
Tháng Tám thành công, ông Ngô Ðình Diệm (19) bị bắt. Tại Hà Nội ông Diệm bị
giam không phải ở Hỏa Lò mà ngay trong Bắc bộ phủ. Theo ông Chu Ðình Xương,
nguyên giám đốc Sở Liêm phóng Hà Nội, thì việc Ngô Ðình Diệm bị giam tại Bắc bộ
phủ là do ông Hồ Chí Minh quyết định. Tại sao ông Hồ lại có quyết định đó thì
ông Chu Ðình Xương không hiểu. Rất có thể do những dây mơ rễ má nào đó giữa gia
đình ông Hồ với các quan lại triều Nguyễn trong quá khứ mà ông Hồ Chí Minh lo cho
số phận của Ngô Ðình Diệm, không muốn để mặc tính mạng con người nổi tiếng
chống Cộng này nằm trong tay những đồng chí nóng tính.
Cha tôi là người giữ
chìa khóa phòng giam. Ðến bữa, cảnh vệ lên lấy chìa khóa, cho Ngô Ðình Diệm ăn
xong thì nộp lại. Một hôm, ông Hồ bảo cha tôi : “Chú Huỳnh ạ, tôi tính nên thả
ông Diệm. Mình làm ân cho người ta tốt hơn là làm oán”. Cha tôi bàn với ông Lê
Giản (20). Hai ông cho rằng để ngăn ngừa những hành động chống cách mạng của
ông Diệm cách tốt nhất là để cho ông ta được hưởng chế độ câu lưu tại Việt Bắc.
Ông ta sẽ sống như dân thường, chỉ bị hạn chế tự do đi lại mà thôi.
Ông Hồ Chí Minh bỏ
ngoài tai ý kiến phản bác, ông đã định thả là ông thả: “Các chú không ở Huế
không biết, chớ dân Huế có câu “Ðầy vua không Khả, đào mả không Bài (21)”, là
nói về cụ thân sinh ông Diệm đấy. Vị người cha thả người con là điều nên làm
lắm chứ. Các chú không nên hẹp hòi!”
Nhiều người nhận xét,
khi ở cương vị tổng thống Việt Nam Cộng hòa ông Ngô Ðình Diệm không bao giờ có
những lời khiếm nhã đối với chủ tịch Hồ Chí Minh. Một trong những nguyên nhân,
theo tôi nghĩ, có thể là do ông Diệm không quên ơn ông Hồ đã tha mạng mình, là
điều không phải khó hiểu.
Cho tới khi cuộc đấu
tranh giữa hai đường lối nổ ra ráo riết thì Hồ Chí Minh rơi vào tình trạng khó
xử. Ông vốn không mấy quyết đoán trong đấu tranh nội bộ. Ông thích cái sự ăn ở
hòa thuận, có gì không nên không phải thì cùng nhau bàn bạc giải quyết, đã là
anh em một nhà thì đóng cửa bảo nhau, không nên chửi bới, lại càng không nên
thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Chính ông, chứ không phải ai khác trong những nhà
lãnh đạo cách mạng, đã viết như sau: “Nghe người ta nói đấu tranh giai cấp mình
cũng ra khẩu hiệu đấu tranh giai cấp mà không xét hoàn cảnh nước mình thế nào
để làm cho đúng (22)”. Ông ngán cái cảnh đấu tranh giai cấp mà ông được thấy
tận mắt ở nước Nga xô-viết sau khi Lênin qua đời.
Những người gặp ông
Hồ Chí Minh kể lại rằng nhìn tình hình loạn lạc bên nước láng giềng, ông tỏ ra
rất lo lắng, ông không muốn Việt Nam bị cuốn vào cuộc đấu tranh lý thuyết đã vô
bổ mà còn có thể gây ra cảnh nồi da nấu thịt.
- Ông Cụ phiền muộn
vì cái vụ Liên Xô Trung Quốc chửi nhau này lắm. - thiếu tướng Lê Liêm kể cho
tôi sau một lần gặp Hồ Chí Minh - Ông Cụ nói với tôi: thế này thì phe xã hội
chủ nghĩa còn mặt mũi nào nữa trước các nước nhược tiểu, người ta trông cậy vào
mình. Trong nhà còn lục đục, nói ai người ta nghe...
Khi ban lãnh đạo Ðảng
ngả theo Bắc Kinh, ông Hồ còn buồn hơn. Ông hiểu Mao Trạch-đông, hiểu tham vọng
bá, tính cách bá của ông ta. Với đường lối “tọa sơn quan hổ đấu” (ngồi trên núi
xem hổ đánh nhau) đã nhiều năm Mao xúi Liên Xô đụng đầu với Mỹ, nay ông ta lại
khuyến khích Việt Nam xông trận. Mao sẵn sàng hy sinh đến người Việt Nam cuối
cùng trong cuộc đấu tranh chống “con hổ giấy(23)”, là điều Hồ Chí Minh hiểu hơn
ai hết.
Tôi được đọc nhiều
lời buộc tội Hồ Chí Minh chia cắt đất nước. Tôi nghĩ điều này không đúng với
thực tế. Khi phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đi dự hội nghị Genève về Ðông
Dương vấn đề chia đôi Việt Nam không có trong hành trang. Ông Hồ Chí Minh không
hề có ý muốn như vậy. Sự chia cắt, như một giải pháp hòa bình cho Ðông Dương,
được quyết định bởi các cường quốc, trước hết là Trung Quốc, rồi đến Liên Xô và
Mỹ. Trước những sức ép quá mạnh Hồ Chí Minh đành chịu. Dù sao mặc lòng đã đến
lúc phải chấm dứt cuộc chiến tranh đã kéo quá dài.
Ðó là nhận định của
cha tôi, người gần gụi ông Hồ Chí Minh trong giai đoạn lịch sử đó. Cũng theo
cha tôi, ông Hồ thật sự không chủ trương dùng bạo lực để thống nhất đất nước.
Ông thật sự tin rằng sau hai năm đất nước bị chia cắt tạm thời sẽ có tổng tuyển
cử và thắng lợi chắc chắn sẽ đến với những người cộng sản. Cha tôi cho rằng
trong cách nhìn nhận một con người điều quan trọng hơn cả là phải giữ được lẽ
công bằng. Sau vụ bắt bớ, giam cầm những người cộng sản bất đồng chính kiến,
nhiều người buộc tội ông Hồ Chí Minh, thậm chí gán cho ông những tính chất mà
ông không có, như tính hiếu chiến, hiếu sát. Cha tôi giận ông Hồ, nhưng ông
không đồng tình với lời buộc tội đó. Những ngày ở trong rừng Việt Bắc, cha tôi
kể, mỗi khi sắp mở một chiến dịch ông Hồ trở nên bẳn gắt và hút thuốc lá luôn
miệng, có khi thức trắng đêm. Hồ Chí Minh hiểu hơn ai rằng gắn liền với mỗi
thắng lợi trên chiến trường là máu chiến sĩ, đồng bào phải đổ ra. Có lẽ trong
những người cộng sản thế hệ ông, Hồ Chí Minh là người ít thích thú chiến tranh
nhất.
Lê Duẩn thuộc loại
người khác hẳn. Ông ta lớn lên nhờ chiến tranh. Không có chiến tranh Lê Duẩn
không còn là Lê Duẩn. Lê Duẩn chẳng ngần ngại chê bai Hồ Chí Minh không dám chủ
trương dùng bạo lực giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. “Bác còn do dự,
chớ khi rời miền Nam tui đã chuẩn bị hết cả rồi. Với tui chỉ có uýnh thôi, uýnh
cho tới thắng lợi cuối cùng”.
Cha tôi cho rằng việc
ban lãnh đạo Ðảng mời Giải phóng quân Trung Quốc vào Việt Nam là sai lầm tệ
hại. Trong công tác phóng viên tôi đã đến Khu tự trị Việt Bắc và Khu mỏ nhiều
lần. Trở về tôi kể lại cho cha tôi những gì tôi thấy. Nghe chuyện dân vùng núi
Việt Bắc không được phép kiếm củi trong những khu rừng quê hương, nay đã trở
thành khu vực đóng quân của Trung Quốc, những người thợ mỏ muốn đi tắt qua phần
đất đã được giao cho Trung Quốc (24) bị bộ đội Trung Quốc xua đuổi, ông rơm rớm
nước mắt.
Ông lo lắng trước
tình hình nước nhà bị lệ thuộc. Ông tự đi thuyết phục các nhà lãnh đạo, họ là
các đồng chí cũ của ông trong thời kỳ bí mật, kêu gọi họ cảnh giác trước chủ
nghĩa bành trướng và bá quyền của nước láng giềng đã từng đô hộ Việt Nam. Họ
nghe ông với nụ cười mơ hồ, trịch thượng. Việc nước đã có họ lo, không cần đến
ông.
Ông rất bất bình về
việc Nguyễn Chí Thanh, người nắm thực quyền trong quân đội hồi ấy, đã đặt Cục
đồ bản của Trung Quốc in bản đồ 1/1000, là thứ bản đồ dùng cho pháo binh. “Ðó
là bí mật quốc gia, không một nước nào tự nguyện trao cho nước khác. Sao nó ngu
thế! Sao nó bậy thế!”, ông bực bội kêu lên.
Ông còn kêu ca nhiều
về những chính sách không được lòng dân, về cách đối xử phân biệt đảng viên với
quần chúng ngoài Ðảng trong việc giao công tác. Lãnh đạo Ðảng không nghe ông.
Người ta không thích nghe những lời chỉ trích. Ông đành chia sẻ tâm sự mình với
những đồng chí cũ đã về hưu thường đến thăm ông. Ông nghĩ rằng nếu mọi người
đồng lòng can ngăn Trung ương trong những việc không nên làm thì Trung ương sẽ
nghe theo. Ông tin ông trong sáng trong những ý kiến nhằm bảo vệ cách mạng. Ông
không coi việc người cộng sản phát biểu ý kiến về các vấn đề của đất nước là có
tội.
Trong chuyện này cha
tôi đã lẫn lộn thời khắc. Năm 1964 không có gì giống với năm 1946. Ðất nước,
chính quyền, đã không còn là của chung mọi người.
Không! Một người như
cha tôi không thể hèn. Phải có một nguyên nhân nào đó khiến ông phải hành động
khác với bản chất mình.
Thì ra ông nói ông “có
tội với Ðảng” là để nhấn mạnh ông không có tội với cái gì khác trừ ra với Ðảng.
Ông không có tội với nhân dân, với Tổ quốc. Cần phải giải mã bức thư theo cách
đó, tôi nghĩ. Ông nói ông phạm vào những sai lầm nghiêm trọng có phương hại cho
Ðảng là có ý nói cái hại ấy cũng lại chỉ cho Ðảng mà thôi. Những người nắm
quyền lãnh đạo Ðảng bắt ông vì ông có tội với họ.
Cũng có thể bằng
những lời thú nhận ông muốn lừa Lê Ðức Thọ, để Thọ đưa ông ra xử. Lúc đó ông sẽ
có điều kiện tuyên bố chính kiến, ông sẽ nói với đồng bào những điều ông muốn
nói.
Than ôi, đó chỉ là hi
vọng hão huyền, là ý nghĩ ngây thơ thường có ở người bị cắt đứt với thế giới
bên ngoài. Không bao giờ Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ cho những người cách mạng được
phép nói điều gì khác ngoài sự lặp lại những tín điều do họ ban bố.
Ông hiểu trong vụ án
được dựng nên này Lê Ðức Thọ nắm vai trò chính, tính cách Thọ thế nào thì ông
đã biết từ nhà tù Sơn La. Thọ đã nhiều lần mưu mô hạ uy tín các đồng chí lão
thành cách mạng để tôn mình lên. Việc Thọ xúi giục một số đồng chí hăng hái
thái quá buộc ông Trần Huy Liệu, cựu đảng viên Quốc dân đảng, phải lên án Ðảng
cũ của mình là manh động trong khởi nghĩa Yên Bái là một thí dụ. Ông Trần Huy
Liệu đã xử sự như một kẻ sĩ ngoan cường. Ông cao ngạo và thẳng thừng từ chối
không đọc một bản báo cáo như thế, ông không chịu đứng trên lập trường kẻ ngoài
cuộc lên án những đồng chí của ông đã hy sinh. Ông nói với tôi rằng sự hy sinh
của các chiến sĩ Quốc dân đảng trong cuộc khởi nghĩa thất bại có giá trị thức
tỉnh lòng yêu nước trong nhân dân. Nguyễn Thái Học không phải không đoán trước
được kết cục bi thảm của cuộc khởi nghĩa khi ông phát ra câu nói nổi tiếng “Chuyến
này không thành công cũng thành nhân”.
Ngoài chuyện tính
cách, chắc cha tôi còn có điều nghi ngờ Thọ trong sự liên lạc thậm thụt với
công sứ Cousso(25), mà ông biết trong thời gian ông làm thư ký trong nhà tù Sơn
La. Vào những năm này, những cựu tù nhân Sơn La kể lại, Lê Ðức Thọ một hồi được
Cousso lấy ra làm tạp dịch tại nhà y. Cũng vào thời gian này một số việc bí mật
của ban lãnh đạo tù nhân bị lộ. Tướng Ðặng Kim Giang cũng có chung với cha tôi
mối nghi ngờ đó. Trong một câu chuyện giữa hai người tôi nghe tướng Giang nói: “Phải
chi Tô Hiệu (26) còn sống. Vía nó (chỉ Thọ) cũng không dám như vậy”. Nhưng cả
hai im lặng. Với một Lê Ðức Thọ quyền sinh quyền sát như thế, giữ im lặng là
phải. Mặc dầu cùng tù với nhau ở Sơn La, cha tôi không bao giờ coi Thọ là bạn.
Ông Ðặng Kim Giang cũng vậy. Dưới con mắt của ông, Lê Ðức Thọ là một tên hạ lưu
hãnh tiến.
Cha tôi rõ ràng muốn
nhắc tôi cảnh giác kẻo sa vào một âm mưu dựng vụ. Ông nhấn mạnh ông chỉ nhận
thiếu ý thức tổ chức mà thôi. Về phần tôi, ông khuyên tôi phải thức thời, phải
cúi mình xuống mà nhận khuyết điểm. Nhận sai lầm, khuyết điểm chứ không nhận
tội, ông muốn nhấn mạnh, khuyên tôi không được cứng nhắc trong bước ngoặt này
của cách mạng. Lời lẽ nhún nhường trong bức thư chỉ để pha loãng những ý chính,
không cho bọn công an đoán ra những điều cha tôi nhắn nhủ.
Cũng không loại trừ
việc Lê Ðức Thọ không bẻ gãy được cha tôi trong việc ép buộc cha tôi phải nhận
một tội nào đó, là cái Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ cần có để dùng nó triệt hạ những
kẻ mà họ coi là đối thủ, đã buộc ông viết thư cho tôi, hòng dùng bức thư áp đảo
tôi, hoặc may ra có thể kích thích tôi phản tỉnh mà bằng lòng khai ra một điều
gì đó. Nếu tôi chịu khai người ta sẽ dùng chính lời khai của tôi để áp đảo cha
tôi, áp đảo tướng Ðặng Kim Giang và những anh em khác.
- Anh khỏi lo đi.
Việt-Xô(27) đã chuyển bịnh án của ông già anh qua đây. Việc chăm sóc sức khỏe
cho ổng vẫn do Ban bảo vệ sức khỏe Trung ương cáng đáng. Mà ở nước ta thời nơi
mô có đủ thuốc bằng Ban bảo vệ sức khỏe Trung ương? Nói chi thời nói chớ ông
già anh vẫn là bậc lão thành cách mạng, vẫn có tiêu chuẩn đặc biệt, ổng được
săn sóc tới nơi tới chốn. Nói chung, mấy bữa đầu ổng nói cho đúng ổng cũng
không được khỏe cho lắm, nhưng chừ đã bình thường...
- Tôi có được phép
viết thư cho ông cụ tôi không?
- Tui nghĩ được.
- Tui có được giữ bức
thư không?
- Không. Anh đọc xong
đưa lại cho tui. Có cần đọc lại lần nữa không? Anh ở một mình thì tui cho anh
mang về.
Họ vẫn phải giữ kín
vụ án. Tại sao lại như vậy?
- Tôi nhắc lại : anh
không được phép kể cho người ở cùng phòng về vụ các anh. Vụ này thuộc về bí mật
của Ðảng!
Thì ra cái chỗ tôi
đang ở gọi là phòng, chứ không phải xà lim.
Tôi cố gắng nhưng
không sao hiểu câu nói của Huỳnh Ngự. Bắt người là việc bàn dân thiên hạ đều
biết, vậy mà lại là bí mật của Ðảng, buồn cười quá!
- Với cán bộ quản
giáo cũng không được nói. Anh biết răng là giữ bí mật chớ?
- Tôi biết.
Ðiếu thuốc lá làm tôi
buồn nôn. Mồ hôi lạnh rịn ra trên trán. Anh hương sư hói đầu đã pha xong ấm
trà. Về món pha trà anh ta kém hẳn Huỳnh Ngự, loãng toẹt. Tôi uống liền hai
chén.
- Các vị cách mạng
lâu năm như ông già anh là vậy đó. - Huỳnh Ngự phủ dụ - Khi chưa hiểu ra chân
lý thì bướng bỉnh lắm, ngoan cố lắm, rứa mà được Ðảng cảnh tỉnh rồi thì lại có
tinh thần tự phê bôn-sê-vích rất đáng khâm phục. Hậu sinh chúng mình còn phải
học tập các cụ nhiều. Anh tưởng tụi tui hổng biết trước đây ổng bị Pháp tra
khảo ròng rã mấy tuần liền, đánh đập, tra điện, đi tàu bay, tàu ngầm (28) đủ
kiểu, mà vẫn không khai hả? Tụi tui biết cả đó! Vậy mà vô đây Ðảng hỏi, ông già
khai sạch trơn, không hề giấu giếm chút mô...
Cha tôi đã làm gì để
phải khai với bọn này sạch trơn? Tôi còn nhớ khi anh Hoàng Minh Chính bị bắt
cha tôi còn nói với ông Lê Giản: “Tại sao chúng nó lại bắt thằng Chính? Nó làm
gì mà bắt nó?” Ðáp lại, ông Lê Giản chỉ cười buồn. Lúc ra về ông nói với cha
tôi: “Bắt đầu một thời kỳ mới rồi, thời kỳ người ta ngồi xổm lên dư luận và ỉa
vào luật pháp. Chúng mình rồi chửa chắc đã được yên”.
Tôi lặng thinh. Trước
mắt tôi hiện lên cái buổi sáng đã xa, tôi và mẹ tôi tới đây, vào trong chính
nhà ngục này. Hồi ấy tôi còn nhỏ đến nỗi mẹ tôi có thể bế bổng tôi lên mà đút
tôi qua ghi-sê nhận quà để cha tôi ôm hôn tôi. Những cái hôn cuống quýt của cha
tôi lên trán, lên má tôi, bộ râu cứng của ông làm rát mặt tôi, tôi nhớ tới tận
bây giờ.
Cha tôi bị bắt tại ga
Hàng Cỏ ngay sau khi đưa Trường Chinh lên Phúc Yên chạy trốn cuộc tổng khủng
bố. Ðó là thời kỳ Mặt trận Bình dân bên Pháp đi vào thoái trào. Chính quyền
thuộc địa nhân cơ hội liền thẳng tay đàn áp các lực lượng cách mạng vừa mới
trồi lên trong những hoạt động công khai. Ðó là thời kỳ cam go nhất đối với
những người cộng sản. Cha tôi thường xuyên không có mặt ở nhà. Ông chỉ về bất
chợt, thoáng lại đi, trong đêm. Trong những giấc mơ tôi nghe tiếng ông thì thào
với mẹ tôi.
Về việc cha tôi đưa
Trường Chinh đi trốn tôi được biết thêm chi tiết trong câu chuyện hàn huyên
giữa cha tôi và ông Xuân Thủy (29) sau khi hòa bình lập lại: “Thằng Thận đoảng
vị lắm, mày biết đấy.- cha tôi kể,- Nó nhớn nha nhớn nhác, mặt xám ngoét lại,
cứ như bị mật thám đuổi sau đít, nằng nặc đòi tao bố trí ngay cho nó một chỗ
trốn. Nó nói đi tìm mày không được. Tóm được Hạ Bá Cang ở Phủ Lý, nó bảo Hạ Bá
Cang cho nó một chỗ, thằng Cang ừ hữ rồi biến. Thằng Thận chỉ chúi mũi vào sách
vở, có bao giờ công tác quần chúng đâu, đến khi lâm sự thì cuống cà kê lên, sợ
vãi ra quần. Nghe nó chửi thằng Cang tao chỉ cười. Chính tao đưa thằng Cang đi
trốn chứ ai. Cơ sở thằng Cang có, nhưng vỡ rồi. Còn một cái thì lại không an
toàn. Tao chỉ dặn thằng Thận cải dạng cho tốt rồi tao đón, mà nhớ đừng tha sách
theo đấy nhá, mật thám đầy đường, tao bảo nó thế. Tao đưa nó lên nhà thằng Vần (30),
mày nhớ thằng Vần chứ? Hồi ấy nó có cái trại con con gần thị xã Phúc Yên. Ðưa
thằng Thận đi xong, tao về đến ga Hà Nội thì bị tóm. Nằm ở Sở Liêm Phóng ăn
điện, đi tầu bay, tầu ngầm một tháng thì sang Hỏa Lò... Chúng nó chỉ hỏi tao
hai câu : “Ðặng Xuân Khu đâu? Hạ Bá Cang đâu?” Mà sau mày bị ở đâu nhỉ?”
Tôi thích tình bạn
thân thiết của các chiến sĩ cộng sản. Tôi yêu chủ nghĩa cộng sản một phần cũng
vì lẽ đó. Trong ngôi nhà chật hẹp của gia đình tôi ở số 27 bis rồi số 65 phố
Nhà Rượu, những người đồng chí của cha mẹ tôi đến ăn dầm nằm dề hàng tháng. Họ
ngủ la liệt trên sàn gạch hoa, gối đầu trên những chồng báo, trên những cái
chổi lúa, ngáy ầm ĩ. Khi tỉnh dậy họ lại tiếp tục tranh luận đến khản tiếng,
nhưng không bao giờ cãi nhau. Những người này đến rồi đi, thay chân họ là những
người khác, tất cả đều giống nhau ở tính tình cởi mở, thân thiết như ruột thịt.
Mẹ tôi sung sướng được hầu hạ họ những bữa cơm ngon lành, tuy không sang trọng
nhưng nhộn nhạo tiếng cười.
Và họ mới thương nhau
làm sao! Tôi nhớ những ngày thực dân Pháp tổng khủng bố năm 1939. Một đêm tôi
thức dậy bởi những tiếng thì thào. Tôi mở mắt thì thấy bác Ba Lâm đứng ở đầu
giường. Tôi nhảy lên, ôm choàng lấy bác. Ông là người được lũ trẻ chúng tôi yêu
nhất. Cao lộc ngộc, vụng về, ông không biết gọt khoai róc mía theo kiểu ta, mà
chỉ biết làm theo kiểu tây, nghĩa là gọt ngược. Nhưng ông tham gia mọi trò chơi
của chúng tôi như một đứa trẻ con lớn, say sưa. Ðêm đó ông trở về nhà chỉ để
mang tiền cho mẹ tôi trả thợ giặt, sợ mẹ tôi không còn tiền. Mẹ tôi thì lo ông
bị bắt, giục giã bắt ông đi ngay...
Giờ đây chắc bà đau
đớn lắm nhớ về những ngày xa xưa ấy. Bà đi dạy học, bán hàng thuê cho cửa hiệu
tơ lụa Palais de Soie ở phố Tràng Tiền, của ông chủ người Ấn Ðộ tên là Kevarah.
Ông Kevarah là người chủ tốt. Ông biết cha tôi bị bắt vì sao, ông đoán cha mẹ
tôi là những người cách mạng, cho nên đối với mẹ tôi ông có sự trọng thị đặc
biệt. Tuy mẹ tôi chỉ là người làm công, nhưng ông chủ Ấn Ðộ không bao giờ gò ép
giờ giấc để bà có thể làm thêm những việc riêng của bà: “Tôi biết, tôi biết, bà
còn bận nhiều chuyện quan trọng. Bà cứ về sớm đi, không sao cả. Tôi gửi lời
chào ông. Chúc bà may mắn!”
Những đồng tiền dành
dụm được bà đưa cho cha tôi và các đồng chí. Khi ông Sao Ðỏ Nguyễn Lương Bằng
vượt ngục Sơn La về nhà tôi, mẹ tôi tẩm bổ cho ông bằng chim hầm hạt sen, chân
giò tần thuốc bắc. Lũ con bà chưa bao giờ được biết đến những thức ăn sang
trọng ấy. Tôi nhớ rất lâu món rau muống sống chấm bỗng rượu trong những thức ăn
thường nhật trong gia đình tôi hồi ấy. Rau muống ăn sống thường được chẻ nhỏ,
nhưng chị Tường, người ở trong nhà chúng tôi, quá bận việc, chị chỉ vặn cọng
rau làm đôi làm ba rồi đập vào tay cho dập. Bỗng rượu thì đi xin. Nó chảy ri rỉ
suốt ngày từ những lỗ thải ở tường Nhà máy Rượu làm cho cả phố sực mùi chua
nồng. Bên lỗ thải bỗng, những chiếc xe bò quây cót chầu chực để nhận phần mua
tháng, rồi chở ra ngoại thành bán cho dân nuôi lợn. Chỉ cần chìa cái bát ra là
chủ xe đã múc cho, không tiếc rẻ.
Cách mạng thành công,
tôi ít gặp lại các bác các chú ngày trước. Những người sau này vẫn còn lai vãng
là các ông Trần Huy Liệu, Lê Giản, Bùi Lâm, Khuất Duy Tiến, Nguyễn Lương Bằng,
Ðặng Xuân Thiều, Ðặng Việt Châu... Các bác bận, mẹ tôi giải thích, nhưng dường
như bà chẳng mấy tin ở lời mình.
Sau cuộc kháng chiến
chống Pháp, tôi càng ít gặp các bác các chú cách mạng ngày trước hơn nữa. Trong
tôn ti trật tự mới cha tôi ở phẩm trật thấp hơn những người bạn ngày trước và
chúng tôi chỉ gặp ảnh họ trên mặt báo, thấy tên của họ trên bìa những cuốn sách
chờ được thành kinh điển.
- Anh nghĩ sao về bức
thơ của ông già? - Huỳnh Ngự hỏi.
Không nên đầu hàng
quá dễ, chúng sinh nghi. Sau một lúc im lặng, tôi hỏi khẽ, giọng mệt mỏi :
- Chúng ta kết thúc
buổi làm việc hôm nay ở đây được không?
- Anh mệt hả?
- Không. Lúc này tôi
muốn ngồi một mình.
Huỳnh Ngự không hài
lòng. Nhưng y chiều tôi.
- Ðược, cho anh về.-
y nói, giọng ái ngại,- Suy nghĩ kỹ đi rồi ta làm việc. Tui hi vọng anh đã hiểu
ra.
Ðưa tôi về, Hách bảo
tôi đứng chờ ở khoảnh sân hẹp dẫn vào khu xà lim. Y không vội vã vào phòng trực
lấy ra một cái ghế đẩu, bảo tôi ngồi xuống. Lấy đồ nghề ra, không cần choàng khăn,
y bắt đầu cắt tóc cho tôi. Sau vụ chụp ảnh, lăn tay, cái sự cắt tóc trong tù
làm cho tôi càng thêm tin rằng còn lâu tôi mới ra khỏi nơi này. Hách cắt rất
vụng, đúng là tay mơ trong nghề, tông đơ rứt tóc làm tôi đau không chịu được.
Râu ria tôi mọc dài, y phải húi chứ không cắt, mũi tông đơ cứ rúc vào nhân
trung, hích mạnh vào đầu mũi, làm tôi cứ phải ngửa đầu rồi rướn cả người lên
cho y đừng làm mình bị thương. Hách thì lại không biết tôi đau. Y còn phấn khởi
huýt sáo miệng nữa chứ. Nếu y dùng kéo mà cắt còn tốt hơn. Sau đó sẽ dùng dao
cạo, như trong hiệu cắt tóc người ta thường làm. Nhưng y không có ý định cạo
mặt cho tôi.
Tôi ngồi đấy, mặc y
muốn làm gì với cái đầu tôi thì làm. Nhìn những túm tóc rơi lả tả xuống đất tôi
thấy lẫn vào tóc đen đã có nhiều sợi bạc. Như vậy chuyện Ngũ Tử-tư qua một đêm
suy nghĩ đầu bạc trắng là chuyện có thật? Mà tôi thì đã bao nhiêu đêm? Vừa sửa
gáy cho tôi Hách vừa thủng thẳng tâm sự:
- Tôi còn chẵn hai
năm nữa là hưu, anh ạ. Nhìn lại mới thấy đời người nhanh thật. Trên duyệt cho
tôi về rồi.
- Sao? Bác còn trẻ
mà.
- Trẻ gì, năm mươi ba
rồi.
- Vẫn sớm. Phải bẩy
năm nữa kia.
- Tôi khác. Ăn nhau ở
cái thành tích đóng góp. Không phải hưu đúng tuổi, cũng không phải hưu non, mà
là hưu ương ương, tức là được tính thêm cái thâm niên, cộng với lại thương
tật...
- Trước bác ở sư nào?
- Tôi á? Trước ở địa
phương quân, sau chuyển sang 320. Anh cũng đã ở bộ đội đấy hử?
- Vâng.
- Mình về hưu rồi
cũng phải nghĩ cách kiếm ăn, anh ạ. Lương hưu, anh biết đấy, đủ sao được. Ðảng
dạy mình phải tự lực cánh sinh, tự lực tự cường, không được ỷ lại vào nhà nước,
vào Ðảng, là đúng lắm. Tôi tính chán ra rồi, cầm sổ hưu một cái là tôi mở ngay
hiệu cắt tóc, ngay lối vào chợ làng tôi, chỗ ấy thì hết ý. Chỉ sợ từ nay tới đó
có thằng nào chõm mất thì toi...
- Hai năm nữa cũng
còn lâu.
- Tôi đã dạm rồi.
Ðảng ủy, ủy ban nhất trí cả. Nhất định họ dành cho tôi. Ðược cái bí thư lại là
ông em họ...
- Thế thì tốt quá
rồi.
- Tôi cắt tóc cho anh
thế này là để tập thôi, cho nó lên tay, chứ cắt tóc cho phạm không phải việc
tôi, đã có người khác...
Thì ra vị lãnh chúa
của khu xà lim này lại là một đồng chí của tôi trong quân ngũ. Anh ta đang làm
nốt những ngày cách mạng cuối cùng để trở về với cuộc sống dân thường, mà hi
vọng lớn nhất là có được một cửa hiệu cắt tóc đông khách.
Lẽ ra tôi cũng nên
như anh ta - sống cuộc sống bình dị của người dân thường với một ước mơ nho
nhỏ.
-------------
Chú thích
(1) Quốc xã.
(2) Hình như bệnh sáo
ngữ là nét đặc trưng chung cho các quốc gia cộng sản sau khi chính quyền đã
vững chắc. Ở Việt Nam những nhà báo biết dùng nhiều từ kêu oang oang được đánh
giá là có tài.
(3) Về sau cha tôi
chê trách tôi không thức thời. Theo ông, vì tôi không ở trong Ðảng, tôi hoàn
toàn không cần phải cứng rắn với bọn Duẩn-Thọ làm gì. Nếu tôi chịu hạ mình một
chút thì không bị chúng giam thêm 3 năm, và 3 năm đó tôi có thể sống có ích
hơn. Hơn nữa, vì sự cứng rắn vô ích tôi có thể bị chết trong tù. "Con phải
sống để có lúc nói lại chuyện này cho đồng bào nghe. - cha tôi nói - Một xác
chết, cho dù của người anh hùng, cũng chỉ là xác chết".
(4) Cục tình báo Quân
đội nhân dân Việt Nam, còn gọi là Cục Quân báo, nay là Tổng cục 2.
(5) Trong nhóm này
sau khi cách mạng thành công mẹ tôi chỉ còn gặp lại bà Ðỗ Ðình Thiện. Mẹ tôi kể
có lần mật thám lùng bắt bà Thiện đã dùng dây thừng tụt từ trên gác cao xuống
trốn thoát, nhưng bàn tay mãi mãi còn mang vết sẹo.
(6) (1910-1935), học
sinh trường Bưởi, tham gia truy điệu cụ Phan Chu Trinh rồi viết bài thơ nổi
tiếng Chiêu Hồn Nước, được Nxb Thanh Niên in, được chép tay để tán phát, nhiều
người thuộc lòng bài thơ này. Vì những lý do trên ông bị chính quyền thuộc địa
bắt (1926), mãi tới năm 1930 mới thả ra.
(7) Trong những cuộc
gặp gỡ này còn có bạn mẹ tôi, bà Ðỗ Ðình Thiện. Số tiền lớn nhất mà Ðảng có để
chuẩn bị Cách mạng Tháng Tám là của hai gia đình tư sản Ðỗ Ðình Thiện và Trịnh
Văn Bô đóng góp.
(8) Mẹ tôi có ý nói
tới vụ phản tình báo H122 xảy ra trong kháng chiến chống Pháp, khi lực lượng
kháng chiến bị mắc lừa đã bắt giam rất nhiều cán bộ, nhất là cán bộ quân đội.
Vụ này do Hoàng Quốc Việt phụ trách, đã làm chết oan nhiều người.
(9) Lao động khổ sai.
(10) Trang Vương nước
Tề đăng quang, mở tiệc đãi quần thần đã cùng nhà vua nằm gai nếm mật. Tiệc đang
vui thì có ngọn gió lớn làm tắt hết đèn nến. Nhân lúc nhá nhem, một viên quan
đã xàm xỡ sờ vú hoàng hậu. Hoàng hậu giật được cái giải mũ đem mách vua. Nhà
vua truyền cho các quan giật đứt hết giải mũ rồi mới được tiếp tục cuộc vui,
thành thử không biết ai là người đã làm chuyện quấy. Trang Vương về sau có một
tôi trung, những lúc khó khăn gian khổ bao giờ cũng ở bên cạnh ông, chính là
viên tiểu quan phạm tội.
(11) Chín năm sau,
hai cha con gặp nhau tôi mới biết chính Lê Ðức Thọ và Trần Quốc Hoàn đã vào tận
xà lim dụ hàng. Chúng hứa hẹn nếu cha tôi nghe theo chúng chấm dứt cuộc tuyệt
thực đã kéo dài hơn 10 ngày thì chúng sẽ không khủng bố gia đình. Nhưng sau đó
Lê Ðức Thọ đã cho bắt tôi mà không cho cha tôi biết.
(12) Trong thời gian
xảy ra vụ nhóm xét lại chống Ðảng, con cái những người bị giam giữ trong vụ này
không được thi vào đại học, thảng hoặc có trường hợp được thi thì chỉ được vào
các trường kém vế như đại học nông lâm, đại học thư viện... Cho mãi tới năm
1981, con gái đầu của tôi tốt nghiệp đại học ngoại ngữ với điểm cao, đủ tiêu
chuẩn được đi nước ngoài thực tập nhưng không được đi vì “cha có tiền sự”.
(13) Một nhân vật
cách mạng nổi tiếng của Việt Nam. Sinh năm 1905, ông đến Thái Lan năm 1928,
cùng với ông Hồ Chí Minh lập ra Ðảng cộng sản Thái Lan, đảng viên chủ yếu là
người Tàu và người Việt. Hai ông cùng ra tờ Tiếng Chuông ở tỉnh Nakhuphanom.
Sau đó ông Hoàng Văn Hoan đi Trung Quốc, hoạt động ở nước này trong nhiều năm.
Ông Hoan là một người khắc kỷ, liêm khiết, từ chối mọi đặc quyền đặc lợi. Mặc
dầu khác nhau về quan điểm đối với đường lối của phong trào cộng sản quốc tế,
cha tôi rất quý mến và kính trọng ông. Hoàng Văn Hoan bị đưa ra khỏi Bộ Chính
trị và Trung ương Ðảng ở Ðại hội IV, sau đó bị xử tử hình vắng mặt khi ông trốn
sang Trung Quốc xin cư trú chính trị. Con cả của ông Hoàng Văn Hoan, anh Hoàng
Nhật Tân, ngược lại với cha, không tán đồng đường lối Mao Trạch-đông, bị buộc
tội có quan điểm xét lại. Khi bắt đầu có cuộc đấu tranh giữa hai đường lối,
Trường Chinh nói với Hoàng Văn Hoan: “Coi chừng, quý công tử ảnh hưởng xét lại
nặng lắm đấy!”, và buộc anh Hoàng Nhật Tân phải đi lao động thực tế tại Thái
Nguyên. Hoàng Nhật Tân may mắn không bị bắt trong vụ “nhóm xét lại hiện đại
chống Ðảng”.
(14) Bà Nguyễn Thị
Năm là địa chủ tích cực ủng hộ kháng chiến. Nhà bà ở huyện Ðồng Hỷ, Thái
Nguyên, là nơi các cán bộ cao cấp thường qua lại, trong đó có cả các ông Trường
Chinh, Phạm Văn Ðồng, Nguyễn Duy Trinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Giản...
(15) Những cơn cuồng
giết chóc không kiềm chế nổi bất thần xâm chiếm cả một bộ lạc, một vùng ở châu Á,
khi những con người như bị mụ mẫm đi khi lao vào cuộc chiến hỗn độn, giết nhau
không vì cái gì.
(16) Ông Nguyễn Văn
Hoan, phó chánh án Tòa Tối cao, kể cho tôi nghe chuyện này. Ông đang báo cáo
với chủ tịch nước về tình hình công tác tư pháp thì cha tôi chống ba-toong bước
vào (ông đang lên cơn đau gan). Thấy cha tôi quá bực mà to tiếng, ông Hồ bảo :
“Ngồi xuống đã, từ từ nói tôi nghe, chi mà nóng như lửa vậy”. Ông Hoan kết luận
: “Ngày xưa triều đình phong kiến còn có chức gián quan chuyên một việc can
vua. Bây giờ đâu có thế, người ta không trị bố cháu trước cũng trị sau”. Ông
Hoan vào Ðảng cộng sản do chính ông Hồ giới thiệu. Ông Hoan là người giới thiệu
Trường Chinh vào Ðảng.
(17) Học giả, nhà
báo, nhà ngôn ngữ, sinh năm 1887 (không rõ năm mất), bị đánh trong vụ Nhân
văn-Giai phẩm, tên tuổi tới giờ không được nhắc đến mặc dầu ông là tác giả của
những tác phẩm và bài báo có giá trị. Cùng bị đánh một lượt với ông, với sự
luận tội tương tự, còn có nhà phê bình Trương Tửu.
(18) Những bộ trưởng
và nhân sĩ làm việc trong chính phủ hồi đó. Về việc cha tôi đi mời các vị nói
trên tham gia chính phủ như thế nào đã được nhà văn Sơn Tùng ghi lại đầy đủ
trong một tác phẩm sẽ xuất bản về những ngày trứng nước của chính quyền cách
mạng.
(19) Ngô Ðình Diệm
(1901-1963), sinh trưởng trong một gia đình quan lại, dưới triều vua Bảo Ðại
làm tới chức thượng thư tại triều đình Huế. Bị Việt Minh bắt, được thả, Ngô
Ðình Diệm chạy ra nước ngoài (Mỹ, Pháp), sau năm 1954 trở về Việt Nam làm thủ
tướng của chính quyền Bảo Ðại. Năm 1955 Ngô Ðình Diệm lật Bảo Ðại, tuyên bố miền
Nam Việt Nam là nước cộng hòa và lên làm tổng thống. Năm 1963 bị phái quân nhân
làm đảo chính giết chết.
(20) Tên thật là Tô
Dĩ, đảng viên cộng sản, bị thực dân Pháp đầy đi Madgascar. Ðược quân đội Anh
giải phóng, giao cho quân đội Mỹ. Theo ông kể cho tôi nghe thì một số tù chính
trị Việt Nam trong đó có ông và ông Phan Bôi (Hoàng Hữu Nam) được OSS (Cục tình
báo chiến lược, tiền thân của CIA) huấn luyện rồi thả dù xuống Hà Ðông. Lê Giản
mang điện đài, tiền và vũ khí về cho Ðảng. Năm 1945 được ông Hồ Chí Minh cử làm
Tổng giám đốc Nha Công an Việt Nam. Sau, ban lãnh đạo Ðảng nghe theo kinh
nghiệm Trung Quốc không để cho người từng có thời gian sống với địch nắm những
công tác quan trọng, gạt khỏi ông khỏi chức vụ. Trước khi về hưu Lê Giản là phó
chánh án Tòa án tối cao. Ông có uy tín rất lớn trong những người cộng sản thế
hệ già.
(21) Cụ thân sinh ra
ông Ngô Ðình Diệm là Ngô Ðình Khả, thượng thư bộ Lễ trong triều đình Huế. Khi
thực dân Pháp quyết định bắt vua Thành Thái đi đầy cụ Ngô Ðình Khả đã phản đối,
không ký tên vào bản án. Một chí sĩ khác, cụ Nguyễn Hữu Bài đã từ chối không ký
tên vào văn bản đồng ý cho Khâm sứ Pháp Mahé đào lăng Tự Ðức để lấy vàng bạc
châu báu.
(22) “Hồ Chí Minh -
danh nhân văn hóa”, Nhà xuất bản Văn hóa,1991, tr.232.
(23) Cách Mao
Trạch-đông gọi đế quốc Mỹ, xuất hiện trong thời kỳ cuộc chiến tranh trên bán
đảo Triều Tiên (Korea).
(24) Những người lính
Trung Quốc hào phóng đã nhiều lần tiếp xăng cho chiếc xe máy Jawa của tôi trên
những con đường Việt Bắc heo hút. Tôi đã múc nước với họ ở cùng một giếng tại
Yên Sở (ngoại thành Hà Nội). Ông Hoàng Văn Hoan viết về sự kiện Hoa quân nhập
Việt như sau: “Từ năm 1965 đến năm 1970... theo yêu cầu của Hồ Chủ tịch và
Trung ương Ðảng lao động Việt Nam, Mao chủ tịch và Trung ương Ðảng cộng sản Trung
Quốc đã phái hơn ba mươi vạn bộ đội Trung Quốc...” vào Việt Nam. (Giọt Nước
Trong Biển Cả, tr. 345, Hoàng Văn Hoan). Ta có thể tin con số mà ông Hoàng Văn
Hoan đưa ra. Trong giai đoạn quân Trung Quốc vào Việt Nam ông còn là ủy viên Bộ
Chính trị, ông không thể không biết những việc lớn như việc này.
(25) Công sứ Sơn La
vào cuối thập niên 30, đầu thập niên 40.
(26) Một nhà cách
mạng nổi tiếng, chết tại ngục Sơn La về bệnh lao. Tại nền cũ nhà ngục này có
một cây đào được đặt tên là cây đào Tô Hiệu, nhưng ông Trần Huy Liệu và cha tôi
trong lần trở lại thăm nhà ngục đã xác định nó không phải cây đào do Tô Hiệu
trồng.
(27) Bệnh viện dành
cho cán bộ cao cấp
(28) Mấy cách tra
khảo của mật thám trước đây : treo lên mà đánh (đi tàu bay), dìm vào bể nước
(đi tàu ngầm).
(29) Một nhà báo cộng
sản trước Cách mạng Tháng Tám, nguyên bộ trưởng Bộ Ngoại Giao.
(30) Ông Trần Văn
Vần, một cơ sở tin cậy của Ðảng trong thời kỳ bí mật. Ông đã nuôi và bảo vệ các
ông Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Bùi Lâm, Xuân Thủy, Ðặng Việt Châu...
trong thời kỳ các ông này phải lẩn trốn mật thám Pháp. Sau khi cách mạng thành
công, ông sống nghèo khổ, xin đăng ký kinh doanh một cửa hàng đồng nát cũng
không được. Ông gửi thư cho ông Trường Chinh nhắc lại chuyện xưa, xin được giúp
đỡ. Ông Trường Chinh đã cho gặp và sai thư ký lo cho ông xin đăng ký kinh
doanh. Hiệu chữa xe với tấm biển "Hưởng Honda" do anh Trần Văn Hưởng,
con trai ông đứng chủ, ở chợ Mơ là kết quả của sự giúp đỡ mà chủ tịch Quốc Hội
Trường Chinh dành cho ông.
Chương 13
Một điều bất thường xảy ra phá tan dòng chảy
đơn điệu của những ngày tù đáng ngán. Sáng hôm sau, thay vì mấy củ khoai hà
lạnh ngắt, Sứ giả Hòa bình mang vào cho chúng tôi hai suất ăn sáng gói trong
giấy báo.
Vào giờ này xà lim
còn tối. Ðể tiết kiệm điện, ngọn đèn chang chang suốt đêm hành hạ chúng tôi lại
tắt ngóm vào đúng lúc chúng tôi cần đến nó hơn cả. Trong ánh sáng mờ mờ rỉ qua
cửa thông hơi tôi phát hiện bên trong mảnh giấy báo là hai cái bánh tí hon chỉ
nhỉnh hơn quả chuối mắn một ít.
Ðành ăn mò vậy. Ăn mò
có cái tốt của nó - mình không bị cảm giác gớm ghiếc khi nhìn thấy trong miếng
ăn đang đưa vào miệng những vật đáng sợ - những mẩu rác hoặc những con mọt.
Thời gian này mì viện trợ dồi dào để lưu cữu trong các kho ẩm ướt cho nên nếu
không mốc thì cũng đầy mọt. Những con mọt đen trũi hiền lành chẳng có gì nguy
hiểm cho hệ tiêu hóa, nhưng miếng mì luộc lẫn xác mọt vẫn làm tôi rùng mình.
Cầm chiếc bánh lọt
thỏm trong tay tôi ngạc nhiên thấy nó còn ấm. Cắn miếng đầu tiên tôi còn ngạc
nhiên hơn nữa : nó không phải là thứ bánh mì chua loét nào đó tôi thường gặp,
mà là bánh mì trắng thơm phức, lại kẹp ba-tê hẳn hoi.
Và ngon ơi là ngon!
Tôi ăn ngấu nghiến.
Cái bánh mì đáng yêu tan ra trong miệng như một giấc mơ.
Thật vậy, cái bánh mì
ngon đến mức không thể tin được. Tôi nói như thế không phải trên quan điểm của
người tù xà lim thường xuyên đói, thấy cái gì cũng ngon. Nó ngon thật sự, cho
dù tôi có ở bên ngoài Hỏa Lò. Bột mì mềm và thơm, vỏ lại ròn, ba-tê tuyệt vời,
đến nỗi tôi có cảm giác trong đời mình tôi chưa từng được thưởng thức một món
điểm tâm nào ngon đến thế. Tiếc quá, nó hết quá nhanh.
Vào thời gian này
thực phẩm ở Hà Nội “không được dồi dào”, nói theo cách của các nhà chính trị.
Tại các cửa hàng ăn mậu dịch quốc doanh chỉ có một thứ phở, lại là phở chỉ có
bánh không có thịt, tục gọi là “phở không người lái(1)”. Ðể ăn được một bát phở
như thế còn phải xếp hàng rồng rắn, có khi cả nửa giờ mới tới lượt. Tất nhiên,
ở đâu đó vẫn tồn tại những quán chui có đủ thứ : chim quay, gà tần hạt sen, vịt
tần thuốc bắc, ba ba hồng xíu… hoặc chuyên doanh tiết canh, lòng lợn... Những
quán chui này, dù là chui cũng không phải dành cho đám cán bộ ba cọc ba đồng
chúng tôi. Cho nên nếu tôi có khen cái bánh mì ba-tê nọ là cực kỳ ngon thì cũng
không phải ngoa ngôn.
Bữa ăn sang trọng
giữa Hỏa Lò làm cho Thành ngạc nhiên không kém. Vừa thưởng thức dè xẻn cái bánh
còn ấm trong buổi sáng lạnh giá anh vừa hỏi tôi :
- Lạ thật, sao bỗng
dưng người ta lại giở chứng chiêu đãi chúng mình sang thế này ? Hay hết chiến
tranh rồi mà nằm trong xà lim mình không biết ?
- Hòa bình thì Hỏa Lò
này phải ồn lên chứ. Mới lại, hòa bình đâu có phải tin cần phải giấu.
- Hay là sắp có đoàn
kiểm tra đến?
- Người ta sợ cóc gì
kiểm tra. Ðoàn nào cũng phải sợ Bộ Nội vụ.
- Ngộ có kiểm tra
quốc tế kìa, Hồng Thập Tự chẳng hạn. Họ đến thăm tù binh, nhân tiện ghé qua xem
tù mình sống ra sao?
- Cái đó khó xảy ra
lắm.- tôi cười cái giả thuyết hỡi ơi của Thành.- Cho dù Hồng Thập Tự quốc tế có
đề nghị. Người ta sẽ nói: chúng tôi giam tù thế nào là công việc nội bộ của chúng
tôi, không khiến các người dây vào.
- Ừ nhỉ.
Chúng tôi đặt ra đủ
mọi tình huống. Ðủ mọi dự đoán. Cái nọ phủ định cái kia. Chẳng cái nào có sở
cứ.
Một ý nghĩ chợt lóe
lên trong tôi : rất có thể cái bánh mì liên quan tới bức thư của cha tôi chăng,
tới thái độ ngoan ngoãn của tôi sau khi đọc bức thư chăng ?
Khốn nạn, thì ra nó
là phần thưởng cho sự đầu hàng ! Tôi nghẹn ở cổ họng. Nước mắt tôi ứa ra.
- Cái bánh này ở
ngoài kia giờ giá chừng bao nhiêu hở cậu?
Thành hỏi sau khi
những dự đoán đã cạn.
- Tôi không rõ. Tôi
cũng chẳng biết nó bán ở đâu.
Bánh mì các loại kẹp
thịt quay, giăm-bông hoặc ba-tê ngon nhất Hà Nội chỉ có ở hiệu Nguyên Sinh. Tôi
đã có lần ăn ở hiệu này, cách đây cũng đã mấy tháng. Khẩu vị của tôi không thể
nào thay đổi trong thời gian ngắn ngủi đó, thế mà tôi thấy cái bánh mì này còn
ngon hơn bánh mì Nguyên Sinh nhiều. Chỉ có thể nghĩ đây là loại bánh mì đặc
biệt, do một cơ sở đặc biệt được ưu tiên cung cấp nguyên liệu làm ra. Tôi là
dân thường. Cán bộ như tôi không được hưởng những thứ không phải dành cho dân
thường.
Người Hà Nội hồi đó
đều biết thành phố có mấy cửa hàng cung cấp đặc biệt với sổ mua hàng đặc biệt.
Cán bộ trung cao cấp mua ở cửa hàng Nhà Thờ, cán bộ tương đương thứ trưởng trở
lên thì mua ở cửa hàng Tôn Ðản. Cửa hàng Hàng Trống chỉ phục vụ chuyên gia nước
ngoài và cán bộ cao cấp, giám đốc cửa hàng này là bà em ruột Lê Ðức Thọ. Hàng
hóa ở các cửa hàng cung cấp đặc biệt phần nhiều là đồ ngoại nhập mua bằng tiền
viện trợ, không có bán ở ngoài, đã hiếm lại rẻ. Chỉ ở đây mới có sô-cô-la,
phó-mát, vải đẹp, nước hoa v.v. Do đó ngoài giá trị thực dụng phiếu mua ở các
cửa hàng loại này còn có giá trị như niềm tự hào được khẳng định.
Tôi được nghe một
đoạn đối thoại như thế này giữa hai bà vợ ông to :
- Chị đi đâu vậy?
- Em đi Nhà Thờ.
- Chết chửa, chị vẫn
còn phải đi Nhà Thờ à? Em tưởng nhà chị được Tôn Ðản từ lâu rồi chứ. Nhà em có
đã hai năm rồi. Chị phải nói anh xin gặp anh Sáu đi, thêm một bậc chuyên viên
nữa có là bao, anh Sáu cho đấy, chị đỡ vất vả, tội nghiệp quá!
Tôn ti đẳng cấp phong
kiến bị nguyền rủa từ khi có cách mạng được lập lại với cách giải thích nghe
hợp lý nhưng khó lọt tai: để cho cán bộ lãnh đạo có sức khoẻ tốt đặng phục vụ
nhân dân.
Người ta kháo nhau
rằng ở Bắc Ninh, hay Bắc Giang không rõ, có mấy nông trường cung cấp đặc biệt
dành cho Trung ương, chỉ ở đó mới còn lại giống lúa một thời nổi tiếng trong cả
nước như tám thơm, tám xoan, nếp râu, nếp cái hoa vàng... nay hầu như đã tuyệt
chủng trước cuộc xâm lấn có lãnh đạo của những giống cao sản cho gạo không ngon
nhưng chắc dạ. Cũng chỉ ở mấy nông trường này mới có loại bò giống tốt cho sữa
tươi ngon, lợn ỉ chính nòi thơm thịt, hoa quả toàn đặc sản. Tiếng là dành riêng
cho Trung ương, nhưng cũng chỉ dành cho Bộ Chính trị với các đồng chí Trung
ương cổ cánh thôi, chứ không phải ủy viên Trung ương nào cũng được hưởng. Cũng
theo lời thiên hạ đồn thì chim bồ câu dành cho các vị được nuôi bằng đậu xanh
để ăn cho bổ. Thức ăn cho Bộ Chính trị là các thứ quý hiếm này, do một bộ phận
phục vụ riêng lo lắng.
Ăn cái bánh mì ngon
tôi lại nhớ tới bữa rượu suông trên gác nhà Nguyễn Tuân ở đường Trần Hưng Ðạo.
Ðó là bữa rượu tao ngộ. Nhà văn già túm được tôi lang thang gần Nhà hát Nhân
dân bèn lôi tuột về nhà, chứ không có hẹn trước.
Ông đang lên cơn
phiền muộn vì sự xuất hiện mới đây trên báo chí một con chữ kỳ cục.
- Anh xem đây, đọc đi
rồi cho tôi biết ý kiến.
Ông quăng cho tôi một
tờ báo chi chít những dấu sửa lỗi. Bài báo được Nguyễn Tuân chú ý bị ông sửa
như sửa mo-rát(2). Cách sửa mo-rát của Nguyễn Tuân rất đặc biệt, không giống ai
- từ trong khối chữ chạy ra lề những đường thẳng, đường gẫy, đường ngòng ngoèo,
để kết thúc bằng những chữ, những từ, có khi cả một câu. Ðộ lớn của những lỗi
phải sửa phụ thuộc ở tâm trạng nhà văn già. Khi ông bực lên thì một dấu phẩy
phải thêm vào sẽ to bằng móng chân gà.
Tôi giả vờ chăm chú
đọc.
- Tiếng Việt mình
không đến nỗi nghèo, phải không nào? - Nguyễn Tuân giận dữ - Ít nhất thì nó
cũng không nghèo đối với trình độ mấy thằng cha cầm bút kém chữ thời nay. Trong
tiếng Việt có chữ y có chữ thị. Y chỉ anh đàn ông, thị chỉ chị đàn bà, rành
rành. Vậy mà mấy thằng phó tóm(3) thất học lại dám nghĩ rằng tiếng Việt ta bần
hàn. Mới thương tình đẻ rặn ra cho nó một cái từ kép y thị để chỉ mụ đàn bà
phạm tội. Khốn nạn thay cho cái tiếng Việt của ông cha! Bất cứ thằng bỏ mẹ nào
cũng đè nó ra mà hiếp được.
Mặt ông khổ sở như
chính ông bị xúc phạm.
Tôi cười xòa. Tôi
thích ngắm tình yêu chữ nghĩa của Nguyễn Tuân. Tất nhiên, tôi đồng ý với ông.
Nhưng cũng tất nhiên, tôi, và cả lớp trẻ tụi tôi, chẳng bao giờ bị dằn vặt,
chẳng bao giờ khổ sở như ông chỉ vì một con chữ. Ừ thì người ta đẻ ra một con
chữ quái dị, đã chết ai đâu!
Ðể trêu chọc Nguyễn
Tuân một chút cho vui, tôi rụt rè thưa với ông rằng ông không nên vội nổi nóng,
biết đâu cái từ kép y thị mà các phó tóm nghĩ ra chửa biết chừng lại hay cũng
nên. Nó có thể đắc dụng cho tiếng Việt để chỉ một ái nam ái nữ, hoặc một
pédéraste(4) chẳng hạn. Vấn đề là liệu nó có tồn tại được không, có được nhân
dân chấp nhận không. Từ ngữ cũng như con người, trước hết nó phải được sinh ra
đã, sau đó là chuyện khác: nếu nó không chết yểu thì sống lâu khắc lên lão
làng. Nguyễn Tuân trợn mắt, gắt ầm lên. Rằng ông không cần đến mấy thằng phó
tóm nhảy vào lãnh địa văn chương chữ nghĩa vốn chẳng phải của chúng, rằng chẳng
ai khiến chúng sáng tạo thêm cho tiếng Việt, rằng cái từ để chỉ pédéraste trong
tiếng Việt đã có sẵn rồi.
Nói ra được nỗi bực
bội rồi, vơi được nỗi phiền muộn rồi, Nguyễn Tuân trở lại tâm trạng vui vẻ
thường nhật. Ông lục trong góc bàn lấy ra một chai rượu trong vắt, trịnh trọng
rót hai ly. Tôi nhấp một ngụm. Ông chăm chú nhìn vào mặt tôi :
- Ngon không?
- Thưa bác, tuyệt.
Nguyễn Tuân cười khúc
khích, ghé vào tai tôi :
- Rượu bộ đấy!
Tôi ngẩn người. Rượu
bộ, nó là cái gì?
Tôi không phải con
cháu Lưu Linh, nhờ các bậc đàn anh chỉ bảo cũng biết võ vẽ đôi chút về rượu.
Nguyễn Tuân thích rượu làng Vân, nhưng phải do một lão nông người làng này cất
kia, chứ người khác cất ông chê. Ông khen rượu Trương Xá, khen vừa phải, nói
rượu Trương Xá ngon đấy, phải cái hơi gắt. Ông cũng thích rượu Kiên Lao mà cha
tôi thường đặt mua để biếu ông. Ông nói rượu Kiên Lao ngọt giọng mà có hương
thầm. Bây giờ ông lại khen một thứ rượu lạ hoắc, tôi chưa từng nghe nói.
Nguyễn Tuân khoái trá
nhìn tôi :
- Anh không hiểu rượu
bộ là gì hử?
- Không ạ.
- Là
rượu-do-Bộ-Công-an-nấu! - Nguyễn Tuân nhấn mạnh từng tiếng.- Tôi đặt cho nó cái
tên rượu bộ để phân biệt với các thứ rượu quốc doanh với không phải quốc doanh
khác. Việt Hùng vừa mới xách cho tôi hai chai. Thứ này đúng là hảo hạng, chỉ có
loại rượu trên tiền, rượu không phải để bán mới ngon được như thế.
Ông giảng cho tôi một
bài về những ngón nghề nấu rượu dân dã, về các loại men với đủ các vị thuốc Bắc
thuốc Nam. Nghe Nguyễn Tuân nói thì có thể nghĩ ông là một tay nấu rượu lậu
chuyên nghiệp. Mỗi lần đến chơi với Nguyễn Tuân là một lần tôi học thêm được
một chút kiến thức ít người biết. Chỉ cần gãi đúng chỗ ngứa của ông. Phải cố mà
nhớ nằm lòng, chớ có giở giấy bút ra ghi chép. Thấy anh ghi chép thì thể nào
ông cũng sừng sộ: “Ðịnh ghi để báo cáo tôi đấy hử?”
- Việt Hùng chầu này
đến tôi luôn. Mình cứ sắp hết rượu là y như rằng nó xách rượu đến, tài thế! -
Nguyễn Tuân quay lại câu chuyện nói dở.- Lần nào cũng một thứ này thôi. Cán bộ
thường như mình tiền đâu mà lúc nào cũng rượu ngon? Mình thì gặp chăng hay chớ,
Văn Ðiển cũng ừ, Làng Vân càng tốt, miễn bạn đến nhà có rượu đãi? Cái này không
phải rượu bình thường, cái này gọi là “phương tiện công tác” đây, tôi nghĩ thế.
Mới bảo nó: “Anh với tôi là bạn vong niên, mình gặp nhau nên nói chuyện văn
chương chữ nghĩa, chuyện các thú chơi của các cụ ngày xưa, vui hơn. Ðừng nói
chuyện chính trị, tôi nhức đầu”. Nó tào lao một lát rồi về. Rượu thì để lại.
Này, thằng ấy kiến thức rộng ra phết!
Từ rượu bộ, do tính
chất chật hẹp của nó, chỉ một số ít người biết, mà phải là những người đã từng
được Nguyễn Tuân hoặc Văn Cao đãi rượu kia, bởi vì Việt Hùng, theo tôi biết,
chỉ biếu có hai ông mà thôi.
Việt Hùng làm việc ở
Bộ Nội vụ, ở cơ quan nào trong bộ tôi không rõ, các ông bạn tôi cũng không rõ.
Chúng tôi tế nhị không hỏi, Việt Hùng thì không tự nói ra. Là người quảng giao,
có kiến thức rộng, Việt Hùng nhanh chóng đánh bạn với các văn nghệ sĩ loại cứng
đầu và nửa cứng đầu như Văn Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Sáng, Ðặng Ðình Hưng, Tử
Phác, Kim Lân v.v... Mọi người xì xào rằng Việt Hùng là cá nổi làm nhiệm vụ cá
chìm. Mình sợ quái gì, cứ thản nhiên mà chơi, anh em nói, cứ để cho Việt Hùng
nó báo cáo. Còn hơn để mấy thằng cá chìm i tờ kiếm chuyện lập thành tích, mình
có làm quái gì đâu mà sợ.
Nhưng nói cứng thế
thôi, chứ trong quan hệ với Việt Hùng anh em văn nghệ sĩ vẫn cứ rợn rợn.
Sau này, chơi với
Việt Hùng lâu rồi, hiểu Việt Hùng kỹ hơn, tôi cho rằng cái sự cảnh giác thái
quá đối với Việt Hùng của anh em chúng tôi hơi bệnh hoạn. Nỗi sợ hãi này nằm
trong nỗi sợ hãi chung của dân chúng đối với cái chế độ hàm chứa rặt tai họa
cho mỗi người mỗi nhà. Có lần Nguyễn Tuân rủ rỉ khuyên chúng tôi phải học thuộc
cách chia véc-bờ(5) sợ ở mọi ngôi thứ: tôi sợ anh, anh sợ tôi, chúng ta sợ nó,
nó sợ anh, chúng tôi sợ các anh, nó sợ chúng ta, chúng ta sợ chúng nó, các anh
sợ chúng tôi vân vân... cứ thế mà chia. Thuộc hết thì sống mới dễ.
Tôi quen Việt Hùng
trong một thời gian không đến nỗi ngắn, đủ để hiểu một con người. Tôi nghĩ nếu
số trời run rủi cho Việt Hùng làm bộ trưởng Công an thì còn tốt cho nước ta hơn
nhiều so với đương kim bộ trưởng Trần Quốc Hoàn. Nhưng anh mãi mãi chỉ là một
cán bộ làng nhàng, một chuyên gia sáng tác báo cáo, thỉnh thoảng được mời giảng
bài cho một lớp huấn luyện. Anh là người tốt, nhưng trong một xã hội không đề
cao lòng nhân ái, mà đề cao đấu tranh giai cấp và cảnh giác cách mạng, anh chỉ
dám làm những điều tốt trong điều kiện chúng không làm thiệt hại đến mình. Việt
Hùng có thể thành bạn thân của chúng tôi nếu anh không phải là công an. Tôi coi
cái đó như một sự thiệt thòi cho cả hai bên, cho anh nhiều hơn cho chúng tôi.
Trước khi bị bắt vài
ngày tôi có đến chơi nhà Việt Hùng. Anh tiếp tôi với vẻ mặt ngượng ngùng.
Vụ khủng bố trắng
đang làm xôn xao dư luận. Anh thấy mình chẳng đẹp đẽ gì khi đứng ở phía chính
quyền. Tôi hỏi vỗ mặt :
- Thế nào, nhà chuyên
chính vô sản, liệu tớ có bị bắt không đấy?
Việt Hùng làm ra vẻ
bận bịu với ấm trà để tránh cái nhìn sỗ sàng của tôi :
- Bộ phận mình không
dính tới vụ đó. Ðây là việc của Ban tổ chức Trung ương...
- Nhưng công an thì đi
bắt?
Việt Hùng nhún vai.
Hôm ấy tôi quên khuấy
không hỏi Nguyễn Tuân cái từ Việt chỉ pédéraste trong bữa rượu và rất ân hận đã
không hỏi ông. Nó chắc chắn phải thú vị. Rượu bộ của ông êm quá, làm tôi say
lúc nào không biết. Mà đã say thì tôi lười.
Tôi đã đi ra ngoài lề
câu chuyện.
Có lẽ cái bánh mì
ngon lành kia cũng được chế tạo tại một lò bánh đặc biệt, lò bánh mì bộ, nói
theo cách của Nguyễn Tuân. Cả ba-tê cũng thế, nó là ba-tê bộ.
Cái bánh mì đã tiêu
hết rồi Thành mới bình luận :
- Thứ này, cậu ạ, không
phải thứ dành cho tù. Từ ngày vào đây tôi chưa bao giờ thấy nó.
Tôi im lặng.
- Tiêu chuẩn cao thế
này chỉ dành cho tù đặc biệt thôi, đặc biệt thế nào tôi không biết, nhưng không
thể có chuyện tù thường được ăn. Ngoài kia cậu chuyên viên mấy?
- Chuyên viên đâu mà
chuyên viên. Tôi cán sự ba.
- Sao? Cậu mà có cán
sự ba thôi ư?
Tôi cười buồn.
- Thật mà. Giấu anh
chuyện lương lậu làm quái gì.
- Thế thì đúng là cậu
bị lườm rồi. Trình độ cậu phải chuyên viên chứ đâu có ở mức cán sự. Bướng, phải
không? Thế nhưng ở đây cậu được đối xử khác thường đấy. - Thành gật gù - Gì thì
gì, người ta cũng coi cậu là tù đặc biệt, hoặc do chiếu cố, hoặc do sự vụ chưa
rõ ràng. Hì hì, thế là tôi vớ bở, được ăn theo.
Chúng tôi đã thân mật
hơn. Thành hơn tôi chừng dăm tuổi. Không nhớ từ lúc nào anh tự cho phép mình
gọi tôi bằng cậu.
Tôi vẫn còn ngây thơ.
Trong những dự đoán do cái bánh mì bộ gây ra thấp thoáng cả hi vọng được thả.
Tôi nghĩ : nếu không định thả thì họ chiều tôi làm gì ? Tôi biết những nhà lãnh
đạo của chúng tôi lắm, họ không bao giờ có tinh thần hiệp sĩ đối với kẻ thù.
Trong họ không có khái niệm quân tử. Giỏi lắm thì họ cũng chỉ đạt mức đại tiểu
nhân mà thôi.
Tất nhiên khả năng
thả chúng tôi không thể loại bỏ. Dư luận, như một làn sóng ngầm mạnh mẽ, bị coi
khinh đấy, bị đàn áp đấy, nhưng nó vẫn sống, vẫn tồn tại, và không phải nó
không có sức làm nhà cầm quyền nao núng.
Nhân dân bị phản bội. Ðó là điều rõ ràng. Cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc đã thành công rực rỡ trong sự thay thế những ông chủ da
trắng bằng những ông chủ da vàng. Cái
khác là cách cai trị của những ông chủ mới tinh tế hơn những ông chủ cũ nhiều.
Mọi sự bóc lột, đè nén giờ đây được tiến hành trong tiếng kèn hoan hỉ ngợi ca
cuộc đời mới, trong cờ xí rợp trời, trong ánh lấp lánh của vàng mạ phủ lên mọi
tối tăm, tủi nhục, tiếng rìu đao phủ chìm nghỉm trong khúc quân hành, và đám
đông bị mê mẩn bởi những lời cổ vũ hùng hồn rầm rập kéo nhau đi tới miền đất
hứa ở tít mù tầm mắt không nhận thấy máu đồng bào nhơm nhớp dưới chân mình.
Tôi đã đi trong đám
đông bị thôi miên, trong cuộc lên đồng vĩ đại.
Người đầu tiên muốn
thức tỉnh tôi là cô ruột tôi lấy chồng ở phủ Xuân Trường. Chồng bà, một ông
chưởng bạ, là một người yêu nước không cộng sản. Ông ủng hộ cách mạng từ hồi bí
mật, tham gia tổng khởi nghĩa, trong kháng chiến chống Pháp vừa làm trong ban
hội tề để giữ thế công khai vừa làm chủ nhiệm Việt Minh xã. Trong Cải cách
ruộng đất, ông bị đưa ra đấu, bị vu là phản động, nhà cửa bị tịch thu, gia đình
bị khủng bố. Ðến khi Ðảng sửa sai, ông chỉ còn kịp lết về đến nhà để tắt thở
trong vòng tay vợ con.
Những việc xảy ra với
cô tôi tôi không biết. Tôi đang học ở Liên Xô. Trở về Việt Nam, năm 1957, làm
phim Ánh Sáng Tháng Mười nhân dịp kỷ niệm 40 năm cách mạng Nga, tôi mới gặp cô.
Cô tôi khuyên tôi :
- Cháu phải tỉnh trí,
chớ có nghe cộng sản. Cộng sản bất nhân lắm. Mình là người tử tế, phải biết
chọn bạn mà chơi. Nghe ngon ngọt lắm vào rồi đi theo họ, hối không kịp!
Ðó là bà cô được
chúng tôi, những đứa cháu bà, trọng nhất, yêu nhất. Cả họ phục bà tần tảo một
mình dựng nên cơ nghiệp. Bà chẳng bóc lột ai, chẳng xin xỏ ai. Một trong những
nguyên nhân làm cho bà trở nên giàu có là sự keo kiệt. Một con tôm rảo kho của
bà đủ làm thức ăn cho tôi suốt bữa cơm - nó mặn khủng khiếp.
Cha tôi bần thần nghe
tôi kể tâm sự của cô. Ông buồn: “Ðành rằng Ðảng có sai lầm, nhưng Ðảng đã thấy
sai, đã nhận sai để sửa chữa. Không nên vì một sai lầm mà phủ nhận mọi công lao
của Ðảng. Cô nói Ðảng bất nhân là không được. Nếu Ðảng là bất nhân thì sao bố
lại ở trong hàng ngũ của Ðảng?”
Tôi tin cha tôi. Tôi
không nghe lời cô tôi khuyên. Khi con người bị xúc phạm thái quá thì phản ứng
của họ cũng thái quá, tôi nghĩ thế. Chứ cô tôi chẳng có hằn thù gì với cách
mạng. Năm cha tôi mười sáu tuổi, ông tự mình viết truyền đơn đi rải ở thị xã
Thái Bình rồi bị bắt, chính cô tôi đã đánh đường qua đò Bồng Tiên đội gạo đi
nuôi em. Kể chuyện cho tôi nghe, bà cười phô hàm răng đen nhưng nhức : “Bố ông
dữ ra quỷ, làm cả nhà bạt vía. Ông bà hãi quá, bắt bác Cả đi lo cho ông em ra.
May mà bố ông chưa đến tuổi, chứ không thì Tây nó cho rũ tù...”
Người thứ hai không
còn tin ở chủ nghĩa cộng sản là vợ tôi. Vợ tôi theo học ngành kiến trúc Ba Lan
vào những năm xảy ra những cuộc biểu tình đầu tiên của công nhân làm lung lay
nền móng chế độ cộng sản ở đây. Vợ tôi không sinh ra và lớn lên trong một gia
đình thuộc tầng lớp trên, cũng không phải trong một gia đình trí thức. Qua
những điều mắt thấy tai nghe ở nước này vợ tôi đi đến một kết luận bất ngờ: “Chủ
nghĩa cộng sản không có tương lai, anh ạ. Nó không được lòng dân”.
Người thứ ba cảnh
tỉnh tôi là tiểu đoàn trưởng Ðích. Anh rơi vào tù trong trường hợp oái oăm :
anh cho phép một chiến sĩ mượn com-măng-ca của đơn vị về quê cưới vợ. Người anh
em kết nghĩa của chú rể, dân tộc Mường Tây Bắc mừng em nuôi một cục thuốc phiện
bằng nắm tay để chú rể bán đi lo đám cưới. Chú rể bị bắt, hai phù rể bị bắt
theo, thủ trưởng đơn vị bị coi là tòng phạm, lĩnh án năm năm tù. Từ nhà tù trở
về Ðích thay đổi hẳn. Người ta bảo anh khiếu oan để trên xét lại vụ án, anh
chẳng buồn viết đơn. Anh nói với tôi: “Tôi không bực vì cái án. Nhầm là chuyện
thường, huống hồ trong vụ này tôi cũng có cái sai. Nhưng tôi sai là một chuyện.
Cái cách đồng chí đối xử với nhau thế nào là chuyện khác. Nhà tù cho tôi thấy
một điều: không có tình đồng chí! Chúng ta nhầm. Bây giờ tôi mới hiểu: ông Hồ
không phải đồng chí của ta, ông ấy cũng là vua như các ông vua khác, lại không
phải vua hiền. Ông ấy biến những con người lương thiện thành những con quỷ. Ông
ấy là quỷ vương”.
Tôi an ủi anh, nhưng
không đồng ý với nhận xét của anh. Dưới quyền ông Hồ có những con quỷ mà anh
gặp, nhưng không phải ông tạo ra chúng. Chúng có trong bất kỳ xã hội nào. Tôi
nói, như cha tôi thường nói với tôi, rằng cách mạng là sự nghiệp của cả dân
tộc, trong cách mạng không thể không có sai lầm, đó là bệnh sốt vỡ da của đứa
trẻ đang lớn, rằng sai lầm sẽ ít dần cùng với sự trưởng thành, mà chẳng phải ai
khác, chính chúng ta phải đóng góp để cho nó trưởng thành.
Tôi thuyết phục anh
dẹp nỗi ấm ức trong lòng để trở lại với công tác cách mạng. Anh phản bác, rồi
anh nghe tôi.
Tôi nói với anh
Nguyễn Thanh Ðịch, thư ký tòa soạn báo ảnh, nhận anh Ðích vào làm công tác
buồng tối. Tờ báo chúng tôi hồi ấy đang cần người có học và tháo vát để giải
quyết những khó khăn về kỹ thuật in tráng trong hoàn cảnh thiếu thốn. Anh Ðích
là một nhiếp ảnh gia nghiệp dư hiểu nghề khá sâu, được các phóng viên kính
trọng.
- Ông bảo đảm nhá ? -
thư ký tòa soạn gặng.
- Tôi bảo đảm. - tôi
trả lời.
Anh Ðích cần mẫn làm
công việc nhà nước cho tới khi tôi bị bắt.
Không tuyên bố lý do,
người ta thải hồi anh. Sự thải hồi này không chứng tỏ tôi đã bảo đảm không
đúng. Nó chỉ chứng tỏ anh bị thải hồi vì người bảo đảm cho anh là tôi. Sau đó,
anh Ðích thề độc không bao giờ đi làm lại cho Nhà nước cộng sản nữa. Anh sản
xuất ô mai để bán, là công việc dễ hơn nhiều so với công việc buồng tối. Nghề
làm ô mai không bị nhà nước ngăn chặn hóa ra rất có lời, anh nuôi được các con
ăn học, tậu được nhà, nói chung gia đình anh sống sung túc.
Tóm lại, từ những
điều trông thấy, nghe thấy, tôi ngoan cố không chịu rút ra kết luận. Tôi đần,
và như bây giờ người ta nói, tôi ngu lâu.
Bữa trưa chúng tôi có
thêm món trứng tráng vàng rộm, mỡ nhuếnh nhoáng, bên cạnh tô rau muống tần đại
dương tiêu chuẩn chung của tù như thường lệ. Thành thật hóm. Cái tên rau muống
tần đại dương là do Thành đặt cho món rau luộc không ra luộc kho không ra kho
của nhà tù.
Thành nói rằng để
sống được trong tù phải dự trữ cho mình đủ tinh thần hài hước.
- Này, lạ chưa, từ
sáng đến giờ không nghe còi báo động, nhỉ ? - Thành đần mặt, suy nghĩ.
Trong xà lim chúng
tôi chẳng biết gì về những việc đang xảy ra bên ngoài. Chiến tranh thế giới lần
thứ ba có nổ ra chúng tôi cũng ngủ quên nó. Hòa bình trở lại chúng tôi cũng
không biết. Theo quy định của trại giam tù xà lim không được đọc báo. Mảnh giấy
gói bánh mì sáng nay là một mẩu báo năm ngoái.
Có thể xảy ra một sự
kiện nằm bên ngoài mọi dự đoán sẽ dẫn tới việc tha hàng loạt tù nhân chăng ?
Không, không thể có cái đó, chẳng bao giờ có được một sự kiện như thế, nó chỉ
có trong truyện thần tiên.
Tôi xua đuổi quầy
quậy cái hi vọng chực le lói. Bất cứ hi vọng nào trong tù cũng là hão huyền.
Nó chỉ đẻ ra thất
vọng. Như những bông hoa đực.
Bữa chiều, thay vào
đĩa trứng tráng là đĩa thịt kho tàu. Chúng tôi ăn thịt kho tàu với mì luộc.
Răng tôi nghiến lạo
xạo hàng nghìn xác mọt cùng với câu hỏi khó nhá.
Ðúng vào lúc chúng
tôi nghĩ đến hòa bình nhiều nhất thì còi báo động hú lên. Tôi nghe rõ tiếng rít
lanh lảnh của những chiếc MIG-19 lao nhanh qua Hỏa Lò.
-------------
Chú thích
(1) Thứ phở không có
thịt, chỉ có bánh phở chan nước dùng. Trong cuộc chiến tranh với Việt Nam người
Mỹ thường dùng loại máy bay trinh sát không người lái. Phở không có nhân (theo
nghĩa nhân = người) từ đó được gọi một cách mai mỉa là phở không người lái.
(2) Bản in thử để tác
giả hoặc biên tập viên sửa lỗi của nhà in.
(3) Chỉ chung những
người làm công an.
(4) Người luyến ái
đồng tính, chỉ chung cả nam, nữ.
(5) Verbe, động từ
(tiếng Pháp).
Chương 14
Hách mở cửa, lấy tôi đi cung. Những tưởng sau
câu chuyện tâm sự với tôi trong buổi cắt tóc, viên quản giáo sẽ hồ hởi gặp tôi,
như những người lính cũ của một thời đã xa ngẫu nhiên gặp nhau, cho dù ở trong
Hỏa Lò, nhưng không - y nhìn tôi hững hờ, xa lạ.
Trong phòng hỏi cung,
lại một phòng khác, Huỳnh Ngự ngồi nghiêm chỉnh sau bàn làm việc. Y lạnh lùng
ngước mắt đón tôi, cái nhìn lướt trên cặp kính trắng trễ xuống sống mũi.
- Anh khỏe chớ, anh
Hiên?
- Cảm ơn. Tôi bình
thường. Bác vẫn khỏe?
- Vẫn khỏe. Thời tiết
mấy bữa rầy tốt, ấm lên rồi.
Mở đầu buổi làm việc
bao giờ cũng là câu hỏi thăm xã giao. Cứ như thể chúng tôi quan tâm tới sức
khỏe của nhau lắm, hoặc đang ra sức tập dượt để dự một cuộc thi lịch sự.
Sau đó mới đến công
việc. Lần này y ra câu hỏi bằng giọng rất ôn tồn :
- Anh đã suy nghĩ về
lời khuyên của ông già rồi chớ?
Tôi mệt mỏi đáp :
- Tôi đã suy nghĩ.
Huỳnh Ngự quan sát
tôi rồi tiến thêm một bước :
- Anh bằng lòng cung
khai ?
Tôi nhìn y. Chuyện
này tôi tưởng đã xong, sao y còn nhắc lại ? Thằng cha dai hoi quá. Y vẫn kiên
nhẫn nhìn tôi, chờ đợi.
- Không.- tôi đáp,
dứt khoát.
Tôi đã ở bước đường
cùng rồi, sá gì chúng nó. Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất
năng khuất(1), cha tôi vẫn thường dạy. Ðóng kịch không có nghĩa là sẵn sàng
chịu chúng trong bất cứ việc gì.
Huỳnh Ngự trừng mắt :
- Tại sao?
- Tôi đã nói rồi. Tôi
không phải phạm nhân. Ðã không phải phạm nhân thì lẽ đương nhiên không việc gì
phải khai.
Huỳnh Ngự liếm môi.
Một thoáng suy nghĩ, y nói :
- Nhưng báo cáo với
Ðảng những điều Ðảng cần hỏi anh thì anh đồng ý báo cáo chớ ? Hay cũng không?
Tôi gật đầu :
- Tôi sẵn sàng báo
cáo với Ðảng những gì tôi biết.
Nhưng tao sẽ không
báo cáo với Ðảng của mày những gì Ðảng của mày cần để hại người đâu, tôi rủa
thầm. Ðừng có mơ!
Y cảnh giác với câu
trả lời của tôi. Sau khi tin chắc tôi nói không có ẩn ý, y thở phào :
- Anh ngồi xuống đi!
Tôi ngồi.
Ðợi cho tôi yên vị, y
từ tốn móc trong ngăn kéo bàn viết ra một xấp giấy trắng, trịnh trọng đặt nó
xuống trước mặt tôi :
- Anh là chúa hay câu
nệ chữ nghĩa. Mất thời giờ nhiều lắm. Thôi được, nói cho anh hay, Ðảng đã ra
chỉ thị cho tụi tui để các anh được tự do lựa chọn cách làm việc.
Tôi dò xét nhìn y.
Trò gì thế này?
- Bữa ni ta làm việc
chính thức, theo kiểu khác. Những chi tui hỏi anh mọi ngày, chỉ là hỏi miệng,
để có một cái nhìn chung, bao quát, về những điều anh biết và Ðảng sẽ hỏi anh.
Chừ coi như anh đã quen, ta viết ra giấy. Các cụ gọi rứa là cái chi hè? Khai
bút!
Y nói với vẻ mặt hiền
từ, như cách ông giáo làng nói với học trò trong ngày khai giảng. Nói chung,
Huỳnh Ngự thay đổi thái độ nhanh như làm xiếc. Ðang vui vẻ đấy, y có thể bất
thình lình gầm lên như phát điên.
- Tui nói khai bút là
trúng chớ, nhà văn?
Không thấy tôi tán
thưởng, Huỳnh Ngự giảng giải :
- Khai bút chớ không
phải khai cung, như vừa nãy tui dùng chữ có chỗ chưa chuẩn, tui đâu có là nhà
văn, phải không? Ta khai cái bút để báo cáo với Ðảng những điều Ðảng cần hỏi ở
ta. Việc ni chỉ có một mục đích duy nhứt nhằm xây dựng Ðảng, làm cho Ðảng ngày
thêm vững mạnh...
Lại bắt đầu bài hát
muôn thuở! Nhưng dù sao cũng đã có một sự lùi bước từ phía y. Y đã thôi không
dùng từ khai cung.
- Tui thấy cần phải
nói trước để anh hay, chừ là cơ hội cho anh đới công chuộc tội, là cơ hội cuối
cùng để anh chứng minh lòng trung thành của anh với Ðảng. Vì vậy tui phải nhấn
đi nhấn lại nhiều lần điều ni cho anh nhớ, đó là: trong sự báo cáo với Ðảng cái
cơ bản, cái quan trọng nhứt, là phải thành khẩn, thành khẩn hết mình.
Ngừng lại vài giây để
bắt tôi phải chú ý hơn nữa, y cúi xuống, ghé sát vào tai tôi mà thì thào bằng
giọng tên âm mưu dặn dò đồng bọn.
- Nói để anh yên tâm,
Ðảng đã chỉ thị cho tui: báo cáo của các anh là báo cáo mật, tuyệt mật... Ngoài
tui ra, là người được anh Sáu giao trách nhiệm hướng dẫn các anh viết, không
người mô được biết về những báo cáo này hớt. Từng báo cáo sẽ được dán kín lại
rồi trình lên anh Sáu và Bộ Chánh trị...
Tôi ngơ ngẩn nhìn y.
Tại sao những lời khai của chúng tôi, những kẻ có tội với Ðảng, lại phải giữ bí
mật đến thế? Mà giữ bí mật với ai kia chứ?
- Anh không việc chi
mà ngại: cứ mạnh dạn trình bày với Ðảng, trình bày hớt - từ những quan điểm sai
trái cho tới những việc làm có hại cho cách mạng. Ðảng sẽ tha thứ cho anh một
khi anh đã hối lỗi. Ðối với những người có liên quan, Ðảng yêu cầu anh không e
dè, không nể nang. Phải báo cáo cho Ðảng biết về họ, cả tư tưởng, cả hành động,
việc lớn việc nhỏ báo cáo tuốt. Cứ thẳng thừng mà báo cáo, cho dù người có liên
quan là cha mẹ mình cũng mặc... Dứt khoát đứng về phía Ðảng, vì lợi ích của
Ðảng mà chiến đấu là lập trường đúng đắn nhứt, có lợi cho mình nhứt...
Sau đoạn giáo đầu
mang tính chất “đả thông”, y lấy bút máy ra, vẩy vẩy mấy cái, lau ngòi bút vào
vạt áo cho thông mực rồi mới cần mẫn đánh dấu từng trang.
- Uống nước đi, hút
thuốc đi, rồi ta mần.- thấy tôi vẫn ngồi yên, Huỳnh Ngự ân cần nhắc,- Trà ngấm
rồi đó.
Trà sang. Hôm nay là
Ba Ðình chứ không phải Hồng Ðào. Tôi vẫn thích Hồng Ðào hơn. Nó ít chất nhân
tạo, đã được nước lại có hậu.
Tôi nhấm nháp từng
ngụm nhỏ nước trà đặc, lẳng lặng quan sát Huỳnh Ngự. Cái con người còm cõi kia
chắc đã từng làm thư ký cho một ủy ban huyện, hoặc nhân viên đánh máy ở một
trung đoàn bộ trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Chao ôi, y từng là
đồng chí của tôi đấy, từng là chiến hữu của tôi đấy. Giả thử tình cờ gặp nhau
trong một trận càn của địch, tôi dám nhường hầm bí mật của tôi cho y lắm.
“Không e dè, không nể
nang..., cho dù có là cha mẹ mình cũng mặc !” Trong đầu tôi câu nói của Huỳnh
Ngự ong ong bay lượn.
Nghĩa là anh cứ việc
thoải mái mà làm chỉ điểm cho Ðảng. Ðảng là của nhân dân mà, của dân tộc mà. Vì
lợi ích của Ðảng, để bảo vệ Ðảng, chỉ điểm cũng là một công tác vinh quang lắm
chứ.
Vào thời gian này chỉ
điểm nhan nhản khắp nơi, từ thôn xã cho tới các cơ quan đầu não. Khác với các
bạn đồng nghiệp thuộc các chế độ khác, thuộc những thời đại khác, tên chỉ điểm
xã hội chủ nghĩa có niềm tự hào đặc biệt. Nó tự hào vì được theo dõi không
riêng những đối tượng của cách mạng mà cả các đảng viên kỳ cựu của Ðảng, cũng
từ cấp cơ sở lên tới tận Trung ương. Ðủ hiểu Ðảng tin nó thế nào! Nó được tưởng
thưởng xứng đáng. Chỉ buồn nỗi không được khoe khoang chiến tích mà thôi. So
sánh cái được với cái không được thì cái được lớn hơn nhiều.
Dùng phương pháp loại
suy tôi phát hiện một số tên chỉ điểm trong giới văn nghệ sĩ qua những cuộc hỏi
cung. May mắn cho tôi, và cho văn nghệ sĩ nói chung, không có gương mặt sáng
giá nào làm chỉ điểm. Làm cái nghề đốn mạt này chỉ có những tên vô tài bất
tướng bước vào văn nghệ qua ngả chính trị, những tên cơ hội đi bằng đầu gối,
kiếm ăn bằng những bản văn tán dương chế độ. Có tên đã tập tọng viết lách,
nhưng không sáng tác nổi cái gì cho ra hồn, tình nguyện cầm cây roi phê bình
gác cửa văn nghệ cho Ðảng. Thậm chí có tên làm chỉ điểm cốt được vào Ðảng sớm
một ngày. Tên khác săn tin trong anh em, ton hót với thượng cấp chỉ để kiếm
thêm một bậc lương.
Khốn nạn, không làm
là một nhẽ, phải ngồi im nghe kẻ chiêu mộ ba hoa về những quyền lợi mà Ðảng ban
cho nếu anh ngoan ngoãn làm chó săn chim mồi là một nhẽ khác.
Nhục lắm!
Huỳnh Ngự kể cũng
biết điều. Y không nói toạc ra rằng tôi phải đầu hàng và nhận làm chỉ điểm.
Nói thế trắng trợn
quá. Y muốn tôi bám lấy cái chính nghĩa y quẳng cho: vì lợi ích của Ðảng.
Tôi giả vờ nghe theo.
Sau đó hẵng hay.
Trong khi chờ đợi y
nắn nót những giấy tờ cho cuộc khai bút, tôi quan sát căn phòng vừa được đưa
tới. Người Pháp không phải là tác giả của những căn phòng manh mún, thiếu tiện
nghi được dùng làm nơi hỏi cung trong Hỏa Lò. Căn phòng tôi đang ngồi diện tích
chỉ nhỉnh hơn xà lim một chút, lại không có cửa sổ, không có lỗ thông hơi, rất
bí. Cách bố trí các phòng hỏi cung hiện nay phản ánh trung thành tính cách chủ
nhân nó.
Nhìn căn phòng kín
mít trong mê cung những phòng và hành lang của Hỏa Lò bất giác tôi nhớ tới anh
Kỳ Vân. Anh có số phận hẩm hiu nhất, cuộc đời đối với anh bạc bẽo nhất. Khoảng
một tháng trước khi anh bị bắt, vợ anh đi sơ tán gần Hà Nội bị chết đuối để lại
mấy đứa con dại. Thời thuộc Pháp Kỳ Vân đã vượt khỏi nhà ngục này tới hai lần.
Lần này dù có muốn anh cũng không vượt được nữa. Anh đã già. Các đồng chí của
anh lại rút kinh nghiệm của những lần họ vượt ngục trước kia, kể cả hai lần
vượt của anh, giữ Hỏa Lò chắc hơn, nghiêm ngặt hơn nhiều so với thời kỳ thuộc
Pháp.
Khi nghe tôi báo tin
Kỳ Vân bị bắt cụ Ðinh Chương Dương còn nhớ đủ cả tên họ anh: “Phạm Kỳ Vân chứ,
cháu. Cháu nói Kỳ Vân, bác ngỡ là người khác. Chính bác đưa Phạm Kỳ Vân sang
Tàu cho bác Hồ huấn luyện cách mệnh chứ ai, lúc bấy giờ Phạm Kỳ Vân còn nhỏ
tuổi lắm, nhưng tinh thần cách mệnh thì lại rất lớn. Họ bắt bố cháu, bắt luôn
cả Phạm Kỳ Vân hả? Trời đất, đồng chí với nhau cả sao mà tàn tệ thế?!”
Anh Kỳ Vân, theo lời
cha tôi kể, và như bác Ðinh nhận xét, là người tuổi nhỏ chí lớn. Anh hoạt động
cách mạng từ khi còn là học sinh, 21 tuổi đã là xứ ủy viên Ðảng cộng sản Ðông
Dương.
Tính theo bề dày cách
mạng, hoạt động cùng với cha tôi, Kỳ Vân phải thuộc hàng cha chú tôi mới đúng,
nhưng anh chơi với tôi cũng như chơi với Hứa Văn Ðịnh(2) ngang hàng, kiểu bạn
bè, cậu cậu tớ tớ. Xem ra anh không có cái tính thích làm kẻ cả.
Anh nói về cha tôi: “Sở
dĩ ông cụ cậu không có chức sắc trong Ðảng là vì hồi bí mật Ðảng chủ trương để
ông cụ hoạt động công khai, có chân trong Trung ương hay là xứ ủy, bị Tây bắt
nó xử dữ lắm, Ðảng không có người tháo vát như ông cụ để chắp nối liên lạc cho
các cơ sở Ðảng(3). Ðến lúc có chính quyền rồi thì ông Cả(4) lại bắt ông cụ cậu
giúp việc ông Hồ. Trường Chinh không thích ông cụ cậu là vì ông cụ thẳng tính,
không chịu xu nịnh. Lê Ðức Thọ thì ghét ông cụ lắm lắm, thằng tiểu nhân ấy khi
còn ở Sơn La với tụi mình bị ông cụ sạc cho mấy trận vì cái tính đâm bị thóc
chọc bị gậy trong anh em. Chứ nó sao bì với ông nhà cậu được ! Khi ông cụ vào
Nam ra Bắc làm cách mạng thì nó còn là học trò. Bọn Lê Ðức Thọ viện cớ ông cụ
không có chức sắc, không đưa ông ấy lên. Mình biết ông cụ cậu từ hồi bí mật,
mình biết cái tình ông ấy, ngay thẳng lắm, mà nóng lắm, không kiêng nể ai đâu,
nhưng đối với bạn bè, đồng chí thì tình nghĩa rất mực, cho nên mình quý”. Tôi
hỏi vì sao anh đã từng có chức sắc mà cũng không lên được, thì Kỳ Vân gõ cồng
cộc vào đầu: “Tại cái này cứng quá. Ðào Duy Kỳ(5) với mình hồi băm chín lên án Trường
Chinh sợ địch, thấy địch vừa tổng khủng bố đã co cẳng chạy, cho nên hắn để
bụng, khi cách mạng thành công rồi không bỏ lỡ dịp nào không hành bọn mình”.
Ngồi trong phòng, tôi
rét run. Thời gian trôi, ăn uống kém, dự trữ trong người cạn dần, cho nên tôi
thấy rét, chứ đám chấp pháp, quản giáo vẫn phây phây đi lại. Mà cũng có lẽ tại
cái phòng làm việc lâu không có hơi người. Tôi tiếc căn phòng trông ra mảnh sân
hẹp, nơi có cái vòi nước hỏng. Làm việc ở đấy thỉnh thoảng còn được rửa ráy,
còn có cơ may ném được mảnh giấy báo tin cho gia đình, nhất là trong tay tôi
bây giờ đã có giấy bút.
Sau khi đã đi tới
thỏa thuận về chuyện tôi nhận viết báo cáo, Huỳnh Ngự thay đổi thái độ. Giữa
chúng tôi không còn những cuộc cãi vã căng thẳng. Bàn trà được dọn ra, hơi nước
bốc trên những cái chén sạch bong, hai bên bàn là hai người điềm đạm thủng
thẳng trò chuyện.
Tôi hiểu : Huỳnh Ngự
lùi một bước để đòi tôi cái lớn hơn, một món lại quả còn to hơn ăn cưới.
Không phải y chỉ đòi
ở tôi một bước xuống thang tương ứng mà một sự thối lui thật sự nếu không muốn
nói thẳng là đầu hàng.
Về thực chất, báo cáo
và cung khai là một. Nhận báo cáo có nghĩa là nhận cung khai. Tuy nhiên, cũng
trong buổi làm việc này Huỳnh Ngự tế nhị nhấn mạnh sự phân biệt thực ra rất nhỏ
bé giữa chúng tôi và tù thường : với tư cách người được xử lý nội bộ, một thứ
phạm nhân nửa dơi nửa chuột, chúng tôi được đặt vào một vị trí khác với phạm
nhân thường trong quan hệ với cán bộ chấp pháp.
Ngẫm ra cái máu sĩ
diện trong con người ta cũng mạnh gớm ! Nếu Huỳnh Ngự cứ khăng khăng một mực
bắt tôi cung khai thì vị tất tôi đã chịu. Cho dù sau bức thư của cha tôi tôi đã
quyết định thôi không ngang ngạnh với y nữa. Y đoán trước được phản ứng của
tôi, linh hoạt thay ngay cái từ cung khai bằng báo cáo, nghe êm tai hẳn.
Ðiều làm tôi ngạc
nhiên là khu vực nhân sự mà Huỳnh Ngự quan tâm quá rộng.
- Anh có quen Tôn
Thất Tùng(6) không hỉ? - một hôm bỗng dưng Huỳnh Ngự hỏi tôi.
- Không thể nói rằng
tôi quen giáo sư Tôn Thất Tùng được.- tôi đáp, thờ ơ,- Ông thuộc hàng cha chú
tôi, lại chơi với ông cụ tôi...
- Thì tui mới phải
hỏi. - Huỳnh Ngự rặn ra một nụ cười hiền lành, nhưng trên mặt y nó chỉ đạt mức
không độc ác mà thôi - Hồi trước Nghị quyết 9, Tôn Thất Tùng có viết một lá
thơ, nội dung là một kiến nghị gởi Trung ương Ðảng, chắc anh đã đọc...
- Tôi có nghe nói
thế.
- Chu cha, sao lạ vậy
chớ? Anh mà chỉ nghe nói!? - Huỳnh Ngự ngoẹo đầu, bĩu môi.- Khó tin quá hà! Thư
đó ông cụ anh có trong tay, còn đưa hết người nầy người nọ đọc, mà anh không
được đọc thì lạ quá.
- Tôi không được đọc
có lẽ vì thời gian đó tôi không có mặt tại Hà Nội.
Huỳnh Ngự gật gù :
- Cứ cho là như vậy.
Nhưng anh là nhà báo kia mà. Nhà báo thì phải biết mọi chuyện mới là nhà báo
chớ. Người ta ồn cả lên vì bức thơ mà anh không biết. Hỏng. Tôn Thất Tùng viết
bức thơ nầy trong loạt thơ gởi Trung ương nhằm gây áp lực buộc Trung ương phải
thay đổi đường lối. Ngây thơ quá! Trung ương cần chi tới ý kiến mấy anh khoa
học dở hơi mà thơ với từ. Ông già sau rồi cũng không đưa anh đọc?
- Không.
- Tui dám cá với anh
nè, rằng anh có đọc, nhưng anh chối. Mà thôi, bỏ qua chuyện đó đi, anh có đọc
hay không đọc không phải chuyện quan trọng.
Tôi cười trừ. Biết
nói gì với y bây giờ? Ðôi co với y, tôi biết rồi, là chuyện vô ích.
Một nguyên tắc của
công an là không tin cái gì hết, cho dù mình có nói thực. Chỉ khi nào dùng đủ
mọi cách rồi mà không khai thác được gì hơn thì người ta đành chấp nhận cái đã
thu được,
Huỳnh Ngự chăm chú
rót trà vào chén mình. Lẽ ra, trong bầu không khí không căng thẳng hôm nay y
phải mời tôi mới đúng, nhưng y quên không mời. Dù đã cố gắng nhiều y vẫn chưa
thành người lịch sự.
- Tui lấy làm lạ cho
bọn trí thức các anh!- sau khi thỏa mãn với chén trà cắm tăm (7), Huỳnh Ngự ngả
người trên ghế, hai tay chắp trước bụng.- Ðảng chiều như chiều vong, chẳng động
đến các anh thì chớ, có sai sót chi cũng cho qua luôn, không thèm bắt bẻ, lại
còn tạo mọi điều kiện thoải mái cho các anh làm việc, cho các anh hưởng mọi
tiêu chuẩn hơn người, vậy mà các anh rửng mỡ đòi nhảy vô lãnh vực chánh trị,
phát biểu lung tung vô trách nhiệm, đòi đường lối của Ðảng phải thế kia thế
khác. Hết khôn thời dồn ra dại. Có người cầm tay dắt đi không muốn, muốn tự
mình mò mẫm...
Trong chuyện bức thư
tôi không nói dối y. Tôi tiếc không được đọc bức thư ấy. Hình như lúc đó tôi đi
viết ở Thái Bình thì phải. Nghe nói bác sĩ Tôn Thất Tùng viết rất cảm động.
Nhìn sang nước láng giềng, thấy tình cảnh trí thức bên đó bị đấu tố, bắn giết,
tù đầy, ông lo lắng cho số phận trí thức Việt Nam, lo cho tương lai nền khoa
học nước nhà. Ông muốn lấy lời tâm huyết khuyên can Ðảng đừng đi theo con đường
Trung Quốc, bởi nó đem lại cho dân tộc những tổn thất không lường hết được và
kéo lùi lịch sử nhiều năm.
- Tôn Thất Tùng có
hay tới ông già anh không?
- Tôi không rõ. Cũng
có thể giáo sư đến chơi với ông cụ tôi mà tôi không biết. Tôi ở trên gác, ông
cụ tôi ở dưới nhà.
- Cái nớ tui rõ. Vậy
còn Tạ Quang Bửu. Anh biết chớ?
- Cũng không. Tôi có
phỏng vấn giáo sư Tạ Quang Bửu. Cái sự biết như thế không thể gọi là biết. Bài
phỏng vấn sau bị xếp lại vì báo thiếu chỗ.
- Hình như tay nầy ăn
nói cũng lung tung lắm, phải không?
- Làm sao tôi biết
được! - tôi nhún vai - Khi nói chuyện với người không quen biết chẳng ai dại gì
nói chệch đường lối của Ðảng, nhất là trong lúc này. Mọi câu trả lời phỏng vấn,
theo kinh nghiệm của tôi, thường bao giờ cũng giống xã luận báo Nhân dân.
Huỳnh Ngự nhìn tôi
cảnh giác. Y rất sợ bị xỏ lá mà không biết, hoặc về tới nhà mới biết.
Mặc cho Huỳnh Ngự
nghĩ gì thì nghĩ, tôi điềm nhiên rót trà cho mình. Trà chát xít ở cổ họng.
- Vậy chớ Nguyễn
Tuân, anh biết hay không biết?
- Nguyễn Tuân thì tất
nhiên tôi phải biết.
- Phan Kế An?
- Tôi biết anh Phan
Kế An.
- Anh sẽ viết một báo
cáo về Phan Kế An chớ?
- Tôi không biết Phan
Kế An tới mức có thể nói gì về anh ấy.
- Còn Phan Kế Hoành?
- Anh Hoành là bạn
tôi.
Huỳnh Ngự hài lòng
thấy tôi sẵn sàng trả lời mọi câu hỏi của y. Y mời tôi, đúng hơn là cho tôi,
một điếu Ðiện Biên.
- Kể cũng lạ, lão
khâm sai đại thần (8) thì cúc cung theo ta, mà mấy đứa con thì như giặc.- ngả
người trên ghế, Huỳnh Ngự nhả khói lên trần.- Anh có biết Phan Kế Hoành hắn
giải thích bôi đen chế độ ra răng không?
- Không. Khi anh Phan
Kế Hoành dạy ở Ðại học Tổng hợp thì tôi ở Liên Xô. Vụ Nhân văn - Giai phẩm tôi
chỉ được nghe kể lại. Mà hình như Phan Kế Hoành không liên quan tới Nhân văn -
Giai phẩm.
- Hắn là Nhân văn -
Giai phẩm một nửa. Hắn với hai thằng Bùi Quang Ðoài, Văn Tâm(9) ở trong nhóm
Ðất Mới.
Tôi nói dối. Tôi biết
chuyện Huỳnh Ngự vừa nhắc tới.
Nó là thế này: sinh
viên hỏi thầy Phan Kế Hoành chuyện báo chí nói nhóm Nhân văn - Giai phẩm bôi
đen chế độ nghĩa là thế nào. Thầy Hoành bèn sai một nữ sinh xuống nhà bếp mượn
cho anh cái chảo. Ðoạn, anh bảo cô sinh viên: “Em xoa bàn tay của em vào trôn
chảo đi, xem tay em đen chưa nào, được rồi, bây giờ em xoa tay lên bảng ! Xoa
đồng nghĩa với bôi. Bôi đen nghĩa là như thế!”
Sau vụ này Phan Kế
Hoành bị tước quyền dạy học. May, người ta còn nể cụ Phan Kế Toại, nên anh chỉ
bị chuyển qua công tác khác.
Cái lối gọi cụ Phan
Kế Toại xách mé như thế chỉ có ở những tên cán bộ hãnh tiến. Chúng không biết
rằng việc một đại thần triều Nguyễn có mặt trong hàng ngũ cách mạng và kháng
chiến là biểu tượng của tinh thần đoàn kết dân tộc, là tấm gương cho nhiều
người trước kia làm việc trong chính quyền thuộc địa noi theo. Nhờ những nhân
sĩ có tên tuổi như cụ Phan Kế Toại đứng bên những người cộng sản mà chính nghĩa
của cuộc kháng chiến chống Pháp thêm rạng rỡ, uy tín của Ðảng cộng sản được
nâng cao.
- Còn Văn Cao?
- Văn Cao thì tôi
biết.
Huỳnh Ngự cười khẩy :
- Phải nói thân mới
đúng chớ! Anh với Văn Cao cùng một hội mà. Các anh gọi Văn Cao là cái chi nhỉ?
Tui nhớ rồi: ông tiên chỉ.
Thì ra y cũng biết
cái biệt hiệu tếu mà chúng tôi đặt cho Văn Cao.
Cái cách hỏi cung của
Huỳnh Ngự là thế: y nhảy lan man từ nhân vật này qua nhân vật khác, từ đề tài
này qua đề tài kia, luôn giữ chặt người bị hỏi cung trong thế bị động.
Trong khi giữ vẻ mặt
bình thản để trả lời những câu hỏi khó hiểu của Huỳnh Ngự, tôi luôn phải căng
thẳng suy nghĩ: y muốn gì?
Nghi ngờ Nguyễn Tuân,
Văn Cao đã đành, hai ông vốn ngang bướng, không cân nhắc lời ăn tiếng nói. Khốn
nỗi, bất cứ cái gì không phải từ Ðảng mà ra đều làm cho Ðảng khó chịu, ngứa
ngáy chân tay, muốn đánh. Nhưng tại sao họ lại vơ cả Tôn Thất Tùng với Tạ Quang
Bửu vào đấy?
Tôn Thất Tùng là một
nhà giải phẫu tài ba. Phương pháp mổ gan khô của ông được đồng nghiệp trên thế
giới đánh giá như một sáng tạo độc đáo trong ngành giải phẫu. Tôi gặp Tôn Thất
Tùng nhiều lần. Ông để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc về một trí thức ngang
tàng. Trong một lần phỏng vấn ông, Tôn Thất Tùng tiếp tôi tại phòng làm việc
trong bệnh viện Việt-Ðức. Thấy tôi nghiêng ngó ngắm bức tượng bán thân của
chính ông đặt ngay sau bàn, sát tường, Tôn Thất Tùng mỉm cười pha chút khiêu
khích: “Anh lấy làm lạ hả, nhà báo?”. Tôi đỏ mặt lên, không biết trả lời ông
thế nào, cứ như thể tôi bị bắt quả tang đang nghĩ xấu về ông vậy. Thái độ bối
rối của tôi làm ông thú vị. “Người ta có tượng của họ, sao mình lại không thể
có tượng của mình ? Anh đồng ý thế không ?”, ông nói.
Chữ người ta mà ông
dùng là để chỉ ông Hồ Chí Minh. Không giấu giếm, cũng không cay cú. Ông ghét
cái sự sùng bái, sự tôn vinh quá mức một con người, đưa con người đó lên hàng
thánh nhân. Chừng ông thấy khắp ngang cùng ngõ hẻm đều có tượng ông Hồ Chí
Minh, ông muốn chơi chướng, bèn thuê nặn tượng mình.
Không rõ nhà điêu
khắc nào đã nặn bức tượng đó. Nó được làm giả chất liệu đồng hun và đặt nghiêm
trang trên đế gỗ. Ðáng tiếc, bức tượng không có được những nét hóm hỉnh rất
sinh động đặc trưng của nhà giải phẫu.
Giáo sư Tạ Quang Bửu
hồi ấy làm chủ nhiệm Ủy ban Khoa học nhà nước. Tòa soạn giao cho tôi viết một
bài giới thiệu về ủy ban, cái thai nhi hứa hẹn trở thành Viện Hàn lâm sau này.
Tại văn phòng đảng ủy, tôi được phó bí thư hay ủy viên thường vụ tiếp, hình như
tên là Lê Duy Văn thì phải, nếu tôi nhớ không nhầm. Người của Ðảng gày nhẳng,
lộ hầu, áo sơ-mi nhàu nát bỏ ngoài quần, đang ngồi bên cái transistor Xiang
Mao. Vào giờ ấy Ðài phát thanh Bắc Kinh đang truyền đi một văn kiện quan trọng.
Trong thời kỳ sôi động của cuộc đấu tranh giữa hai đường lối, đài Bắc Kinh đóng
vai huấn luyện viên môn võ mồm. Trong những ngày ấy nó phát đi phát lại không
mệt mỏi một giáo trình lê thê gồm những bài phê phán Liên Xô, được các nhà
mác-xít nội hóa gọi là những quả đấm dành cho Khrusov.
Tôi được Lê Duy Văn
tiếp niềm nở. Sau một tuần trà, chúng tôi nói chuyện tâm đắc như hai anh
mác-xít chính cống (nghĩa là đặc sệt mao-ít).
- Tôi sẽ bố trí để
đồng chí phỏng vấn hắn,- anh ta tin cậy thì thầm.- Ðồng chí gặp hắn cứ làm ra
vẻ thân mật, trí thức cả với nhau ấy mà, hắn mắc câu ngay thôi, thằng cha vậy
mà cả tin lắm. Thế rồi trong câu chuyện đồng chí mới đặt cho hắn mấy câu hỏi
thế này, thế này... Về bài báo giới thiệu ủy ban xin đồng chí cứ viết theo tài
liệu tôi đưa đây, nó được soạn sẵn cho các nhà báo nước ngoài. Cần thêm vào đấy
cái gì thì thêm, cứ theo lập trường Ðảng ta là được... Phỏng vấn Tạ Quang Bửu
xong, đồng chí ghi được gì xin chuyển cho chúng tôi, càng có nhiều chi tiết
càng tốt.
Tôi muốn đập vào cái
bản mặt “mác-xít lê-nin-nít” đểu cáng của anh chàng này một cái quá.
Trông người mà nghĩ
đến ta, chắc sau lưng tôi cũng chẳng thiếu những ông bạn quý hóa bước ra từ
cùng một lò.
Trong tiếng Việt của
ta cách xưng hô thực phong phú. Vào Hỏa Lò tôi mới biết ở đây, hay nói cho đúng
trong ngành công an, có lệ bất cứ ai bị bỏ tù đều là thằng hết, còn ai chưa bị
bỏ tù, nhưng có thể bị bỏ tù, thì gọi tên không. Cách gọi thằng, con trong ngôn từ chính trị có cội nguồn
của nó. Nó xuất hiện vào cuối cuộc kháng chiến chống Pháp. Chính ông Hồ Chí
Minh dùng cách gọi này trong những cuộc nói chuyện với cán bộ và trong những
bài viết trên báo Cứu Quốc : thằng Mỹ, thằng Pháp, thằng Xihhanúc, thằng Lý
Quang Diệu, thằng Măng-đét Phrăng...
Theo gương ông, về
sau người ta gọi bất kỳ kẻ thù chính trị nào cũng bằng thằng hết : thằng Bảo
Ðại, thằng Diệm, thằng Khánh, thằng Kỳ, thằng Thiệu... Cách gọi như thế được
coi như sự khẳng định lập trường chính trị.
Ðể phân ranh giới,
Huỳnh Ngự gọi những người bị bắt bằng thằng Giang, thằng Chính, thằng Kỳ Vân,
thằng Minh Việt vân vân. Với bác sĩ Tôn Thất Tùng, nhà khoa học Tạ Quang Bửu,
nhà văn Nguyễn Tuân, nhạc sĩ Văn Cao mà Huỳnh Ngự không gọi bằng thằng mà bằng
tên trống không, không có tiếng ông đi trước. Theo tôi hiểu thì điều đó có
nghĩa những trí thức lớn của đất nước tạm thời chưa bị coi là đối tượng của
cách mạng nhưng không còn được nhà cầm quyền tôn trọng.
Tôi cho rằng Ðảng
cộng sản Việt Nam đối xử với trí thức rất không công bằng. Trí thức Việt Nam
thời ấy ngoan ngoãn lắm, dễ bảo lắm. Quằn quại trong thân phận nô lệ, khi đất
nước giành được độc lập, họ tự nguyện đặt mình dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Trong
niềm tin đã được khẳng định qua Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống Pháp,
trí thức sẵn sàng làm bất cứ công việc gì Ðảng cần đến. Không ở đâu trong các
nước xã hội chủ nghĩa có được một tầng lớp trí thức ngoan như thế. Trí thức ở
các nước Ba Lan, Hungari, Tiệp Khắc, Liên Xô, kể cả trí thức Trung Quốc cứng
đầu hơn nhiều.
Ðảng tập hợp họ, bảo
họ chỉnh huấn để củng cố và nâng cao lập trường thì họ thành tín như những cậu
học trò nhỏ ngồi nghe cán bộ Ðảng dạy bảo. Ngỡ ngàng trước những tín điều lạ
tai, lòng nhủ lòng rằng mình mang nhiều tư tưởng của các giai cấp bóc lột nên
không hiểu nổi những điều Ðảng dạy, họ tin cậy đưa tay cho Ðảng dìu dắt, hùng
hổ xỉ vả nhau về những khuyết điểm có thật và không có thật đối với cách mạng,
cặm cụi viết những bản tự kiểm thảo trước Ðảng, hi vọng được Ðảng tha thứ mọi
lỗi lầm, để được đi theo Ðảng tới chân trời cộng sản.
Ðảng bảo phải hạ
phóng, ba cùng(10), thế là họ bỏ bàn giấy, phòng thí nghiệm, giảng đường, ba lô
lên vai xuống nông thôn, chịu cực, chịu khổ, ba cùng với nông dân, ngày ngày tu
dưỡng hòng có được những đức tính của người dân cày chẳng cần học hành cũng
có...
Ðảng hô hào phóng tay
phát động quần chúng làm Cải cách ruộng đất thì họ lăn lộn ngày đêm nơi bùn lầy
nước đọng “thăm nghèo hỏi khổ, bắt rễ xâu chuỗi(11)”. Cùng với đội, với đoàn họ
mẫn cán thực hiện định mức thành phần(12), tìm ra bằng được, cho đủ số kẻ thù
theo chỉ tiêu của Ðảng đặt ra, hăng hái lôi bọn cường hào, ác bá ra đấu tố, ra
pháp trường. Ðến khi Ðảng ngượng ngùng tuyên bố sửa sai thì họ mới ngã ngửa ra
rằng họ, những trí thức, lẽ ra phải lấy nhân ái làm đầu, thì đã theo Ðảng nhúng
tay vào máu. Do quá tin
Ðảng họ nhắm mắt tuân theo, không suy nghĩ, ai ngờ cùng với chủ thuyết lấy đấu
tranh giai cấp làm động lực tiến hóa, Ðảng đã gây ra vô vàn bi kịch trong đời
sống một dân tộc hiền hòa.
Nhưng rồi bị Ðảng dẻo
mỏ thuyết phục rằng sai lầm là nhất thời, thắng lợi là căn bản, họ lại lẽo đẽo
theo Ðảng, dùng uy tín của trí thức lôi kéo nhân dân vào những phong trào lẩm
cẩm, thậm chí phản khoa học, như cấy dày để tăng sản lượng lúa, cắt đuôi, cắt
tai, cắt tuyến giáp trạng của lợn cho lợn mau lớn, tăng năng suất vận tải bằng
một xe kéo nhiều rơ-moóc... Kịp tới khi những cánh đồng cấy dày chỉ cho rơm chứ
không cho thóc, những con lợn bị cắt đuôi, cắt tai, cắt tuyến giáp trạng(13)
lăn đùng ra chết tốt, những chiếc xe tải kéo nhiều rơ-moóc hỏng hàng loạt thì
họ lại ngã ngửa ra lần nữa, chợt thấy Ðảng chẳng hề là trí tuệ và lương tâm
thời đại như báo Ðảng quảng cáo, mà chỉ là một mớ tạp pí lù những kiến thức
chắp vá học mót ở những thầy mo bên Tàu.
Vị trí của trí thức ở Việt Nam thật thảm hại. Số phận của
họ cũng thảm hại không kém.
Vừa sử dụng vừa dè
chừng trí thức, không thực lòng đoàn kết với họ, là sách lược của Ðảng. Cứ mỗi
khi xuất hiện một biến cố chính trị là mỗi lần Ðảng phải căng mắt theo dõi mọi
động thái của trí thức, tay lăm lăm dùi cui và còng số 8. Lần này cũng vậy. Sau
vụ “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” ở Trung Quốc, vụ Nhân văn - Giai phẩm
ở Việt Nam, sau những biến cố chính trị ở Hungari, Ba Lan, Tiệp Khắc, người ta
còn đề cao cảnh giác hơn nữa đối với đám trí thức bất trị.
Những cuốn sách được
viết ra dưới ánh sáng duy nhất của đường lối Ðảng vẫn bị xem đi xét lại nhiều
lần trước khi được xuất bản. Hội họa là lĩnh vực các nhà lãnh đạo i tờ nhất, họ
vẫn đòi xen vào để dạy bảo. Trường Chinh thân hành duyệt những cuộc triển lãm
hội họa. Tôi còn nhớ chuyện bức Ô Quan Chưởng, được coi là một trong những
tranh đẹp nhất của Bùi Xuân Phái, bị Trường Chinh nhận xét thế nào. “Hừm, thế
này mà là tranh à ?! - chắp tay sau lưng, Trường Chinh đứng lâu trước bức
tranh, ngắm nghía.- Hà Nội là thủ đô của nước Việt Nam đang tiến lên chủ nghĩa
xã hội hay là một thành phố chết ? Các đồng chí nhìn xem : phố Hà Nội không
người, chỉ có nắng chang chang với hoa phượng rụng đầy như máu, có một chiếc
xích-lô thì người đạp xích-lô cũng đi đâu mất... Giá mà xa xa, ở hậu cảnh có
lấy vài cái cần trục chứng tỏ chúng ta đang xây dựng thì còn tha thứ được, đàng
này... !” Bức tranh bị ông Trường Chinh loại khỏi cuộc triển lãm.
Bùi Xuân Phái gọi
những bức tranh không bao giờ được triển lãm là tranh quay mặt vào tường.
Anh vẽ chúng trên
gian gác lửng tối mò ở Phố Hàng Thuốc Bắc. Thứ gác này mới xuất hiện vào cuối những
năm 50, chia căn phòng thành hai theo chiều cao, đứng thẳng là đụng trần, đi
lại phải lom khom. Dưới cái gác lửng của anh vừa là nhà ở, vừa là phòng ăn, vừa
là phòng học của con cái. Tôi uống trà với anh trong ánh sáng mờ ảo của ngọn
đèn 60 oát trộn lẫn ánh sáng tự nhiên khuếch tán, ngắm những bức tranh quay mặt
vào tường được anh lôi ra từng cái một.
Chẳng cứ tranh. Nhiều
truyện ngắn cũng chung số phận. Chúng không bao giờ được nhìn thấy ánh sáng mặt
trời mà chỉ tồn tại ở dạng kể. Kim Lân gọi chúng là những truyện ngắn xuất bản
bằng mồm. Anh có một truyện ngắn kiểu đó, truyện Thằng Câm. Tourgueniev cũng có
một truyện ngắn với đề tài tương tự, nhưng xem ra khó vượt nổi Kim Lân. Thằng
Câm chẳng bao giờ ra đời. Cho đến lúc có thể viết được thì Kim Lân không còn
hứng thú. Gặp anh tại Sài Gòn năm 1990, tôi nhắc anh truyện Thằng Câm thì Kim
Lân cười buồn : “khốn nạn cái số Thằng Câm nhà tôi nó vất vả, nó chết yểu là do
thiên định, thôi thì để cho nó mồ yên mả đẹp, có dựng nó dậy cũng chẳng được,
mà cũng chẳng ích gì”.
Tôi buồn cho thân
phận văn nghệ sĩ nước ta. Nào họ có muốn đấu tranh với ai. Họ chỉ muốn được
sống yên để làm công việc mình yêu thích. Mà không được !
Lần này, vào thời
điểm trào lưu dân chủ ào ào dâng lên tại các nước xã hội chủ nghĩa, trí thức
Việt Nam lẳng lặng đứng về phía những người anh em của mình. Ðó là làn sóng
ngầm bên dưới mặt nước phẳng lặng.
Ai cũng biết trí thức
được đào tạo tại phương Tây hay tại các nước xã hội chủ nghĩa chẳng có gì đáng
gọi là lực lượng, nhưng lại có tình yêu và lòng ngưỡng mộ của quần chúng. Trong
mọi biến động lịch sử trí thức bao giờ cũng đi tiên phong. Mao thừa nhận tác
dụng ngòi nổ của tầng lớp này trong cách mạng, nhưng khi cách mạng thành công,
Mao nói, trí thức sẽ là vật cản bởi tính chất lừng chừng, dao động của nó.
Trong những vụ nổi dậy ở Ba Lan, Hungari, Tiệp Khắc, trí thức, nhất là trí thức
trẻ - sinh viên và học sinh - ào ào xuống đường, kéo theo các tầng lớp khác.
Tấm gương tầy liếp đó làm cho những nhà lãnh đạo Việt Nam luôn dè chừng trí
thức.
Khẩu hiệu “trí, phú,
địa, hào - đào tận gốc, trốc tận rễ” trong cuộc nổi dậy Xô-viết Nghệ Tĩnh bộc
lộ tâm trạng hằn thù trí thức của những kẻ dốt nát. Tâm trạng này có chiều sâu
lịch sử, từ những cuộc trấn áp tàn bạo cho tới những vụ đốt sách chôn học trò.
Ðòn đánh không trực
diện nhằm vào trí thức lần này giáng xuống những người cộng sản thân trí thức.
Ðó là những người cách mạng ý thức được nhược điểm của mình. Họ thừa nhận mình
dốt, và họ tìm được sự bổ sung cho lỗ hổng kiến thức bằng sự liên kết chặt chẽ với
trí thức.
Những người cộng sản thiếu học không hiểu rằng mục đích
cuối cùng của cách mạng vô sản, theo Mác, không phải chỉ nhằm giải phóng
thân phận nô lệ của người vô sản mà là giải phóng con người nói chung, nhằm
“đưa con người từ vương quốc tất yếu qua vương quốc tự do”. Mác không tưởng trong hình dung xã hội tương
lai, nhưng mục đích của ông đầy tính nhân đạo.
Ðánh vào những người
cộng sản chủ trương dân chủ hóa xã hội, xóa bỏ chế độ toàn trị, là thủ tiêu chỗ
dựa tinh thần của trí thức, thủ tiêu ý chí đấu tranh của trí thức, đặt trí thức
vào đúng vị trí Ðảng muốn : vị trí của thằng hầu.
Duẩn-Thọ là những nhà
chính trị không đần độn. Không cần ai dạy bảo họ cũng thấy trước được điều gì
sẽ xảy ra cho vị trí kẻ cầm quyền dựa trên sức mạnh bạo lực. Họ biết quần chúng
sớm muộn cũng sẽ biết bộ mặt thật của họ. Tương lai làm họ sợ hãi. Trong cơn sợ
hãi họ tung đòn đánh trước.
Ông Bùi Công
Trừng(14) nói với tôi: “Cháu nhớ lấy, ở đời dốt nát với hiểu biết như nước với
lửa. Họ dốt (tức các nhà lãnh đạo), đã thế lại không chịu học, thánh nhân phải
học sao còn là thánh nhân, thành ra đã dốt lại càng dốt thêm. Dốt ghét giỏi là
lẽ thường tình. Trí thức nước mình còn khổ, chừng nào thằng dốt còn đè đầu
thằng giỏi. Cái đó là bi kịch không phải của một mình nước ta mà của tất cả các
nước xã hội chủ nghĩa. Bác già rồi, số tận rồi, nghĩ mà thương các cháu”.
Ông Bùi Công Trừng
nằm trên giường bệnh thở oxy vẫn đọc sách. Tôi nhớ rõ ông là người gióng hồi
chuông báo động sớm nhất về nạn phá rừng. Ngay từ cuối thập niên 50, khi vấn đề
môi sinh chưa trở thành vấn đề gay gắt toàn cầu, ông đã viết những bài về việc
phải bảo vệ tài nguyên thiên nhiên. Ông phàn nàn với tôi : “Cháu ơi, tội ác của
chúng nó lớn lắm - đất đai mình rừng vàng biển bạc thiệt, nhưng đâu phải vô
tận. Giờ chúng hô hào tăng gia sản xuất tràn lan, dân được thể phá rừng quá xá.
Mấy năm trước, cháu còn nhớ không, lên tới Ðoan Hùng đã là rừng rồi. Bây giờ
đến tận Tuyên Quang còn là trung du ! Bọn chúng chỉ có phá là giỏi !”. Ông để
lại một tập sách dày gồm những suy nghĩ của ông về phát triển kinh tế địa
phương, kết quả của những nghiên cứu sâu sắc và khoa học, đến tận thời kỳ “bung
ra” (1979-1980) vẫn còn đắc dụng cho các tỉnh ủy.
Cuộc trấn phản đang
diễn ra ở miền Bắc Việt Nam là bản sao của cuộc trấn phản trong và sau Ðại cách
mạng văn hóa vô sản ở Trung Quốc. Trong tình hình đất nước đang có chiến tranh
người ta giới hạn mục tiêu trong sự vô hiệu hóa một số ủy viên Bộ Chính trị và
ủy viên Trung ương có khả năng thế chỗ ban lãnh đạo đương thời một khi xảy ra biến
động. Ðòn mạnh hơn được giáng xuống những người cộng sản ở cấp thấp hơn.
Charles Fourniau, nhà
sử học Pháp có nhiều công trình nghiên cứu về Ðông Nam Á, đã từng chiến đấu bên
cạnh nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc 1946-1954, trong
một hội thảo bàn tròn vào cuối thập niên 70 đã huỵch toẹt ra rằng: “Trung Quốc,
Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Kampuchea là những xã hội cùng chung một mô hình, chỉ
khác nhau ở cấp độ mà thôi”.
Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ
không phải Mao Trạch-đông. Họ không có và chẳng bao giờ có được cái vĩ đại mà
Mao có. May cho Việt Nam, trong chuyện hành hạ trí thức, Duẩn-Thọ hành động còn
rụt rè. Trí thức dưới thời Duẩn-Thọ chỉ bị hành hạ cho tới thui chột đi mà
thôi. Lại một lần nữa Nguyễn Tuân có dịp để chơi chữ. Ông nói: “Ở Cam-pu-chia
Pôn-Pốt diệt chủng, ở ta êm nhiều, người ta chỉ tuyệt chủng thôi !”.
Một đặc điểm của thời
kỳ này là đường lối đánh đu giữa hai cọc. Trên những trang báo Nhân dân, và các
báo khác cũng thế, cứ mỗi bài nói tới Liên Xô thì lại có một bài nói về Trung
Quốc, với số dòng tương đương, với cỡ chữ tương đương, không bên nào được lớn
hơn bên nào. Ðường lối này được giữ trong một thời gian dài trong cuộc xung đột
ý thức hệ chủ yếu là nhờ ông Hồ Chí Minh. Vai trò “tôi là người giữa tôi chữa
đôi bên” của ông, đáng tiếc, đã tỏ ra không bền. Vị thế trung dung sở dĩ tồn
tại được một thời gian còn nhờ ở tâm trạng do dự của Lê Duẩn. Một mặt, Lê Duẩn
sợ Mao Trạch-đông nổi nóng thấy Việt Nam không nồng nhiệt hưởng ứng cuộc chiến
tranh tư tưởng do ông ta tiến hành chống Liên Xô. Mặt khác, Lê Duẩn sợ những
người chủ mới của điện Kremli lạnh lùng thắt hầu bao lại. Những ý kiến đối
nghịch ở trong nước không được Lê Duẩn tính đến, hoặc không được tính đến một
cách nghiêm túc. Chuyện nội bộ Duẩn để cho Thọ toàn quyền. Cho nên mới có
chuyện cùng một lúc Lê Duẩn thề thốt trung thành với Liên Xô, Lê Ðức Thọ bắt
bọn xét lại hiện đại.
Có vẻ số dê tế thần
của nước chư hầu chưa đủ làm vừa lòng Mao. Anh bạn nhà báo Hoa kiều tên là Lâm
Âm cùng công tác với tôi tại báo ảnh, một Hồng vệ binh chính cống ở xa tổ quốc,
đã bật ra điều này trong cơn tức giận. “Mao chủ tịch dạy rằng: đánh giá cán bộ
phải căn cứ ở việc làm chứ không ở lời nói.- anh ta nói.- Ðảng cộng sản Trung
Quốc coi những kẻ ngoài miệng chống xét lại mà không làm việc gì chống xét lại
cũng là một thứ xét lại! Hết thảy bọn chúng đều là cỏ dại!”(15).
Tôi không làm chính
trị. Tôi cũng chẳng có mưu toan làm lung lay ngai vàng của Duẩn-Thọ. Mộng lớn
nhất của tôi là được sống yên lành để được làm công việc mà tôi yêu thích. Ngoài
cái đó ra tôi chỉ vỏn vẹn là một anh tiểu trí thức Việt Nam đặc thù : một nhúm
kiến thức tây học trộn với nắm tro tàn của tinh thần nho sĩ xưa mà thành.
Thôi được, đành phải
nhu vậy. Cái thế không thể khác. Nhưng nhu là nhu tới mức nào đây ? Nhu quá là
đầu hàng vô điều kiện.
Tôi biết mình chẳng
bao giờ học được thói luồn cúi. Riêng sự phải lặng thinh nuốt nhục vào lòng đối
với tôi cũng đã khó lắm rồi. Khó hơn chết. Cái chết chẳng có gì đáng sợ. Nó là
cái tặc lưỡi, cái nháy mắt, sau đó là hết, là cõi hư vô.
Sống mới thực là khó.
------------
Chú thích
(1) “Ðắc chí, dữ dân
do chi, bất đắc chí, độc hành kỳ đạo, phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng
di, uy vũ bất năng khuất, thử vị chi đại trượng phu”, nghĩa là “lúc đắc chí thì
cùng với dân mà hành đạo, không đắc chí thì hành đạo một mình, khi giàu sang
không ham mê tửu sắc, lúc nghèo hèn không dời đổi tiết tháo, trước uy vũ không
khuất phục” (Sách Mạnh tử, Ðằng Vân công Hạ)
(2) Nhà văn
(1933-1995), nhà biên kịch.
(3) Theo các đồng chí
cũ của cha tôi kể lại thì công tác chính của cha tôi trong thời kỳ bí mật là
chắp nối các cơ sở Ðảng, vận động trí thức.
(4) Một trong những
bí danh của Nguyễn Lương Bằng.
(5) Nguyên bí thư xứ
ủy Bắc kỳ.
(6) Tôn Thất Tùng,
được Nhà nước Việt Nam tặng danh hiệu anh hùng lao động, một nhà giải phẫu tài
năng, nổi tiếng trong giới phẫu thuật gia trong nước và thế giới.
(7) Trà pha thật đặc,
nói thậm xưng là cắm que tăm vào mà que tăm vẫn đứng chứ không đổ.
(8) Cụ Phan Kế Toại
năm 1945 là Khâm sai đại thần của chính phủ Nam triều. Ði với cách mạng, cụ giữ
chức bộ trưởng Bộ Nội vụ (công việc khác với Bộ Nội vụ bây giờ). Họa sĩ Phan Kế
An là con trưởng cụ Phan Kế Toại, nhà nghiên cứu sân khấu Phan Kế Hoành là con
thứ.
(9) Khi có vụ Nhân
văn - Giai phẩm Bùi Quang Ðoài và Văn Tâm (nhà nghiên cứu văn học, nhà thơ) ở
trong nhóm Ðất Mới của sinh viên, lập trường gần với nhóm Nhân văn - Giai phẩm.
(10) Hạ phóng, từ ngữ
đặc Trung Quốc, có nghĩa đi xuống dưới, xuống cơ sở, xuống với dân. Ba cùng :
cùng ăn, cùng ở, cùng lao động.
(11) Vận động bần cố
nông đấu tranh với địa chủ bằng cách từ một nông dân bị bóc lột nhiều nhất,
nặng nề nhất lôi kéo các nông dân khác.
(12) Trong Cải cách
ruộng đất ở Việt Nam, người ta không xuất phát từ tình hình cụ thể của địa
phương mà định mức thành phần, bất kể có phù hợp hay không, chẳng hạn người ta
đề ra là 5% địa chủ thì đội cải cách cứ phải tìm ra cho đủ số.
(13) Những người tò
mò có thể tìm thấy trong thư viện những bài báo cổ động cho những phong trào
lẩm cẩm này trong chính báo Nhân dân những thập niên 50-60.
(14) Bùi Công
Trừng(1902-1977) là một nhà cách mạng cộng sản thuộc lớp kỳ cựu, tốt nghiệp Ðại
học Phương Ðông Moskva, ủy viên Trung ương Ðảng, cựu tù nhân Côn Ðảo, phó chủ
nhiệm ỷy ban Khoa học Nhà nước đầu thập niên 60.
(15) Lâm Âm về sau
cũng bị bắt (không có án) khi Trung Quốc tấn công Việt Nam. Nghe nói rồi anh
được thả, hiện sống tại Sài Gòn.
Chương 15
Trên
nền cuộc đấu tranh giữa hai đường lối với rất nhiều vấn đề của phong trào cộng
sản quốc tế trong hai thập niên 50 và 60 nổi bật lên sự lựa chọn, hoặc nói cho
đúng hơn, cuộc đấu tranh giữa hai xu hướng tổ chức xã hội : dân chủ và độc tài.
Ðại hội XX Ðảng cộng
sản Liên Xô đặt trước các đảng cộng sản sự lựa chọn không thể thoái thác : hoặc
là chủ nghĩa xã hội kiểu Stalin, hoặc là chủ nghĩa xã hội cách tân đi về phía
dân chủ ?
Lê Duẩn, nhà lãnh đạo
toàn quyền vào những năm đó, không cần suy nghĩ nhiều, chọn tư tưởng Mao và mô
hình Trung Quốc làm nền tảng cho cách cai trị. Ðó là sự lựa chọn duy nhất có
thể có đối với Lê Duẩn, sự lựa chọn bẩm sinh, thích hợp nhất. Có anh nhà quê ra
tỉnh nào mà lại thích thú những sự phiền toái, những cái đòi hỏi phải động não
trong đời sống thành thị. Vốn
là một nhân viên bẻ ghi đường sắt trước khi trở thành nhà độc tài, Lê Duẩn tất
nhiên muốn chỉ bằng một cú gạt là bắt được con tàu quốc gia chạy theo hướng
mình muốn.
Nhưng hoàn cảnh Việt
Nam lúc ấy buộc ban lãnh đạo Ðảng cộng sản Việt Nam, bất kể xu hướng của nó thế
nào, phải khôn khéo giữ bề ngoài trung dung, không dám ngang nhiên chửi bới
Liên Xô, chửi bới trào lưu dân chủ đang dâng cao trong thế giới cộng sản.
Thế là vào cuối năm
1963(1) xuất hiện Nghị quyết 9, một nghị quyết nửa dơi nửa chuột, không có lập
trường rõ ràng đối với cuộc xung đột tư tưởng đang diễn ra gay gắt trong lòng
phong trào cộng sản quốc tế. Trong nghị quyết này Ðảng Việt Nam vừa nói chống
chủ nghĩa xét lại hiện đại vừa nói chống chủ nghĩa giáo điều(2), với câu chữ
kín kẽ, rất kinh viện, trong một hệ khái niệm độc đáo, khó mà hiểu được người
viết nghị quyết muốn gì. Liên Xô đọc cũng không thể bực mình, Trung Quốc đọc
cũng không thể tức giận. Theo lời đồn thì tác giả của cái nghị quyết nước đôi
này, hay nói cho đúng hơn, người chấp bút nó, là nhà kinh viện Trường Chinh, đã
nhoài người ra giúp rập chủ soái Lê Duẩn đóng thật đạt màn kịch “em chã, em chã”
với cả hai bên tranh chấp.
Ấy thế mà cái Nghị
quyết 9 lươn lẹo, được nhào nặn bởi chủ gánh xiếc ngôn ngữ Trường Chinh, lại ra
đời không được thông đồng bén giọt như các nghị quyết khác, theo thông lệ bao
giờ cũng được “nhất trí” thông qua bằng những cánh tay giơ cao. Khốn thay,
trong giai đoạn này đã xuất hiện làn sóng ngầm của xu hướng dân chủ trong Ðảng,
được cả một số ủy viên Trung ương tán thành. Nghị quyết 9 là cái Lê Ðức Thọ và
đàn anh Lê Duẩn cần có để trấn áp trào lưu dân chủ nọ. Nó phải được ra đời,
bằng bất cứ giá nào. Và, về đại thể, Duẩn-Thọ đã thành công.
Trong Nghị quyết này,
mặc dầu lời lẽ mù mờ, lập trường mao-ít của liên minh Duẩn-Thọ, là rõ ràng đối
với bất cứ ai không mù.
Sợ các đảng viên hiểu
lầm, Trường Chinh giải thích thêm trong một cuộc họp phổ biến Nghị quyết 9 cho
các cán bộ cao cấp vào tháng giêng năm 1964 rằng: “Cần lưu ý các đồng chí một
điều là Nghị quyết 9, do tình hình phức tạp trong phong trào cộng sản quốc tế
không thể viết hết ra những điều cần nói. Cần đặc biệt lưu ý rằng thực chất của
Nghị quyết 9 chỉ có thể phổ biến bằng miệng, điều đó là : đường lối đối ngoại
và đối nội của Ðảng và Nhà nước ta là thống nhất về cơ bản với đường lối đối
ngoại và đối nội của Ðảng cộng sản và Nhà nước Trung Quốc”. Cách phổ biến bằng
miệng, sợ hãi sự ghi ra rõ ràng trong văn bản chứng tỏ tính hội kín của ban
lãnh đạo Ðảng thời kỳ ấy. Làm ra vẻ có sự phân công quốc tế trong việc đánh xét
lại, Lê Ðức Thọ nói cho rõ hơn nữa trong một cuộc họp khác: “Chống chủ nghĩa
xét lại hiện đại về mặt lý luận ta để cho Ðảng cộng sản Trung Quốc làm, còn về
mặt tổ chức thì ta tự làm lấy”.
Cuộc đánh xét lại
bằng nước bọt bắt đầu. Khắp nơi người ta chửi bới thằng trọc(3), chửi Liên Xô
hèn, Liên Xô sợ Mỹ, Liên Xô phản bội. Một việc mua bán bột mì thông thường của
Liên Xô trong khi nước này thiếu hụt lương thực được coi như một thất bại thảm
hại trên mặt trận nông nghiệp. Những cổ động viên bóng đá quên bẵng tinh thần
thể thao, gào khản giọng trên sân cỏ trong một trận đấu giao hữu : “Oánh bỏ mẹ
bọn xét lại đi !”. Những người không đồng tình, lỡ miệng nói câu nào không
giống lập trường của Ðảng lập tức bị chụp cho cái mũ xét lại hiện đại.
Với Nghị quyết 9 Ðảng
cộng sản Việt Nam phân hóa thành hai cực - một bên là những người chủ trương
chủ nghĩa xã hội dân chủ pháp trị, đòi kiến tạo một xã hội công dân có nhân
quyền, bên kia là Ðảng cầm quyền kiên trì một chủ nghĩa xã hội chuyên chế.
Ðó là những ngày
không thể nào quên.
Dương Bạch Mai, con
hổ dữ chống lại đường lối thân Trung Quốc đột tử khi ông đang dự cuộc họp Quốc
Hội tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Vào lúc giải lao, các đại biểu kéo nhau đi uống bia
ở bar, ông Mai thết trước các bạn một chầu bia mừng sinh nhật ông hôm sau. Ông
ngã xuống, ly bia chưa cạn. Khi xe cấp cứu đến, bác sĩ Tôn Thất Tùng định nhảy
lên cùng đi tới bệnh viện thì hai thanh niên lực lưỡng áp sát ông: “Mời bác sĩ
quay lại tiếp tục cuộc họp Quốc Hội, việc nước quan trọng hơn”. Chiếc xe cấp
cứu phóng đi trước khi Tôn Thất Tùng hiểu chuyện gì xảy ra với ông, hai thanh
niên kia là ai và tại sao họ lại ngăn cản ông đi cùng xe để săn sóc bạn ông ?
Cái chết của Dương
Bạch Mai gợi nên một nghi vấn. Ông ngã xuống đúng vào lúc ông sắp sửa đọc một
diễn văn nảy lửa chống lại đường lối xây dựng xã hội trại lính kiểu Mao
Trạch-đông, đòi Ðảng phải cải thiện đời sống cho dân chúng, đòi thực hiện dân
chủ trong nội bộ Ðảng, trong xã hội, và hàng loạt vấn đề khác. Bài diễn văn ông
đút trong túi áo để đọc trước Quốc Hội biến mất. Nhà báo Thái Hồng, rất thân
với Dương Bạch Mai, được đọc bản thảo diễn văn mấy hôm trước đó nói rằng đó là
một tuyên ngôn cháy bỏng, hùng hồn và cực hay. Ðược tin ông Mai mất đột ngột,
bà Mai từ giã các cháu học sinh miền Nam ở Thủy Nguyên về Hà Nội để làm ma cho
chồng. Ngôi nhà của ông bà bị công an gác. Bà phải làm dữ mới vào được nhà
mình. Trong nhà đồ đạc bị lục soát tung tóe.
Dương Bạch Mai là một
trong những nhà lãnh đạo phong trào cách mạng ở miền Nam(4). Ông cũng là một
trí thức yêu nước của đất Nam bộ. Ông từng du học Pháp, gia nhập Ðảng cộng sản
Pháp năm 1926. Trong cuộc nổi dậy mang tên Nam kỳ Khởi nghĩa ông được ủy ban
khởi nghĩa dự kiến làm thủ tướng chính phủ cách mạng. Năm 1935 Dương Bạch Mai
trúng cử vào Hội đồng thành phố Sài Gòn trước sự bực bội của chính quyền thuộc
địa. Dương Bạch Mai cũng là một trong những nhân vật chủ chốt của tờ La Lutte,
tờ báo cách mạng đầu tiên có sự bắt tay giữa những người cộng sản và những
người tờ-rốt-kít thuộc nhóm các ông Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn
Thạch(5).
Tính cương trực, nóng
nảy, chịu ảnh hưởng nặng những tư tưởng dân chủ của Ðại cách mạng Pháp, đã quen
với cách xử thế bình đẳng kiểu phương Tây, ông không được lòng những nhà lãnh
đạo gốc Bắc. Chính Dương Bạch Mai chứ không phải ai khác đã vực dậy cả Ban chấp
hành Trung ương bạc nhược sau thất bại Cải cách ruộng đất. Hội nghị cán bộ
Trung ương kiểm điểm công tác Cải cách ruộng đất diễn ra trong bầu không khí ảm
đạm trước viễn cảnh một miền Bắc tiêu điều, thù hận. Dương Bạch Mai đã đứng
lên, cao giọng hát bản Internationale(6), mọi người hát theo ông, và Hội nghị
lấy lại được tinh thần.
Ông Phạm Ngọc
Thạch(7), trong một câu chuyện vui tại nhà tôi hồi đầu thập niên 60, nói với
ông Dương Bạch Mai :
- Mấy chả không ưa
mầy, vì mầy thẳng ruột ngựa, nghĩ sao nói dzậy, làm mấy chả mếch lòng, mới lôi
cái vụ mầy hợp tác với đám tờ-rốt-kít ra mà rêu rao.
- Thì mầy cũng bị mấy
chả rêu rao là có thời thân Nhật đó thôi. Chơi với tờ-rốt-kít thì mầy cũng chơi
chớ bộ.- ông Dương Bạch Mai cười ngất.- Nè, cẩn thận đó, sổ đen của mấy chả chỉ
có ghi thêm vô chớ không có xóa đi đâu nghen.
Theo cha tôi, thái độ
của những người lãnh đạo Ðảng cộng sản Việt Nam đối với những người tờ-rốt-kít
là không thể hiểu được. Họ có thể đoàn kết với bất cứ ai khác, trừ những người
tờ-rốt-kít, thậm chí cả trong những hành động cụ thể chống lại nhà cầm quyền
thuộc địa. Ðể giải thích thái độ bất cộng đới thiên này, người ta dẫn ông Hồ
Chí Minh : “Ðối với bọn tờ-rốt-kít không thể có một thỏa hiệp hay nhân nhượng
nào cả. Phải lột mặt nạ chúng như là tay sai của phát-xít, phải tiêu diệt chúng
về chính trị.” (trích báo cáo của ông gửi Quốc tế Cộng sản cuối năm 1939). Quả
ông Hồ có viết như vậy. Lập trường cứng rắn này của ông được những người nghiên
cứu tiểu sử ông giải thích bằng sự cần thiết phải thanh minh trước một Quốc tế
đa nghi dưới sự chỉ đạo của Stalin sắt thép. Hồi ấy Quốc tế nghi ngờ lập trường
cách mạng vô sản của ông Hồ, cho rằng nó không vững chãi. Ông cần sự ủng hộ của Quốc tế
cho mục đích giải phóng dân tộc hay ông cần tiền để sống qua ngày trong khi còn
lang bạt nơi đất khách quê người, mà Quốc tế là nguồn cấp đỡ? Ðó là điều
không ai biết.
Ông Dương Bạch Mai
nói với tôi rằng ông không được lòng ông Hồ Chí Minh. Dương Bạch Mai có cái tật
sống quá thẳng. Ông ngang tàng, không chịu gò mình vào tôn ti trật tự phong
kiến, ông bạt mạng trong lời ăn tiếng nói. Ðã quen với những lời tâng bốc, xưng
tụng, ông Hồ Chí Minh không ưa ông cũng phải.
Trường Chinh cũng
không ưa Dương Bạch Mai. Ðiều này không khó hiểu. Trong Trường Chinh có mặc cảm
của kẻ ngã ngựa. Sau sai lầm Cải cách ruộng đất, ông đinh ninh ai cũng coi thường
mình. Dương Bạch Mai phản đối Nghị quyết 9 thì Trường Chinh lại coi là ông phản
đối mình.
Lê Duẩn đặc biệt
không ưa Dương Bạch Mai. Theo nhận định của những người từ Nam bộ ra Bắc tập
kết thì sự không ưa này không phải vì nguyên do chính trị. Cái chính là Lê Duẩn
biết mình chẳng bao giờ có được cái mà Dương Bạch Mai có - sự nổi tiếng với tư
cách một thủ lĩnh có trí tuệ. Dương Bạch Mai nói về Lê Duẩn : “Cháu để ý tới
cái thằng cha ấy làm chi ! Tâm trí bậc nam nhi là để cho sự nghiệp, thằng này
thời chỉ lo kiếm chác vinh quang và quyền lực, lúc nào cũng nơm nớp sợ người
khác hơn mình. Sự nghiệp và vinh quang là hai thứ khác nhau, như ngôi nhà với
nước vôi phủ bên ngoài nó, cháu à !”
Dương Bạch Mai, nếu
còn sống chắc sẽ chịu chung số phận với chúng tôi. Không phải chắc, mà chắc
chắn.
Từ khi có cuộc đấu
tranh giữa hai đường lối, ông chống lại việc đưa nước Việt Nam vào quỹ đạo chủ
nghĩa Mao. Ông gọi chủ nghĩa Mao là món tạp pí lù(8) của thổ phỉ. Giữa lúc
ngành tuyên truyền Việt Nam đưa Mao Trạch-đông lên hàng thánh sống thì ông
ngang nhiên gọi Mao là tên đao phủ của đại pháp trường Trung Quốc. Ông giải
thích tình hình loạn lạc hiện tại ở nước láng giềng bằng lập luận rằng vào đầu
thập niên 30 giai cấp công nhân Trung Quốc chủ yếu tập trung ở các thành phố
duyên hải, trong cuộc chiến tranh Quốc-Cộng những đại biểu ưu tú của giai cấp
này đã chết dần chết mòn trong Vạn lý trường chinh, và thay vào chỗ của họ là
bọn cường đạo thảo khấu thu nạp ở dọc đường. Cho nên khi biên khu
Thẩm-Cam-Ninh, Tân-Ký-Sát hình thành thì về thực chất Ðảng cộng sản Trung Quốc
đã là một đảng thổ phỉ, đứng đầu là thành phần vô sản lưu manh. Những người
cộng sản bị Mao Trạch-đông và Khang Sinh thủ tiêu dần. Người còn sống sót thì
bị ám hại trong những “cuộc vận động cách mạng” thường trực. Chính cái đó dẫn
tới tình trạng bất ổn liên miên trong nước Trung Hoa xã hội chủ nghĩa.
Những nhận định ngược
đời của Dương Bạch Mai làm cho các nhà lãnh đạo Việt Nam hết hồn.
Sở dĩ ông chưa bị
đụng tới là vì ông có danh tiếng, có uy tín lớn trong quần chúng.
Dương Bạch Mai qua
đời khi đang là ủy viên Ban Thường vụ Quốc Hội, phó chủ tịch Hội Việt-Xô hữu
nghị. Sau này, nhân vụ tướng Hoàng Văn Thái rồi tướng Lê Trọng Tấn thay nhau
đột tử đúng lúc chuẩn bị nhậm chức bộ trưởng Bộ Quốc phòng dư luận lại nhắc tới
cái chết đáng ngờ của Dương Bạch Mai nhiều năm về trước.
Ngày đưa tang ông,
văn nghệ sĩ và trí thức nghèo của Hà Nội chung nhau một vòng hoa để bày tỏ lòng
thương tiếc ông, Người của mọi người. Vũ Huy Cương và Dương Tường(9) đứng ra
thu tiền phúng.
Tôi thay mặt anh em
văn nghệ sĩ có xu hướng dân chủ mang vòng hoa tới trụ sở Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam ở ngã tư Tràng Thi - Quán Sứ. Anh em cử tôi làm việc đó vì tôi là loại vua
biết mặt chúa biết tên rồi, có muốn giấu cũng không được, còn người khác thì không
nên lộ mặt làm gì. Khi tôi ngồi xe xích lô chở vòng hoa đến đấy thì đã có cả
một đám đông cá chìm lăng xăng ở ngoài đường và trong sân. Thấy vòng hoa lớn
quá, lớn hơn nhiều so với vòng hoa của chính phủ viếng ông, với dải băng chạy
ngang “Kính viếng hương hồn đồng chí Dương Bạch Mai, người cộng sản suốt đời
trung thành với lý tưởng” bọn cá chìm ập tới. Hai tên lực lưỡng xăng xái xông
tới khiêng giúp tôi, không phải để đặt vòng hoa trước linh cữu mà để đưa thật
nhanh vào một chỗ khuất nẻo. Tôi còn đang lúng túng chưa biết xử trí ra sao thì
Bửu Tiến(10) xuất hiện. Anh cùng tôi đưa vòng hoa ngược trở lại, đặt nó bên
những vòng hoa khác. Trước linh cữu Dương Bạch Mai anh nghẹn ngào đọc bài thơ
chia tay: “Hoa mai mừng sinh nhật. Hôm nay đành viếng anh...”. Trở ra, Bửu Tiến
mắt đẫm lệ: “Chúng nó trắng trợn quá! Tởm quá!”.
Khi xe tang chuyển
bánh, tôi đi ngay sát linh cữu, lòng tràn ngập niềm thương tiếc bác Mai của
tôi, mà tôi được biết từ những ngày Tháng Tám sôi nổi(11). Ði sau tôi là Trường
Chinh, Hoàng Quốc Việt, hai cái mặt nạ đóng cứng nét vĩ đại tự tạo. Quần chúng
tràn ngập ngã tư Quán sứ, lặng lẽ tiễn chân ông, làm thành một dòng người kéo
dài cả cây số(12)
Bửu Tiến những ngày
sau đó trầm lặng hẳn. “Cái chết bi thảm của ông Mai là dịp cho tôi rà soát lại
mình,- anh nói.- Mình có nên cứ hèn mãi để mà sống dai không?”.
Tôi với Bửu Tiến gần
nhau nhiều trong những ngày chỉnh huấn chuẩn bị đi học nước ngoài, đầu năm
1954. Mọi người nằm trong danh sách cán bộ của Tuyên giáo Trung ương lựa chọn
cho đi học vẫn phải trải qua sự sàng lọc. Bửu Tiến đã không qua được cửa ải
thành phần - anh là người trong hoàng tộc.
Ngô Y Linh, Nguyễn
Ðình Nghi, Lê Thanh Ðức, Ngô Mạnh Lân, Lê Ðăng Thực, Nguyễn Quang Tuấn, Trường
Nhiên(13) và tôi vượt qua được cửa ải đó. Chúng tôi tiếc thay cho Bửu Tiến. Anh
là một nhà biên kịch tài hoa, một diễn viên xuất sắc. Trong bữa xôi sắn đạm bạc
thay cho tiệc chia tay tại Khu học xá (nay là khu tập thể sinh viên trường Ðại
học Bách khoa) Bửu Tiến dặn tôi: “Cố mà học. Chúng mình có mắt mà sờ soạng như
sẩm, hiểu biết thì bằng cái óc chim sẻ, không có học không làm nghệ thuật được
đâu”. Anh là người rất hồn nhiên, rất cả tin. Năm 1956 anh cũng hăng hái theo
Ðảng đánh các bạn đồng nghiệp trong vụ Nhân văn - Giai phẩm, nhưng vào những
năm 60 anh sám hối: “Mình ngu như bò. Lẽ ra phải nghĩ bằng cái đầu của mình,
thì lại tin rằng đã có sẵn những cái đầu sáng suốt của các vị ấy, chẳng cần
phải suy nghĩ nữa. Còn hơn bò”. Tôi ra tù, Bửu Tiến lo lắng tìm mọi cách giúp
đỡ tôi trong những ngày đầu tiên trở lại với cuộc sống bình thường.
Huỳnh Ngự không quên
nhắc lại tội của tôi trong đám tang Dương Bạch Mai, nhưng với giọng độ lượng :
- Thằng Mai chết rồi,
thôi để cho hắn mồ yên mả đẹp, không nói tới nữa. Nhưng tội khiêu khích của anh
trong đám tang hắn thì không thể bỏ qua. Thằng chống Ðảng mà các anh làm như là
anh hùng, rõ không biết dơ. Mà anh có biết hắn bị khai trừ khỏi Ðảng ngay cả
khi hắn đã chết rồi không?
Tôi biết. Cả Hà Nội
đều biết. Tôi còn nhớ ngày ấy đã có bao nhiêu lời dè bỉu dành cho hành động đê
mạt của Ðảng cộng sản đối với một đảng viên đã khuất. Bọn Duẩn-Thọ khai trừ ông
khi nắp áo quan chưa đóng lại. Vì sợ ông. Và vì căm thù ông.
Trong những ngày học
tập Nghị quyết 9, tôi không rời mẩu băng đen được gắn trong đám tang Dương Bạch
Mai trên ngực. Những tên cơ hội không bỏ lỡ dịp hỏi kháy :
- Anh để tang ai vậy?
- Một người thân.-
tôi nhìn thẳng vào mặt họ.
Nhưng có những người
đến nắm tay tôi, nói khẽ :
- Xin chia buồn cùng
anh. Ðó là cái tang chung cho tất cả chúng ta.
Trong phòng vệ sinh,
một người mà trước đó tôi không hề chú ý tới giả vờ đi tiểu để được đứng gần
tôi.
- Tôi xấu hổ.- anh
thì thầm.- Tôi hèn. Anh khinh tôi cũng được, anh chửi tôi cũng được, nhưng xin
anh thông cảm cho tôi, tôi có bốn đứa con nhỏ và một người vợ bệnh tật... Nếu
không tôi đã không xử sự như vậy.
Trong buổi học tổ
trước đó anh ta hùng hổ lên án “bọn phản bội xét lại hiện đại”, như một người “mác-xít
- lê-nin-nít” chính cống.
Cái chế độ làm cho con người hèn đi không thể là chế độ
xứng đáng với con người. Con
người cần phải được sống trong tư thế đứng thẳng, đầu ngẩng cao. Lời thú nhận
của người bạn tự nhận là hèn nhát cho tôi thấy chúng tôi không đơn độc. Nhà cầm
quyền có thể làm cho người ta sợ, nhưng không thể làm cho người ta vì sợ hãi mà
yêu họ.
Không hề có cuộc đấu
tranh giữa hai đường lối ở nước ta, tôi nghĩ. Về thực chất nó là cuộc đấu tranh
giữa cái Thiện và cái Ác, giữa cái Ðẹp và cái Xấu, giữa ý muốn đề cao Con Người
và mưu toan hạ thấp Con Người, đẩy con người xuống hàng trâu ngựa, hàng robot,
hàng “cái đinh ốc không rỉ của cách mạng”.
Lớp học Nghị quyết 9
dành cho chúng tôi là lớp cho cán bộ ngoài Ðảng, phần lớn là trí thức trong các
cơ quan văn hóa. Lác đác có một số đảng viên do bận công tác còn rớt lại từ
những đợt học trước và một số nữa tuy đã học rồi cũng vẫn đến không hiểu để làm
gì. Chúng tôi được phát mỗi người một cuốn nghị quyết có đánh số, được đọc tại
chỗ, không được ghi chép, không được mang ra khỏi phòng.
Lưu Quý Kỳ, hướng dẫn
viên, vui vẻ bắt tay tôi :
- Có định phát biểu
gì không ?
- Mọi sự đã quyết
định rồi, còn gì mà phát biểu?- tôi nói.
- Còn thắc mắc thì cứ
nói.- Lưu Quý Kỳ cười hề hề.- Các anh ấy cho bảo lưu mà.
Bảo lưu tức là được
phép giữ lại ý kiến mà không bị trừng phạt, là sự chiếu cố của Ðảng. Tuy nhiên,
phải ghi nhận rằng dù sao mặc lòng sự xuất hiện danh từ bảo lưu cũng đã là một
cái mới trong sinh hoạt xã hội dưới sự lãnh đạo của Ðảng, một dấu hiệu dân chủ.
Có điều sau đó những người bảo lưu nếu không bị bắt thì cũng bị trù dập, trừ
những ai vội vã xin rút lại ý kiến và lập công chuộc tội.
Tôi giơ tay xin phát
biểu. Từ trên bục giảng Lưu Quý Kỳ hấp háy một con mắt nhìn xuống. Anh có cố
tật nháy một mắt, nó thường gây ra hiểu nhầm, làm cho người ta nghĩ rằng anh
tán thưởng hoặc khuyến khích.
- Tôi có thắc mắc, đề
nghị hướng dẫn viên giải thích...
Lưu Quý Kỳ lại nháy
mắt với tôi. Hình như anh còn mỉm cười. Nhưng hội trường im phăng phắc. Những
nhà mác-xít chân chính vênh váo nhìn tôi.
Tôi nhũn nhặn trình
bày rằng trong nghị quyết có ghi : ở các nước không có giai cấp vô sản hoặc giai
cấp vô sản chưa hình thành cũng có thể thành lập chính đảng mác-xít lê-nin-nít,
coi như đó là một luận điểm sáng tạo của Ðảng. Ðiều này tôi không hiểu.
Lưu Quý Kỳ giang hai
tay, nhún vai. Anh ngạc nhiên tại sao tôi lại không hiểu một điều đơn giản như thế.
Tôi đề nghị được lên bục trình bày - ở đó có cái bảng đen, tôi nói tôi viết ra
thì anh sẽ hiểu vì sao tôi thắc mắc.
Tôi viết lên bảng
bằng chữ to câu định nghĩa của Lênin về đảng cộng sản: “Ðảng cộng sản là chính
đảng của giai cấp vô sản”, và hỏi Lưu Quý Kỳ :
- Tôi nhớ câu này của
Lênin, có đúng không, anh Kỳ?
Lưu Quý Kỳ gật đầu.
Anh lại nháy mắt liên hồi nhưng tôi cảm thấy mặt anh căng thẳng.
- Anh không phản đối
Lênin trong định nghĩa này chứ?
Lưu Quý Kỳ ngúc ngắc
cái đầu rồi đáp :
- Tất nhiên là không.
Tôi quay xuống lớp
học :
- Có ai phản đối
Lênin không?
Mọi người ngơ ngác.
Phản đối Lênin? Có mà điên.
Tôi nói tiếp :
- Ðồng chí Lênin có
nói: trong mọi cách chứng minh, chứng minh bằng toán học là con đường ngắn
nhất. Tôi xin phép được dùng cách hoán vị trong toán học để các đồng chí thấy
vì sao tôi thắc mắc. Như vậy, khi giai cấp vô sản không có, tức là nó không
hiện hữu, tôi hoàn toàn có thể hoán vị nó bằng một ký hiệu toán học biểu thị sự
không có là số không. Khi con số không được thay vào cụm từ giai cấp vô sản thì
định nghĩa của Lênin trở thành rất quái dị: Ðảng cộng sản là chính đảng của 0
(con số không).
Một tràng cười rộ
lên. Nhưng nó cũng tắt ngay, rất nhanh. Lưu Quý Kỳ tái mặt. Những tên xét lại
nháy mắt với tôi, rạng rỡ. Lưu Quý Kỳ cho nghỉ giải lao. Về sau có người cho
tôi biết Lưu Quý Kỳ lật đật đi gọi dây nói cho ai đó, có lẽ cho Tố Hữu.
Hôm sau, Lưu Quý Kỳ
gọi tôi ra một chỗ khuất :
- Cậu dại quá! Những
cái như thế không nên nói ra chỗ đông người. Mình không kịp ngăn cậu lại...
Anh nói chân tình.
Với tôi, Lưu Quý Kỳ bao giờ cũng chân tình, kể cả trong lúc gay gắt nhất của
cuộc đấu tranh giữa hai đường lối. Tại sao lại như thế, tôi không hiểu. Cảm
tình cá nhân là cái không phải trong trường hợp nào cũng giải thích được.
- Thì anh bảo được
bảo lưu mà.- tôi phân trần.- Huống hồ tôi có dám nói ý kiến ngược nào đâu, tôi
chỉ nêu một thắc mắc.
Anh nhìn tôi, một bên
mắt lại nháy liên hồi.
- Thắc mắc chết người
thế thà đừng thắc mắc.
Lưu Quý Kỳ là người
không dễ hiểu. Những anh em tập kết kể trong miền Nam Lưu Quý Kỳ là đệ tử ruột
của cả Ba Duẩn lẫn Sáu Búa. Khi Ba Duẩn lên án cải lương ủy mị, đã không có tác
dụng động viên bộ đội chiến đấu thì chớ, còn làm họ yếu lòng, Lưu Quý Kỳ nhanh
nhảu lập tức ra lệnh nghiêm cấm không cho hát cải lương nữa. Chuyện những nhà
mác-xít nay cấm cái này mai cấm cái kia không phải là chuyện lạ. Các nhà lãnh
đạo miền Bắc cấm tranh hội họa siêu thực, đa đa, lập thể, cấm nhạc trữ tình,
nhạc buồn, gộp chung vào thành “nhạc vàng”, cấm viết văn có “biểu tượng hai mặt”(14)
thì ở miền Nam các bậc thế thiên hành đạo cấm có một thứ nhạc cải lương thôi
còn ít. Khốn nỗi, ai cũng biết nhân dân Nam bộ yêu mến cải lương như thế nào,
và lệnh cấm cải lương gây ra một phản tác dụng dữ dội. Nhiều người bỏ kháng
chiến trở về thành chỉ vì ở vùng kháng chiến không có cải lương. Người ta còn
kể khi nhận được các tài liệu lý luận văn nghệ nào từ miền Bắc gửi vào, Lưu Quý
Kỳ đọc xong, ghi chép xong là đốt ngay, không cho ai được đọc nữa. Thế là anh
độc quyền những lý luận văn nghệ xã hội chủ nghĩa để dạy dỗ các văn nghệ sĩ
không bao giờ được tiếp cận những tài liệu nọ. Ai cũng nghĩ rằng với quan điểm
mao-ít cực đoan, Lưu Quý Kỳ phải trù tôi lắm, phải ghét tôi lắm, nhưng hoàn
toàn không phải thế, trước sau Lưu Quý Kỳ vẫn dành cho tôi những tình cảm tốt.
Chính Lưu Quý Kỳ có
lần rủ tôi ra một tờ báo châm biếm kiểu như tờ Crocodile (Cá Sấu) của Liên Xô :
- Mình đã trình bày
dự kiến với các cụ rồi. Về cơ bản các cụ tán thành, nhưng chỉ cho phép đánh tới
cấp tỉnh thôi, không được phép đánh lung tung. Trung ương thì chừa ra, các cụ
bảo thế, đánh cả Trung ương có mà loạn. Có một tờ báo như vậy ở nước mình thì
những tên cơ hội, những tên lạm quyền mới sợ, không dám mặc sức tung hoành.
Mình nhắm cậu làm thư ký tòa soạn...
Giám đốc Sở Báo chí
Trần Minh Tước (nhà báo Xích Ðiểu) tán thành sáng kiến của Lưu Quý Kỳ, nhưng
không mặn mà cho lắm. Làm một tờ báo châm biếm có nghĩa là đặt mình vào một
hiểm họa - bất cứ kẻ có tật nào cũng sẵn sàng giật mình. Mà những kẻ có tật thì
lại quá sẵn. Chẳng may tờ báo có câu nào nhằm trúng, hoặc không nhằm mà trúng,
một vị lãnh đạo thì chết. Bên cạnh Trần Minh Tước khôn ngoan, tôi thấy Lưu Quý
Kỳ thật thà và ngây thơ trong chính trị (hiểu theo nghĩa mưu mô). Tôi không
nhận lời. Một tờ báo như thế ra đời là hay lắm, sẽ được hoan nghênh lắm. Nhưng
tôi không nhận vì tôi không chịu được sự nửa vời.
Tôi cảm ơn Lưu Quý Kỳ
đã nhắc nhở tôi về cái dại của tôi. Tôi nói tôi lấy làm tiếc đã nêu ra một thắc
mắc dở hơi, chẳng để làm gì, chẳng có ích cho ai. Nhưng đã trót rồi, có muốn
cũng chẳng vớt vát lại được. Lưu Quý Kỳ an ủi tôi, anh nói anh sẽ tìm cách ỉm
nó đi, hoặc trình bày nó theo cách khác, sao cho đỡ gai góc.
Trong cách nói của
Lưu Quý Kỳ tôi hiểu anh muốn cho tôi biết tôi phải cẩn thận, phải biết giữ mồm
giữ miệng. Bắt bẻ Trung ương là tội khi quân, tội tầy đình, và tôi sẽ khốn đốn
vì nó.
-------------
Chú thích
(1) Hội nghị Ban Chấp
hành Trung ương lần thứ 9, họp vào 11.12.1963.
(2) Vào thời gian đó
thông thường nói chống chủ nghĩa xét lại được hiểu là chống Liên Xô (theo cách
nói Trung Quốc), chống chủ nghĩa giáo điều được hiểu là chống Trung Quốc (theo
cách nói Liên Xô).
(3) Chỉ bí thư thứ
nhất Ðảng cộng sản Liên Xô Nikita Khrusov.
(4) Dương Bạch Mai
(1904-1964), nhà cách mạng nổi tiếng của Nam kỳ. Thời thực dân Pháp cai trị
Ðông Dương Nam kỳ được đặt dưới sự cai trị trực tiếp của Pháp, Trung kỳ được
mẫu quốc cho tự trị, Bắc kỳ thuộc chế độ bảo hộ (protectorat). Những điều kiện
của cuộc vận động cách mạng trong từng kỳ có khác nhau.
(5) Cả ba ông này đều
bị Việt Minh sát hại vào tháng 9 năm 1945. Nói chung, chủ nghĩa Trotsky (theo
tên của Lev Trotsky, tên thật là Lev Davidovich Bronstein, một nhà mác-xít, bạn
chiến đấu của Lênin) không có ảnh hưởng trong phong trào giải phóng dân tộc ở
Việt Nam. Trên thực tế không ai hiểu chủ nghĩa Trotsky là gì, kể cả những người
cộng sản. Họ chống chủ nghĩa Trotsky hùa theo Quốc tế 3 chứ mâu thuẫn giữa chủ
nghĩa Stalin với chủ nghĩa Trotsky nằm bên ngoài và quá xa mục tiêu giải phóng
dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa.
(6) Quốc tế ca, bài
ca của phong trào cộng sản quốc tế, mở đầu bằng câu : “Vùng lên, hỡi các nô lệ
ở thế gian!”
(7) Trong Cách mạng
Tháng Tám ông Phạm Ngọc Thạch dẫn đầu phong trào Thanh niên Tiền phong ở Nam
bộ. Sau khi ra Bắc họp Quốc Hội nước Việt Nam thống nhất năm 1946 ông ở lại làm
công tác y tế. Ông giữ chức bộ trưởng bộ Y tế trong một thời gian dài. Một bộ
trưởng giản dị, làm việc hết mình, được phong Anh hùng lao động. Người ta
thường gặp ông trong các quán phở bình dân vào những giờ khuya, một mình, không
có bảo vệ, lái xe (ông tự lái), cần vụ... như các bộ trưởng khác.
(8) Món hổ lốn, gồm
nhiều thứ linh tinh, không theo một kiểu cách nào.
(9) Dương Tường, nhà
thơ cách tân, bạn thơ của Trần Dần. Trong vụ “nhóm xét lại chống Ðảng” anh bị
nghi ngờ có liên quan với những người bị bắt, nhưng người ta chỉ thẩm vấn anh
vài lần rồi tha.
(10) (1918-1992) Nhà
viết kịch, nghệ sĩ sân khấu nổi tiếng, bắt đầu từ Ðoàn kịch kháng chiến Liên
khu 4. Trong thời kỳ có vụ Nhân văn - Giai phẩm anh đứng về phía chính quyền
phê phán các văn nghệ sĩ bị dính vào vụ này, sau đó anh tỉnh ngộ, thẳng thắn
xin lỗi anh em.
(11) Ngay sau cuộc
Khởi nghĩa Tháng Tám dẫn tới sự thành lập Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa một phái đoàn các nhà lãnh đạo Nam Bộ đã ra Hà Nội. Hầu hết những người
trong phái đoàn đều ở nhà tôi, ở ngã tư Trần Hưng Ðạo (Gambetta) và Phan Chu
Trinh (Rialand). Trong đó có các ông Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn
Tạo, Trần Công Tường, Cao Hồng Lãnh, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Tây...
(12) Trong một buổi giỗ
ông Dương Bạch Mai tại Sài Gòn, thiếu tướng Tô Ký nói : “Thành phố này phải có
một con đường mang tên Dương Bạch Mai. Trong khi người ta lấy tên những kẻ
không xứng đáng với một ngọn cỏ để đặt tên cho một phố thì người ta lại lờ đi
những con người đã kéo theo mình cả khối quần chúng đông đảo đấu tranh cho độc
lập dân tộc”. Những người có mặt hôm ấy hiểu ông muốn nói kẻ không xứng đáng
với ngọn cỏ là Nguyễn Chí Thanh, mà tên được đặt cho một con đường lớn tại
thành phố Hồ Chí Minh.
(13) Những văn nghệ
sĩ đầu tiên được cử đi học nước ngoài. Ngô Y Linh, Nguyễn Ðình Nghi, Trường
Nhiên học nghệ thuật sân khấu (Trung Quốc), Lê Thanh Ðức, Ngô Mạnh Lân học hội
họa (Liên Xô). Ngô Y Linh về sau trở thành một nghệ sĩ lớn của ngành sân khấu
Việt Nam với tên hiệu Nguyễn Vũ.
(14) Cách nói bóng
gió, không rõ ràng.
-------------
Tiếp phần 4:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét