Tự Bạch
Tôi
tặng cuốn sách này cho :
Những người con của nước Việt đã cống hiến đời
mình cho một nước Việt Nam độc lập, tự do và dân chủ.
Hương hồn cha tôi, và những người cộng sản đã chết bởi tay các đồng chí
của họ.
Mẹ tôi, người dạy tôi sống không cúi đầu.
Vợ tôi, người cùng tôi chia sẻ vô vàn khốn khó trong
những năm tháng đen tối của đời tôi.
Các bạn tù của tôi, cộng sản cũng như không
cộng sản.
Các thế hệ sau tôi, hi vọng họ sẽ không bao
giờ phải sống như tôi đã sống,dưới bất cứ gông cùm chuyên chế nào.
Ba mươi năm đã trôi
qua kể từ khi ở miền Bắc
Việt Nam nổ ra một vụ án lớn, cho đến
nay vẫn còn là chuyện khó hiểu đối với nhiều người.
Trong nhân dân, vụ án
này có tên nôm na là vụ “xét lại chống Ðảng”. Tên chính thức của nó ít ai được
biết, kể cả các đảng viên cộng sản, là “Vụ án Tổ chức chống Ðảng, chống Nhà
nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm
tình báo cho nước ngoài”(1). Ðây là tấn bi kịch lớn nhất trong hàng ngũ những
người cộng sản ở Việt Nam ,
từ nhà cách mạng lão thành suốt đời đấu tranh cho độc lập dân tộc cho tới đứa
trẻ vừa lọt lòng mẹ trong nền độc lập đã giành được(2).
Trong vụ án này
Ðảng(3) cầm quyền bất chấp luật pháp do chính mình đặt ra đã xuống tay hạ ngục,
giam cầm và lưu đầy nhiều năm không xét xử những người có tư tưởng bất đồng.
Nằm trong phạm vi trấn áp của vụ án do Ban tổ chức Trung ương Ðảng khởi xướng
còn phải kể rất nhiều cán bộ, đảng viên có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp
với những người bị bắt. Ngoài ra, một số dân thường cũng bị Ðảng nhân tiện chụp
cho cái mũ xét lại hiện đại để xử lý. Tất tật bị nhét chung
vào một rọ, bị Ðảng trừng phạt bằng nhiều cách khác nhau, với mức độ khác nhau.
Bị bắt năm 1967,
những người tù không có án, còn gọi là tù “xử lý nội bộ”, tới năm 1973 mới lần
lượt được thả.
Chưa hết. Sau sáu năm
giam cầm họ còn phải chịu đựng những năm lưu đầy biệt xứ và quản thúc tại gia.
Tưởng chừng vụ án đến
đấy là kết thúc, nhưng không phải.
Người cuối cùng trong
số tù nhân được Ðảng ban cho ân sủng “xử lý nội bộ” mãi tới tận tháng Chín năm
1976 mới được ra khỏi cổng nhà tù.
Người tù ấy là kẻ
viết những dòng này.
Ðáng ngạc nhiên là
sau nhiều năm im lặng đáng sợ, nói theo cách của nguyên tổng bí thư Nguyễn Văn
Linh, những ban lãnh đạo Ðảng kế tiếp nhau tính từ thời tổng bí thư Lê Duẩn trở
đi, vẫn khăng khăng khẳng định đảng của họ đúng trong cách xử lý vụ án, rằng
những kẻ vi phạm luật pháp (của Ðảng và chỉ của Ðảng mà thôi) xứng đáng chịu
những án hình lẽ ra phải nặng hơn những án hình mà Ðảng nhân từ đã ban cho.
Trong chín năm tù tôi
chỉ làm được một việc có ích, cho bản thân và cho những người mà tôi thương
yêu, là giã từ được ảo ảnh về một chủ nghĩa cộng sản được tô vẽ như là thiên
đường dưới thế.
Sự nhìn lại đời mình
cũng như sự quan sát số phận của đồng bào trong những nhà tù tôi đi qua đã mang
lại cho tôi cái nhìn tỉnh táo không riêng đối với những hành động phi nhân của
những vua chúa mới, mà cả một thể chế xã hội trong đó con người dù muốn dù
không đều đánh mất mình.
Cuốn sách mà bạn đang
cầm trong tay là một phần những quan sát của tôi, một phần những suy nghĩ của
tôi, về cái xã hội khó hiểu mà số mệnh đã an bài cho tôi sống trong lòng nó.
Xã hội này là khó hiểu bởi vì, căn cứ những gì tôi biết,
nó khởi sinh từ những ý muốn tốt đẹp, bắt đầu bởi những con người lương thiện. Cũng căn cứ những gì tôi biết, tôi dám đoan
chắc rằng trước kia, khi mới nhập vào dòng chảy không bao giờ ngưng của cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc, họ không hề ấp ủ những mưu đồ xấu xa.
Trong sự biến dạng của những người cộng sản, trong sự tha
hóa của họ, cái gì là tác nhân, chủ thuyết mà họ theo đã nhào nặn con người họ
thành ra như thế hay chính họ tự biến đổi để trở lại nguyên hình, cho đúng với
bản thể do trời đất tạo ra, hay
là cả hai cái đồng thời, tôi không rõ.
Cuốn sách này chỉ là
một chút ánh sáng soi rọi vào một vụ án cụ thể nhưng mang tính đại diện cho một
thời kỳ cai trị của Ðảng cộng sản, một mảnh gương con phản ánh một số mặt ít
người biết đến của xã hội Việt Nam.
Là cái nhìn từ phía
người trong cuộc, mọi hồi ức đều mang tính chủ quan. Nhưng, cũng lại với tư
cách hồi ức, nó vẫn là bằng chứng đáng được chú ý, cho dù chỉ là bằng chứng từ
một phía. Tôi cố gắng, trong chừng mực có thể, đưa ra bằng chứng của tôi về vụ
án nói trên bằng ngòi bút công bằng.
Trong cuốn sách này
chỉ có sự thật. Hình thức văn học mà tác giả sử dụng trong cuốn sách chỉ vừa đủ
cho bức tranh sự kiện không thành quá tẻ nhạt. Văn học đích thực không có chỗ
nơi đây.
Vì mục đích cuốn sách
giới hạn trong một vụ án, cho nên nó không thể là cuốn sách nói về chế độ lao
tù ở Việt Nam .
Ðể nói về nhà tù Việt Nam
cần một cuốn sách khác.
Mà đó là một đề tài
đáng được chú ý, chí ít cũng là một sự quan tâm không thể thiếu đối với số phận
đồng loại trong một nửa thế kỷ.
Quá khứ sẽ chẳng có
ích cho ai bởi sự hồi tưởng đơn thuần. Quá khứ chỉ có ích khi con người lấy nó làm cái để mà suy
ngẫm, rút ra từ trong lòng những sự kiện của nó bài học cho tương lai.
Cuốn sách này không
phải là lời lên án một xã hội nay mai sẽ trôi vào quá khứ.
Tôi không dám đặt cho
mình mục đích buộc tội. Chỉ vì lịch sử thường có sự lặp lại, cho nên tôi muốn
gióng lên hồi chuông cảnh báo.
Tôi cũng không thể
đóng vai người buộc tội được bởi trong xã hội mà tôi sống tôi không đơn thuần
là nạn nhân. Về mặt nào đó, trong chừng mực nào đó, tôi còn là thủ phạm.
Tôi viết vì tôi không
thể không nói lên tiếng nói của mình. Tôi quan niệm kẻ không dám nói “không”
trước tội ác là kẻ đồng lõa với tội ác.
Và sau hết, theo cách biểu đạt của nhà văn Nga Prishvine ,
tôi chỉ là “một cái lá trong hàng triệu cái lá của cây đời, và nói về một cái
lá thì cũng là nói về những cái lá khác”. Số phận tôi được nói đến trong cuốn
sách này cũng là số phận của nhiều người cùng thế hệ.
Xin hãy coi cuốn sách
này là lời sám hối trước đồng bào của cha tôi nay đã không còn. Nó được thực
hiện theo lời trăn
trối của Người.
Cuốn sách còn là một
vòng hoa muộn, một nén hương thêm đặt lên mồ những nạn nhân xấu số của một thời
kỳ đen tối, những con người bất hạnh đã không chờ được đến ngày cuộc đời lập
lại lẽ công bằng cho họ.
--------------------
Chú thích
(1) Mãi tới năm 1995
tôi mới được biết tên gọi chính thức của vụ án nhờ bức thư của ông Nguyễn Trung
Thành, nguyên vụ trưởng Vụ bảo vệ Ðảng thời kỳ đó, đề ngày 3.2.1995, gửi Bộ
Chính trị Ðảng cộng sản Việt Nam, trong đó ông Thành yêu cầu giải oan cho hơn 30
đồng chí bị bắt và bị xử lý. Tính riêng số người bị bắt không thôi đã vượt quá
con số do ông Thành đưa ra. Có lẽ ông chỉ nói tới những người là đảng viên.
(2) “Có thể nói, sau
những sai lầm, oan trái rộng rãi trong Cải cách ruộng đất và Chỉnh đốn tổ chức (1956),
thì đây là vụ án oan sai lớn nhất trong lịch sử Ðảng ta, xét về quy mô, tính
chất. Và, có thể nói không ngoa, đây là vụ án oan sai lớn nhất trong hàng ngũ
những người yêu nước Việt Nam của thế kỷ XX” (trích thư của ô. Lê Hồng Hà,
nguyên Chánh Văn phòng, Vụ trưởng Vụ tổng hợp Bộ Nội vụ, trong thời gian xảy ra
vụ án, gửi cho Ban chấp hành Trung ương Ðảng cộng sản Việt Nam khóa VII , đề ngày 18/7/1995, về vụ “nhóm xét lại chống
Ðảng”).
(3) Trong các tài
liệu chính thức ở Việt Nam
từ Ðảng viết hoa được dùng để chỉ Ðảng cộng sản Việt Nam , với ý nghĩa tôn sùng. Trong cuốn sách này nó cũng được
viết hoa như vậy cho tiện, cho vắn tắt, chứ không hàm nghĩa đó.
-----------------------
Chương 1
Lễ mừng Thiên chúa Giáng sinh năm 1967 tại Hà Nội
chẳng hứa hẹn một sự náo nhiệt thường có. Quá nửa số dân đã sơ tán khỏi thành
phố. Người ở lại phần nhiều là cán bộ nhân viên các cơ quan Trung ương và địa
phương, dân quân tự vệ, cộng với một số dân thường vì lý do này hay lý do khác
không thể đi được. Phố xá mất đi vẻ sầm uất. Nhiều nhà đóng im ỉm. Bên trên mái
đá đen các công thự cũ thời thuộc địa, trên nóc các nhà cao tầng mới xây, tua
tủa nòng đại liên trung liên ngóc lên trời xanh nhiệt đới. Vỉa hè lỗ chỗ hầm
trú ẩn cá nhân làm bằng ống cống.
Chiến tranh thực sự
chưa dạo bước trên ba mươi sáu phố phường, nhưng bóng đen của nó đã trùm lên
mái ngói âm dương thanh bình của kinh thành Thăng Long cổ kính. Trong phố vắng
những người ở lại, phần lớn thuộc lớp tuổi trẻ, quần áo gọn gàng, dáng tất bật,
cắm cúi đi sát tường, khẩu AK trên vai. Phóng viên AFP ở Hà
Nội nhận xét: “Hà Nội
bình thản và nhanh chóng hòa nhập với nếp sống thời chiến, cho dù ở bờ bên kia
Thái Bình Dương Lầu Năm góc chưa vội vã tuyên bố chiến tranh với nước Việt Nam
cộng sản”. Hà
Nội sẵn sàng để chống trả.
Người Hà Nội làm
việc, ăn, ngủ, yêu đương, sinh con đẻ cái trong bầu không khí căng thẳng chốc
chốc lại vỡ ra bởi tiếng nổ của mọi cỡ súng lớn nhỏ rộ lên từng đợt mỗi khi máy
bay Mỹ bay ngang; trong tiếng cô phát thanh viên quen thuộc vang vang trên các phố
vắng “Ðồng bào chú ý! Ðồng bào chú ý! Máy bay địch cách Hà Nội
ba mươi cây số! Máy bay địch cách Hà Nội
hai mươi cây số! Máy bay địch cách Hà Nội
mười lăm cây số!”; dưới những vệt khói trắng mỏng manh của tên lửa đất đối
không SAM -1, SAM -2... vun vút kẻ chỉ lên trời xanh nhiệt đới.
Cuộc xung đột vũ
trang của dân chúng miền Nam chống lại chính quyền Sài Gòn bắt đầu bằng những
trận đánh lẻ tẻ từ đầu thập niên 60, được Hà Nội khuyến khích và yểm trợ, đã
mau chóng lớn lên thành nội chiến. Người Mỹ
nhảy vào, biến nó thành chiến tranh Việt-Mỹ, thành cuộc đối đầu giữa hai phe
cộng sản và tư bản thế giới. Trong bối cảnh cuộc chiến tranh lạnh toàn cầu đã
kéo dài nhiều năm, cuộc chiến tranh nóng ở Việt Nam còn kéo thêm một số quốc gia
vào lò lửa của nó, hứa hẹn một sự dai dẳng không biết khi nào mới kết thúc.
Trên lãnh thổ Bắc
Việt Nam cuộc giao tranh độc đáo và dữ
dội chưa từng có giữa bầu trời và mặt đất, bắt đầu từ năm 1965, là sự phát
triển tất yếu của cuộc chiến tranh cục bộ nọ. Bằng những trận không tập ồ ạt,
rất ác liệt, không ngưng nghỉ, tổng thống thứ 36 của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ
quyết tâm bắt miền Bắc Việt Nam phải quỳ gối trước sức mạnh của vũ khí (1).
Ðêm trước, người Hà
Nội thở phào nhẹ nhõm nghe giữa lao xao sóng điện đài gần đài xa tin các bên
tham chiến trên bán đảo Ðông Dương đã thỏa thuận được với nhau một ngày ngừng
bắn nhân dịp kỷ niệm Chúa Kirixitô ra đời. Lễ mừng Thiên Chúa Giáng sinh 1967
đến với Hà Nội như một ngày hòa bình bất ngờ, một ngày không bình thường trong
cuộc chiến, không phải nhờ ơn người mà nhờ ơn Chúa.
Thành phố yên tĩnh
như thể chưa bao giờ nó yên tĩnh như thế. Từ sáng sớm không có còi báo động.
Chỉ có tiếng loa lanh lảnh nhắc nhở mọi người cảnh giác trước hành động bất
trắc của kẻ thù. Quanh
Hồ Hoàn
Kiếm dân đi lại nhộn nhịp hơn ngày
thường. Nhân đợt ngưng chiến ngắn ngủi, những người sơ tán gần thành phố hối hả
đạp xe về nhà. Họ tranh thủ khoảng thời gian yên tĩnh ngắn ngủi để đi khám
bệnh, đi mua bán, thăm hỏi người thân, đến chơi với bè bạn, ăn với nhau một bữa
cơm, uống với nhau một tuần trà, để rồi sớm hôm sau lại tất tả lên đường. Bên
miệng hầm tập thể vắng bóng những bà mẹ nhỏ bé bế con nép dưới những khẩu hiệu
nhiều kiểu nhiều cỡ “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của chủ tịch Hồ Chí
Minh . Nước hồ phẳng lặng. Tháp Rùa
hiện lên không rõ nét trong sương mù lãng đãng. Gió bấc thổi nhẹ. Trời se lạnh.
Hà Nội vào đông muộn hơn mọi năm.
Tôi đang thong thả
đạp xe từ Hàng Trống qua Hàng
Bài thì bỗng nghe tiếng người gọi
tên mình.
Mải suy nghĩ tôi
không nghe thấy ngay, đến khi nghe thấy thì đã đạp quá mất một quãng. Người gọi
tôi dừng xe, khua tay loạn xạ để tôi nhận ra anh ta. Thấp béo, đầu sùm sụp
cát-két dạ trên cái mặt tròn, trong bộ đồ bảo hộ lao động nhàu nhĩ, anh ta hớn
hở khi thấy tôi quay mặt về phía mình. Ai thế nhỉ?
Ðành phải tạt vào vỉa
hè, dừng xe trước một cửa hàng đóng im ỉm trong những cánh gỗ nham nhở, trước
kia là hiệu chuyên doanh đồ sơn mài.
- Gớm, tìm anh gần
chết! - anh chàng phanh xe lại ngay trước mặt tôi, cười tít, người chúi về phía
trước, hai mắt chỉ còn là hai đường chỉ - Anh về ngay cơ quan, thủ trưởng đang
đợi anh. Nhanh lên, để kịp tiếp khách! Em qua nhà, chị nói anh vừa đi, em phóng
theo ngay, nhưng không kịp...
Ủy ban liên lạc văn
hóa với nước ngoài, cơ quan cấp trên của báo ảnh “Việt Nam ”, thỉnh
thoảng lấy tôi qua làm việc cho ủy ban. Công việc tôi được giao là giúp thủ
trưởng Ủy ban tiếp khách. Người ta dùng tôi vào việc này chẳng qua để cho đỡ
tốn, bớt được một phiên dịch. Chả là khách đến phần nhiều từ Liên Xô hoặc các
nước Ðông Âu , đều biết nói tiếng Nga, là thứ tiếng
tôi thông thạo. Tôi lại có thể kiêm hướng dẫn viên du lịch đưa khách đi thăm
danh lam thắng cảnh thủ đô hoặc các địa phương, lại có thể giới thiệu cho họ
đôi nét về lịch sử Việt Nam .
Công việc kể ra cũng dễ chịu, nếu như khách toàn là nghệ sĩ hoặc nhà hoạt động
văn hóa. Nhưng đôi khi rơi vào số khách lại là những nhà chính trị được cử sang
lãnh đạo văn nghệ. Những người khách này, phần lớn lịch sự và phong nhã, mang
lại cho tôi những giờ phút vui vẻ và hơi hướng xứ lạ, là cái bao giờ cũng làm
cho cuộc sống hàng ngày đơn điệu bớt tẻ nhạt.
Ðiều làm tôi ngỡ
ngàng là khoảng nửa năm nay người ta đã không còn dùng tôi vào việc tiếp khách
nữa, không hiểu sao nay lại gọi đến?
Kể từ năm 1964, khi
cuộc đối đầu Trung
Xô trở thành căng thẳng, thì bầu
không khí chính trị ở Việt Nam
cũng nóng lên theo . Khắp nơi người ta
la lối về nguy cơ của chủ nghĩa xét lại hiện đại và sự cần thiết phải chống lại
nó. Những cán bộ bướng bỉnh dám phát biểu những lời nói không vừa tai nhà cầm
quyền về bất cứ vấn đề gì, không cứ về đường lối đối nội hay đối ngoại của
Ðảng, đều bị lập tức coi là phần tử xét lại, chí ít thì cũng là phần tử hữu
khuynh không đáng tin cậy. Tôi bị liệt vào số đó.
- Anh hôm nay không
bận gì đấy chứ?
Một câu hỏi để mà
hỏi. Vớ vẩn. Ủy ban đã cho gọi thì tôi nhất định phải đi rồi, có thoái thác
cũng chẳng được.
- Anh về trước đi! -
tôi càu nhàu - Tôi qua nhà một lát, thay quần áo cái đã.
Tôi đã có chương
trình cho hôm nay. Tôi không thích nó bị phá vỡ. Tôi đã tính đưa vợ con đi
chơi. Ðược đi chơi trong một ngày hiếm hoi không có báo động thật là tuyệt.
Chúng tôi sẽ đến thăm một người bạn cũ lâu không gặp. Có thể chúng tôi sẽ ăn
cơm ở đó. Vợ tôi muốn cho các con đi cùng, nhân thể mua sắm mấy thứ lặt vặt.
Tôi ngán ngẩm nhìn
thằng cha phá quấy. Chán quá, Ủy ban không báo trước để tôi có thể sắp xếp công
việc của mình. Mà tay này ở đâu ra nhỉ? Có lẽ ở phòng bảo vệ. Ngoài bộ phận đó
ra, có ai đi làm chủ nhật ?
- Dào, chẳng sao đâu.
- y nhe hàm răng cải mả, cười không có tiếng - Ðang đánh nhau, mặc thế nào chả
được. Thế này tươm chán. Khách lại đang đợi.
Trên người tôi là cái
áo bông xanh, cái quần ka ki, cả hai đều mới, nhưng nhàu nát. Ðã lâu chúng tôi
quên hẳn là quần áo. Không ai trách ai vận đồ không có nếp. Thời chiến quần áo
phẳng phiu quá, nếp là rõ quá, còn bị phê phán là sang trọng rởm. Nó là cái gì
nếu không phải tàn dư của nếp sống tư sản? Tôi còn lưỡng lự, thì anh chàng đã
trườn về phía tôi.
- Anh về làm gì?! - y
nắm chặt ghi-đông xe tôi - Xe đến rồi kìa!
Một chiếc com-măng-ca
Liên Xô phanh két bên cạnh tôi. Cửa xe bung ra.
Hai thanh niên đen nhẻm phóng xuống. Không nói không rằng chúng kéo tôi lên xe.
Tôi nhìn anh chàng vừa gọi tôi. Bộ mặt nhăn nhở biến mất, thay vào đó là đôi
mắt cá và tiếng cười gằn:
- Lên xe ngay! Biết
điều đừng chống cự!
Giờ thì tôi nhớ ra:
thằng cha này thường lẽo đẽo theo tôi
mấy ngày gần đây. Vận đồ bộ đội, cái xà-cột lủng lẳng bên hông, y lấp ló như
một con chuột trong đám đông. Cũng trong thoáng ấy tôi nhìn thấy hơn một chục
xe đạp tản ra từ chỗ chiếc com-măng-ca vừa đỗ. Ðó cũng là những tên tham gia vụ
bắt cóc, nhưng sự việc diễn ra gọn gàng, chúng chưa phải động thủ. Mọi tình
huống đã được lường trước, được sắp xếp trước, y như trong một phim gangster.
Không một người qua
đường nào biết ở nơi này vừa xảy ra chuyện gì. Những chiếc xe đạp vẫn vun vút
phóng qua. Trong tiệm đồng hồ, sau tủ kính, tôi nhìn thấy Sinh cắm cúi làm
việc. Anh là người quen của tôi. Nếu anh ngẩng lên hẳn anh nhìn thấy tôi bị lôi
lên xe. Nhưng anh không ngẩng lên. Hình ảnh ghi lại trong trí nhớ của tôi vào
mấy giây cuối cùng là một người đàn bà bồng con vượt qua mũi xe. Ðứa bé ngủ say
trong tấm ni-lông cứng quèo, má hồng lên trong gió bấc. Theo
cái cách kỳ cục như thế, tôi trở thành kẻ tham gia cái gọi là cuộc đấu tranh
giữa hai đường lối trong phong trào cộng sản quốc tế. “Thế là cái việc phải đến
đã đến!”, tôi tự nhủ, ngả người trên tựa ghế xe, lòng hoàn toàn bình thản.
Không hiểu sao, vào
đúng cái khoảnh khắc gay cấn nhất, tệ hại nhất trong đời mình, tôi không nhớ
đến cái gì khác mà lại nhớ tới một câu nói nổi tiếng của Nguyễn
Tuân(2): “Nước ta là một pháp trường trắng. Không có đầu rơi, không có máu
chảy, nhưng có người chết!”.
Giờ đây, trong cuộc
chiến mà Nguyễn
Tuân nói tới, tôi đã thành con mồi
của nó. Tôi đang được đưa đi đâu đây? Tới pháp trường nào?
Ðó là chủ nhật 24
tháng 12 năm 1967.
Tôi nhớ từng chi tiết
của ngày hôm đó. Trong hồi tưởng, tôi thấy rõ mồn một, như trước mắt tôi mọi
chuyện được diễn ra một lần nữa. Thời gian đang trôi đột ngột dừng lại. Như một
cadre-stop trong cuốn phim đang chiếu. Nó là ngày bước ngoặt, ngày cắt đôi,
ngày ranh giới của đời người. Về sau tôi mới biết cảm giác đó chẳng phải của riêng
tôi - bất cứ ai từng bị bắt cũng nhớ từng chi tiết vụn vặt nhất của cái ngày
đáng nguyền rủa đó.
Tôi ra khỏi nhà lúc
chín giờ sáng và mất tăm từ đó. Cả nhà tôi bổ đi tìm, nhưng không thấy tôi ở
bất cứ đâu, ở nhà họ hàng cũng như ở nhà bè bạn. Ngày hôm sau, rồi hôm sau nữa,
vẫn biền biệt. Thẻ
Nhà báo, giấy chứng minh nhân dân
tôi thường mang theo người được tìm
thấy trong ngăn kéo bàn viết. Như vậy, nếu chẳng may xảy ra tai nạn giao thông
người ta cũng chẳng biết nạn nhân là ai.
Vợ tôi đạp xe khắp Hà Nội ,
đập cửa bè bạn báo tin dữ. Bè bạn tôi nháo nhác. Họ lao tới các bệnh viện, các
trạm cấp cứu, xục tìm trong những nhà xác tanh tưởi với những xác chết đủ mọi
dạng, trong mọi tư thế. Thời chiến, trong nhà xác la liệt cả đống thi thể vô
thừa nhận, nhưng không ở đâu có xác tôi. Mẹ tôi bình tĩnh hơn mọi người. Bà im
lặng, suy nghĩ. Không khí hoảng hốt trong gia đình không lây được sang bà. Ngay
từ đêm đầu tiên không thấy tôi trở về nhà, mẹ tôi đã đoán tôi bị bắt. Hai tháng
trước, đêm 18 tháng 10 năm 1967, cha tôi đang nằm đọc báo thì một toán công an
hùng hổ xông vào nhà dựng ông dậy, đọc lệnh bắt khẩn cấp và lệnh khám nhà. Một
nhóm đẩy ông lên xe chở đi, nhóm còn lại chia nhau ra lục lọi các phòng cho tới
gần sáng, lấy đi nhiều giấy tờ, sách báo và ảnh chụp. Ðêm cha tôi bị bắt, cũng
là sinh nhật tôi, tôi đang ở Nam Ðịnh. Thành phố thợ dệt chìm trong bóng tối.
Ðèn đường tắt ngấm.
Nạn nhân đầu tiên của
nó là viện trưởng Viện Triết học Hoàng Minh Chính(4), phó tổng biên tập tờ Hà
Nội Mới Phạm Viết, phó tổng biên tập tạp chí Học Tập Kỳ Vân và vài người khác.
Như một cơn gió đen, tin Ban tổ chức Trung ương Ðảng phát hiện kịp thời và bóp
chết từ trong trứng một âm mưu phản loạn lan nhanh trong thành phố. Ðến lượt cha
tôi và thiếu tướng Ðặng Kim Giang(5) cũng bị bắt thì dư luận ồn hẳn lên. Chỗ
nào người ta cũng thì thào bàn tán về sự kiện này. Những người cộng sản thuộc
thế hệ già ngán ngẩm: “Thôi thôi, lại như cái đận Cải cách ruộng đất rồi, có
khác gì đâu. Mấy ông lãnh đạo nhìn đâu cũng thấy phản động, bắt bớ lung tung , sau đó thì lại xin lỗi, lại sửa sai, rõ chán
chuyện! Mạng cán bộ thời nay đúng là không bằng mạng ngóe”. Số cán bộ cấp thấp
hơn to nhỏ với nhau: đây rõ ràng là một cuộc sát phạt, chứ các đồng chí lão thành
cách mạng thế kia sao có thể là phản động được? Ðàng sau vụ bắt bớ này chắc
chắn là một âm mưu gì đó, vì cái ghế, vì hưởng thụ thôi; bây giờ các ông kễnh
chỉ nghĩ tới cái đó, tới tiêu chuẩn, chứ xét đi xét lại cái gì đâu? Những người
trước nay không ưa chế độ thì mở cờ trong bụng: “Chúng bắt đầu thịt nhau rồi!
Ðã bảo cộng sản là thế mà, chúng không sống yên được một ngày không có máu. Chỉ
tội nghiệp cho mấy người hiền lành không cùng phe cánh với chúng, tuy họ cũng
là cộng sản”.
Ngày hôm sau, không
thấy tôi trở về, mẹ tôi tức tốc đạp xe tới Hỏa Lò .
Trước một bà mẹ hung dữ vì vừa mất chồng nay lại mất con, các cán bộ công an
chối đây đẩy rằng ở chỗ họ không có ai tên là như thế. Viên giám thị Hỏa Lò
lật đật mang cả sổ tù ra tra trước mặt mẹ tôi cho bà thấy: bác đừng nghĩ quẩn,
nếu anh ấy ở đây thì phải có tên trong sổ, anh ấy phải làm gì phạm pháp thì mới
bị bắt chứ. Không, không có tên anh ấy ở đây đâu, tôi tra hết rồi, xem kỹ lắm
rồi, hay là bác sang bên Bộ mà hỏi.(6)
Tại phòng tiếp khách
Bộ Nội vụ ở 16 Trần Bình Trọng, một sĩ quan mặc áo dạ(7) không quân hàm tiếp mẹ
tôi. Anh ta làm bộ ngạc nhiên: “Chết chết, sao bác lại nghĩ thế! Bắt người thì
phải có lệnh bắt chứ, kể cả trong trường hợp bắt khẩn cấp bộ phận trực ở Bộ
cũng phải được biết. Không phải đâu, bác ạ, làm gì có chuyện bắt cóc thời bây
giờ. Bác đợi cho một chút, tôi kiểm tra ngay lập tức xem có chuyện gì xảy ra
với anh Hiên mà các quận được biết không”. Trước mặt mẹ tôi anh ta gọi điện hỏi
các khu công an Hà
Nội . Không ở đâu có tin về tôi.
Tiễn mẹ tôi, viên sĩ quan còn ân cần dặn bà khi nào tôi về nhà thì xin báo ngay
cho Bộ Nội vụ biết.
“Phải công nhận hắn
ta đóng kịch cũng khéo. - mẹ tôi kể lại - Nhưng khéo thì khéo, không qua được
mặt mẹ. Miệng hắn leo lẻo, nhưng mặt
mày thì lại nhớn nhác, tay chân quýnh quáng. Bụng bảo dạ: nếu bọn này có tập
quán giống bên công giáo chắc hắn sẽ kêu tên Mác mà thề quá”.
Như bao lần gia đình
tôi gặp bão táp mẹ tôi chứng tỏ bà là cây cột cái vững chắc gánh toàn bộ sức
nặng của ngôi nhà trên vai, quyết không cho nó sụp đổ. Bà lau nước mắt, chu đáo
lo toan trăm thứ việc có tên và không tên cho con cái như thể không có chuyện
gì xảy ra. Trong những ngày này, mẹ tôi kể, bà nghĩ đến thần tượng của bà rất
nhiều.
Ðêm đêm bà ngồi một
mình trong căn nhà vắng lặng. Bà đã tin ông Hồ Chí Minh . Bà đã tin ông lắm lắm. Còn hơn tin,
bà sùng kính ông, người anh cả của cách mạng, lãnh tụ của bà. Bức chân dung cỡ
18 x 24 ông Hồ Chí Minh tặng bà với dòng chữ “Thân ái tặng thím Huỳnh” trước
ngày ông lên đường dự hội nghị Fontainebleau năm 1946 được bà gìn giữ như của
gia bảo. Suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, nhiều lần chạy giặc càn mất hết đồ
đạc nhưng tấm ảnh vẫn còn đó. Nó chỉ bị thu khi công an khám nhà.
Nhiều người khuyên bà
hãy cầu cứu ông Hồ. Dù muốn dù không Lê Duẩn(8) và Lê Ðức Thọ(9) vẫn còn phải
nể ông, họ nói. Mọi người tin chắc ông không biết việc xảy ra. Nếu ông biết,
ông không bao giờ để xảy ra chuyện nồi da nấu thịt thế này. Vài năm nay, do sức
khỏe kém, ông Hồ không còn trực tiếp điều khiển công việc đất nước.
Mẹ tôi không tin. Bà
cho rằng để khởi lên một vụ lớn như thế này, Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ không thể
không hỏi ý kiến ông Hồ, ông không thể không biết. Vụ bắt bớ chỉ được tiến hành
một khi có sự đồng ý của chủ tịch nước. Bà nhận xét: không phải vô cớ mà trong
khi khám nhà, công an quan tâm đặc biệt những tấm ảnh cha tôi chụp chung với ông Hồ, những tư liệu liên quan tới ông Hồ,
tất cả đều bị mang đi. Cha tôi bắt đầu giữ những tư liệu về cách mạng, đặc biệt
về ông Hồ Chí Minh
kể từ khi ông nhận sự phân công của Trung ương Ðảng làm bí thư cho chủ tịch
nước.
Vào những năm đầu
cách mạng chưa có cơ quan chuyên trách lo bảo quản những tư liệu lịch sử, cho
nên cha tôi cho rằng ông có trách nhiệm lưu trữ những gì trong tầm tay của ông,
không để chúng bị mất. Cha tôi giữ được khá nhiều ảnh - từ những bức chụp ông
Hồ tại chiến khu Tân Trào với đội liên quân Việt Mỹ, những ngày ông Hồ vừa từ
chiến khu về Hà Nội, Lễ Tuyên bố Ðộc lập tại vườn hoa Ba Ðình, chuyến chủ tịch
nước sang Pháp năm 1946, nhiều nhất là ảnh trong An toàn khu của chính phủ
kháng chiến. Những ảnh khác cha tôi chụp chung
với các nhà lãnh đạo cũng bị thu hết... Mấy bức ảnh chân dung họa sĩ Pablo Picasso ,
nhà văn Ilia Ehrenburg(10) với lời đề tặng cha tôi tại Paris năm 1946,
chẳng liên quan gì tới vụ án, bọn chúng cũng thu tuốt. Tuy nhiên, đây là chuyện
dễ hiểu - vào thời kỳ này nhân viên công an thường được chọn lựa trong nông dân
ít học. Họ chẳng biết Picasso hoặc Ehrenburg
là ai. Dưới mắt họ, ảnh những thằng Tây mũi lõ tìm được trong nhà một đối tượng
của cách mạng, gợi nên sự nghi ngờ - hẳn đây phải là ảnh của bọn phản động quốc
tế. Chính do những suy nghĩ như vậy mà mẹ tôi không nghe theo
lời khuyên của bè bạn. Bà không xin gặp, không thèm viết một dòng nào cho ông Hồ Chí
Minh . Bà cũng không nghĩ tới
chuyện cầu cứu Trường Chinh(11). Từ khi mất chức tổng bí thư, Trường Chinh lầm
lũi ở ẩn trong sự đường bệ còn lại, tránh can thiệp vào công việc của Lê Duẩn
và Lê Ðức Thọ. Vả lại, cho dù trong khi còn đương chức Trường Chinh bây giờ
không hề giống Trường Chinh trước tổng khởi nghĩa. Nếu như trong thời kỳ bí mật
Trường Chinh chu đáo với anh em bao nhiêu thì bây giờ ông ta lạnh nhạt với đồng
chí bấy nhiêu. Hệt như đã xảy ra một cuộc đánh tráo vậy.
Tôi kể chuyện này làm
thí dụ. Ông Trần Ðình Long(12), người bạn và đồng chí gần gụi của Trường Chinh
bị Quốc dân đảng thủ tiêu năm 1946, để lại vợ và ba đứa con. Hòa bình lập lại,
bà Long từ vùng tản cư Phát Diệm trở về Hà
Nội . Năm lần bẩy lượt bà tìm đến
Trường Chinh, nhưng không được ông tiếp. Người kể cho tôi nghe câu chuyện đáng
xấu hổ này là ông tài xế Ðoàn Xuân Sơ, từng là cơ sở cách mạng. Khi ông Sơ chất
vấn ông Bùi Lâm(13) chuyện xử sự của Trường Chinh thì Bùi Lâm
giải thích : “Con mẹ Long làm như có mình chồng nó hy sinh cho cách mạng. Hy
sinh cho cách mạng có hàng đống, nó làm mình làm mẩy, nằng nặc đòi cách mạng
phải lo cho các con thằng Long, rõ ngu! Anh Thận(14) không tiếp nó là phải”.
Nóng mắt, ông tài xế
Ðoàn Xuân Sơ tống ông quan tòa Bùi
Lâm ra khỏi cửa : “Vợ đồng chí gặp
khó khăn thì tìm đến đồng chí chứ còn tìm ai? Biết chúng mày là giống ăn cháo
đá bát chắc vợ thằng Long đã chẳng thèm gặp. Cút ngay khỏi nhà tao! Ðồ đểu! Cả
lũ chúng mày đểu! Cút!”.
Người vợ và ba đứa
con của người cộng sản Trần Ðình Long, bị các đồng chí chối bỏ, lếch thếch dắt
nhau xuống Hải Phòng nhập vào dòng người di cư vào Nam. Hai con trai ông Long
sau năm 1975 vượt tiếp sang Úc. Chỉ còn lại một người con gái lấy chồng ở lại Sài Gòn .
Nhân tiện cũng xin nói rằng ông Bùi
Lâm này, hồi hoạt động bí mật đã ở
nhà tôi, là đồng chí rất thân thiết của ông Long và cha tôi. Với gia đình tôi
ông là người trong nhà, nhưng sau khi cha tôi bị bắt ông cũng không hề lai vãng
một lần.
Ðó là tình đồng chí
trong những người cộng sản khi đã giành được chính quyền, đã phân chia ngôi
thứ.
Những người vẫn còn đến
với gia đình tôi trong những ngày sóng gió đều vì tình bạn, chứ không phải vì
tình đồng chí, cho dù họ có là cộng sản.
Bà cũng không nghĩ
tới Phạm Văn Ðồng(15). Ông quen cha mẹ tôi từ những năm 40 khi còn thanh niên,
đang săn đón người vợ tương lai ở hàng kem Zephyr Bờ Hồ. Mẹ tôi biết có tới gặp
ông cũng vô ích. Phạm Văn Ðồng, theo
bà nhận xét, là người không xấu, nhưng ba phải, vụng về và vô tích sự. Ông lúng
túng trước bất cứ một việc cụ thể nào, dù chỉ để đóng một cái đinh giúp hàng
xóm, như các bạn ông thường giễu cợt. Dư luận ca ngợi ông liêm khiết, ông đứng
đắn, nhưng những ai quen biết ông đều hiểu ông không làm nổi trò gì trong những
việc lẽ ra ông phải làm. Những người từng là bạn ông khi gặp chuyện rắc rối với
chính quyền buộc lòng phải cầu cứu ông còn thất vọng hơn. Họ tìm đến ông vì
chẳng gì ông cũng là một trong các nhà lãnh đạo quốc gia, ông mà nói cho một
câu thì cũng đỡ. Của đáng tội, ông cũng không nhẫn tâm xua đuổi họ, ông an ủi,
ông hứa hẹn, rồi ông chẳng làm gì hết. Có khi những gì người ta nhờ ông cũng
nhớ, cũng muốn giúp họ lắm, nhưng để tránh tiếng ông lại đi nhờ người khác, rồi
ra cái sự nhờ lại ấy có được việc hay không ông không quan tâm. Ông đã nói hộ
rồi mà, có phải không nói đâu, khốn nỗi là việc khó giải quyết, các đồng chí từ
chối không giúp có nghĩa là không giúp được. Ông không muốn mất lòng một ai,
nhất là mất lòng cấp trên. Quả nhiên đúng. Một đồng chí cũ thương mẹ tôi đến
nói với Phạm Văn Ðồng chuyện cha tôi bị bắt. Ông nghe rồi thở dài nói: “Việc
tập thể quyết định, tôi làm gì được!”
Mẹ tôi chỉ còn biết
tìm người bạn thân thiết nhất của cha tôi trong thời kỳ hoạt động bí mật là ông
Nguyễn Lương Bằng(16). Những ngày ấy ông đi vắng, người ta nói. Mà cũng có thể
ông tránh mặt.
Từ Nam Ðịnh trở về,
nhìn cảnh nhà tan hoang, tôi hỏi mẹ chuyện xảy ra thì bà cười cay đắng, mắt ướt
nhòe:
- Chúng nó đến, con
có tưởng tượng được không, còn tệ hơn cả mật thám Pháp nữa kia. Tay bố to, còng không vừa, chúng nó cố ních khóa vào đến
bật máu ra mà chúng nó vẫn cố khóa bằng được. Ðến khi biết không khóa nổi,
chúng nó lấy thừng trói giật cánh khuỷu rồi điệu bố ra xe bịt bùng chở đi. Lúc
chúng nó khám nhà, mẹ quẳng cái khung kính có giấy chứng nhận Huân chương Kháng
chiến hạng nhất của bố vào mặt chúng nó: “Các người khám kỹ cái này đi, xem ở
mặt trái nó có gì?. Chúng nó xử sự, hừm, đúng như cụ Nguyễn Du tả: “Người nách
thước, kẻ tay đao. Ðầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi...”
Trong lòng bà, ông Hồ Chí
Minh chết vào đêm cha tôi bị bắt.
- Lòng người khôn
lường, con ạ! Mới biết không thiếu gì kẻ quên đạo làm người khi ngồi vào ghế
vương giả.
Bàng hoàng trước sự
việc bất ngờ, bà không sao tin được rằng nó xảy ra, không sao tin được rằng
chính quyền được xây dựng nên bởi cuộc cách mạng mà vợ chồng bà hiến dâng cả
đời mình lại có thể nhẫn tâm với vợ chồng bà đến thế. Khi tôi mất tích, có
nhiều người cho rằng tôi trốn. Mẹ tôi không tin. Là mẹ, bà hiểu con bà. Hơn bất
cứ ai, bà tin tôi vô tội. Không những tin tôi vô tội, bà tin tôi đủ dũng khí để
đương đầu với bọn tiếm quyền cách mạng. Chạy trốn, theo
quan niệm của mẹ tôi, không phải là hành động của người quân tử. Bà muốn thấy
chồng con mình đàng hoàng bảo vệ chính nghĩa trước công luận.
Bà buồn rượi khi nghe
những đồng chí cũ đến thăm bà, phân tích tình hình đất nước, rồi kết luận rằng
sẽ chẳng bao giờ có một phiên tòa mà bà muốn có.
Khoảng một tuần trước
khi tôi bị bắt anh Nguyễn Trọng Luật, vụ trưởng Vụ bảo tồn và bảo tàng Bộ Văn
hóa, nhắn tôi tìm cách cắt đuôi đến gặp anh tại nhà riêng ở ngõ Chân Cầm. Trong
số các vụ trưởng của Bộ tôi quý anh nhất. Bề ngoài giản dị, thậm chí hơi thô
kệch, thoạt trông ai cũng nghĩ anh là một nông dân nòng cốt được Ðảng bồi dưỡng
lên làm lãnh đạo. Nhưng chỉ nói chuyện với anh một lần là người ta biết bên
trong vẻ chân quê làm cho họ lầm anh Luật là người lịch lãm, hiểu nhiều biết
rộng. Tôi quyết định đến gặp anh. Tôi muốn nghe ở anh một lời khuyên. Anh dặn
tôi coi chừng bị mật thám theo . Cắt
đuôi là việc chẳng khó gì đối với người trong một gia đình có nhiều năm hoạt
động bí mật. Thời
Pháp thuộc, cha mẹ tôi đã dạy tôi
những cách đánh lạc hướng mật thám. Ông bà thường sai tôi mang mật thư đến nơi
này nơi khác trong thành phố. Tôi là trẻ con, mật thám không để ý. Anh Luật
có hồi cùng hoạt động với cha tôi tại vùng ven sông Hồng. Ðối với cha tôi anh
kính trọng, coi như người anh tinh thần. Vì tình cảm với cha tôi mà anh quý
tôi.
Gặp tôi, anh vồ lấy,
hối hả:
- Tình hình gay lắm,
chú phải trốn ngay lập tức, đừng để bị bắt! Tôi nghĩ mình sẽ làm thế này ...
Tôi im lặng.
- Chú nghe anh đi,
anh nghĩ kỹ lắm rồi, phải trốn thôi. - anh ra sức thuyết phục tôi - Thử nghĩ mà
xem, nếu trong Cải cách ruộng đất tất tật những người bị xử trí oan đều trốn
thoát cả thì sai lầm của Ðảng đâu đến nỗi trầm trọng đến thế. Ðảng làm sao hiểu
được ta bằng chính ta? Biết mình vô tội bị Ðảng ngờ oan mà lại vẫn xuôi tay mặc
cho Ðảng bắt, mặc cho Ðảng giết, không phải là tuân thủ kỷ luật cách mạng đâu,
không phải trung thành với Ðảng đâu, mà là làm hại Ðảng đấy, chú hiểu không?
Tôi hiểu Ðảng lần này lại đang sa vào sai lầm nên tôi mới khuyên chú trốn.
Thấy tôi vẫn không
hưởng ứng, anh bần thần một lát rồi tiếp:
- Tùy chú thôi, nghe
anh thì nghe, không nghe thì thôi, nhưng chú phải nhớ: tuy hiện nay Ðảng bị
thằng Duẩn, thằng Thọ lũng đoạn, nhưng trước sau Ðảng vẫn là Ðảng của ta, chẳng
chóng thì chầy Ðảng sẽ thanh lọc bọn chúng.
Tôi muốn cười mà
không dám cười. Ngẫm ra cách lập luận của anh có cái lý của nó, cái lý chỉ tồn
tại được trong lòng người đảng viên trung thành, lúc nào cũng lo lắng cho sức
chiến đấu và uy tín của Ðảng.
Bằng nhiều dẫn chứng
rút ra từ những huyền thoại về vị lãnh tụ anh minh, anh Luật khẳng định chuyện
này ông Hồ không biết, hoặc giả ông bị désorienté(17) bởi Lê Ðức Thọ mà đã đồng
ý cho Thọ bắt các đồng chí trung kiên, chứ ông quyết không phải người xấu.
- Lê Duẩn
là thằng nhiều tham vọng, điều này ai cũng biết, nhưng anh nghĩ: tự hắn, hắn
không muốn gây gổ trong lúc này. Gạt ra bên ngoài các thứ chủ nghĩa, xét cho
cùng chỉ là cái cớ, thì vụ này Thọ khởi xướng là chắc, không phải Duẩn. Nhưng
Thọ muốn thì Duẩn cũng không ngăn, mọi việc Thọ làm từ trước tới nay đều vì lợi
ích của cả hai. Thằng này làm việc đó để làm gì, nhằm mục đích gì?Anh ngờ bên
trong vụ này có điều uẩn khúc, liên quan tới thời kỳ Thọ ở Sơn La. ..(18)
Tối hôm đó tôi chỉ
ngồi nghe anh nói, không tranh luận. Ðầu tôi trống rỗng. Tôi mệt mỏi. Trong anh
vẫn có một niềm tin mỏng manh ở Ðảng. Trong tôi, niềm tin ấy không còn.
Nghe tôi kể lại cuộc
gặp gỡ với anh Nguyễn Trọng Luật, mẹ tôi hỏi:
- Ý con thế nào?
- Con cho rằng đi
trốn là cho người ta cái cớ để nói mình có tội, mình sợ nên phải trốn tránh...
- Còn con? - mẹ tôi
hỏi vợ tôi.
- Con cũng nghĩ không
nên trốn. - vợ tôi nói - Mình làm gì mà phải trốn?
- Ðúng vậy. Cây ngay
không sợ chết đứng.
Tôi mỉm cười. Mẹ tôi
quen miệng nói thế, chứ ai chẳng biết chính cây ngay mới hay chết đứng, chỉ có
dây leo là không bao giờ chết đứng mà
thôi. Hồi ấy tôi còn ngu ngốc lắm. Thế hệ cha tôi, rồi thế hệ tôi mang trong
mình khái niệm Ðảng của những ngày cách mạng còn trứng nước: Ðảng là tổ chức
của những chiến hữu cùng chung một mục
đích thiêng liêng, cao cả. Không hiếm những thí dụ về tình đồng chí đùm bọc
thương yêu nhau, thậm chí hy sinh tính mạng để bảo vệ nhau trong những ngày xa
xưa ấy. Một khái niệm, tiếc thay, đã lỗi thời. Sống trong một gia đình mà cha
mẹ đều hoạt động cách mạng, tôi nhập vào dòng chảy của công cuộc chiến đấu giải
phóng dân tộc, cũng là dòng chảy của thời đại tôi, một cách tự nhiên, như muốn
sống thì phải thở khí trời. Cũng tự nhiên như vậy, tôi đi
theo những người dẫn đầu cuộc cách mạng như con vật trong đàn đi theo con đầu đàn của nó.
Tôi chỉ bắt đầu ngờ
vực đức hiền minh của các lãnh tụ vào thời gian cuộc Giảm tô giảm tức được phát
động ở khu 4 kháng chiến, năm 1953. Ðêm đêm chúng tôi thao thức nghe trong mịt
mùng những thôn xóm tối tăm tiếng loa âm u hờ gọi nông dân vùng lên đánh đổ kẻ
thù giai cấp. Từ tinh mơ hàng đoàn người rầm rập trên các nẻo đường làng còn
tối đất, khản tiếng hô vang những khẩu hiệu có mùi máu. Dân chúng ùn ùn đổ về
những sân đình, những bãi rộng, nơi sẽ diễn ra những cuộc đấu tố bọn địa chủ
cường hào gian ác.
Ðiều làm tôi ngạc
nhiên đến sững sờ là những cán bộ kháng chiến bị thẳng cánh gạt ra ngoài lề
cuộc đấu tranh. Mà tôi biết rõ họ lắm. Mới hôm trước còn là những người lãnh
đạo đầy uy tín ở địa phương, bất thình lình họ không còn được tin cậy nữa, thậm
chí bị nghi ngờ, bị tước bỏ mọi quyền hành. Tại sao lại như thế? Tôi hỏi một
cán bộ trong đội giảm tô giảm tức và được anh ta giải thích: phải đề cao cảnh
giác trước kẻ thù giai cấp. Chúng biết chúng không thể ra mặt chống phá cách
mạng nên tìm đủ mọi cách chui vào trong các tổ chức của ta, nắm giữ các vị trí
lãnh đạo. Hiện nay không thể biết trong các cơ quan ai là địch ai là ta, nếu
không kiên quyết gạt những người cũ ra thì nông dân được Ðảng phát động vẫn bị
kẻ thù giấu mặt khống chế, họ sẽ không dám vùng lên giành chính quyền. Ðảng dạy
ta chỉ có thể tin những nông dân bần cùng, bị địa chủ bóc lột đến xương tủy,
chỉ có họ mới là chỗ dựa vững chắc và lâu dài của Ðảng.
Cứ như thể sự nghèo
khổ, bản thân nó, đã là một phẩm chất cách mạng. Ðấu tố diễn ra liên miên, ngày
một khốc liệt. Người dân cày dung dị hôm trước, được Ðảng phóng tay phát động,
vụt trở thành hung tợn, mặt bừng bừng khoái trá trong niềm vui hành hạ đồng
loại. Tôi kinh hoàng nhìn cảnh tượng không hiểu nổi: nườm nượp lướt qua mắt tôi
từng bày đàn người bị kích thích bởi mùi máu, hăm hở đi dưới lá cờ đỏ sao vàng
không phải để chiến đấu với quân xâm lược mà với chính đồng bào mình. Tại xã
Ngô Xá, làng Ngò, Thanh Hóa, nơi có dinh cơ gia đình cụ cử Nguyễn Thượng Hiền,
người ta trói chặt hai tay rồi dong mẹ bạn tôi đi khắp làng chỉ vì bà trót dại
nói điều gì đó mất lập trường hoặc không vừa lòng cán bộ giảm tô giảm tức.
Trước bà là hội trưởng hay hội phó Hội Liên hiệp Phụ nữ Thái Bình .
Mất đất, bà mang con cái chạy vào Thanh Hóa ,
làm nghề hàng xáo, buôn thúng bán mẹt. Chúng tôi nghe tiếng kêu khóc chạy tới
thì thấy mấy anh du kích quen đang xềnh xệch kéo bà đi. Hai tay bị trói giơ lên
trời, bà xiêu vẹo bước sau họ, kêu gào thảm thiết: “Ới cụ Hồ ơi, Cụ trông xuống
mà xem người ta đối xử với con dân Cụ thế này đây!”
Ở một xã khác, một
người đàn bà bị trói vào hai cây nứa bắt chéo, bên dưới là một đống lửa. Con mẹ
ni là phú nông phản động, ngoan cố lắm, những người bâu quanh nhao nhao nói
thế. Người đàn bà quằn quại mãi, tới khi ngất đi rồi mới được người ta hạ
xuống.
Cha bạn tôi, hoạt
động cách mạng từ trước năm 1945, bị tống giam vì bị vu là đảng viên Quốc dân
đảng, thắt cổ tự tử, để lại bức thư tuyệt mệnh: “Oan cho tôi lắm, Cụ Hồ
ơi. Tôi trung thành với Cụ, với Ðảng. Tôi không phản bội. Hồ Chí
Minh muôn năm!”.
Người ta lấy gai bưởi
cắm vào đầu ngón tay một cô gái, có trời biết cô ta bị tội gì, có thể cô ta chỉ
có tội là con địa chủ, cứ mỗi câu hỏi lại nhấn những cái gai sâu thêm một chút
làm cho cô gái rú lên vì đau, quằn quại trong dây trói.
Một cụ già tóc bạc
phơ bị tròng dây vào cổ, bị lôi xềnh xệch trên đường như một con chó. Lũ trẻ
làng rùng rùng chạy theo sau. Chúng vỗ
tay, chúng reo hò, chúng cười ngặt nghẽo. Tôi nhìn chúng, rùng mình - những đứa
trẻ này chắc chắn sẽ lớn lên với trái tim
không phải của giống người. Rồi đây, với tâm hồn chai sạn, làm sao chúng có thể
sống chung với những anh em khác màu da và tiếng nói trong một thế giới đại
đồng mà chủ nghĩa cộng sản hứa hẹn? Tôi cảm thấy trong mình cục cựa một cái gì
giống như sự thức tỉnh. Niềm tin ở Ðảng ăn sâu trong lòng mỗi người đến nỗi vừa
buông miệng khuyên tôi trốn, lúc chia tay anh Luật lại vớt vát: “Nói thì nói
vậy thôi, chứ anh không thể nào tin được Ðảng lại có thể nhẫn tâm bắt một lúc
cả hai cha con một gia đình cách mạng như gia đình chú”. Mẹ tôi không muốn tôi
trốn, nhưng bà lo. Tôi bị bắt thì trong nhà không còn người đàn ông nào. Hai em
trai tôi đều còn nhỏ, lại đang có chiến tranh. Bà cảm thấy những gì xảy ra với
người khác nay đang xảy ra với mình
Mẹ tôi nhớ đến bà bạn
có chồng bị mất tích trong những ngày Cách mạng Tháng Tám .
Người đàn bà khốn khổ lang thang đi hết đền này phủ
nọ cầu xin Trời Phật cho chồng bà trở về với bà. Bà gần như mất trí. Khi còn
trẻ ông Vinh, chồng bà, gia nhập Thanh niên Cách mạng Ðồng chí hội. Bị lộ, ông
chạy sang Pháp, vào Ðảng cộng sản Pháp. Từ Pháp
ông sang Nga. Tốt nghiệp Trường đại học phương Ðông(19), ông hăm hở trở về Tổ
quốc tiếp tục cuộc chiến đấu. Vừa bước xuống cảng Hải Phòng
ông sa vào tay mật thám. Xa nước quá lâu, ông trở về không quen biết ai, chưa
kịp liên lạc với ai trong các tổ chức cách mạng. Mật thám tra tấn ông, ông
chẳng có gì để khai. Tra mãi không được gì, chính quyền thuộc địa thả ông, thậm
chí để cột chân ông lại, còn chiếu cố cho ông được tòng sự tại Phủ Thống sứ.
Trong chuyện này tất nhiên không thể thiếu sự chạy chọt của bà vợ con nhà khá
giả. Làm việc trong Phủ Thống sứ, ông Vinh vẫn không ngừng tìm cách liên lạc với
những người cộng sản. Không ai dám giao thiệp với ông, kể cả cha tôi. Với ông,
cha tôi đóng vai người đã nhụt chí, nay trở về với vợ con làm ăn chân chỉ. Người Pháp
hoàn toàn không nghi ngờ gì ông, một công chức mẫn cán. Nhưng đó chỉ là bề
ngoài. Lòng yêu nước trong ông không bao giờ tắt. Cách mạng Tháng Tám
nổ ra, ông hăng hái xuống đường tham gia cướp chính quyền. Thế rồi trong những
ngày sôi nổi ấy, như một hòn đá rơi xuống nước, ông biệt tích.
Không ai biết ông
biến đi đâu nếu như một hôm ông Trường Chinh không nói với mẹ tôi: “Chị Huỳnh
ạ, chị liệu cách an ủi chị Vinh kẻo chị ấy cứ xem bói, xin quẻ mãi, tội nghiệp!
Nói riêng để chị biết: ta thịt anh ấy rồi!”.
Mẹ tôi lạnh toát
người: “Sao các anh nhẫn tâm thế, tàn ác thế? - bà kêu lên - Anh thừa biết anh
Vinh tuy không kiên định cách mạng thật, nhưng anh ấy có phản bội xưng khai gì
đâu, có gây hại gì cho đoàn thể(20) đâu mà các anh nỡ giết anh ấy?” Trường
Chinh phân trần rằng ông không chủ trương giết ông Vinh, người ta giết rồi ông
mới biết. Lúc đó ông có muốn can thiệp thì đã muộn.
Về cái chết của ông
Vinh mẹ tôi không buộc tội Trường Chinh. Nhưng bà không tha thứ cho ông tội để
cấp dưới lộng hành, coi thường sinh mạng con người. Thủ tiêu đối thủ và những
người tình nghi phản bội là chuyện bình thường trong Cách mạng Tháng Tám .
Nhà văn Lan Khai(21) bị bỏ rọ trôi sông cũng chỉ vì ông từng làm thư ký cho một
hãng buôn Nhật. Cha tôi quen Lan Khai từ những ngày ở Tuyên Quang ,
ông rất đau lòng về chuyện này. Bà ngoại tôi thường gặp các đồng chí của cha mẹ
tôi tại nhà tôi khi bà đến chơi với các cháu. Không hiểu vì lẽ gì một số người
trong bọn họ không gây được cảm tình nơi bà. Bà ngoại tôi nói thẳng cho mẹ tôi
biết bà không thích họ. Ðến nỗi mẹ tôi giận bà vì sự không thích ấy. Hóa ra bà
ngoại tôi có lý khi nhận xét người này người kia trong bọn họ không phải là
những người tử tế. Bằng sự mẫn cảm của phụ nữ, bà thấy trước được cách sống
không nhân nghĩa, không có trước có sau, không có tình người, như cách ta
thường nói bây giờ, của những người về sau trở thành những nhà lãnh đạo như
Trường Chinh, Hoàng
Quốc Việt (22).
Trường Chinh đã không
làm một hành động nhỏ nào để cứu cha tôi - người bạn, người đồng chí gần gụi
của ông ta trong thời kỳ bí mật. Ông ta cũng không đến thăm mẹ tôi lấy một lần
trong những năm cha con tôi ở tù. Cha tôi được thả rồi ông cũng không đến. Một
số người biết tình bạn của hai ông cho rằng Trường Chinh không đến vì sợ Lê
Duẩn và Lê Ðức Thọ, nhưng tôi cho rằng trong thái độ này Trường Chinh trung
thực với con người ông ta - ông ta thực sự nghĩ rằng cha tôi đã đứng về phía
những người chống Ðảng. Trong sự đồng nhất cá nhân mình với Ðảng từ khi trở
thành người lãnh đạo, Trường Chinh là người trước sau như một. Hoàng Quốc
Việt còn tệ hơn - ông ta trở thành
nhân vật tích cực trong Ban chuyên án của vụ trấn phản(23). Mà chính vì hai ông,
cha tôi đã bị chính quyền thuộc địa bắt sau khi đưa họ đi trốn vào năm 1939.
Người như vậy, theo quan niệm của người Việt Nam bình thường, không thể được coi
là tử tế. Vợ tôi kể sau khi tôi mất tích, đêm đêm mẹ tôi ngồi lặng hàng giờ,
mái tóc bạc xổ xuống vai. Bà như hóa đá. Linh tính người mẹ báo cho bà biết tôi
đã gặp tai họa. Phân tích mọi dữ kiện bà tin chắc tôi đã bị bắt một cách ám
muội. - Trong những ngày ấy mẹ lo nhất con bị thủ tiêu. Chúng nó có thể làm
chuyện đó lắm. Bà nghẹn ngào nói, ôm chặt đứa con trai đầu lòng. Cuối cùng, rồi
nó cũng đã vượt qua được cái chết để trở về với bà, chín năm sau đó.
-------------
Chú thích
(1) L. B.
Johnson (1908-1973) cho rằng Mỹ có
thể chiến thắng trong một thời gian ngắn. Bắt đầu mở rộng cuộc chiến tranh còn
giới hạn trong phạm vi miền Nam Việt Nam
bằng cách ném bom miền Bắc
Việt Nam vào cuối năm 1965. Hậu quả của
nhận định này là ông Johnson tạo ra những khó khăn
cho chính mình trong cương vị tổng thống Hoa kỳ, để rồi phải rút khỏi chính
trường vào tháng 3.1968.
(2) Nhà văn nổi tiếng
với những tiểu thuyết Vang Bóng Một Thời, Tóc Chị Hoài, Quê Hương, Chùa Ðàn...
(3) Dômbi (Zômbi),
chỉ những xác chết được các thầy pháp châu Phi làm cho sống lại, nhưng không có
trí khôn, không nhớ gì về cuộc sống trước kia, chỉ biết thực hiện các mệnh lệnh
của chủ, bị sử dụng như những con vật trong các công việc đồng áng.
(4) Hoàng Minh Chính
(sinh năm 1920, quê Nam Ðịnh, tên thật Trần Ngọc Nghiêm, nguyên Tổng thư ký
Ðảng dân chủ Việt Nam, nguyên Tổng thư ký Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam,
viện trưởng Viện Triết học) được coi như người đứng đầu cái gọi là "nhóm
xét lại chống Ðảng". Phạm Viết (1929 - 1971), nguyên sĩ quan Quân đội nhân
dân Việt Nam ,
thương binh, nhà báo, phó tổng biên tập tờ Hà Nội Mới.
(5) Cùng bị bắt với
cha tôi và tướng Ðặng Kim Giang trong đợt này có các anh Trần Minh Việt, Phạm
Kỳ Vân, Nguyễn Kiến Giang, Ðinh Chân, Nguyễn Văn Thẩm. Trần Minh Việt - phó bí
thư thành ủy kiêm phó chủ tịch Ủy ban hành chính thành phố Hà Nội, Phạm Kỳ Vân
- phó tổng biên tập, Nguyễn Kiến Giang - biên tập viên tạp chí Học Tập, Ðinh
Chân - biên tập viên báo Quân đội Nhân dân, Nguyễn Văn Thẩm - bí thư của thứ
trưởng Bộ Văn hóa Lê Liêm...
(6) Giám thị trại Hỏa
Lò không thấy tên tôi trong danh sách tù nhân là phải. Sau chừng hai tháng ở
Hỏa Lò tôi mới biết tên tôi đã bị thay đổi. Cán bộ quản giáo chỉ biết tôi dưới
một tên khác.
(7) Áo dạ, theo quy
định, dành cho cấp tá.
(8) Lê Duẩn
(1908-1986), người Quảng Trị, đảng viên cộng sản từ những năm 30, bị tù hai lần
(1931-1936, 1940-1945), từng làm bí thư Trung ương cục miền Nam trong kháng
chiến chống Pháp, từ 1956 làm bí thư Trung ương Ðảng, bí thư thứ nhất
(1960-1976), rồi tổng bí thư Ðảng (1976-1986).
(9) Lê Ðức Thọ
(1911-1990) tham gia cách mạng vào đầu thập niên 30. Tù Sơn La (1939-1944).
Trong thời gian được nói tới trong cuốn này là ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên
thường trực Ban bí thư, trưởng Ban tổ chức Trung ương Ðảng. Ðược Trung ương
Ðảng cử vào Nam năm 1946, với tư cách ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Ðảng,
cấp bậc Ðảng này có lẽ do một Hội nghị Trung ương cử ra hoặc do Trường Chinh
chỉ định.
(10) Pablo Picasso,
danh họa của thế kỷ XX, gốc Tây-ban-nha (1881-1973); Ilya Erenburg, nhà văn,
nhà báo Liên Xô (1891-1967).
(11) Trường Chinh
(1907-1988), nguyên quán xã Hành Thiện, phủ Xuân Trường, Nam Ðịnh, hoạt động
cách mạng từ 1927, đảng viên Ðảng cộng sản Ðông Dương từ 1930, quyền tổng bí
thư Ðảng một thời gian trước Cách mạng Tháng Tám, ủy viên Bộ Chính trị và Tổng
bí thư Ðảng Lao động Việt Nam từ năm 1951-1956.
(12) Trần Ðình Long
(1905-1946), đảng viên Ðảng cộng sản Ðông Dương từ 1930, được đào tạo tại
trường Ðại học Ðông phương Moskva. Cách mạng Tháng Tám thành công, ông Long
được Ðảng dự kiến giữ chức bộ trưởng Bộ Ngoại giao, nhưng sau chức này được
nhường cho ông Nguyễn Tường Tam để thể hiện sự đoàn kết rộng rãi trong thành
phần chính phủ cách mạng lâm thời. Ông bị người của Quốc dân đảng đột nhập vào
nhà riêng của ông bà ở phố Chợ Ðồng Xuân bắt mang đi thủ tiêu, không rõ xác
chôn ở đâu.
(13) Một nhà cách
mạng lâu năm, xuất thân lính thợ, đảng viên Ðảng cộng sản Pháp, sau năm 1954
làm phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
(14) Bí danh của
Trường Chinh.
(15) Phạm Văn Ðồng
(sinh 1906 tại Quảng Ngãi) hoạt động cách mạng từ cuối thập niên 20. Năm 1929
bị thực dân Pháp bắt giam 7 năm. Ðược bầu vào Bộ Chính trị Ðảng Lao động Việt
Nam từ năm 1951, làm bộ trưởng bộ Ngoại giao rồi thủ tướng chính phủ từ năm
1954 tới năm 1987 (kiêm nhiệm bộ trưởng Bộ Ngoại giao từ 1954-1961).
(16) Nguyễn Lương
Bằng (1904-1979), hoạt động cách mạng trước 1930, đảng viên Ðảng cộng sản Ðông
Dương từ 1930, từ 1945 là ủy viên Trung ương Ðảng, đại sứ Việt Nam tại Liên Xô
1952-1957, 1969 làm phó chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cũng như Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam sau đó.
(17) Bị đánh lạc
hướng.
(18) Anh Luật
có lý trong suy luận: trong vụ trấn áp “nhóm xét lại chống Ðảng” chỉ có những
người tù cũ ở Sơn La cùng với Lê Ðức Thọ bị bắt. Có lần tôi nghe tướng Ðặng Kim
Giang nói về chuyện công sứ Sơn La Coussot có mua chuộc được vài tên phản bội
làm chỉ điểm, do đó có những kế hoạch của ban lãnh đạo tù nhân bị lộ.
(19) Trường do Quốc
tế cộng sản (Comintern) mở tại Moskva để đào tạo cán bộ cách mạng vô sản.
(20) Một cách gọi
Ðảng cộng sản trong thời kỳ tiền khởi nghĩa.
(21) Nhà văn nổi
tiếng với những chuyện đường rừng trước Cách mạng.
(22) Tên thật là Hạ Bá Cang , một nhà cách mạng có tiếng trước Cách mạng Tháng Tám ,
sau này phụ trách công tác công đoàn trong một thời gian dài.
(23) Trấn áp phản
cách mạng.
Chương 2
Vừa lôi thốc tôi lên xe, tên ngồi bên phải lập tức bẻ quặt tay tôi ra sau
lưng. Bàn tay y cứng như sắt. Một nòng súng lục thúc mạnh vào sườn tôi bên
trái. Tôi nhăn mặt vì đau. Trong đợt này, cùng với tôi, còn có những ai bị bắt?
Ðó là ý nghĩ đầu tiên đến với tôi, không hiểu sao lúc ấy lại dửng dưng với số
phận mình đến thế. Người lái xe quặt mạnh vô-lăng. Chiếc xe lạng sang một bên,
xoay nửa vòng rồi lao về phía Tràng
Thi . Tôi vẫn cầm bông hồng Nam
Dương, quà tặng của một người bạn vong niên, trong bàn tay trái còn được thả
lỏng.
Nghe tin nhiếp ảnh
gia Trần Văn Lưu ốm nặng, anh mắc chứng lao phổi đã nhiều năm, sáng hôm ấy tôi
đến thăm anh. Như vậy, Trần Văn Lưu là người cuối cùng và duy nhất gặp tôi hôm
đó. Không thấy tôi trở về vợ tôi sẽ lên hỏi anh Lưu và gia đình sẽ đoán được
tôi mất tích vào lúc nào. Nhưng tìm ở nhà anh không thấy, mọi người có thể cho
rằng sau khi ở nhà anh Lưu ra tôi còn đi chơi nơi nào khác, sẽ nháo nhào đi tìm
khắp nơi để rồi cuối cùng mới hiểu tôi mất tích.
Chao ôi, mẹ tôi, vợ
tôi sẽ hốt hoảng lắm đây. Tại người ta không bắt tôi ở nhà, như thế có đàng
hoàng hơn không? Trong tay nhà cầm quyền có cả bộ máy đàn áp khổng lồ, họ giở
trò bắt cóc làm gì? Ðể thủ tiêu chăng? Có lẽ không phải. Nếu muốn thủ tiêu tôi
thì bắt cóc giữa Hà
Nội là quá dở. Việc đó làm ở một
nơi đèo heo hút gió nào khác tốt hơn nhiều. Mà tôi thì lại thường công tác xa
nhà. Hay cha tôi làm sao?
- Không cần phải nắm
chặt như thế.- tôi cục cựa cánh tay bị bẻ quặt.
Có vẻ câu nói của tôi
có tác dụng - những ngón tay lỏng ra được một chút.
Tôi đưa bông hồng lên
ngắm nghía. Nó nhỏ hơn hẳn hoa hồng ta thường gặp, chỉ nhỉnh hơn bông nhài một
chút, nhưng thật là đẹp. Cánh của nó trắng lên một màu trắng tinh khôi, mịn
màng, cho ta cảm giác cánh hoa hơi xốp. Cách phân bố các cánh rất hài hòa với
đường cong mĩ miều của đài. Anh
Lưu khoe anh cậy cục mãi mới xin
được cành hồng Nam Dương này. Anh giâm nó trong một bồn nhỏ, nâng niu chăm bẵm
mấy tháng trời. Cành hồng con lớn lên chậm chạp thành một cây hồng mảnh mai và
trổ bông đầu tiên. Từ bông hoa bé bỏng trên tay tôi bay lên một mùi thơm dịu dàng. Lướt nhanh về phía sau là những ngôi
nhà đóng kín. Phố
Tràng Thi
trong buổi sáng vắng tanh vắng ngắt. Hè phố ngập lá vàng không người quét dọn.
Tôi chú mục nhìn những người thưa thớt đạp xe ngược chiều, nhưng không gặp ai
quen.
Bị kẹp chặt cứng giữa
hai tên công an trước mặt tôi chỉ có một khoảng trống hẹp phía trước. Tôi buồn
rầu ghi vào trí nhớ như thể lần cuối được nhìn thấy những cảnh đang lướt qua.
Mọi cái đều quen thuộc, quen thuộc tới mức không còn để ý tới chúng. Kia, những
con đường trải sỏi vàng dưới bóng râm những hàng đại thụ quanh Thư viện Quốc
gia. Còn đây là ngôi nhà quét vôi hồng nằm trong khu vườn rộng đầy cỏ mần trầu
một thời tôi đã ở sau ngày tiếp quản Hà Nội .
Lướt nhanh bên phải là Cửa hàng mô-tô xe đạp thường xuyên đóng cửa im ỉm. Ở đây
tôi mua chiếc xe đạp đầu tiên cho vợ. Tôi nhớ tới kỷ niệm liên quan tới cửa
hàng này. Chả là vợ tôi thích chiếc Mercier bằng
đuy-ra, còn tôi thì ngang bướng nhất định chọn chiếc Thống nhất nội hóa. “Ta
phải ủng hộ hàng nội hóa, em ạ. Nếu ta mà cũng không chịu ủng hộ hàng nội thì
nền sản xuất nước mình sẽ ra sao?”, tôi nói với vợ bằng giọng gia trưởng. Chiếc
Thống Nhất được chọn bởi lập trường hỏng lên hỏng xuống, năm ngày ba tật. Nhìn
tôi dắt xe đi sửa vợ tôi tủm tỉm cười, nhưng không trách tôi một lời. Kia nữa,
hiệu cắt tóc quen thuộc của tôi. Qua tấm kính lớn tôi thấy bác phó cạo già hay
chuyện đang lúi húi tỉa tót mái đầu muối tiêu của ông khách đứng tuổi, chắc
cũng loại khách quen, như tôi... Chiếc com-măng-ca rẽ vào đường Phủ Doãn ,
quặt sang Lý Thường Kiệt, chạy thêm một quãng ngắn rồi lại rẽ trái.
Ðến đây thì tôi hiểu
mình được đưa đi đâu. Trước mặt tôi sừng sững bức tường đá Hỏa Lò .
Cái nhà ngục nổi
tiếng khắp nước này được thực dân Pháp xây dựng trong những năm cuối thế kỷ XIX
(1), đồng thời với Nhà Dây Thép (nay là Bưu Ðiện Trung Tâm) và Nhà Thương Ðồn
Thủy (nay là Bệnh Viện Quân Y 108) cầm giữ bên trong những bức tường đá của nó
nhiều thế hệ cách mạng Việt Nam, từ những nhà ái quốc Cần Vương, Văn Thân, Ðông
Kinh Nghĩa Thục, cho tới những đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng thời anh hùng
Nguyễn Thái Học, và tất nhiên, các chiến sĩ cộng sản. Trong gia đình tôi Hỏa Lò
được nhắc tới luôn do sự có mặt thường xuyên trong đó của các bạn cha tôi, và
của chính ông, hết người này đến người khác. Mặc dầu nổi tiếng là thế, Hỏa Lò
không phải là nhà ngục kiên cố nhất Việt Nam . Bằng chứng là tại đây đã xảy
ra nhiều cuộc vượt ngục, lớn nhất là cuộc vượt ngục đông đảo của những người
cộng sản vào đêm trước của Cách mạng Tháng Tám .
Tên chính thức của Hỏa Lò là Maison
Centrale (Lao Trung Ương), nhưng
cái tên đó chỉ tồn tại trong các văn bản hành chính thuộc địa. Với dân chúng nó
mãi mãi là Hỏa
Lò , cái phố tí xíu từ thời “Thứ
nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến”, nơi phường gốm sản xuất một mặt hàng duy nhất
là hỏa lò, thứ bếp dùng than tàu (than hoa) mà ngày nay họa hoằn ta mới gặp.
Phần lớn người Hà Nội
không biết gốc tích dung tục của Hỏa Lò ,
nghĩ rằng nó là tên gọi tượng trưng cho sự khủng khiếp bên trong cái nhà tù nổi
tiếng. Tên gọi của nó gợi nên liên tưởng gớm ghiếc về hỏa ngục Thiên chúa giáo
hừng hực lửa vạc dầu và nhung nhúc quỷ sứ.
Hai cánh cửa sắt được
mở ra với một tiếng rít lanh lảnh, kéo dài. Chiếc com-măng-ca rồ máy chui tọt
vào trong cái miệng kim loại há hốc
của nó.
Hai tên cô hồn nhảy
xuống, hất hàm:
- Xuống!
Tôi xuống. Trước mặt
tôi là một cái sân mênh mông, vắng ngắt.
- Ðợi đây!
Ðó là tên ngồi bên
trái tôi nói. Mặt nhâng nháo, y nhét súng vào cạp quần rồi lấy vạt áo sơ-mi phủ
lên. Cử chỉ của y làm tôi nhớ tới điệu bộ của những tên côn đồ nhâng nháo trong
những bộ phim đấm đá rẻ tiền của phương Tây. Ðồ vật hóa ra có khả năng làm cho
con người trở thành giống nhau. Tôi dám chắc cái tên du côn trong biên chế nhà
nước kia chưa hề được xem dù chỉ một phim thuộc loại đó. Chiếc com-măng-ca được
lái đi. Hai tên công an biến mất, để lại sau chúng mùi thuốc lá rẻ tiền. Tôi
không biết chúng đi lúc nào.
Có lẽ đây là góc im
ắng nhất thành phố. Trong vòm cổng Hỏa Lò hai chàng trai trong quân phục công
an nhân dân vũ trang mải mê đánh bóng bàn, chẳng thèm nhìn tôi lấy một lần.
Ngoài tiếng lách tách của bóng nhựa đập xuống mặt gỗ trong cả một vùng tĩnh
lặng không còn tiếng động nào khác. Tưởng chừng cái nhà tù lừng danh một thuở
nay đã trở thành Viện bảo tàng tội ác của chế độ thực dân.
Không thấy bị canh
chừng, tôi lững thững thả bộ trong cái sân rộng và sạch bong, với những bồn hoa
nho nhỏ đặt trước những khối nhà dài. Tôi có cảm thấy sợ hãi không khi bị đưa
tới nhà ngục nổi tiếng này? Trong phút đó, không hiểu vì sao, chính tôi cũng
ngạc nhiên, lẽ ra phải run sợ thì tôi lại không thấy một chút xao xuyến nào.
Mới hay lòng mình chai sạn quá rồi, tâm hồn mình lạnh lẽo quá rồi, lại do mình
đã biết chắc cái sự khốn kiếp này nhất định sẽ xảy ra, chẳng cách nào tránh
được, chỉ có sớm hay muộn mà thôi, nay nó xảy ra rồi, coi như số phận mình đã
an bài, khỏi cần lo nghĩ nữa.
Từ vài tháng nay, tôi
biết mình bị theo dõi chặt. Vừa bước
chân khỏi nhà đã thấy một lũ công an mật bám theo .
Phát hiện chúng chẳng có gì khó. Chỉ cần rẽ ngoặt nhiều lần trong mạng nhện phố
xá là đã nhận ra những kẻ bám sát mình không rời. Tôi thường đi cùng Thu Hòa ,
em gái tôi. Thu
Hòa sáng ý, chỉ đảo mắt nhìn qua
em tôi đã biết xe nào đang theo xe
mình. Nhà tôi ở góc đường Hai Bà Trưng - Phan Chu Trinh, trạm quan sát của mật
thám đặt trên tầng thứ ba trường phổ thông trung học ở góc đường bên kia. Từ
trên gác cao những tên cá chìm làm nhiệm vụ cảnh giới liên lạc bằng điện thoại
với đám trinh sát chực sẵn trong một ngôi nhà nằm trên đường Lý Thường Kiệt. Em
tôi còn ghi được cả số xe bọn chúng. Có vẻ, bọn mật thám thấy việc theo dõi là trò hề, bắt chúng tôi lúc nào mà chẳng
được, không hiểu cấp trên sai chúng theo
dõi để làm gì.
Cho nên có vẻ chúng
chẳng buồn che giấu công việc chúng phải làm. Chứ làm gì mà chúng khờ khạo đến
thế! Về phía tôi, tin mình chẳng làm gì phạm pháp, tôi chẳng sợ chúng chút nào.
Bực mình lên, thỉnh thoảng hai anh em tôi còn trêu trọc chúng nữa kia. Tôi bình
thản được còn vì tôi ý thức được thân phận mình. Trong chuyện này tôi phải cảm
ơn Lênin (hay Engels ?). Nếu tôi nhớ không lầm thì
trong tập Bút Ký Triết Học của ông, Lênin có nói: “Tự do là sự ý thức được cái
tất yếu”. Chí lý thay!
Cái tất yếu trong chế
độ này là thế nào tôi đã biết. Tôi, hay bất cứ ai, chúng tôi đều là chim trong
lồng, là gà trong chuồng, người ta muốn lôi ra cắt tiết lúc nào được lúc ấy.
Con người chẳng có quyền gì hết trước Ðảng toàn năng. Vì thế trước đó mấy ngày
tôi đã lạnh lùng chuẩn bị cho tình huống xấu nhất. Vợ tôi sẽ tìm thấy trong
ngăn kéo bàn viết của tôi, nếu không ngay lập tức thì một thời gian sau, bức
thư tôi dặn dò mọi việc trong nhà. Tôi muốn vợ tôi giúp tôi thực hiện trách
nhiệm của người con cả đối với gia đình. Ðó là gánh nặng, nhưng tôi biết vợ tôi
sẽ không từ nan. Nghĩ mà bực mình.
Tôi sa vào vụ trấn
phản này một cách thậm vô duyên, chẳng ra làm sao cả. Tôi là cái gì kia chứ?
Một nhà báo quèn
không tên tuổi, không cả bề dày cách mạng, nghĩa là chẳng có gì đáng để người
ta phải gờm, để có thể trở thành kẻ thù của nhà cầm quyền. Tôi cũng chẳng làm
gì để người ta phải điều một lô một lốc những tên ăn không ngồi rồi lẵng nhẵng theo tôi cả ngày lẫn đêm. Sách lược nhổ cỏ phải nhổ
cho tận rễ vốn có tính truyền thống trong các quốc gia châu Á.
Chỉ ở châu Á mới có
những án hình tàn bạo như chu di tam tộc, chu di cửu tộc. Những triều đại phong
kiến ở Trung
Quốc , ở Việt Nam đều dùng cách này xử tội những
quần thần bất tuân. Bây giờ tôi đang sống trong một xã hội được gọi là xã hội
chủ nghĩa, nhưng nhà cầm quyền của nó xử sự với dân chúng chẳng khác gì những
xã hội trước nó, nếu không tồi tệ hơn. Từ lâu rồi người ta áp dụng cách đối xử
phân biệt rõ ràng đối với con cái những người mà họ cho rằng có mầm mống phản
kháng. Những đứa trẻ chưa kịp có ý thức về lòng căm thù cách mạng đã bị cái gọi
là cách mạng của những tên độc tài căm thù trước, bị chà đạp xuống tận bùn đen,
không cho ngóc đầu dậy.
Tất cả những lời lẽ
đạo đức giả chỉ được dùng như một nước sơn qua quít. Người ta nói nhưng không
tin chính lời nói của mình. Tôi thích tính cách Lê Duẩn .
Dù sao mặc lòng Lê
Duẩn cũng vẫn là một tên độc tài
thẳng thắn, so với những tên độc tài khác.
“Kẻ nào không theo ta, kẻ đó chống ta”, Lê Duẩn
nói toạc móng heo trước bàn dân thiên hạ. Không quanh co, không uốn éo. Quan
niệm chuyên chính này được đương kim
tổng bí thư tâm đắc lắm. Nó được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, ở nhiều cuộc họp,
trước đông đảo cán bộ nghe lãnh tụ huấn thị, chính tôi cũng được nghe.
Chuyên chính, chuyên
chế, hay độc tài, những từ làm nhân loại sởn gai ốc, ở nơi khác thường được che
phủ bằng ngôn từ hoa mỹ, nhưng trong chế độ xã hội chủ nghĩa hiện tồn lại có
dáng dấp một đức tính sang trọng, là cái nhiều người còn lấy làm hãnh diện phô
ra. Bộ trưởng Bộ
Nội vụ Trần Quốc Hoàn (2) phụ họa theo tổng bí thư: "Nhiều đồng chí chúng ta tỏ ra
còn thiếu kiên quyết trong việc trấn áp bọn phản cách mạng, thiếu nhiều lắm. Họ
run tay. Họ sợ nhầm. Họ không biết rằng trong công tác của chúng ta lợi ích của
cách mạng là cao hơn hết, thiêng liêng hơn hết! Sai thì sửa, việc gì mà
sợ!" Ði ngược chiều lịch sử ta thấy trong Cải cách ruộng đất Trường Chinh
cũng đã từng khuyến dụ "Nhầm mười (người vô tội) còn hơn sót một
(địch)". Biện pháp phòng ngừa chưa từng tỏ ra không hữu hiệu. Sát nhất
nhân vạn nhân cụ(3), lời cổ nhân nói không sai.
Tôi còn phải chờ hơn một
tiếng đồng hồ nữa mới thấy Huỳnh Ngự dẫn xác đến. Y xuống xe, xăm xăm bước tới,
hất hàm hỏi tôi:
- Anh đang mần chi ở
đó?
Tôi cau mặt nhìn y.
Cục phó Cục Chấp pháp Huỳnh Ngự không phải người xa lạ đối với gia đình tôi.
Chính y dẫn thuộc hạ đến nhà tôi đêm 18 tháng 10 để bắt cha tôi. Sau khi đưa
cha tôi đi y còn quay lại chỉ huy việc lục soát tới tận sáng. Phòng vợ chồng
tôi ở cũng bị khám kỹ, chỉ chừa một cái tủ. Vợ tôi nói tôi quên, mang chìa khóa
theo khi đi công tác Nam Ðịnh, nếu
muốn khám thì cứ việc phá ra mà khám. Chúng không phá, mà niêm phong lại, đợi
tôi về khám tiếp.
Mẹ tôi kể khi Huỳnh
Ngự khám nhà thấy mẹ tôi cứ đứng lì ở khung cửa giữa hai căn phòng đang bị lục
soát, y khuyên mẹ tôi: “Chị cứ ngồi xuống, mặc chúng tôi làm việc”. Ðáp lại, mẹ
tôi nói: “Tôi phải đứng ở đây để xem các anh có bỏ tài liệu gì vào nhà tôi
không. Cái lối chôn rượu lậu trong vườn người khác chúng tôi biết lắm. Chúng
tôi không khờ”. Huỳnh Ngự nuốt giận, coi như không nghe thấy câu nói vỗ mặt.
Một người quen tôi làm trong Bộ Nội Vụ cho biết y tên Huỳnh Ngự, cục phó Cục
chấp pháp. Với tư cách trưởng Ban tổ chức Trung ương, người có công chặn đứng
mưu toan lật đổ ban lãnh đạo Ðảng, Lê Ðức Thọ được dư luận nhắc tới nhiều nhất
bắt đầu từ vụ bắt bớ này. Những thông báo số 1 rồi số 2, nghe cứ oang oang như
những bản tin chiến thắng, với những lời lẽ nửa kín nửa hở về một cuộc nổi loạn
vũ trang, được chính Thọ và tay chân trong Ban tổ chức Trung ương đi phổ biến
trong các cuộc họp hạn chế, nửa bí mật. Không khí khủng bố đè nặng lên mỗi
người. Số đông cán bộ cũ xót xa cho các đồng chí chẳng may rơi vào tay Sáu Búa
(4). Họ nóng lòng chờ đợi ông Hồ Chí Minh có ý kiến, chờ đợi ông ra tay, hi
vọng ông sẽ không để xảy ra sai lầm lần nữa. Một Cải
cách ruộng đất, một Chỉnh đốn tổ chức đã quá đủ cho cuộc đời một đảng rồi.
Từ Nam Ðịnh về tôi
sửng sốt biết cha tôi đã bị bắt. Mẹ tôi gục vào vai tôi. Bà gày rộc. Cú đánh
tàn nhẫn làm bà kiệt lực. Tôi thương mẹ quá! Ở xa mọi diễn biến trên chính
trường bà không biết cuộc cách mạng của bà từ lâu rồi đã rẽ sang nẻo khác. Bên
cạnh bà, tôi bình tĩnh đến lạnh lùng. Có thể, thế hệ tôi ít ảo tưởng hơn các
thế hệ đàn anh và cha chú cho nên tôi mới không bị đòn đánh làm cho tê tái, làm
cho mất khả năng suy nghĩ. Nhìn ngôi nhà bị xáo trộn tan hoang như vừa qua trận
giặc càn tôi chỉ rùng mình. Nó càng lạnh lẽo khi vắng bóng cha tôi. Hồi ông
chưa bị bắt ngôi nhà không lúc nào vắng khách. Bây giờ chẳng còn ai dám lai
vãng.
Tôi cho rằng cuộc
tổng khủng bố chỉ mới bắt đầu. Sau cha tôi sẽ đến lượt nhiều người khác. Trong
đó có thể có tôi. Ngày hôm sau, tôi tới Bộ Nội Vụ để báo tôi đã về. Tôi làm đúng như lời
dặn của nhà chức trách để họ không có cớ gây sự thêm với tôi, chứ có cả một lũ
công an mật đông đảo theo sát tôi từng
bước họ thừa biết tôi ở đâu. Tôi cũng chuẩn bị sẵn để có bị bắt cũng không bị
bất ngờ. Vợ tôi, nước mắt rưng rưng, giúp tôi xếp hai bộ quần áo, bàn chải
răng, khăn mặt và vài đồ dùng lặt vặt khác vào ba-lô(5). Khi tôi dắt xe ra khỏi
nhà mẹ tôi lặng lẽ đặt tay lên vai tôi và nhìn lâu vào mắt tôi. Trong giây lát,
mắt bà đã nhòa lệ. Vợ chồng tôi đạp xe đến thẳng phòng thường trực Bộ Nội
vụ ở số 16 Trần Bình Trọng. Chúng tôi đi trong im lặng. Tôi đạp, vợ tôi ngồi ủ
rũ trên đèo hàng.
Vợ tôi cũng có mặt
trong buổi nói chuyện giữa tôi với anh Nguyễn Trọng Luật. Ngoài miệng vợ tôi
đồng ý với tôi, nhưng trong thâm tâm vợ tôi vẫn phân vân - nếu anh Luật đã giúp
cho một chỗ trốn thì tại sao tôi lại không chịu trốn, lại để mặc cho bị bắt?
Ngồi sau tôi, vợ tôi úp mặt vào lưng tôi khóc khe khẽ.
Ðó là cuộc tiễn đưa
của người vợ đưa chồng đến cõi chết. Trên đường Nguyễn Du rẽ sang Trần Bình
Trọng tôi gặp Nguyên Hồng(6) đi ngược chiều. Trên người anh vẫn cái áo
pi-gia-ma xanh nhạt đã ngả sang cháo lòng, vẫn cái quần ximili xám vén gấu, vẫn
cái xà-cột đựng bản thảo tòn ten bên hông. Chòm râu anh mới nuôi năm trước giờ
chấm cổ áo. Ðang tư lự trên hè, nhác thấy tôi anh giật mình đứng lại. Tôi xuống
xe, định đến bắt tay anh thì bỗng Nguyên Hồng hấp tấp lùi lại, bước tránh sang
vệ cỏ. Ðôi mắt anh bùi ngùi nhìn tôi. Rồi rất trịnh trọng, anh chắp tay xá tôi,
xá dài theo kiểu người xưa, môi mấp
máy nói gì không rõ. Tôi đứng lặng. Nguyên Hồng đùa hay thật? Không, anh không
đùa. Ðành cúi đầu xá anh, đáp lễ.
Nguyên Hồng làm thế
là phải. Ðã mấy tháng nay nhất cử nhất động của gia đình tôi đều bị theo dõi. Không cứ anh, ai cũng phải làm như thế.
Nguyên Hồng lẳng lặng
đi, đầu cúi. Nhìn anh lầm lũi trên phố vắng, vợ tôi hỏi:
- Ông nhà quê nào đấy
hả anh?
Khổ, chòm râu dài,
cái mũ lúc sụp xuống trán, nước da đen nhẻm làm cho vợ tôi không nhận ra Nguyên
Hồng. Vợ tôi đã gặp anh, đã ăn cơm với anh ít nhất cũng vài lần ở nhà tôi và
nhà anh Bùi Ngọc Tấn (7) dưới Hải Phòng. Anh thay đổi nhiều kể từ ngày về Yên
Thế. Anh đã tin nhiều để rồi không tin nữa cũng trong những năm ấy. Tôi nhìn theo tác giả Bỉ Vỏ. Anh đi không ngoảnh lại.
Cuộc gặp gỡ Nguyên
Hồng để lại trong tôi cảm giác xót xa(8). Tôi không giận Nguyên Hồng. Tôi chỉ
buồn thôi. Buồn lắm. Trong những ngày ấy mọi người đều xử sự như thế và xử sự
như thế mới là khôn ngoan. Chẳng bao giờ tôi được gặp lại Nguyên Hồng nữa, mặc
dầu khi tôi ra tù anh còn sống. Tôi yêu mến Nguyên Hồng hơn bất cứ nhà văn nào
cùng thời. Anh là người có trái tim
trong sáng và tư cách kẻ sĩ. Huỳnh Ngự lạnh nhạt ra tiếp tôi. Y gườm gườm nhìn
cái ba lô tôi mang theo , nhưng không
nói gì, hẹn ngày khám tủ, rồi bảo tôi về. Vợ tôi cho đó là dấu hiệu tốt, rằng
căn cứ cách đối xử không gay gắt của Huỳnh Ngự, chắc nhà cầm quyền sẽ không
đụng tới tôi. Ðúng hẹn, vào buổi tối Huỳnh Ngự đến mang theo
hai nhân viên. Nhìn con người nhỏ thó, gày còm trong bộ dạ đen, tiếng cười chua
loét chọc thẳng vào màng nhĩ, tôi không ngờ rồi đây tôi sẽ còn phải đối mặt với
y nhiều, trong một thời gian dài. Mắt hoay hoáy sau cặp kính lão gọng sừng, y
vừa khám xét, vừa cười hé hé tự tán thưởng những câu bình luận vô duyên. Tiếng
mỗi cuốn sách bị quăng xuống sàn trong yên lặng giội vào tim
tôi. Ðược cha mẹ giáo dục từ nhỏ thái độ kính trọng đối với sách báo, và nói chung đối với mọi sản phẩm của trí tuệ, tôi không
ngớt ngạc nhiên trước hành động vô văn hóa của bọn mật thám ngày trước và bọn
công an bây giờ. Về mặt này chúng không khác nhau. Dường như chỉ riêng có loại
chúng sinh đặc biệt này là thích dày đạp lên trí tuệ. Chỉ có chúng mới cảm thấy
lạc thú được phỉ nhổ trí tuệ.
Cuối buổi khám xét
chúng thu được một bị lớn gồm tất cả những gì có chữ viết - bản thảo, thư từ,
sổ ghi chép của tôi và của vợ tôi. Cả những băng ghi âm và bộ đầu từ dự trữ cho
máy ghi âm chúng cũng thu tuốt.
- Máy ghi âm đâu? - Huỳnh Ngự
hỏi.
- Bán rồi. - tôi đáp.
Y không bằng lòng
thấy tôi trả lời trống không. Nhưng y hỏi trống không thì tôi cũng trả lời
trống không. Lịch sự với y chỉ có thiệt.
- Ghê thật, dám chơi
máy ghi âm.- y dài giọng,- Anh có biết phải có giấy phép mới được chơi máy ghi
âm không?
- Không biết. Tôi
dùng chứ không chơi.
- Trừ các cơ quan, tư
nhân không ai được phép sử dụng máy ghi âm. Quy định của Nhà nước là thế, rõ
chưa?
- Tôi chưa được thấy
quy định này trên báo chí.
- Không phải quy định
nào cũng cần phải đăng báo.
Nhân chứng hình thức
cho cuộc khám xét là bà tổ trưởng dân phố, người quen của chúng tôi. Bà này
tính tình hiền lành, chẳng hiểu chuyện gì xảy ra, ngồi yên một góc với vẻ mặt
buồn phiền vì phải tham gia vào việc làm bất nhẫn. Bà quay mặt đi, tránh nhìn
cảnh đang diễn ra. Bây giờ, đứng giữa sân Hỏa Lò ,
trong lãnh địa của y, Huỳnh Ngự bé nhỏ khuỳnh khuỳnh hai tay chống nạnh, cái
mặt quắt vênh lên:
- Tôi hỏi: anh đang
mần chi?
- Các anh đưa tôi đến
đây bảo đợi thì tôi đứng đây tôi đợi, chứ còn làm gì? - tôi nhún vai đáp - Ðợi
ai, đợi cái gì, để làm gì, thì lại không thấy nói. Ðứng chán, tôi đi dạo. Anh
muốn biết tôi làm gì à? Thì đấy, tôi đang ngắm cảnh. Xem nó có gì khác trước...
- Nè, anh đừng có láo
nghen! Anh chưa từng bị bắt, vô Hỏa
Lò khi mô mà phách lối: coi nó có
chi thay đổi?
Ơ hay, cái lối gì thế
này? Câu chuyện giữa chúng tôi vừa mới bắt đầu, hà tất phải giở giọng quát nạt?
Một thứ đòn phủ đầu, có lẽ thế. Về sau mới biết tôi hiểu lầm từ láo của Huỳnh
Ngự - ở quê hương y nó có nghĩa là không đúng sự thật chứ không phải hỗn láo.
Còn thói lớn giọng, như sau này tôi được biết, là cố tật của y.
- Tôi sẽ giải thích
cho anh hiểu: tôi đã vào đây một lần vào năm 1939 - không phản ứng, tôi thản
nhiên đáp - Hồi ấy Mặt trận Bình dân(9) ở bên Pháp vỡ, bên này bọn thực dân
tổng khủng bố. Cha tôi bị bắt. Bọn mật thám giở đủ ngón tra khảo không ăn thua,
chúng cho phép mẹ tôi mang con vào thăm, hi vọng cha tôi sẽ đổi ý. Nhưng ông
vẫn im lặng. Tôi còn nhớ chỗ này có một bức tường ngăn, còn ở góc đàng kia có
một giàn nho điếc...
Huỳnh Ngự hiểu ẩn ý
trong câu nói. Y khịt mũi mấy cái, tìm câu đối đáp. Tìm không ra, y sẵng giọng:
- Nè, anh có hiểu anh
đang đứng ở nơi mô không đó? Nơi ni kêu bằng Hỏa Lò ,
biết nó là cái chi không? Biết, hả? Nói thiệt cho anh hay: anh bị bắt rồi đó!
Tôi bật cười:
- Ủa, anh tưởng đến
giờ tôi còn chưa biết sao? Anh báo khí chậm: tôi biết ít nhất cũng cách đây hai
tiếng đồng hồ rồi!
- Theo tui!
Y hầm hầm ngoắc tay
ra hiệu cho tôi đi theo . Tôi lẳng lặng theo y đi về phía ngôi nhà dài và thấp, đối diện với
cổng Hỏa Lò .
Gần tới nơi Huỳnh Ngự
đi chậm lại, nói với tôi:
- Nói thiệt cho anh
hay: cơ quan an ninh thật ra cũng chưa muốn bắt anh mô! Loại cán bộ tép riu như
anh bắt làm chi cho uổng công. Ðảng đã ra thông báo cho các anh thời gian để
các anh tự khai báo. Nhiều người đã đến xin Ban tổ chức Trung ương cho được thú
tội, họ có sao mô. Họ vẫn sống yên lành với vợ với con. Còn anh thì bị. Anh bị
là bởi anh không biết đều. Nghĩ mà coi: trước Ðảng, anh là cái thứ chi? Anh
chẳng là cái thá chi hết trọi. Một con muỗi mắt. Một hạt cát... Nhân tiện tui
cũng cho anh hay: đích thân anh Sáu(10) ra lịnh bắt anh đó!
Tôi bật cười:
- Anh thật sự nghĩ
rằng nếu tôi được Trưởng ban Tổ chức Trung ương đích thân hạ lệnh bắt thì hân
hạnh nhiều hơn hay sao? Ai hạ lệnh bắt thì cũng thế cả thôi, anh hay anh Sáu,
anh Ba, anh Năm (11), hay anh nào khác. Chưa tới lúc các anh phải đổ lỗi cho
nhau.
Huỳnh Ngự đứng phắt
lại:
- A! Anh láo! - y gầm
lên, nếu như cái giọng the thé của y có thể gọi là gầm - Vào đến đây rồi mà vẫn
còn láo! Anh nhớ lấy: đây là Hỏa
Lò ! Hỏa Lò ,
anh hiểu chưa?
Lần này tôi không
lầm. Chữ láo mà y dùng lúc này chính là hỗn láo.. Chúng tôi bước vào một căn
phòng không cửa, cửa một hàng song sắt có thể đẩy qua đẩy lại. Hai tên cô hồn
đã có mặt, như từ dưới đất chui lên. Không hiểu chúng vào bằng đường nào, từ
bao giờ. Chúng xun xoe bên Huỳnh Ngự, nhưng Huỳnh Ngự gạt ra.
- Cởi quần áo!
Giọng nói hách dịch
của Huỳnh Ngự làm tôi lộn ruột. Trước nay chưa có ai nói với tôi bằng cái giọng
như thế.
Tôi quắc mắt nhìn y,
cởi phăng áo bông, nhưng không đưa cho Huỳnh Ngự mà quăng nó xuống sàn, trước
mặt y.
Y lườm tôi rồi lẳng
lặng nhặt lên, lật qua lật lại, lộn trái các túi áo, bỏ các vật tìm thấy lên
bàn: chùm chìa khóa, khăn mu-soa, ví tiền, các thứ giấy tờ lặt vặt... Tôi có
thói hay ghi những điều cần nhớ lên những mẩu giấy bất kỳ rồi sau đó để vãi
lung tung . Trong mấy mẩu giấy Huỳnh
Ngự thu được có một mẩu tôi ghi lại những số biển đăng ký xe đạp của lũ cá
chìm(12). Tôi ghi lăng nhăng chơi, chứ chẳng để làm
gì. Tôi cũng có ý định chuyển cho các bạn để các bạn chú ý xem họ có bị theo dõi không, bởi vì bọn công an mật thường thay
đổi nhau theo dõi các đối tượng, nhưng
chưa kịp.
Trông cái cách Huỳnh
Ngự lần từng đường chỉ ở nẹp áo bông, tôi nghĩ hẳn y ngờ tôi có mang một cái gì
đó đáng ngờ trong người, một bức thư mật chẳng hạn. Nhưng chẳng có cái gì hết.
Vừa khám y vừa chun mũi lại, chỉ dùng
ngón cái và ngón trỏ, còn những ngón khác vểnh lên, như sự đụng chạm với quần
áo của tôi làm y gớm. Tôi nhớ tới tên mật thám Pháp khám nhà chúng tôi năm
1939, cung cách cũng y như vậy.
- Cởi nốt!
Tôi lột nốt sơ-mi,
quần, quăng tuốt xuống đất. Ðứng mãi cũng mỏi, Huỳnh Ngự ngồi thụp xuống, lần
mò khám xét đống áo quần dưới chân tôi. Trong bộ cánh mùa đông bằng dạ đen hai
cổ tay gày gò với những ngón tay khô xác thò ra ngoài hai ống tay áo cũn cỡn,
trông y giống một con ruồi trâu.
- Há mồm!
Tôi há mồm. Cặp mắt
nhỏ và khô của Huỳnh Ngự nghiêng ngó qua tròng kính viễn nhìn sâu vào hốc miệng
tôi. Chẳng lẽ y thực sự nghĩ trong đó có gì? Y có vẻ mặt thất vọng. Cuộc bắt
cóc giữa đường được tổ chức chu đáo, một cách bất ngờ nhất, đã không mang lại
kết quả.
Trên người tôi chỉ
còn áo may-ô, quần đùi. Ðể chơi chướng, tôi cởi tuốt tuột vứt xuống cho y. Căn
phòng không có cửa, gió thông thống. Trong bộ cánh Adam
tôi phải cố gắng để không run rẩy. Mùa đông đến muộn, thời tiết mấy ngày qua
đặc biệt khó chịu, nay nóng mai lạnh. Mới hôm trước còn nóng như đầu thu, hôm
nay từ nửa đêm về sáng trời đột nhiên trở rét. Càng về chiều nhiệt độ càng
xuống thấp. Một anh công an đứng bên bàn ái ngại nhìn tôi rồi lẳng lặng bỏ ra
ngoài. Quay lại, anh ta đưa cho tôi bộ đồng phục tù mới tinh: áo cánh, quần dài
chân què, với những sọc lớn màu huyết dụ trên nền nâu non. Thứ quần áo tù này
tôi đã nhìn thấy trên báo, trên người các phi công Mỹ. Nhưng báo chỉ in đen
trắng, không biết màu gì. Huỳnh Ngự cho anh ta một cái nguýt dài.
- Cảm ơn anh. - tôi
nói.
Bộ quần áo mới tinh,
còn chua mùi hồ. Tôi lóng ngóng mặc. Không hiểu nhà thầu nào đã may thứ quần áo
kỳ cục này: áo không cúc cài, quần không dải rút, hồ lại quá dày làm cho nó
cứng như mo nang. Trong phòng không có gương, nhưng tôi cũng hình dung ra hình
ảnh tức cười của tôi trong bộ cánh mới: áo vắt chéo vạt lại cho kín mà vẫn hở
ngực, quần thắt lá tọa kéo cả hai ống lên cao để lộ đôi cẳng chân. Không thấy
gì đáng ngờ trong số đồ vật thu được, Huỳnh Ngự chuyển sự chú ý qua bông hồng
Nam Dương. Y gỡ tờ pơ-luya mà anh Lưu bọc cuống hoa (anh thích làm đẹp cho bất
cứ cái gì), soi nó lên nền trời xám xịt. Bỏ kính ra, đeo kính vào chẳng thấy
gì, y sai một tên cô hồn bật đèn để soi lên ánh điện. Cũng chẳng có gì ở trong
đó. Một trong mấy tên phụ tá dùng ngón trỏ và ngón giữa cặp lấy tờ giấy, nhẹ
nhàng bỏ nó vào một bao polyethylen, hẳn để đem đi xét nghiệm. Cảnh tượng diễn
ra trước mắt tôi giống đoạn tả vụng về trong một cuốn truyện trinh thám rẻ
tiền.
Huỳnh Ngự hỏi tôi:
- Bông hồng ni ở mô
ra?
Tôi nhún vai. Y dằn
giọng lặp lại câu hỏi.
- Một người bạn tặng
tôi.
Ngó nghiêng bông hồng
thêm một phút, y nheo mắt nhìn tôi:
- Mật hiệu, hử?
Cái lối nhìn thấy
gián điệp ở bất cứ chỗ nào của các nhà thực hành chuyên chính vô sản làm tôi
ngán quá. Biết trả lời tên này thế nào cho y vừa lòng? Tôi ném cho tên Sherlock Holmes (13)
nội hóa một cái nhìn khinh bỉ.
- Bông hồng ni ở mô
ra, tui hỏi anh?
- Tôi nói rồi: một
người bạn tặng tôi.
- Ai?
Nói hay không nói cho
cái thằng quan cách mạng này biết bông hồng là của anh Lưu? Biết thế này chẳng
nhận bông hoa cho xong.
- Tôi đợi mãi cây
hồng mới trổ bông này để tặng cụ nhà. - anh Lưu nói khi cắt cho tôi cành hoa -
Phải là người sành thưởng hoa như cụ mới đánh giá được công sức tôi chăm bẵm
cây hồng quý. Tiếc quá, đến lúc có được bông đầu tiên thì cụ lại bị rồi. Thôi
thì anh thay mặt cụ nhận món quà mọn này cho tôi, kể như tôi thực hiện được ý
mình muốn.
Trong cái sân rộng
bốn thước vuông đầy ắp cây cảnh, dưới ánh sáng mờ mờ lọt qua tấm ni lông rách,
trông anh gày quá, xanh quá.
- Tôi rất quý cụ. Hồi
45 cụ nhà ta có cấp cho tôi một cái giấy ra vào Bắc bộ phủ để chụp ảnh Cụ Hồ
đấy. Cụ nhà khoáng đạt lắm, đối với văn nghệ sĩ thì ba chê (14) được... Chà,
thật là buồn. Tôi không sao hiểu nổi: những bậc tiền bối cách mạng ngày trước
vào sinh ra tử có nhau, sao mà bây giờ lại có thể tàn nhẫn với nhau đến thế? Cụ Hồ
bây giờ ở đâu? Tôi còn giữ được tấm phim chụp Hồ với cụ nhà ta đứng bên nhau
trên tàu Dumont Durville năm 46, khi tàu vừa cập bến Hải Phòng ...
Tôi sẽ in tặng anh một tấm...
- Cảm ơn anh. Bây giờ
nó không còn giá trị gì đối với tôi nữa.
- À nhỉ, thế mà tôi
không nghĩ ra.
Liệu tôi nói ra tên
anh Lưu, tên nhà quê này có làm phiền anh không? Anh đang mang bệnh, gia đình
đang gặp khó khăn, có thể nói là túng quẫn. Nhưng không nói ra còn lôi thôi
hơn. Chúng nó theo dõi tôi từng bước,
chúng nó đã biết tôi đến nhà ai trong buổi sáng nay. Chắc chắn, nếu nghi ngờ chúng
sẽ đến tận nhà anh Lưu, sẽ cật vấn anh, sẽ khám xét... Giữa lúc anh đang ốm
đau! Sau một lát ngần ngừ, tôi nói:
- Có gì đáng giấu
đâu. Bông hồng do một nghệ sĩ nhiếp ảnh tên là Trần Văn Lưu tặng tôi. Các anh
có thể xác minh chuyện này dễ dàng.
Có vẻ cái tên Trần
Văn Lưu chẳng nói lên điều gì với y.
- Trần Văn Lưu, hử?
Ðược!
Y hí hoáy ghi sổ tay.
Bọn này có thể làm
phiền anh lắm, tôi nghĩ. Mình ngu hay hèn khi nói ra tên anh? Trần Văn Lưu là
một lãng tử chính cống trong nghệ thuật. Cả cuộc đời anh, anh không ngớt mơ ước
về một salon ảnh nghệ thuật của riêng anh, trong đó anh sẽ là chúa tể các thứ
ánh sáng làm ra Cái Ðẹp.
Ðến ngày đó anh sẽ
trở thành Mạnh Thường quân cho chúng tôi, đám nghệ sĩ thất cơ lỡ vận, hay là “thất
cơ lơ vận” theo cách nói đặc biệt Hà Nội
của anh. Chúng tôi chờ mãi cái ngày mai tươi sáng, khi “salon Trần Văn Lưu” ra
đời. Tiếc thay, nó chẳng bao giờ ra đời cả. Không, chúng chẳng làm được gì hơn
một vài lần gọi Trần Văn Lưu đi thẩm vấn. Anh sẽ có thêm một chuyện cười để kể
cho bè bạn. Sẽ có vô số người bảo đảm cho anh, rằng với chính trị anh không có
quan hệ thân tình.
Tôi nhớ lần chót
chúng tôi uống cà phê với nhau ở quán Lâm Toét trên đường Nguyễn Hữu Huân .
Chẳng hiểu ai gieo vào đầu Trần Văn Lưu và Bùi Xuân Phái (15) ý nghĩ sản xuất mực bút máy để
bán. Thời kỳ này mực bút máy tốt rất hiếm. Bùi Xuân Phái tự hào về kỹ thuật làm mực xanh đen
của anh lắm. Anh khoe anh đã chế không biết bao nhiêu thứ mực dùng cho ký họa
bút sắt nhưng thứ anh tìm ra này là tốt nhất. Nó không nhòe cũng không phai.
Tôi hân hạnh được tham gia mấy cuộc họp sản xuất của hai anh. Bùi Xuân
Phái hứng lên vẽ ngay tại chỗ một
bức tranh quảng cáo: một ngòi bút máy cách điệu và bên dưới nó một dòng suối
mực chảy quanh co.
Màu đen nhánh của mực
tàu cứ lung linh trên nền giấy vàng nghệ. Chị
Lưu phấn khởi xuất vốn, giúp hai đấng nam nhi rửa
chai lọ và nấu mực theo công thức Bùi Xuân
Phái . Mực sản xuất ra chưa bán
được lọ nào chị vẫn ứng tiền cho hai ông chủ tương lai uống cà phê, cộng với
tôi được ăn theo là ba. Chúng tôi nhâm
nhi cà phê đen của Lâm
Toét , thả hồn theo khói Gold Flake, mơ màng về một tương lai huy
hoàng của hãng mực Lưu-Phái.
- Anh cười cái chi? -
Huỳnh Ngự vặn.
- Tôi chợt nhớ tới
một câu chuyện vui.
Có lẽ còn lâu (hay
chẳng bao giờ nữa?) tôi mới được trở lại quán cà phê quen thuộc của các văn
nghệ sĩ nghèo ở Hà
Nội . Ông Lâm Toét đặc biệt yêu mến văn nghệ sĩ, nhất là
các họa sĩ. Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm,
Trọng Kiệm, Lưu Công Nhân, Văn Cao, Nguyễn Sĩ Ngọc... hết thảy đều là khách
quen của Lâm
Toét . Các họa sĩ nghèo, thường
uống chịu, ghi sổ. Ông chủ quán gày còm, nhỏ bé, mắt hấp him, không bao giờ đòi
nợ họ. Dào, các vị cứ dùng đi, đáng bao nhiêu đâu, không có tiền thì trả bằng
tranh cũng được. Nhận tranh của các họa sĩ gán nợ ông không bao giờ trả giá,
không cò kè bớt một thêm hai. Các vị cho ông tranh để ông treo là quý rồi.
Tranh gì cũng được, ông không phải cán bộ tuyên giáo, ông không khe khắt. Hiện
thực, siêu thực, lập thể, nguyên khai hay đa đa... đối với ông thì cũng thế cả
thôi, miễn được mắt ông.
- Có đúng là không có
chi trong bông hồng ni không?
- Anh cứ khám cho kỹ!
- tôi cười hòa nhã - Bông hồng là bông hồng. Nó không phải khẩu súng. Ðể mang
một bông hồng, theo tôi hiểu, không
cần có giấy phép.
- Hừm! Anh giỏi đối đáp
đó! - Huỳnh Ngự lườm tôi. - Ðược, để coi ở Hỏa Lò
anh còn giỏi được bao lâu? Ðưa nó đi!
Huỳnh Ngự ký sổ tù.
Anh công an lúc lắc chùm chìa khóa, ra hiệu cho tôi đi theo .
Tôi giơ tay định cầm lấy bông hồng, nó hiển nhiên là của tôi, nhưng Huỳnh Ngự
đã giơ tay phác một cử chỉ ngăn lại. Nhìn bông hồng mảnh mai nằm cô đơn trên
mặt bàn lạnh lẽo lần cuối, tôi buồn rầu chia tay với nó, lững thững đi theo anh công an.
-------------
Chú thích
(1) Từ năm 1880,
người Pháp bắt đầu xây dựng lại Hà
Nội theo
quy hoạch mới. Hỏa
Lò được khai trương vào năm 1886.
Lúc đầu nó được đặt tên là Prison Centrale, sau đổi lại thành Maison Centrale .
(2) Trần Quốc
Hoàn , bộ trưởng Bộ Nội vụ, ủy viên
Ban bí thư, ủy viên Bộ Chính trị. Bị tù Sơn La cùng với Lê Ðức Thọ và những
người bị Thọ-Hoàn bắt sau này: Hoàng Minh Chính, Ðặng Kim Giang, Vũ Ðình Huỳnh,
Phạm Kỳ Vân, Lưu Ðộng. Năm 1945 là bí thư Xứ ủy Bắc kỳ.
(3) Giết một người
vạn người sợ.
(4) Trong thời kỳ
công tác tại miền Nam Lê Ðức Thọ được cán bộ đặt biệt hiệu “Sáu Búa”.
(5) Tôi ngây thơ đến
nỗi bỏ vào ba-lô cả dao cạo, cả bút máy để viết và vài cuốn sách để đọc. Cứ
tưởng mình đang ở một nước văn minh vậy! Trong xà lim tù không được có bất cứ
đồ vật sắc nhọn nào, cũng như không được phép đọc hoặc viết.
(6) 1918-1982. Nhà
văn, tác giả Bỉ Vỏ, Thời Thơ Ấu, Sóng Gầm... Vào thời gian đang được nói tới
ông bỏ Hà Nội lên ở ẩn tại vùng Yên Thế, Bắc Giang.
(7) Nhà văn (sinh
1934), từng được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam , sau cũng bị tập trung cải tạo
vì tội có quan điểm xét lại tại trại tập trung Thủy Nguyên, Hải Phòng.
(8) Quả nhiên, tại
Hỏa Lò người ta bắt tôi phải viết một báo cáo về Nguyên Hồng. Phải chật vật lắm
tôi mới thuyết phục được họ rằng tôi không biết gì về quan điểm chính trị của
Nguyên Hồng. Không nhà văn nào thoát khỏi con mắt Tào Tháo của cơ quan an ninh.
(9) Mặt trận Bình dân
(Front Populaire), bao gồm các đảng cánh tả của Pháp, trong đó liên minh cộng
sản - xã hội là nền tảng. Năm 1936 Mặt trận giành thắng lợi, chính phủ Léon
Blum của Mặt trận Bình dân giải tán các tổ chức phát-xít, ấn định tuần làm việc
40 giờ cho người lao động, ngăn chặn các hành vi phát-xít trong sự đối xử với
nhân dân các nước thuộc địa... Năm 1938 Mặt trận Bình dân yếu dần rồi tan vỡ do
những mâu thuẫn bên trong.
(10) Lê Ðức Thọ
(11) Ba, tức Ba Duẩn,
Năm, tức Trường Chinh.
(12) Công an mật.
(13) Nhân vật thám tử
tư của nhà văn Anh Conan Doyles.
(14) Không chê vào
đâu được. Chê là từ Việt, ba là từ gốc Pháp pas = không. Một cách nói thịnh
hành năm vào những năm 40 tại Hà Nội.
(15) (1921-1988) Họa sĩ
Bùi Xuân Phái rất nổi tiếng trong số những họa sĩ tiên phong cách tân hội họa
Việt Nam .
Ðặc biệt, với một loạt tranh các phố cổ Hà
Nội , Bùi
Xuân Phái
trở thành người khám phá một thủ đô chưa ai biết. Vì những bức tranh này nhà
văn Nguyễn Tuân đặt tên cho các phố cổ Hà Nội là phố
Phái.
(16) Victor Tardieu ,
họa sĩ Pháp, từng đoạt giải hội họa Ðông Dương năm 1920. Là bạn học của các
danh họa Rouault và Matisse .
Ông đã tích cực vận động chính phủ bảo hộ cho thành lập trường Cao đẳng Mỹ
thuật. Khóa đầu tiên của trường này (năm 1925) đã cho ra các họa sĩ Nguyễn Phan Chánh ,
Lê Phổ, Lê Thứ... Nguyễn Sáng, Diệp
Minh Châu
tốt nghiệp trường này năm 1940.
Chương 3
Cai ngục của tôi, chính là anh công an mang cho tôi bộ quần áo, dẫn tôi
tới trước một cánh cửa lim sơn đen, nằm giữa loạt cánh cửa giống hệt nó trong
một hành lang hoang vắng và mốc thếch.
Tất cả hiện lên mờ mờ
trong ánh sáng bủng beo đầu đông. Tôi đứng lặng, ngắm giang sơn mới của mình.
Dội vào óc tôi tiếng mở khóa. tiếng then kim
loại trượt trong hõng. Ngoài những tiếng động chát chúa, khu giam người này
vắng lặng và ảm đạm như một hầm mộ.
“Những nấm mồ chôn
người sống”, tôi nghĩ.
- Anh vào trong này !
Tôi ngạc nhiên. Tôi
không chờ được nghe một giọng nói hiền lành như thế. Tôi hình dung mọi cái ở
đây phải tồi tệ hơn nhiều, phi nhân hơn nhiều, kể cả cách cai ngục nói với tù.
Bước ngoặt cuộc đời
diễn ra quá lẹ. Sau một Huỳnh Ngự hách dịch, giọng nói bình thường mà người ta
nói với nhau hàng ngày đã đủ làm tôi sửng sốt.
Tôi lẳng lặng quan
sát viên cai ngục. Trên gương mặt nông dân thuần phác, nước da thô đầy những
sẹo trứng cá, cái mũi to quá khổ, không có lấy một nét gian giảo hoặc ác độc mà
ta đinh ninh phải có. Một gương mặt như thế có thể gặp ở bất cứ đâu trong vùng
châu thổ sông Hồng.
Ðã bước một chân vào
xà lim, tôi dừng lại :
- Tôi có việc muốn
phiền đồng chí.
Anh ta nhướng mắt :
- Việc gì vậy ?
- Nhờ đồng chí báo
giùm cho cơ quan tôi ở số 76 Lý Thường Kiệt biết tôi hiện ở đây. - tôi nói,
giọng không tự tin cho lắm - Ðồng chí gọi điện thoại số 3508, cơ quan tôi lúc
nào cũng có người trực.
Hình như anh ta mỉm
cười. Tôi sực nhớ: trong nhà tù không được phép gọi công an bằng “đồng chí”.
- Ðược.
- Nhân thể xin anh
nhắn giùm người phụ trách căng-tin bảo chuyển cho tôi thuốc lá tiêu chuẩn. Và
một cái bật lửa.
- Ðược.
Kiên nhẫn nghe hết
lời nhắn của tôi, anh ta quay ra.
Cuộc đối thoại hôm ấy
giữa tôi với cai ngục hẳn đã cho những người tù ở các xà lim bên cạnh một trận
cười, như sau này tôi hiểu. Nó giống chuyện tiếu lâm.
Cánh cửa lim đóng
xầm. Sau cái tiếng động không lịch sự là tiếng then rít lên trong hõng, tiếng
bấm khóa, tiếng chân xa dần. Căn phòng tối hẳn lại.
Quay vào, tôi thấy
một cái đầu bù xù ngẩng lên trong tranh tối tranh sáng. Thì ra ở đây đã có sẵn
một cư dân.
Người này cất giọng
khàn khàn hỏi tôi :
- Anh mới vào ?
Tôi hiểu đó là một
câu chào. Tôi chào lại.
- Vâng.
Mắt tôi quen dần với
bóng tối. Trước mặt tôi là một người đàn ông đứng tuổi, mái tóc dài rũ rượi bao
quanh gương mặt xương xẩu, đen xạm, râu ria tua tủa. Anh ta khoác tấm chăn sợi
Nam Ðịnh đã rách và chắc là rất bẩn, ngồi bó gối trên phản, giống hệt một con
cú mèo.
- Anh vừa bị bắt ?
Người tù trừng trừng
quan sát tôi. Hình hài tiều tụy cộng với cái nhìn thất thần dính chặt vào mặt
tôi làm tôi cảm thấy khó chịu. Tôi lạnh nhạt :
- Vâng, cách đây mấy
giờ tôi còn ở ngoài kia.
- Thế à ?
Xà lim của chúng tôi
là một căn phòng hẹp, chiều ngang khoảng hai mét, chiều dài hai mét rưỡi, với
hai tấm phản xi măng cách nhau bởi một lối đi vừa cho một người. Cuối mỗi phản,
sát cửa, là một cái cùm sắt.
Tôi ngồi xuống tấm
phản đối diện với người tù. Cái lạnh lẽo của khối xi măng đặc lọt qua lần vải
chạm vào da thịt. Tôi rùng mình. Xà lim phảng phất một mùi hôi hám khó tả, hòa
trộn mùi mồ hôi người chua chua nồng nồng, mùi nước tiểu lưu niên khăn khẳn với
mùi tanh của đờm rãi thường gặp trong nhà thương làm phúc.
Chà, xà lim Hỏa Lò ,
nó thế này đây !
Lần đầu tiên tôi được
thấy nơi giam tù trong phòng riêng, còn gọi là xà lim cá nhân, là ở nhà tù Petropavlovsk , mùa hè năm
1955. Khi ấy tôi là một sinh viên chưa có ria mép, được nhà trường cho đi tham
quan các di tích lịch sử của nước Nga. Nhà tù Petropavlovsk
nằm bên kia sông Neva , mà bên này là thành phố
Lêningrađ. Nghe cô hướng dẫn viên giải thích thì trước kia nó là một pháo đài,
sau được xây lại thành xưởng đúc tiền, Nhà Tiền(1), thuộc ty Ngân khố quốc gia,
sau nữa mới thành nhà tù.
Trong xà lim dành cho
những nhà cách mạng ở nước Nga quân chủ có một giường, một bàn, một bồn rửa
mặt, một bàn cầu, tất cả đều bằng sắt, được gắn chết vào bê-tông. Ngoài ra còn có
một tủ tường để đựng sách và đồ dùng. Xà lim Hỏa Lò
hẹp hơn nhiều, diện tích chưa được bằng nửa, lại trống trơn. Ðem hai cái xà lim
ra so sánh thì xà lim thời Nga hoàng giống một phòng trọ rẻ riền, còn xà lim Hỏa Lò
giống một chuồng thú.
- Anh ở đây bao lâu
rồi ? - hai tay ôm ngực cho đỡ rét, tôi hỏi anh bạn tù.
Anh ta không trả lời
ngay :
- Năm năm.
Tôi ớn lạnh. Năm năm
? Trong cái chuồng này ?
Người tù thở nặng
nhọc. Anh ta quay mặt vào tường, chậm rãi hút thuốc lào. Tôi không nghe tiếng
lọc xọc quen thuộc của điếu ống hay điếu bát. Khói thuốc cay nồng lan tỏa làm
cho căn phòng ấm lên được một chút.
- Hà Nội
bây giờ có gì khác không anh ? - anh tù hỏi, húng hắng ho.
- Năm năm, chà... -
tôi đáp - Cũng chẳng khác trước mấy đâu. Xem nào, so với năm năm trước Hà Nội
bây giờ khác cái gì ? Hai bên hè phố có nhiều hố cá nhân, cứ vài mét một cái.
Nhiều tự vệ đeo súng. Trên những nhà cao đặt nhiều đại liên, trung liên. Phong
cảnh mới của Hà
Nội là thế. Thành phố, tất nhiên,
vắng hơn trước.
- Nhưng vẫn còn đông
chứ ?
- Vẫn đông. Hà Nội bao giờ cũng vẫn là
Hà Nội . Vắng đi một anh một tôi chẳng nghĩa
lý gì đối với nó.
Anh tù thở dài.
- Anh bị tội gì ?
Người tù không trả
lời.
- Tôi tò mò hỏi vậy
thôi, anh đừng nghĩ ngợi.
Anh ta ngẩng lên lặng
lẽ quan sát tôi. Rồi nói khẽ, như thì thầm :
- Tôi bị tội giết
người.
Một tên sát nhân đấy
ư ? Không có lẽ. Trong hình dung của tôi tên sát nhân phải dữ tợn hơn, với đôi
mắt xếch đầy lòng trắng chẳng hạn.
- Ngộ sát, chắc vậy ?
Anh ta đáp, giọng
miễn cưỡng:
- Chuyện dài. Mà rắc
rối lắm.
- Anh bị xử mấy năm ?
- Nào đã được xử đâu
mà biết !
- Mà đã năm năm rồi ?
Anh tù lúng túng.
Chắc hẳn muốn chọe tên lính mới tò te anh ta đã thổi phồng số thời gian ở đây.
Bây giờ anh ta ngượng.
- Còn đang giam cứu.
- anh ta thở dài đánh sượt - Chưa biết đến bao giờ.
- Giam cứu nghĩa là
thế nào ?
- Là người ta cứ giam
mình đấy đã để điều tra nghiên cứu. Bao giờ điều tra xong, nghiên cứu xong thì
đem xử.
- Giam cứu thường có
lâu không ?
- Biết thế nào được.
Cũng tùy vụ, tùy người...Nhanh thì sáu tháng, một năm, chậm thì vài ba năm
không chừng.
- Xử rồi người ta có
trừ đi thời gian đã ở tù không ?
- Trừ chứ.
- Thế nếu điều tra
xong anh lại trắng án ? Hoặc án xử lại ít hơn thời gian anh đã ngồi tù, vì tội
ngộ sát chẳng hạn ?
- Thì người ta cho
về.
- Có thế thôi ?
- Ðược về là phúc
rồi, còn muốn cái gì nữa ? Bắt người ta ngồi tù đền à ?
Chòm râu rung rung,
anh ta cười không có tiếng.
Bên ngoài có tiếng
chân người. Miếng tôn ở cái khung hình vuông bằng bàn tay ở cửa dịch sang bên.
Một con mắt ngó vào. Miếng tôn khép lại.
- Cái gì thế ?
- Các ông bộ đội kiểm
tra. Kệ, không sao đâu.
- Bộ đội sao lại gác
ở đây ?
- Công an quản lý
trại, gác trại là Công an nhân dân vũ trang.
- Lôi thôi nhỉ ? Ðã
có công an rồi lại còn thêm công an nhân dân vũ trang.
Anh ta cười khúc
khích.
- Mỹ ném bom Hà Nội
có nhiều không anh ?
Tôi ngạc nhiên:
- Trong này anh không
nghe thấy gì sao ?
- Có chứ, có nghe
thấy còi báo động. Nghe thấy tiếng nổ. Nhưng trong phòng kín như bưng thế này
nghe chỉ ầm ầm, ầm ầm, không phân biệt đâu là tiếng tên lửa phòng không, đâu là
tiếng bom... Anh ở đây rồi khắc biết.
Bom đạn Mỹ rót xuống
đất Thăng Long phi chiến địa, theo lời
sấm Trạng Trình, không phải bây giờ là lần đầu. Mùa thu năm 1944, những pháo
đài bay B26 đã bay đến đây ném bom khu Tám
Mái , ném bom bên cạnh Quần Ngựa .
Những mẩu tro của đám cháy lớn từ kho Tám
Mái bay khắp Hà
Nội , rơi xuống những hầm trú ẩn gần đền Hai Bà
còn nguyên hình nống vải kaki. Mấy con ngựa đua của ông Ðỗ Kim Hải , bạn cha tôi, chết cứng trong tàu vì
mảnh bom, bốn cẳng duỗi thẳng đơ, trông như ngựa gỗ, với những con mắt ngây dại
bằng thủy tinh.
Người tù nằm xuống,
kéo chăn lên, lạnh lùng quay mặt vào tường.
Tôi còn lại một mình.
Cảm giác đầu tiên ập
đến, làm tôi choáng váng, là thời gian đang chảy trôi bỗng ngừng lại đột ngột.
Tưởng chừng thấy được, bằng thị giác, bằng xúc giác, cái thanh chắn, cái cột
mốc ngăn đôi cuộc đời - bên kia là quá khứ, là phần đã mất, còn bên này, nơi
tôi hiện diện, là sự ngưng đọng mở đầu cho cõi bất tri, thăm thẳm, khôn cùng.
Tôi sẽ phải ở đây bao
lâu ? Bao nhiêu tháng ? Hoặc, trời hỡi, bao nhiêu năm ?
Tôi không được chuẩn
bị để phải chịu đựng cảnh này. Tôi có thể hình dung mình trong nhà tù đế quốc,
nhưng không bao giờ tôi hình dung mình trong nhà tù cộng sản.
Nhớ lại những ngày Tháng Tám
tưng bừng, khi tôi còn là đứa trẻ,
mà tiếc. Trước mắt tôi cuộc đời mở ra toàn một sắc hồng. Cờ đỏ sao vàng tràn
ngập Hà Nội . Tiếng trống ếch thiếu nhi vang rền
trên các phố. Những đám đông rầm rập như những dòng lũ người, ồn ào tiếng hát,
tiếng thét vui mừng.
Thế là cách mạng
thành công rồi, mẹ tôi nói. Nhìn thành phố biến đổi như do một phép màu trong
niềm vui chung của mọi người mọi nhà,
mẹ tôi nước mắt rưng rưng, miệng cười mếu máo vì xúc động. Thế là nước ta độc
lập rồi ! Chúng tôi reo mừng, chúng tôi nhảy cỡn lên vì sung sướng. Thế là từ
nay chẳng bao giờ mẹ con chúng tôi còn phải thao thức đêm đêm, giật mình với
mỗi tiếng phanh ô tô rít lên ngoài đường. Chẳng bao giờ hai mẹ con tôi còn phải
chầu chực bên ngoài bức tường đá Hỏa Lò
chờ đến lượt mình được gọi tên vào thăm cha tôi trong đó. Cùng với những lá cờ
đỏ sao vàng tung bay khắp Hà Nội ,
tâm hồn chúng tôi mọc cánh trong niềm vui tự do.
Tuổi thơ của tôi chấm
dứt từ đó. Tôi lăn vào các công tác cách mạng đáng lẽ của người lớn, bắt đầu
bằng một đội viên tuyên truyền xung phong. Chúng tôi diễn kịch, ca hát, chúng
tôi lang thang làng này
qua làng khác, trong không khí hội hè bất tận. Rồi
lớn lên, tôi thành người lính, thành cán bộ. Những năm xen kẽ giữa các công
tác, thỉnh thoảng lại bị bố mẹ bắt về đi học, là những năm tôi bứt rứt lắm,
ngứa ngáy chân tay lắm; sểnh ra tôi lại lên đường. Chiến tranh, tất nhiên, gắn
liền với bom đạn, với hy sinh. Nhưng chúng tôi không sợ. Lớp trẻ chúng tôi đi
vào chiến tranh với những khúc quân hành hùng tráng và những bản tình ca lãng
mạn. Chúng tôi không sợ hy sinh, chúng tôi không sợ chết. Thế hệ chúng tôi là
thế hệ quyết tử quân của cách mạng. “Các em quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh(2)...”, Chúng tôi nghe thấy giọng nói sang sảng của Bác Hồ
giục giã. Chúng tôi hăng hái ra đi theo lời Bác gọi.
Không khó khăn gian khổ nào có thể làm chúng tôi chùn bước.
Ðó là những ngày đẹp
nhất trong cuộc đời tôi. Nếu, nói ví thử điều không thể có, tôi sống thêm một
lần và lịch sử lại lặp lại những ngày Tháng Tám ,
chắc chắn tôi sẽ lại sống như tôi đã sống. Trước mặt chúng tôi là quân xâm
lược, sau lưng chúng tôi là nền độc lập vừa giành được, là Tổ quốc. Không có sự
lựa chọn nào khác.
Nhưng kháng chiến
chống Pháp vừa kết thúc thì cuộc cách mạng của chúng tôi bỗng dưng trở thành
không phải của chúng tôi nữa. Một phép lạ, hoặc một ma thuật, đã xảy ra. Nó vẫn
đấy, nhưng không còn là nó. Trước mắt chúng tôi là một cái gì lạ lẫm, hoàn toàn
không giống cái mà chúng tôi hình dung khi lên đường chiến đấu.
Người ta nói với
chúng tôi : có gì đâu, chúng ta đang bước vào giai đoạn mới, chúng ta đang xây
dựng một xã hội mới, một thể chế mới, nền nếp mới. Phải học tập để quen với nó,
để hội nhập với nó. Mọi quá trình tiếp nhận cái mới, cái tiến bộ đều là gian
nan, đều không dễ dàng, đều phải trả giá bằng sự từ bỏ quan niệm cũ, lề thói
cũ.
Cái xã hội mới ấy
hình thành dần, mỗi ngày một rõ nét. Càng ngày nó càng trở nên xa lạ. Càng ngày
nó càng giống cái mà chúng tôi vừa chiến đấu để xóa bỏ. Chỉ có bề ngoài là
khác, với ngôn từ khác.
Tôn ti trật tự của xã
hội mới được thiết lập ngay từ những ngày đầu chúng tôi từ chiến khu về Hà Nội .
Một thí dụ nhỏ: theo
quy định trong quân đội, từ binh nhì tới chỉ huy trung đội phải mặc áo đại quân
có hai túi trên, vai áo có đệm dày (để mang vác) với nhiều đường chỉ máy cho
bền, tôi không đếm có bao nhiêu đường, lính tráng gọi là “ba mươi hai đường
gian khổ”. Cán bộ từ cấp bậc đại đội trở lên được mặc áo không có “ba mươi hai
đường gian khổ”, thêm hai túi dưới, gọi là đại cán.
Cán bộ dân chính,
cũng theo quy định, phải mang đại cán
nhưng khác màu bộ đội. Ðó là thứ áo cổ đứng cài đủ cúc, được những ông phó may
gọi là kiểu Tôn Trung-sơn(3). Khi lệnh này ban ra đoàn quay phim chúng tôi đang
ở thành phố Nam Ðịnh vừa giải phóng. Trên không kịp cấp phát quần áo, người
trong đoàn được lĩnh tiền tự đi may. Tôi không thích cái kiểu Tôn Trung-sơn,
bèn dùng tiền may quần áo thường: áo sơ-mi, quần ximili. Thế là sóng gió nổi
lên, tôi bị phê bình gay gắt về tội vô kỷ luật. Ðành phải thành khẩn nhận
khuyết điểm trước tập thể, hứa sẽ may một bộ đại cán đúng quy định, tôi mới
được buông tha.
Kỳ cục nhất, buồn
cười nhất là chuyện quy định về sử dụng xe cộ. Cấp cục, vụ được đi
chung xe Mốt-cô-vích (Moskovich). Cấp thứ, bộ trưởng được đi xe
Pobeđa (Pobeda), đi riêng, với rèm che hai kính hông. Cấp ủy viên Trung ương đi
xe có che thêm rèm ở kính hậu. Còn các ủy viên Bộ Chính trị, Ban bí thư đi xe
Von-ga (Voga), thêm rèm ở hai kính cửa trước. Lãnh tụ tối cao, tổng bí thư sang
hơn nữa, có Chai-ka (Tsaika). Khi tiếp khách hoặc trong những dịp khánh tiết
thì dùng xe Din (Zil) (4) bọc thép có kính chống đạn.
Vừa về tới Hà Nội mỗi
vị lãnh tụ đã chiếm một dinh thự khang trang, của Tây hoặc của các nhà giàu bỏ
chạy vào Nam, mỗi nhà là một hành dinh với đầy đủ các bộ phận phục vụ, thư ký,
lái xe, bảo vệ, cần vụ, cấp dưỡng. Các vị làm việc tại nhà, các thư ký, giao
thông viên chạy như đèn cù giữa các hành dinh để các vị liên lạc với nhau.
Khó chịu nhất là cái
sự phải gò mình vào trong cái gọi là dân chủ tập trung. Bất cứ quyết định nào
của Trung ương cũng là chân lý, là duy nhất đúng đắn và vô cùng sáng suốt, cấp
dưới chỉ có việc học tập cho thông để thực hiện.
Không còn đâu bóng
dáng của sự bình đẳng giữa những người cùng chung
một chiến hào. Tôi nhớ một ca khúc của Tô Hải hồi ấy bị cấm hát. Nó bị cấm vì
lời ca ủy mị, theo quan điểm của Ðảng,
nhưng lính tráng lại thích. Chỉ với một từ bị đổi, một từ thôi, biến chữ triệu thành chữ vài,
tâm trạng người lính sau ngày chiến thắng được bộc lộ :
“Ngày về tươi vui.
Nhưng giữa thủ đô ai chẳng ngậm ngùi.
Bao mái tóc xanh quấn vành khăn trắng,
Bao má nhăn nheo lệ cuốn tơi bời.
Chờ chồng mong con ngày về chiến thắng,
Trông toán quân về đếm thiếu những ai.
Ðây căm hờn dựng lên ngàn phố
Máu xương xây vài chiếc lâu đài
Hồn quân đi còn vương đây đó
Với đô thành kiếp kiếp khôn nguôi !...”
Người ta nói rằng
những người cách mạng bị biến chất sau thắng lợi.
Tôi loại trừ khả năng
đó. Chất của con người thế nào thì nó thế ấy. Có điều mắt chúng ta kém, tầm
nhìn của chúng ta hẹp, chúng ta không thấy mà thôi.
Anh tù lục cục bò
dậy. Hình như anh ta khó ngủ.
- Này, Mỹ đã bỏ bom
những phố nào hả anh ?
- Mỹ chưa bỏ bom Hà Nội .
Nam Ðịnh thì có, bị khá nhiều. Tôi vừa ở Nam Ðịnh về cách đây vài ngày.
- Sao người ta nói Hà Nội
cũng bị ?
- Người ta lầm. Có
hai lần máy bay Mỹ phóng tên lửa vào nội thành : một lần ở chợ Hôm, một lần sát
đại sứ quán Pháp ở góc Hàm Long - Bà Triệu.
- Chết nhiều không
anh ?
- Lần ở chợ Hôm chết
cũng khá. Lần sau thì không. Hình như có mấy người bị thương.
Anh ta lẩm bẩm câu gì
không rõ.
- Khi có báo động
người ta có cho tù ra hầm trú ẩn không ? - tôi hỏi.
Anh ta bật cười khe
khẽ.
- Ra hầm trú ẩn ? Còn
lâu. Mà sao từ sáng không có còi báo động nhỉ ?
Tôi ngạc nhiên thật
sự.
- Hôm nay ngừng bắn
mà. Anh không biết ?
- Ngừng bắn ? Mà sao
lại ngừng bắn cơ chứ ?
- Ủa, anh không biết
thật ?
- Thì ngồi đây làm
sao mà biết được ?!
- Hôm nay là 24 tháng
Chạp dương lịch. Nửa đêm sẽ có lễ mừng Thiên Chúa
giáng sinh.
Anh tù ngẩn người.
Như kiểu thất vọng. Nghe ngóng một lát, anh móc từ trong hốc phản ra một cái
đinh năm phân, không vội vã khắc lên tường xà lim một cái dấu. Tường xà lim rất
cứng. Chật vật lắm anh mới khắc được một nét.
- Tôi lầm ngày mất
rồi. - anh buồn bã - Thế quái nào mà lầm được mới lạ chứ ? Tôi cứ ngỡ mai mới
No-en. Còn anh, làm sao anh bị bắt ?
Tôi không trả lời
ngay.
- Biết giải thích thế
nào cho anh hiểu. - tôi nhún vai - Chính tôi cũng không biết vì sao người ta
bắt tôi. Tôi muốn nói không hiểu người ta định buộc tôi vào tội gì...
Chẳng lẽ anh ta hỏi
mà mình không trả lời, tôi nghĩ, chuyện của mình thường phạm hiểu sao được.
- Tại sao lại không
biết ? - anh ta ngạc nhiên - Khi bắt phải có đọc lệnh bắt chứ, mà trong lệnh
bắt bao giờ người ta cũng nói tội gì.
- Người ta bắt tôi ở
giữa đường rồi đưa thẳng vào đây.
Cái đầu bù xù trầm
ngâm gật gật :
- Vậy thì hiểu rồi,
hiểu rồi - bị bắt mà không rõ vì tội gì thì chỉ có món số lẻ thôi. Lạ, sao lại
bắt giữa đường ? Chính trị, nó như con đĩ ấy, kinh lắm...
Tôi bật cười.
- Tại sao anh lại gọi
chính trị là cái món số lẻ ?
- Anh không biết à ?
Mà làm sao anh biết được, anh chưa vào tù bao giờ... Gọi chính trị là số lẻ do
thế này : tù chính trị mang số tù lẻ, gọi là số lẻ, tù hình sự mang số chẵn.
- Ra thế ! Tôi không
biết. Không thấy họ nói tôi mang số nào.
- Chắc anh bị ghép
vào tội tuyên truyền phản động.
- Tôi cũng chẳng rõ.
- Tội này rộng. Mà
lại không rõ ràng. - anh ta thở dài - Ăn nói không giữ gìn, lỡ mồm lỡ miệng
đụng đến chính quyền hay lãnh tụ là đi tong. Cứ có đứa báo cáo là người ta tóm
ngay, không oong đơ gì hết... Trong này ối trường hợp như anh. May thì được đưa
ra tòa xử. Không may, bị một suất tập trung cải tạo(5) coi như rồi đời.
- Tập trung cải tạo
nghĩa là thế nào ?
- Nghĩa là cứ tù mút
mùa. Bao giờ người ta thích tha thì người ta tha.
- Tại sao lại có thể
như thế được ?
Người tù im lặng sửa
lại cái chăn trên vai vừa tụt xuống, lại quay mặt vào tường, hút tiếp một điếu
thuốc lào. Trong phòng mỗi lúc một lạnh thêm. Nghe rõ tiếng gió hú bên ngoài.
- Anh là cán bộ kháng
chiến chống Pháp phải không ?
- Phải.
- Thế thì không bị
tập trung cải tạo đâu, đừng lo.
- Tôi chẳng lo. Họ có
quyền bắt thì họ cứ việc bắt.
- Anh không nên nói
thế. Người ta đã bắt, nghĩa là mình phải có tội.
Tôi nhún vai.
- Mình không nghĩ là
tội người ta cứ nghĩ là tội thì vẫn thành tội như thường...
Có nên trò chuyện với
anh chàng giết người này không nhỉ ? Nói cũng chẳng sao, đàng nào thì cũng thế.
- Nói của đáng tội,
giữa tôi và Ðảng cũng có vài chuyện lủng củng.
- Chết chửa, thế thì
căng lắm ! - anh tù lắc đầu - Mà tại sao các ông ấy lại cho anh vào xà lim này
nhỉ ?
Tôi không hiểu ngay ý
nghĩa câu nói.
- Anh nói thế nghĩa
là thế nào ?
- Thường người ta
không giam lẫn lộn số chẵn với số lẻ. Mà anh thì rành rành là số lẻ rồi...
Ra thế.
- Nghĩa là tôi là đối
tượng(6) của cách mạng còn anh thì không chứ gì ? Chính tôi cũng không hiểu tại
sao người ta lại giam kẻ thù của nhân dân lẫn với bạn của nhân dân ?
Trong những cuộc giáo
dục chính trị các giảng viên thường xuyên dạy chúng tôi phải phân định rõ bạn
thù. Hiển nhiên cách phân định này vẫn giữ nguyên ý nghĩa trong cả Hỏa Lò
- những tên lưu manh trộm cướp, những tên sát nhân là bạn của nhân dân, còn
người bị buộc tội chống chế độ là kẻ thù của nhân dân.
- Anh có thể phản đối
nếu người ta lầm. - tôi nói thêm - Họ đưa tôi vào đây thì tôi vào đây. Họ có
hỏi ý kiến tôi đâu. Tôi cũng không đề nghị...
Tôi không kịp nói hết
câu. Không khí lạnh trong phòng làm tôi hắt hơi chan chát.
- Anh không có quần
áo ấm à ?
Anh bạn tù ngẩng nhìn
tôi. Giọng nói của anh có chiều ái ngại.
- Chúng nó thu hết
quần áo của tôi - tôi vẫn tiếp tục ho - rồi đưa tôi bộ này.
Người tù nhớn nhác.
Cái nhìn của anh hướng về ô cửa kiểm tra. Tai tôi cũng bắt được một tiếng động
lạ.
- Dào, rồi các ông ấy
sẽ cho anh nhận lại thôi, việc quái gì mà sốt ruột. - anh ta cất cao giọng, cố
ý nhấn mạnh hai chữ các ông kính cẩn để xóa đi hai chữ chúng nó xách mé của
tôi, cốt để người bên ngoài nghe thấy.
Tôi chợt nhớ ra tên
gọi tiếng Pháp của cái lỗ cửa nọ : le judas. Tên của tông đồ thứ 13 của Chúa Giê-su
Ki-ri-xi-tô, kẻ bán thầy cho quan Phi-la-tô lấy ba mươi đồng đi-na. Có tiếng
chân đi xa dần.
- Nếu anh rét quá thì
cứ lấy tạm đồ của tôi mà dùng.
Thái độ ân cần của
anh làm tôi ngượng. Nhưng dùng đồ của anh ta ? Tôi rùng mình. Không khi nào !
- Cảm ơn anh. Chúng
nó phải trả lại cho tôi quần áo chứ, ít nhất cũng phải trả cái áo bông. Chúng
nó không có quyền...
- Anh vừa vào không
biết luật lệ trong này thế nào đâu. - anh ta hấp tấp cắt ngang - Ðã vào đến
trong này là mình không còn cái quyền nào hết. Trả hay không trả, trả cái gì,
không trả cái gì, trả lúc nào là tùy các ông ấy. Người ta đã tính toán cả.
Cả cái sự tôi bị đưa
vào xà lim ở chung với người tù có bộ
dạng gớm ghiếc này cũng đã được tính toán, chắc thế. Một phương án, theo ngôn từ nghề nghiệp của công an.
Có tiếng dép nhựa
loẹt quẹt trên nền xi-măng ở bên ngoài. Tiếng mở khóa lạch xạch. Rồi cửa xà lim
mở toang.
- Cơm !
Viên cai ngục nông
dân đặt xuống trước mặt tôi một cái tô tráng men. Trong ánh sáng mờ mờ lọt qua
cửa thông gió ở tít trên cao tôi nhìn thấy trong cái bát men lổn nhổn một thứ
gì đó giống như rau muống nhưng đen xì. Những cọng rau bập bềnh trong nước lõng
bõng, ở trên cùng có hai miếng mì luộc trông giống như cặp bánh dầy con ở các
gánh dầy giò thường bán ở bến tàu bến xe, nhưng mỏng hơn.
Liếc nhanh quan sát
tôi, viên quản giáo quay ra, khóa cửa lại. Tiếng cài then lạch xạch xuyên vào
óc.
- Còn suất của anh
đâu ? - tôi hỏi.
- Tôi ăn lâu rồi. -
anh tù quay mặt đi - Cơm trưa ở đây người ta cho ăn từ 11 giờ đến 12 giờ.
Lúc ấy tôi còn đang
bị khám.
Tôi ngán ngẩm nhìn
bữa ăn đầu tiên trong tù.
Tôi chưa ăn ngay. Trên
đồng bánh mì luộc xác những con mọt tí xíu nổi lên lấm tấm như rắc vừng. Rau
muống đen là phải : nấu trong chảo gang rau muống bao giờ cũng có màu như thế.
Tôi khều mấy cọng rau lên ngắm. Rau muống không được nhặt và rửa kỹ, hoặc không
nhặt cũng không rửa, còn nguyên rễ tua tủa và lá vàng.
Tôi ngồi bất động một
lát trước tô cơm.
- Chịu khó mà ăn. -
anh tù ái ngại nhìn tôi - Hỏa Lò chỉ có thế thôi.
Tôi xếp chân bằng
tròn trên phản, từ từ đưa vào miệng, từng miếng một, cái khẩu phần quái gở.
Chưa bao giờ tôi phải ăn một thứ gì tệ hại hơn, kể cả trong năm 1949, năm gian
khổ nhất của cuộc kháng chiến chống Pháp. Hồi ấy bộ đội chúng tôi thường xuyên
ăn cơm gạo mốc với thức ăn là canh bí đỏ nhạt thếch vì thiếu muối.
Tôi chiến thắng bản
thân. Một lát sau, viên cai ngục quay trở lại lấy bát rếch. Anh ta ngẩn người
trước cái bát sạch trơn, lẳng lặng cầm lấy nó, đi ra.
- Anh giỏi ! - người
bạn tù buông một lời khen.
_____________
Chú thích
(1) Hình như kiến
trúc của mọi xưởng đúc tiền đều giống nhau ở chỗ có nhiều khu riêng rẽ, ở tính
chất kiên cố trong xây dựng, cho nên chẳng riêng ở nước ta, ở nhiều nước khác
khi cần thiết người ta cũng biến chúng thành nhà tù. Nhà tù Petropavlovsk trước kia là một Nhà Tiền thuộc
Nha Ngân khố của nước Nga quân chủ. Nhà tiền
Hà Nội bị chính quyền chiếm đóng sửa lại thành trại giam trong thời kỳ kháng
chiến chống Pháp 1946-1954. Trên nền nhà tù này Nhà máy in Tiến bộ được xây
dựng.
(2) Lời kêu gọi của
chủ tịch Hồ Chí Minh
trong Ngày toàn quốc kháng chiến.
(3) Kiểu áo cổ đứng
phổ biến ở Trung
Quốc . Tôn Trung-sơn, hay Tôn Dật-tiên
(1866-1925), nhà cách mạng chủ trương chủ nghĩa tam dân. Tổng thống đầu tiên
của Trung Hoa Dân
quốc.
(4) Các nhãn hiệu xe
du lịch do Liên
Xô sản xuất.
(5) Nghị quyết của Ủy
ban Thường vụ Quốc
Hội mang số 49NQ/TVQH do chủ tịch
Trường Chinh ký ngày 20.6.1961. Theo Nghị quyết này chính quyền có thể bắt giam
các công dân không cần đến thủ tục tố tụng, mỗi hạn tập trung cải tạo được ấn
định là ba năm. Khi hết một hạn, người bị tập trung cải tạo có thể và thường bị
ở thêm hạn tiếp theo , và cứ thế kéo
dài mãi. Ở Trung
Quốc , tập trung cải tạo đã có từ
sau khi Ðảng cộng sản chiếm được chính quyền ở Hoa lục với hình thức “trường 7.5”. Mãi tới
tháng 2.1980 nó mới được thể chế hóa bằng một chỉ thị của Quốc vụ viện, theo đó
thì bất cứ công dân Trung Quốc nào cũng có thể bị đưa vào trại cải tạo đặc biệt
trong một thời hạn nhất định. Trong chuyện này Chu Ân Lai rõ ràng đã đi sau
Trường Chinh.
(6) Xin hiểu: kẻ thù
của Cách mạng.
Chương 4
Tôi lặng lẽ quan sát người từ nay tôi phải sống cùng, không biết là bao
lâu : vài tuần, dăm tháng hay cả năm ?
Tôi nhớ đến chuyện
cha tôi kể về những lần ông bị bắt. Ông nói quan trọng nhất là mấy ngày đầu.
Mọi thủ đoạn của địch nhằm bẻ gẫy mình nằm trong mấy ngày đó. Tra tấn dữ nhất
cũng trong mấy ngày đó. Sau thì không đáng kể. Vào thời gian này địch thường
cài chỉ điểm vào xà lim, cho ở chung
với mình. Những ngày mới bị bắt con người cảm thấy cô đơn vô cùng. Thế là những
bí mật anh ta cắn răng không khai với địch thì lại khai thông thốc với tên chỉ
điểm trong những câu chuyện tâm tình.
Trời tối lúc nào
không biết. Sau cái chạng vạng nhập nhòa, không rõ của trời hay của xà lim,
ngọn đèn trong lưới sắt bừng sáng. Dưới ánh sáng điện trông anh tù cũng không
đến nỗi gớm ghiếc cho lắm.
Cửa lại mở, lần này
không có tiếng động dữ dằn như lúc tôi mới vào. Viên cai ngục nông dân đứng
trong khung cửa, cái áo bông của tôi vắt ngang tay :
- Anh !
Tôi hỏi lại :
- Tôi hả ?
Anh ta gật đầu, đưa
cho tôi cái áo bông :
- Anh mặc vào rồi đi
với tôi.
Tôi uể oải xỏ giày, đi theo anh ta.
Chúng tôi đi lặng lẽ
trong một cái sân hẹp và tối, qua mấy ngôi nhà dài kiểu trại lính, từ trong đó
bay ra tiếng người rì rầm như một tổ ong, qua một xưởng thợ ngổn ngang sắt thép
rồi bước vào một ngôi nhà lớn. Trong một góc tối leo lét mấy ngọn đèn màu mắc
trên một cành thông. Từ xó tối đó một cái loa vô hình rền rĩ :
Hồng hà mênh mông trôi cát tới chân làng
quê...
Cuối í í sông... ngoài bến Việt Trì có những
chàng áo nâu về...
Say mê đồng lúa...
Vui tràn trề...ề....
Ánh đèn mờ mờ cho
thấy nơi này có một hành lang ngắn, một cái ngách, với hai dãy cửa. Tôi đoán
đây là khu tù binh. Người ta không chiều tù nhân Thiên chúa giáo bản xứ tới mức
tha vào đây cho họ một cây thông. Lại càng không để ý tới chuyện cho họ một
chút âm nhạc đang phát ra kia, từ một máy ghi âm cà khổ. Dây cu-roa máy đã rão
lắm, nó chạy èo ẽo làm cho bài ca trữ tình trở thành não nuột. Không biết họ sẽ
cho tù binh Mỹ mừng Noen theo cách nào đây ? Chẳng lẽ lại điệu từng tên ra, cho
nó đi những bước dè xẻn quanh cái cành thông nhà quê kia một lát, cho nó hưởng
khúc nhạc thê lương kia một lát, rồi điệu về, nhường chỗ cho tên khác ? Xem ra
với cung cách này lễ Thiên chúa Giáng sinh cho tù binh chắc hẳn được làm đúng
như vậy. Thật buồn cười.
Kể từ 5 tháng 8 năm
1964, khi những máy bay Mỹ lần đầu xâm phạm vùng trời miền Bắc Việt Nam đã có
không ít phi công Mỹ bị bắt làm tù binh, mở đầu danh sách là Anvarez lừng danh
thế giới. Ngoài số phi công bị bắn rơi trên miền Bắc kể từ khi có cuộc leo
thang bằng không lực trên miền Bắc Việt Nam , còn có nhiều tù binh Mỹ khác.
Ðó là tù binh thuộc các binh chủng khác của quân đội Mỹ từ các chiến trường
miền Nam, Lào và Campuchia được đưa về giam tại các trại bí mật nằm rải rác
trên miền Bắc.
Bài báo cuối cùng của
tôi về cuộc đánh bom của Mỹ vào khu vực dân cư phố Hàng Thao Nam Ðịnh chắc đã
lên khuôn. Hai hôm trước tôi đã ký bông(1) lần ba. Liệu bài báo có bị bỏ đi
không, khi tôi bị bắt? Còn cuốn Năm Người Im Lặng ở Nhà xuất bản Văn Hóa nữa?
Cho dù là sách dịch, chưa chắc người ta đã cho nó ra (2). Vợ con tôi thế là mất
đứt khoản nhuận bút.
Ðã thành một cái lệ -
người cầm bút trong xã hội xã hội chủ nghĩa phải là người có lý lịch rõ ràng,
trong sạch, có lập trường vững vàng, có thâm niên càng cao trong tổ chức (3)
càng tốt. Các nhà xuất bản tuyệt đối không in tác phẩm của những phần tử có vấn
đề. Thậm chí có người đã tham gia kháng chiến chống Pháp, nhưng chỉ vì dính líu
ít nhiều với các văn nghệ sĩ có vấn đề là đã không được in sách, đăng báo nữa
rồi. Số phận nhà văn Thanh Châu trong nhóm Tiểu Thuyết Thứ Bảy trước cách mạng
là một thí dụ. Anh không bị chính thức coi như thuộc nhóm Nhân văn - Giai phẩm,
nhưng vì quan hệ với Nhân văn - Giai phẩm, Thanh Châu bị treo bút. Cho đến lúc
được phép viết thì anh đã cao tuổi mất rồi, đã xuống sức mất rồi.
Kim Lân may mắn thoát
nạn trong cái đận Nhân văn - Giai phẩm. Anh khôi hài nói rằng sau vụ này hết
thảy nhà văn đều xây xát, chỉ có các cung văn (4) là lành lặn.
Nếu tôi bị bom chết
trong chuyến công tác Nam Ðịnh chắc hẳn sẽ có một điếu văn thống thiết rằng sự
hy sinh của tôi là một tổn thất to lớn không thể nào đền bù được cho gia đình
và cơ quan, còn tôi trở về nguyên vẹn để bị bắt thì người ta lại uốn ngược lưỡi
nói rằng tên phản động Vũ Thư Hiên mà ta theo dõi từ lâu đã bị tống giam.
Từ vài năm nay lòng
trung thành của tôi đối với cách mạng bị đặt dưới sự soi mói khắc nghiệt.
Câu chuyện có nguyên
ủy của nó. Năm 1958 tôi từ Liên Xô về nước để lấy tài liệu cho đề tài thi tốt
nghiệp khoa kịch bản thì ở trong ký túc xá sinh viên, một ông bạn họa sĩ cùng
sang học với tôi một chuyến đã lục lọi đồ đạc của tôi để lấy cuốn nhật ký đem
nộp sứ quán. Cuốn nhật ký ghi những kỷ niệm trong chuyến về Việt Nam năm 1957
với nhà quay phim xô-viết Reizman để thực hiện bộ phim Ánh Sáng Tháng Mười,
trong đó tôi có những nhận xét xấu về Cải cách ruộng đất, về ông Hồ Chí Minh.
Cuốn nhật ký lập tức được gửi về Bộ Công an (5).
Nghe nói Nguyễn Văn
Kỉnh trước Cách mạng Tháng Tám cũng là một trí thức ở Nam bộ, được
nhiều người mến mộ. Nhưng trong việc chỉ đạo ông bạn họa sĩ đảng viên ăn cắp
nhật ký của tôi, Kỉnh tỏ ra còn có khiếu làm mật thám, là điều không ai biết.
Thời ấy năng khiếu mật thám được coi là một năng khiếu đáng được khuyến khích.
Tôi bị Lê Văn Rạng, vụ trưởng Vụ Ðại học và Trung học chuyên nghiệp, một tay
trí thức bảo hoàng hơn nhà vua, giữ lại ở trong nước. Việc tôi có trở lại Liên
Xô học tiếp hay không sẽ được xét sau.
Tôi trở về Xưởng phim
Việt Nam .
Ở đó được gần một năm tôi phải bỏ nghề điện ảnh vì không chịu nổi tên trưởng
phòng tổ chức vốn là thư ký đội Cải cách ruộng đất. Tên hãnh tiến này gọi tôi
lên gặp y rồi vặn tôi : “Cả xưởng chào tôi, tại sao anh không chào ?”.
Tôi lễ phép hỏi tên
y, rồi cũng lễ phép như thế tôi thưa với y rằng rất có thể y quan trọng, y có
ích, tôi biết, tựa như cái cột đèn vậy, không có nó điện không vào nhà được,
tôi sẽ không có ánh sáng để đọc. Nhưng, tôi kính cẩn thưa tiếp, không phải vì
thế mà tôi sẽ dừng lại trước mỗi cái cột đèn để chào nó.
Tôi sang nghề báo.
So sánh các tờ báo
muốn nhận tôi, tôi thấy báo ảnh, hay còn gọi là họa báo Việt Nam , hợp với
tôi hơn cả. Nó là tờ báo chủ yếu dành cho độc giả nước ngoài, bài vở không nhất
thiết phải viết theo công thức của các báo trong nước. Hơn nữa, mấy anh trong
bộ biên tập báo ảnh mến tôi qua những truyện ngắn và bài báo đã đăng, chèo kéo
bằng được tôi về với tờ báo của các anh.
Trong những cuộc đụng
độ lặt vặt kiểu như chuyện xảy ra với anh chàng tổ chức Xưởng phim tôi không
thể tránh được những câu nói lẽ ra không nên nói do bực bội. Cơ quan tổ chức,
cũng như cơ quan công an, rất mẫn cán thu thập thông tin về thái độ chính trị
của cán bộ. Chỉ cần anh ăn nói không giữ gìn một chút, để lộ ra những suy nghĩ
không theo dòng chính thống, là tội của anh lập tức được ghi nhận, anh bắt đầu
bị theo dõi mà không biết. Cho tới ngày anh chợt nhận ra mình bị theo dõi thì
đã muộn - anh đã bị ném khỏi boong con tàu cách mạng.
Còn nhớ năm 1961, mọi
người trong tòa soạn đã được nhận Thẻ nhà báo rồi mà mãi tôi chưa được nhận.
Tôi chỉ ngạc nhiên tí chút, cho rằng những cái bàn giấy quan liêu bao giờ mà
chả thế, chúng không vội vã trong bất cứ việc gì. Tòa soạn gọi điện thoại hỏi.
Người ta nói ảnh của tôi bị thất lạc. Tôi đưa tiếp ảnh khác. Vẫn không xong.
Hóa ra không phải chuyện mất ảnh. Chỉ sau khi chủ nhiệm tờ báo đích thân lên Sở
báo chí kiện cáo thế nào không biết, tôi mới được nhận thẻ.
Bây giờ nghĩ lại mới
biết chẳng qua người ta ngần ngại, người ta còn phải xin ý kiến trên, bởi vì
tên tôi nằm trong một danh sách nào đó đòi những người trực tiếp quản lý các
nhà báo phải suy nghĩ. Cấp trên trực tiếp của tôi chắc chắn chẳng khó chịu với
tôi, nhưng vào hồi ấy chẳng ai muốn chịu trách nhiệm về ai hết.
Sau vụ này tôi bắt
đầu để ý đến thái độ của lãnh đạo, tức là các quan chức cấp trên của tôi, ngang
cũng như dọc. Mới thấy rằng trong công việc hàng ngày người ta tránh không phân
công tôi làm những đề tài có dính tới bí mật quân sự hoặc những bí mật khác. Mà
bí mật trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì lại quá nhiều, cái gì cũng bí mật,
thành thử tôi chỉ được phân công đi các địa phương khi cần có các bài về văn hóa,
nông nghiệp, công nghiệp hoặc ngồi nhà làm công việc chữa cháy cho các số báo
chẳng may bị ông Trường Chinh, người khai sinh ra tờ báo, bất ngờ gạch bỏ một
bài, thậm chí vài bài một lúc (6).
Ðến lúc thấy mình
không có tên trong danh sách những nhà báo được cử đi B (7) thì tôi mới biết
chắc chắn rằng cái sự cảnh giác cách mạng đã được áp dụng cho tôi rồi. Chả
trách đợt vào Vĩnh Linh công tác, khi tôi muốn ra Cồn Cỏ thì bị người ta từ
chối khéo. Hòn đảo nhỏ bé lúc ấy đang cô độc chiến đấu chống lại những cuộc tấn
công bão táp của hải quân Mỹ. Như bất cứ nhà báo nào tôi muốn có mặt ở đó.
Nguyễn Khải (8) ở Vĩnh Linh cùng thời gian với tôi. Anh ra được Cồn Cỏ còn tôi
thì không. Tàu đi Cồn Cỏ chỉ có một chỗ dành cho văn nghệ sĩ, mà anh Nguyễn
Khải đã đăng ký từ lâu rồi, người ta nói thế.
Những tin tức rò rỉ
từ Bộ Nội vụ cho biết tôi nằm trong diện không đáng tin cậy. Từ diện không đáng
tin cậy sang diện có vấn đề chỉ là một bước, mà bước không dài. Các bạn tôi
nhắc tôi phải thận trọng, phải giữ gìn lời ăn tiếng nói. Nghe thì nghe, chứ
trong thâm tâm tôi không tin hẳn, chẳng lẽ người ta lại có thể nghĩ bậy bạ đến
thế ?
Mọi việc chỉ sáng tỏ
khi tôi đã ở trong Hỏa Lò: thì ra từ lâu rồi tôi đã bị nhà cầm quyền nghi ngờ.
Họ thậm chí còn lo tôi sẽ chạy sang bên kia chiến tuyến khi gặp cơ hội thuận
tiện nữa kia.
Tôi cay đắng được
biết sự thật. Tôi coi cuộc kháng chiến chống Mỹ, do những điều kiện lịch sử bó
buộc, là bước kế tiếp, lần này là bất đắc dĩ, trong hành trình giải phóng dân
tộc. Nguyện vọng thống nhất đất nước bao giờ cũng là nguyện vọng của toàn thể
dân tộc.
Ngô Ðình Diệm đã sai
lầm khi chủ trương đàn áp mọi xu hướng khác ông ta, chứ không riêng cộng sản,
bằng những biện pháp phong kiến, gia đình trị. Trong tình thế đó những người
cộng sản không thể không đứng lên chống lại, kéo theo sau mình quần chúng bất
bình. Sự chống đối chính quyền Sài Gòn còn mạnh mẽ hơn nữa khi những người cầm
quyền sau Ngô Ðình Diệm đã để cho người Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam Việt Nam . Người Mỹ
đã đi lầm nước cờ.
Dân tộc Việt Nam có truyền
thống chống ngoại xâm, là điều người Mỹ không biết và khi hiểu ra thì đã muộn.
Sau năm 1965 người ta không thể trở về với năm 1954, cho dù có muốn.
Ðây là đề tài thuộc
thẩm quyền các sử gia, tôi không dám lạm bàn. Nhìn cuộc chiến từ góc độ người làm
báo tôi cho rằng trong suốt thời gian chiến tranh không phải hoàn toàn không có
cơ hội để thoát khỏi nó, và trong chuyện không muốn tìm cơ hội thoát ra lỗi
không phải ở một bên, mà ở cả hai phía.
Nhưng thôi, ta quay
lại với Hỏa Lò mùa đông năm 1967 cái đã.
Ði qua khu tù binh,
viên cai ngục nông dân đưa tôi tới một ngôi nhà dài phía trái cổng Hỏa Lò, có
rất nhiều cửa. Phòng hỏi cung là một trong những căn ở đây. Nó là một phòng
nhỏ, chừng mười sáu thước vuông, không hơn, được chiếu sáng một cách hà tiện bởi
một bóng điện 60 oát.
Huỳnh Ngự đã chờ sẵn.
Thấy tôi bước vào, y ngẩng lên. Mặt nhẹ nhõm, không hằn học, không căng thẳng,
trông y thật hiền lành. Khó tưởng tượng được vừa mới đây y còn hầm hè với tôi
như với kẻ thù của cá nhân y chứ không phải của Ðảng.
- Ngồi xuống, ngồi
xuống đây, anh Hiên! - y vồn vã chỉ cho tôi ghế đối diện - Anh dùng trà, hỉ?
Phòng hỏi cung được
bày biện như một phòng khách nghèo - mấy cái ghế ba nan quây quanh một bàn nước
chân quỳ. Trên bàn là một ấm men rạn bắt chước đời Lý, không hợp chút nào với
mấy chén sứ Hải Dương rẻ tiền. Bộ đồ trà được đặt trong một đĩa sắt tráng men
sứt sẹo với mấy con tôm Tề Bạch-thạch bạc màu. Mặc dầu đã có áo bông, tôi vẫn
run rẩy - nhiệt độ xuống quá nhanh, buổi sáng trời còn ấm, vậy mà bây giờ đã lạnh
dữ. Căn phòng hỏi cung còn lạnh hơn cả xà lim, lại có mùi gỗ mốc, như thể nó bị
bỏ hoang lâu ngày.
Huỳnh Ngự bốc trà cho
vào bình, tỉ mẩn nhặt từng cánh trà rơi xuống mặt bàn, rồi từ tốn với tay lấy
cái phích Trung Quốc, từ tốn chế nước sôi, đợi một lát cho trà thật ngấm mới
chuyên chậm chậm vào hai chén. Cung cách pha trà cho thấy y là tay nghiện trà
nặng, như mọi cán bộ đứng tuổi hồi bấy giờ.
Tôi lặng thinh quan
sát.
- Uống đi, anh Hiên!
- y chìa bàn tay gày, với những ngón dài, xương xẩu về phía tôi,- Kẻo nguội.
Tôi vẫn nín lặng.
- Tiết trời như ri
uống trà thiệt thú vị, phải không? Anh dùng đi, tự nhiên nghen. Anh thấy đó, ở
ngoài nhìn vô ai cũng nghĩ cái sự bị bắt, cái sự ở tù nó ghê gớm lắm lắm kìa,
khủng khiếp lắm lắm kìa, chớ thiệt ra thì, hì hì... có chi ghê gớm lắm mô...
Y đẩy chén trà về
phía tôi.
- Tác giả “Chiếc
va-li” đã báo trước cho anh biết anh sẽ bị bắt, phải không? Hắn còn nói với anh
những chi nữa, hè?
Ðó là Huỳnh Ngự nói
về Hoàng Ðạo (9). Tôi không ngạc nhiên. Y muốn khoe y biết hết, đừng hòng giấu
y điều gì.
Ðúng là Hoàng Ðạo có
báo trước cho tôi điều sẽ xảy ra.
Tôi gặp Hoàng Ðạo
tuần trước. Tôi không chủ bụng tới anh, tiện thể đi ngang phố Nguyễn Chế Nghĩa
thì rẽ vào. Anh có căn nhà nhỏ ở đó. Từ phòng ngoài nhà anh nhìn ra tôi vẫn thấy
thấp thoáng bóng mấy công an mật lởn vởn trong ánh sáng vàng vọt rỉ ra từ những
chao đèn phòng thủ.
“Họ sẽ bắt anh,-
Hoàng Ðạo nói.- Hôm nọ tôi có việc rẽ vào Bộ, thấy căng lắm. Còn bắt nhiều. Tôi
thì chỉ quan tâm tới anh thôi”. Tôi cười : “Vậy thì bỏ rượu ra, chúng ta uống
một trận chia tay”. Tôi cố ý nhắc lại câu Hoàng Ðạo nói với một sĩ quan Phòng
Nhì Pháp trong một lần tính mạng anh ở vào thế ngàn cân treo sợi tóc. Anh vào
Hà Nội dưới vỏ bọc đảng trưởng đảng Ðại Việt. Tình báo Pháp hoan hỉ đón tiếp
anh. Rồi muốn kiểm tra anh, giữa đêm hôm khuya khoắt họ cho viên sĩ quan Phòng
Nhì nói trên, người vẫn xưng là bạn thiết của anh, lẻn đến nhà anh báo tin anh
sắp bị bắt, khuyên anh trốn ngay. Hoàng Ðạo không mắc mưu. Anh cười ngất, nói
anh cảm ơn, nhưng anh sẽ không trốn, dấn thân vào nghiệp chính trị anh đã dự
kiến tình huống này, những người Pháp đa nghi rồi sẽ ân hận, còn bây giờ anh
muốn uống ly rượu chia tay với người anh coi là bạn. Bài toán thử của tình báo
Pháp thất bại. Sau thái độ cứng rắn của anh họ cho rằng họ nhầm.
Chúng tôi dẹp mọi
chuyện qua một bên, bàn tiếp việc viết kịch bản cho bộ phim về hoạt động của tổ
điệp báo do anh chỉ huy, kết thúc bằng vụ đánh đắm thông báo hạm Amyot d
Inville tại ven biển Thanh Hóa năm 1950. Ý định này có từ lâu, khi tôi còn ở
Moskva. Hoàng Ðạo và tôi vẫn thư từ cho nhau để bàn về bộ phim tương lai.
Khi điệp vụ được thực
hiện, Hoàng Ðạo là trưởng ty công an Thanh Hóa. Anh bố trí một chiến khu giả
tại Ngọc Lặc (miền Tây Thanh Hóa), rồi vào Hà Nội với tư cách người chủ của
chiến khu. Lãnh tụ giả mạo của một đảng không có thật vượt qua được thử thách
của tình báo Pháp, trở thành bộ trưởng không bộ nào của chính phủ Bảo Ðại.
Trong thời gian ở lại trong vùng địch Hoàng Ðạo đã gặp Ngô Ðình Diệm, Năm Lửa,
Ba Cụt, Bẩy Viễn... và nhiều nhân vật chính trị ở miền Nam. Sau khi biết chắc
người Mỹ có ý định dùng con bài Ngô Ðình Diệm thay thế Bảo Ðại, Hoàng Ðạo đề
xuất với Trung ương cho phép anh thủ tiêu Ngô Ðình Diệm để thế chân ông ta. Kế
hoạch của anh bị Trường Chinh gạt đi. Trường Chinh kịch liệt phê bình điệp vụ
này, nói rằng việc Hoàng Ðạo tổ chức chiến khu giả ở Thanh Hóa làm ảnh hưởng
xấu đến uy tín của chính phủ kháng chiến, lợi bất cập hại. Ông còn nói Hoàng
Ðạo là người ham mê tửu sắc, nếu làm việc với Mỹ sẽ bị Mỹ mua chuộc, “đến lúc
ấy đánh nhau với nó còn khó hơn đánh nhau với Ngô Ðình Diệm nhiều.”(10). Hoàng
Ðạo nhận được lệnh kết thúc điệp vụ, trở về vùng tự do. Việc đánh đắm thông báo
hạm Amyot d Inville là hành động cuối cùng của tổ điệp báo trước khi rời bỏ trận
địa.
“Anh không thể xử
nhũn một chút được sao ? - Hoàng Ðạo hỏi khi tôi ra về - Anh dây vào chính trị
làm chi ?”. “Không được, anh ạ. Tôi không quan niệm nói ra ý kiến của mình là
dây vào chính trị. Tôi không làm điều gì sai trái. - tôi nói - Tôi chỉ có tội
cho rằng con người có quyền tự do tư tưởng”. Hoàng Ðạo ôm lấy tôi. Chúng tôi
bùi ngùi chia tay.
- Anh không muốn nói
cũng không sao.- Huỳnh Ngự nói bằng giọng khinh khỉnh.- Chuyện Hoàng Ðạo chẳng
có gì quan trọng. Không phải đối tượng đáng chú ý. Cũng không phải người chúng
tôi cần anh báo cáo. Nhân tiện thì tui hỏi cho biết, tức là chúng tui biết hớt,
nhưng chúng tui muốn nghe anh nói coi ra răng. Những chuyện khác cũng rứa. Anh
thích nói thời nói. Không thích thời thôi. Tui sẽ chờ. Bao chừ giác ngộ tự anh
sẽ nói. Cơ quan an ninh chúng tui rất kiên nhẫn.
Tôi tưởng y sẽ nói
thêm: “Chúng tôi sẽ chờ năm năm mười năm, hai mươi năm, hay lâu hơn nữa” theo
cách ông Hồ Chí Minh nói với người Mỹ. Hình như y định nói thế thật, nhưng kìm
lại được.
- Nói thiệt cho anh
hay để anh đừng sợ, Ðảng đưa anh vô nơi ni là để ta có chỗ mần việc cho thuận
tiện mà thôi.- Huỳnh Ngự nhe răng trong nụ cười không thành tiếng,- Ðảng muốn
hỏi anh một số việc, hỏi xong thời cho anh về, Ðảng cũng không giữ anh mần chi.
Ngoài tê anh công tác phục vụ Ðảng, phải không nào? Nơi ni anh cũng vẫn mần
việc đó, không có chi khác. Anh là cán bộ của Ðảng, phải biết chấp hành mịnh
lịnh của Ðảng. Bữa ni Ðảng biểu anh mần việc ở nơi ni thì anh mần việc nơi ni.
Mai mốt Ðảng biểu anh vô Nam thì anh vô Nam, còn khi mô Ðảng biểu chừ phải qua
Liên Xô thì anh xách va li qua bển. Vậy đó, thanh niên phải như rứa, hè hè, nơi
Ðảng cần thanh niên có, nơi khó có thanh niên...
Ngon lành chưa! Cứ
như thể nay mai Ðảng sẽ cử tôi đi công tác Moskva, hoặc xa hơn nữa, tới Paris hoặc New
York chửa biết chừng!
Mặc cho y ba hoa, tôi
đủng đỉnh nhấp trà. Trà ngon. Không phải ai cũng pha trà Hồng Ðào (11) được thế
này. Té ra Huỳnh Ngự cũng sành uống trà ra phết.
- Tui nói vậy là
trúng chớ? Không trật chớ? - y nói bằng giọng tin chắc ở lẽ phải mà y đang ngồi
ở trên.- Vậy, chừ Ðảng chỉ thị cho anh ở nơi ni, vị trí chiến đấu của anh lúc
nầy là ở nơi ni, anh hãy yên tâm phục vụ ở vị trí mới. Chỉ thị của Ðảng là cái
mà chúng ta, những cán bộ của Ðảng, chỉ có việc tuân theo...
Một con cừu trong đàn
cừu Panurge, tôi nghĩ. Kết quả sự hoài thai kỳ cục giữa các thứ chủ nghĩa: chủ
nghĩa Mác bị chặt đầu, chủ nghĩa Mao động dục, chủ nghĩa phong kiến hiện đại.
Trong yên lặng tôi
nghe tiếng mấy con sẻ rên rỉ vì rét trên mái nhà. Ở đâu đó, từ một thế giới
khác, vẳng tới tiếng xe tải nặng lăn bánh trên đường. Mà cũng có thể là xe bọc
thép. Những chuyến xe nối tiếp nhau không ngớt, ì ì ầm ầm.
Huỳnh Ngự mời tôi
uống tiếp. Tôi nhã nhặn nâng chén, chờ y rót thêm.
- Nào, uống xong ta
mần việc ! - có vẻ ấm trà ngon làm cho Huỳnh Ngự cảm thấy sảng khoái và rộng
lượng - Anh không thấy sao, trong ni cũng bảnh chẳng kém chi ngoài tê, hả? Cũng
Hồng Ðào loại một, cũng Ðiện Biên (12) bao bạc như ai. Anh hút đi, khi ta mần
việc trên cho trà thuốc thoải mái. Tiêu chuẩn, chớ không phải của tôi đâu. Phải
nhịn thuốc cả ngày, khó chịu lắm hè?
Tôi nhìn bao thuốc y
đẩy tới trước mặt. Chao ôi, giá mà được rít một hơi lúc này nhỉ, chỉ một hơi
thôi! Tôi cảm thấy một cơn thèm ghê gớm không sao cưỡng nổi chạy râm ran trong
cơ thể.
- Cảm ơn. - tôi nói -
Tôi không hút.
Y ngả hẳn ra trên ghế
để nhìn tôi, theo cách người viễn thị.
- Ủa? Anh mà không
hút.
- Thì có gì lạ đâu?
Huỳnh Ngự làm mặt
giận :
- Tui mời thiệt tình
mà. Bộ anh giận hả?
- Cảm ơn. Tính tôi
thế, đã không hút là không hút.
- Mà sao vậy chớ? Hay
là anh chê thuốc Ðiện Biên của ta không ngon bằng Gold Flake? Cánh văn nghệ sĩ
các anh khoái Gold Flake lắm thì phải?
Hồi ấy ở Hà Nội,
thuốc lá ngoại chỉ có độc một thứ Gold Flake. Ðồn rằng nó lọt ra từ sứ quán Indonesia . Việt
Nam đang ra sức lấy lòng
người hùng Suharto sau sự sụp đổ bất ngờ của cái gọi là lực lượng mới trỗi dậy
và ghế tổng thống suốt đời của Sukarno, cố tình lờ đi chuyện nhân viên sứ quán Indonesia buôn
lậu (13).
Cái ghế kêu cọt kẹt
dưới tấm thân gày còm của Huỳnh Ngự.
- Tôi không chê Ðiện
Biên. Nhưng tôi không hút.
- Chà, anh Hiên nè,
anh coi thường cơ quan an ninh hơi nhiều đó ! - mặt Huỳnh Ngự toác ra trong nụ
cười khoái trá - Anh nghĩ tụi tui biết về anh quá ít thì phải ?
Tiếng cười khanh
khách của y làm tôi nóng mặt.
- Tôi chẳng coi trọng
mà cũng chẳng coi thường cơ quan an ninh. Tôi cũng chẳng quan tâm chuyện các
anh biết về tôi nhiều hay ít. Tôi không có thời giờ để nghĩ vớ vẩn.
Huỳnh Ngự nghiêm nghị
trở lại.
- Nè, nói cho anh
hay, trước khi bắt một người tụi tui nghiên cứu về người đó rất kỹ. Tui biết
mọi khuyết tật của anh, mọi thói quen của anh. Tui biết anh ghiền thuốc lá, mà
còn ghiền nặng nữa kìa.
Ðến lượt tôi bật
cười.
- Thế thì không đúng
rồi. Tôi chưa bao giờ liệt mình vào loại nghiện nặng.
- Chẳng ai bắt bẻ anh
chuyện ghiền thuốc hay không ghiền thuốc. Có chi mà phải chối !
- Hút thuốc lá đến độ
bỏ điếu này ra phải nạp ngay điếu khác vào, không thì không chịu được mới là
nghiện nặng. Tôi có hút nhưng chưa nghiện tới mức đó.
- Anh bắt đầu hút từ
năm nào nhỉ ?
- Từ năm tôi mười
sáu.
Chẳng có cuốn trinh
thám nào viết về sự hỏi cung kỳ cục như thế này. Không có lấy một dụng cụ tra
tấn nào - không một cái magnéto, không một sợi thừng, không một cái roi, không
một móc xích lủng lẳng trên trần.
- Sớm quá, hút thế
sớm quá! - Huỳnh Ngự lắc đầu - Thuốc lá có hại lắm, chẳng nói anh cũng biết.
Ung thư phổi, ung thư vòm họng từ đó mà ra. Ðể coi, bao nhiêu phần trăm người
hút thuốc bị ung thư hè ? Tui có đọc mà không nhớ. Nhưng hút chút chút thì
không sao. Tui lâu lâu cũng hút một điếu, ghiền thì không, tui không ghiền.
Thì cứ nói chuyện
chơi với thằng cha này một lát xem y định dẫn câu chuyện tới đâu ? Một nghệ
thuật hỏi cung độc đáo? Buồn cười, y trẻ con quá!
- Hồi ấy chúng tôi
đói. - tôi dịu giọng - Hút thuốc quên đi được phần nào cảm giác khó chịu.
- Nói chi lạ? Anh mà
đói?
- Anh người Khu 5,
phải không?
Huỳnh Ngự cau mặt. Y
bỏ điếu thuốc ra khỏi cặp môi thâm.
Tôi chợt hiểu - y bị
chạm nọc. Trong số những người từ bên kia vĩ tuyến 17 tập kết ra Bắc theo Hiệp
nghị Genève, Khu 5 đông hơn cả. Ngoài cán bộ và gia đình họ, còn có một đám lúc
nhúc tù hình sự được tập kết theo. Người ta nói Khu ủy Khu 5 sợ không đưa tù
theo chúng sẽ chạy theo địch. Trong lúc công tác đón tiếp cán bộ tập kết diễn
ra lộn xộn, chẳng hiểu sao bọn tù lại được thả ra, thậm chí còn được bố trí
công tác, phần đông sung vào ngành thuế và quản lý thị trường, gây nên nhiều
tiếng tăm không đẹp. Nói chung, hồi ấy cả dân Bắc lẫn dân Nam bộ tập kết
đều có định kiến rất xấu với dân khu 5.
- Ý tôi muốn nói ở
chiến trường Liên khu 5 các anh không bị đói, - tôi nói chữa, trong lòng ân hận
cảm thấy mình thiếu tế nhị - chứ ngoài này năm 1949 là năm bộ đội chúng tôi bị
đói nhất, sắn không có mà ăn...
Tôi đã làm cho y hiểu
tôi không có ý nói xỏ, nhưng mặt y vẫn lạnh như băng. Y không muốn nghe chuyện
tôi đã ở trong quân ngũ, chắc thế. Rất có thể, trước đây y cũng từng ở bộ đội
như phần lớn cán bộ kháng chiến, nhưng lúc này đây y không muốn thấy giữa tôi
và y có cái gì đó giống nhau, là cái làm nhòa đi ranh giới giữa viên cán bộ
chấp pháp và tên tù đang bị hỏi cung.
Tuy nhiên, chuyện tôi
đã ở bộ đội là sự thật không thể bác bỏ. Y nói y nghiên cứu kỹ lý lịch tôi, thế
tất y phải biết điều đó.
Nhưng rồi y cũng lấy
lại sắc mặt bình thường :
- Anh không có thuốc
hút là tại tui. - y nói như thể phân trần - Anh nào ghiền vô đây cũng có tiêu
chuẩn thuốc lá như khi ở ngoài. Tui mắc nhiều công chuyện quá. Lẽ ra anh phải
có thuốc ngay mới đúng. Thôi được, cứ hút tạm thuốc tiêu chuẩn của tui cái đã.
Mai mốt rồi tính.
- Cảm ơn. Nhưng tôi
đã quyết định thôi không hút nữa.
- Anh tính nhân tiện
vô đây cai thuốc luôn, hỉ? Hay đó.
Tôi lắc đầu :
- Không phải. Chẳng
qua là thế này: tôi không muốn trở thành một Ngô Ðức Trì(14).
Huỳnh Ngự đang uống
dở ngụm nước, y ngưng lại, đặt mạnh chén xuống bàn. Cái nhìn soi mói xoáy chặt
vào mắt tôi :
- Anh vừa nói đứa
nào? Thằng Trì nào?
Ðến lượt tôi ngạc
nhiên. Chẳng lẽ y, vụ phó một bộ quan trọng là Bộ Nội vụ, chẳng gì cũng là một
cán bộ có cỡ, lại không biết Ngô Ðức Trì là ai.
- Thế này, Ngô Ðức
Trì là ủy viên Trung ương Ðảng vào thời kỳ trước khi Mặt trận Bình dân vỡ...
Y nhíu lông mày nhìn
tôi.
- Khi bị Pháp bắt, bị
tra tấn,- đành phải giải thích cho y vậy.- Ngô Ðức Trì đã bán đứng cho Pháp một
số cơ sở của Ðảng để đánh đổi lấy một lần gặp vợ và, thật khó tưởng tượng nổi,
để được chúng cho... hút thuốc lá. Giữa hai thứ mà Ngô Ðức Trì đem mạng sống
của các đồng chí ra đánh đổi tôi không rõ cái nào quan trọng hơn : vợ hay thuốc
lá? Có người nói Ngô Ðức Trì phản bội vì thèm mụn con trai nối dõi tông
đường...
Ẩn ý của câu nói thật
dễ đoán. Huỳnh Ngự ném cho tôi một cái nhìn bốc lửa. Tôi nghĩ y sẽ nổi khùng,
sẽ quát nạt, nhưng không, y tỏ ra biết tự kiềm chế.
- Anh ngồi ngay ngắn
lại
Tôi quan sát tư thế
của mình - tôi vắt chân chữ ngũ theo thói quen, cái áo bông để hở làm lộ ra cái
áo tù không cài cúc. Tôi bỏ chân xuống.
- Thế này được chưa?
- Nghe đây! - y dằn
giọng - Hôm nay tôi cho gọi anh ra trước hết là để phổ biến cho anh nội quy
trại giam.
- Tôi đang nghe.
- Thứ nhất, kể từ bây
chừ, khi anh đã nằm trong trại giam thì quyền công dân của anh không còn nữa,
quyền đó tạm thời bị tước bỏ, anh không được phép kêu cán bộ thực hành pháp
luật ở nơi ni, từ cán bộ chấp pháp cho tới bộ đội gác trại bằng đồng chí ! Với
bất kỳ công dân nào khác là người tự do cũng vậy...
Cái sự tung hứng ngôn
từ và đánh tráo khái niệm được thực hiện tuyệt vời ở mọi lĩnh vực, mọi nơi
chốn, không trừ cả trại giam! Những khái niệm còn đó cả nhưng đã rỗng ruột. Các
ngôn từ vẫn bay lượn, nhưng chỉ là những cánh diều giấy mà sợi dây nằm trong
tay nhà cầm quyền.
Chao ôi, tôi, kẻ bị
bắt cóc giữa đường đưa thẳng vào xà lim mà gia đình không được báo, bản thân
không biết bị kết tội gì, mà còn có quyền công dân nữa cơ đấy!
Tôi có nghe kể trong
trại giam tù nhân phải gọi cán bộ trại bằng ông, bằng bà(15). Tôi không tin.
Thì ra không phải
chuyện bịa. Cách quy định về xưng hô này bắt nguồn từ thời kỳ Cải cách ruộng
đất. Hồi đó, để hạ nhục các đối tượng của cách mạng, cán bộ đội Cải cách ruộng
đất bắt địa chủ, phú nông phải gọi bất cứ ai là người tự do bằng ông, bằng bà :
ông đội, bà đội, ông nông dân, bà nông dân...
Vợ tôi hiện nay là
người tự do. Nếu bây giờ tôi được gặp vợ thì, theo đúng cái quy định quái gở
kia, tôi cũng phải lễ phép chào vợ : chào bà ạ!
Vui thật!
Tôi bật cười. Thái độ
hách dịch của Huỳnh Ngự không làm tôi sợ y, mà ngược lại, làm tôi thấy dễ chịu.
Y quát nạt, có nghĩa là y thấy cần phải trấn áp, y thấy y không thể chiến thắng
dễ dàng.
Tôi nói :
- Chà, chẳng hóa ra
tôi đã thực hiện đúng nội quy của các anh ngay cả khi chưa được nghe anh phổ
biến hay sao ? Từ khi gặp anh tôi chưa một lần gọi anh bằng đồng chí, có đúng
thế không nào?
- Hừm. - y xác nhận
với vẻ mặt chưng hửng.
- Không phải tôi nghe
ai nói hoặc thông minh mà đoán ra đâu. Chẳng qua, nói thực với anh, tôi sinh ra
và lớn lên trong một gia đình cách mạng, trong gia đình chúng tôi hai tiếng
đồng chí được coi là rất thiêng liêng, tôi đã thấy vì tình đồng chí những người
cách mạng sẵn sàng hy sinh cả tính mạng mình...
- Hừm.
Huỳnh Ngự tím mặt. Y
lúng túng, không biết nên xử sự thế nào khi thấy tôi đối đáp bằng giọng điềm
đạm như thế. Lẽ ra nên kết thúc, y lại ngu xuẩn kéo dài cuộc đối thoại :
- Không những không
được xưng hô đồng chí, mà anh còn phải kêu cán bộ tụi tui bằng ông hoặc bằng
bà...
Hoàn toàn bất ngờ đối
với y, tôi đã sẵn sàng để đập lại.
- Một cách xưng hô
tuyệt vời, thưa ông! - tôi nói, còn vui vẻ hơn trước - Thú thực, tôi vui mừng
được biết ngành công an, tiếc thay lại không phải ngành văn hóa chúng tôi, đã
có công trong sự phục hồi những từ ngữ chết uổng. Kể từ Cách mạng Tháng Tám
những từ lịch sự tự nhiên bị ác cảm, bị miệt thị, cứ như thể chúng thuộc về một
ngôn ngữ kém cỏi, của riêng giai cấp thống trị. Vô lý, và hơn thế, còn đáng
buồn, có phải không ạ? Tôi hoan nghênh sự phục hồi những từ đó. Bản thân chúng
vô tội. Ðể mất chúng, tiếng Việt của ta chỉ có nghèo đi, trong khi nó cần được
bổ sung càng nhiều cách diễn đạt càng tốt để trở nên phong phú thêm. Hay lắm,
hay lắm! Vậy thì thưa ông cán bộ, về phía các ông, các ông sẽ gọi tôi bằng gì?
- Chúng tôi kêu các
anh bằng anh chớ bằng cái chi?
- Chết chết, sao lại
thế? Gọi như vậy đâu có được?! Như vậy là không công bằng.
Huỳnh Ngự trề môi,
cười đểu :
- Bộ anh muốn tui kêu
anh bằng ngài chắc?
Tôi nghiêm mặt :
- Nói về xưng hô tôi
yêu cầu phải có sự sòng phẳng. Chúng tôi đã lịch sự gọi các anh bằng ông thì về
phía các anh tôi yêu cầu các anh cũng phải gọi chúng tôi bằng ông.
Huỳnh Ngự bật khỏi
ghế. Y đã mất bình tĩnh.
Từ đầu cuộc nói
chuyện, y chơi trò mèo vờn chuột với tôi, đến đây vai trò bị đảo ngược. Y cảm
thấy nhục nhã bị tên tù giỡn mặt.
- A, anh láo! Vô tới
nơi ni rồi mà vẫn còn láo! Anh...anh dám ví tui với anh hử? Anh dám đặt tui
ngang hàng với anh hử? Tui là ai ? Tui là người trông coi pháp luật, anh hiểu
chưa? Còn anh là ai? Anh là kẻ vi phạm pháp luật. Rứa đó, hiểu chửa? Anh là
can...can phạm, anh... anh... là thằng tù! Bình với chả đẳng! Bình đẳng cái con
c...tui nè! Ðược, rồi tui sẽ cho anh biết thế nào là bình... bình... bình đẳng!
Tui... tui sẽ vặn...vặn cổ anh!
Mặt tôi nóng bừng.
Khi có quyền trong tay cái lũ hư đốn này coi người bằng nửa con mắt. Chúng leo
lẻo ca tụng những anh hùng cách mạng trước kẻ thù, nhưng không bao giờ chúng
thừa nhận có những anh hùng trước mặt chúng.
- Hãy bình tĩnh nghe
tôi nói. - tôi bình thản nhìn vào mặt y - Anh bảo tôi là can phạm ư ? Ðó mới
chỉ là quan điểm của các anh. Của riêng các anh thôi. Chúng tôi có quan điểm
của chúng tôi. Nó khác quan điểm của các anh, khác hẳn. Theo quan điểm này
chính các anh mới là can phạm. Các anh phạm tội lợi dụng chức quyền tước đoạt
những thành tựu của cách mạng. Các anh ngang nhiên vi phạm Hiến pháp, chà đạp
những quyền tự do dân chủ của nhân dân...
- Láo!
- Ðừng vội nóng. Rồi
đây lịch sử sẽ phán xét tất cả, chính anh sẽ được thấy sự phán xét đó, chính
anh cũng sẽ hiểu ra ai đúng ai sai, ai vì nhân dân, ai phản bội nhân dân...
- Câm ngay! Câm ngay
lập tức!
Huỳnh Ngự ré lên.
Toàn thân y run bần bật. Trong phút chốc mặt y méo xệch, dãi nhểu ra nơi khóe
miệng.
Tôi đâm lo. Thằng cha
này mắc chứng kinh phong? Tôi sẽ phải làm gì nếu đột nhiên y lăn đùng ra? Trong
trường hợp này phải luồn một cái thìa giữa hai hàm răng để bệnh nhân khỏi cắn
phải lưỡi, người ta nói thế. Nhưng bới đâu ra một cái thìa bây giờ? Mà y thì
đang lên cơn. Tệ hơn, nếu y chảy máu não? Y có thể chết.
Tôi chẳng muốn làm
chết một ai. Tôi không muốn trở thành nguyên nhân cái chết của thằng phải gió
này.
Luống cuống vì không
biết nên làm gì, tôi rót một chén nước đưa cho y.
Nhưng Huỳnh Ngự đã
trấn tĩnh lại được. Y gạt mạnh tay tôi ra làm chén nước đổ tung toé.
- Chờ đó! Cái...
thứ... cái thứ anh còn...còn ở nơi ni còn lâu! Ðồ...đồ...! Nói trước cho... cho
anh hay: cái thứ anh rồi sẽ...sẽ chết rục xương trong Hỏa Lò nầy! - cuối cùng,
rồi y cũng nói được thành lời - Anh sẽ được biết thế nào là... là chuyên chính
vô sản! Trong Hỏa Lò nầy đến thép cũng phải chảy, nói chi cái thứ ruồi muỗi như
anh...
Toàn thân tôi run bắn
lên trong một cơn giận không kiềm chế nổi. Giờ y có giãy đành đạch mà chết
trước mặt tôi tôi cũng mặc.
- Hừm, cái đó thì còn
phải chờ xem!
- Không phải chờ lâu
đâu. Láo đến như Hoàng Minh Chính mà vô đây còn phải quỳ mọp xuống xin tha tội
kìa!
Y lấy ngón trỏ chọc
chọc vào không khí :
- Ðó, hắn ta quỳ chỗ
nớ đó!
Tôi cười phá :
- Ðâu, chỗ nào?
- Ðó chỗ tui chỉ đó!
Sao mà một quan chức
như y mà ngây thơ đến thế! Chẳng lẽ y nghĩ tôi là đứa trẻ lên ba? Hay là trong
đầu y có cái gì không ổn.
Tôi phá lên cười :
- Thú vị quá nhỉ? Vậy
thì thưa ông, ông có thể vui lòng cho tôi được thấy cảnh tượng ấy một lần
không? Một lần thôi! Tôi quen Hoàng Minh Chính. Tôi biết tính cách anh ấy. Tôi
không tin Hoàng Minh Chính lại có thể sa sút tinh thần như vậy. Một con sư tử
quỳ gối trước một con chuột? Không, không thể có chuyện đó được.
- A, anh láo hử ?! -
Huỳnh Ngự kêu choe chóe - Tui... tui bẻ cổ anh bây chừ...
Y lại thở hổn hển,
mặt tái nhợt.
Viên cai ngục hốt
hoảng chạy vào, theo sau là một anh chàng búng ra sữa, hình như là thư ký của
Huỳnh Ngự.
Tôi những tưởng chúng
sẽ bổ tới đánh tôi, khóa tay tôi, nhưng chuyện đó không xảy ra. Cả hai đứng
sững, ngơ ngẩn nhìn cảnh tượng diễn ra trước mắt.
- Bây giờ các anh hãy
nghe tôi nói đây ! - hai tay khoanh trước ngực, tôi cao giọng diễn thuyết trước
cái cử tọa ít ỏi trời cho - Các anh có tất cả : súng đạn, gông cùm, nhà tù. Còn
chúng tôi, chúng tôi chỉ có một thứ : chính nghĩa. Các anh có thể thủ tiêu tôi,
tôi biết, nhưng công khai giết tôi thì đến bọn chủ các anh cũng không dám. Nói
thật đấy, cho ăn kẹo cũng không dám. Cứ hành hạ thân xác chúng tôi đi, đó là
việc trong tầm tay các anh, bởi vì ở đây tôi không có gì để chống lại, nhưng bẻ
gãy tinh thần chúng tôi thì không được đâu, đừng hòng.
Huỳnh Ngự rít lên :
- Ðược ! Ðược ! Rồi
anh sẽ biết thế nào là chuyên chính vô sản!
- Tôi đã nói rồi,
không muốn nhắc lại nữa: dọa nạt tôi vô ích!
- Tui không thèm dọa
anh!
Nổi giận với thằng
tay sai này làm gì, tôi tự nhủ. Vô ích. Mà hùng hồn thuyết giáo như vừa rồi,
mình không nhìn thấy mình đấy thôi chứ nhìn thấy thì phải đỏ ửng mặt lên vì xấu
hổ, phường tuồng ơi là phường tuồng!
Hai anh chàng cấp
dưới của Huỳnh Ngự nhìn tôi bằng cặp mắt van lơn, thật lạ. Có vẻ như họ muốn
đụng vào tôi, để nhắc nhở chứ không có ý gì khác.
- Vả lại, còn điều
này nữa là điều anh chưa biết, và tôi thấy cần phải nói ngay để cho anh biết. -
tôi lạnh lùng tiếp,- Ðó là : ngay tại chốn này, ngay trong Hỏa Lò của các anh,
tôi vẫn còn có quyền của tôi, cái quyền cuối cùng không kẻ nào tước đoạt nổi...
- Anh nói chi lạ?
Anh? Mà còn có quyền? Hứ! Quyền, quyền cái con... Chỉ chúng tôi mới là người có
quyền, hiểu chưa, đồ...
Máu tôi lại bốc lên
mặt :
- Lẽ ra tôi không nói
thêm với anh nữa, vì anh lại giở giọng du côn, cho nên tôi phải nói cho anh
hiểu...
- Quyền chi mô? Nói
coi thử!
Khoanh tay trước
ngực. tôi nhìn thẳng vào cặp mắt ngây dại của y:
- Còn cái quyền này :
tôi – tuyên - bố - không – nói – gì - với – anh - nữa!
- Tui... tui sẽ...
gang họng anh ra, bắt anh phải nói!
Y lại hét, giọng đã
đuối.
- Không ăn thua gì
đâu.- tôi dằn từng tiếng - Anh chẳng là gì đối với tôi. Ðừng phách lối. Nhờ anh
chuyển lời tôi tới bọn chủ của các anh, bảo họ cử người khác đến gặp tôi. Bằng
không tôi sẽ không nói gì hết. Các người cần nói chuyện với tôi, không phải tôi
cần nói chuyện với các người.
Không thèm nhìn Huỳnh
Ngự, tôi quay ngoắt, bước nhanh về phía cửa. Viên cai ngục lật đật chạy theo .
- Ðưa tôi về xà lim !
Tôi ra lệnh cho anh
ta.
-------------
Chú thích
(1) Bản dập thử để
sửa lỗi của nhà in.
(2) Cuốn Năm Người Im
Lặng vẫn được xuất bản trong năm 1968, khi tôi đã ở trong tù. Người quyết định
cứ in cuốn sách này bất chấp thói thường thời ấy không dám in sách mang tên
người bị bỏ tù là giám đốc Nhà xuất bản Văn Hóa , ông
Lý Hải Châu .
Trong kháng chiến chống Pháp Lý Hải Châu chỉ huy Ðội biệt động Sài Gòn - Gia
Ðịnh, bị chính quyền chiếm đóng kết án tử hình, rồi giảm xuống chung thân và
đầy ra Côn Ðảo.
(3) Chỉ tổ chức Ðảng.
(4) Cung văn là người
chơi đàn tranh trong cuộc hầu đồng, trong dàn nhã nhạc lễ bái. Cung còn có
nghĩa là ngôi nhà tráng lệ, cung điện. Cung văn đây được hiểu như nhà văn cung
đình.
(5) Bộ Nội
Vụ trước khi đổi tên.
(6) Cho tới năm 1965,
Trường Chinh vẫn duyệt từng số báo ảnh, như khi tờ báo vừa ra đời dưới sự bảo
trợ của ông, mặc dầu ông không có trách nhiệm đó. Sự đưa tổng bí thư duyệt báo
trước khi ra không bị coi là kiểm duyệt, mà là để xin ý kiến. Cho tới nay ở
Việt Nam ,
về mặt công khai, không có chế độ kiểm duyệt nhà nước.
(7) Cách gọi tắt các
chiến trường : B - miền Nam Việt Nam , C - Campuchia, D - Lào, E -
Thái Lan. Tại những chiến trường này đều có mặt bộ đội Việt Nam . Tại Thái
Lan, trong thời kỳ chiếm đóng Campuchea bộ đội Việt Nam chỉ vào sâu trong nội địa chừng
hai chục cây số.
(8) Nhà văn (sinh năm
1932) nổi tiếng với những tác phẩm Xung Ðột, Mùa Lạc, Cha Và Con Và...
(9) Nguyên trưởng ty
Công an Thanh Hóa trong kháng chiến chống Pháp. Ðiệp vụ do Hoàng Ðạo tổ chức
kết thúc bằng việc đánh đắm thông báo hạm Amyot d Inville tại vùng biển Thanh
Hóa năm 1950. Một nữ điệp viên cảm tử tên là Nguyễn Thị Lộc trong vai vợ của
lãnh tụ Ðại Việt Hoàng Ðạo đi nhờ tàu ra Hải Phòng đã mang một va li thuốc nổ
lên thông báo hạm và cho nó nổ tung. Do không thỉnh thị Trung ương, ông bị tổng
bí thư Trường Chinh thi hành kỷ luật. Hoàng Ðạo có viết một hồi ký nhan đề Hà
Nội - Huế - Sài Gòn - Ðà Lạt rất thú vị, tôi có được đọc bản thảo, nhưng hình
như nó đã thất lạc.
(10) Theo lời chứng
của cha tôi.
(11) Một loại trà gói
rất phổ biến trong những năm ấy. Trà gói loại sang có Ba Ðình, nhưng cán bộ
thích Hồng Ðào hơn vì nó vừa rẻ tiền lại vừa ngon.
(12) Thuốc lá loại
sang, trên nó chỉ có thuốc lá Thăng Long. Dưới Ðiện Biên bao bạc còn có Ðiện
Biên bao thường, Tam Ðảo (bao bạc và bao thường), đứng hạng chót là Bông Lúa.
Như vậy có nghĩa tôi được đối xử khá tốt lúc đầu để mua chuộc.
(13) Năm 1965 uy tín
của tổng thống suốt đời Sukarno (1901-1975) xuống tới mức thấp nhất kể từ Hội
nghi Bandung
1955. Ðường lối thân Trung Quốc đã dẫn tới một cuộc tàn sát của phe hữu chống
lại Ðảng cộng sản và các lực lượng cánh tả. Phe quân sự do tướng Suharto giành
chính quyền về tay mình năm 1965, lật đổ Sukarno, chấm dứt thời kỳ hỗn loạn.
Thời kỳ này ban lãnh đạo Việt Nam
rất lúng túng trong quan hệ với chính quyền mới của Indonesia sau Sukarno.
(14) Năm 1927 Ngô Ðức
Trì học tại Trường Ðại học Phương Ðông cùng với Bùi Công Trừng, Nguyễn Thế Rục,
Trần Phú, Bùi Lâm, Nguyễn Xích. Nhóm cộng sản Việt Nam đầu tiên được thành lập tại
Moskva, trong phòng ngủ của Nguyễn
Xích , gồm 5 người nói trên. Lê
Hồng Phong còn đang học Trường hàng không ở Leningrad nên không có mặt (theo hồi ký Phải Sống Cho Ðời Sống của Bùi Công
Trừng).
(15) Tôi còn nhớ hồi
Cách mạng Tháng
Tám tù cũng gọi cán bộ công an
bằng đồng chí.
Chương 5
Năm 1956 được ghi lại trong trí nhớ của tôi như một năm đầy sự kiện.
Tôi ở trong một căn
phòng ba người trên tầng thứ tư của ký túc xá sinh viên Trường Ðại học Ðiện ảnh
Liên Xô nằm ở phía Bắc
Moskva .
Ký túc xá của chúng
tôi không lớn, nhưng lúc nào cũng nhộn nhịp tiếng chân người ngoài hành lang , những cuộc tranh luận nghệ thuật thâu đêm suốt sáng.
Ðó là thời gian của những giọng ca vàng Imma Sumak, Yves Montand, Robertino
Loretti(1), những bộ phim tân hiện thực Italia với những tên tuổi sáng chói một
thời như Roberto Rossellini, Luchino Visconti, Vittorio De Sica, Giuseppe de
Santis(2)... thời gian đó Serguei Eiseinshtein(3) phục sinh với bộ phim Ivan
Bạo đế nhiều năm nằm chết trong kho lưu trữ...
Tôi thiếu quá nhiều
để tiếp cận cái mới - cả trí thông minh lẫn kiến thức cần có. Theo truyền thống cha ông tôi tìm cứu cánh trong sự
học gạo. Ðúng vào lúc tôi vùi đầu chuẩn bị thi kiểm tra thì Ðại hội lần thứ XX
Ðảng cộng sản Liên
Xô khai mạc.
Tôi chẳng để ý gì tới
nó. Những Ðại hội Ðảng, những Hội nghị Trung ương của đảng này đảng nọ trong
phe xã hội chủ nghĩa là chuyện cơm bữa, cái nào cũng giống hệt cái nào. Tôi
ngán đọc những diễn văn dài dằng dặc kín mấy trang báo, những từ ngữ ồn ào, sáo
rỗng và mòn vẹt vì lặp đi lặp lại. Chính trị chưa bao giờ quyến rũ tôi. Với tôi
chính trị là thứ chỉ dành cho một số người phi thường và những tên cơ hội, hai
loại nhân sinh có tài tìm thấy niềm vui trong trò chơi lá mặt lá trái của nó.
Vì thế, ngồi dưới cái loa suốt ngày lải nhải tin tức và bình luận chính trị tôi
vẫn học bài được như thường.
Ðó là một cái loa-hộp
già lão đã hỏng chiết áp, hỏng từ bao giờ không biết, tôi đến thì nó đã có đấy
rồi. Già nua, xơ xác, nó lảm nhảm suốt ngày, nỉ non suốt ngày cho tới tận
khuya, với sự kiên trì chỉ có ở máy móc. Tôi đánh vật với nó để bắt nó câm
miệng, nhưng thất bại. Làm đủ cách không xong, tôi lấy vải bịt nó lại, nhưng
chỉ làm cho tiếng nó nhỏ đi được chút ít. Ðành đọc sách, làm bài trong tiếng
lẩm bẩm không dứt của cái loa cần mẫn, riết rồi cũng quên được sự hiện diện của
nó.
Tôi đang chìm đắm
trong số phận bi đát của Vua Lear thì Shpalikov(4) xồng xộc chạy vào :
- Trời đất ơi, đồ mọt
sách ! Ðang xảy ra chuyện động trời mà cặm cụi với cái ông Shakespeare của cậu
được thì lạ quá! Nghe đi kìa!
Tôi ngẩng lên nhìn
cái loa. Trong đầu tôi vua Lear tội nghiệp vừa bị các cô con gái cắt tiền tiêu,
cắt cả lính hầu khi vương quốc của ông không còn là của ông nữa. Tôi đang
thương ông, ngán ngẩm cho tình đời. Cái loa lẩm bẩm điều gì đó, Shpalikov tươi
cười, đôi mắt đen lấp lánh. Tôi không nhận ra ngay giọng nói của Nikita
Khrushov(5). Những tràng vỗ tay lớn và kéo dài quá mức làm cho cái khăn bịt
màng loa rung lên bần bật.
Tôi tháo nó ra để
nghe cho rõ. Thì ra chuyện động trời!
“Vào những năm cuối
đời mình Iosif Vissarionovich Stalin(6) đã phạm những sai lầm nghiêm trọng... -
giọng Nikita Khrushov sang sảng - Ông coi thường và vì thế đã vi phạm thô bạo
những chuẩn mực sinh hoạt dân chủ ... Những tội ác xảy ra trong thời kỳ Stalin
đứng đầu Ðảng và Nhà nước...Tệ sùng bái cá nhân là xa lạ với bản chất của đảng
cộng sản... !!”
Tôi bàng hoàng, Cha
mẹ ơi, gì thế này?! Ðại nguyên soái Stalin, người thầy, người cha của nhân dân
lao động toàn thế giới và ... tội ác??
Ngoài trời, tuyết bay
thành những dải chênh chếch. Mới tháng Hai, mùa xuân Nga còn lâu mới bắt đầu.
- Nghe thấy chưa? Một
cuộc cách mạng! Cậu hiểu không, một cuộc cách mạng? - Shpalikov nhảy lên, hoa
chân múa tay dưới cái loa sứt sẹo. - Một quả bom nguyên tử ném thẳng vào dinh
lũy của nền chuyên chế! Tự do muôn năm!
Tôi ngẩn người. Anh chàng
xuất thân thiếu sinh quân học viện Suvorov, vốn nồng nhiệt yêu chế độ xô-viết,
sao lại có thể vui mừng đến thế trước cuộc tấn công trực diện vào lãnh tụ
Stalin vĩ đại? Mà người mở đầu cuộc tấn công lại không phải là ai khác Nikita
Khrusov, người mà báo chí hôm qua còn gọi là “học trò xuất sắc và trung thành”
của ông ?
Ðến lúc ấy tôi mới
nghe tiếng chân người đi lại rầm rập ngoài hành lang, tiếng mở cửa, đóng cửa ầm
ầm ở các phòng. Giọng ai đó rung lên mãi một khúc aria không rõ lời. Tiếng vỗ
tay rộn ràng theo nhịp một bài ca cách mạng năm 1917.
Tối hôm đó nhóm bạn
Nga tổ chức tại phòng tôi một bữa tiệc sinh viên. Chúng tôi uống vốt-ka, nhắm
với cá sấy, xúc xích tiết lợn, bánh mì khô và tin nóng hổi nhận được từng giờ
từ phòng họp Ðại hội. Bữa tiệc kết thúc bằng cuộc cãi vã to tiếng giữa phái đến
cùng đòi ngay lập tức phải tiếp tục đi xa hơn nữa những kết luận của Ðại hội và
phái chủ trương cải tổ từ từ có Ðảng lãnh đạo.
Phái ngay lập tức bỏ
đi. Phái từ từ ở lại.
Tôi buồn ngủ. Trong
cơn mơ màng tôi nghe Shpalikov hỏi :
- Cậu hiểu rồi chứ?
Tôi im lặng. Tôi
không hiểu hoặc chỉ mới hiểu lờ mờ. Nhưng tôi tin Shpalikov. Nếu anh vui mừng
đến thế mà tôi không cảm thấy như anh thì tôi cần xem lại mình. Chắc rằng trong
tôi còn nhiều tăm tối, còn nhiều u mê. Cũng như tôi không hiểu hết được cái đẹp
trong thơ Pushkin(7) vậy. Trong ngày hôm nay Pushkin được nhắc tới rất nhiều.
Bài thơ Những Người Tháng Chạp của ông được cả hai bên tranh luận ngâm nga.
Ðại hội XX không phải
chỉ vạch trần tệ sùng bái cá nhân Sta-lin, đòi phục hồi các chuẩn mực dân chủ
trong mọi mặt sinh hoạt xã hội, trong sinh hoạt đảng... Nó còn mở ra tầm nhìn
mới cho cả thế giới cộng sản. Nó bác bỏ quan điểm coi bạo lực là phương pháp
giành chính quyền duy nhất của giai cấp vô sản, coi mâu thuẫn giữa hai hệ thống
thế giới là không thể điều hòa. Ðó là Ðại hội của tinh thần hòa bình - cùng tồn
tại trong hòa bình, hợp tác hòa bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau,
tinh thần giải quyết mọi tranh chấp bằng thương lượng, chấm dứt mọi thứ chiến
tranh nóng cũng như lạnh, giải trừ quân bị...
Ðó là ngày 25 tháng
Hai năm 1956.
Hôm sau tôi vào trung
tâm thành phố để xem phim “Chiến tranh và hòa bình” của Mỹ tại Cung Ðiện ảnh.
Các ga metro dông nghịt. Những con đường dẫn tới Hồng trường cuồn cuộn những
cơn lũ dân chúng vui vẻ, phấn khích. Họ hò reo, ca hát, mang cờ đỏ búa liềm,
chân dung Nikita Khrushov tới điện Kremli chào mừng Ðại hội. Họ ôm nhau, hôn
nhau, nhẩy múa trong tiếng nhạc đệm của đàn bay-an. Rải rác trên vỉa hè là
những bức chân dung Stalin, cái còn nguyên, cái bị xé nát, nhem nhuốc dưới gót
giầy khách bộ hành.
Tôi rùng mình. Cảnh
tượng diễn ra trước mắt làm tôi bàng hoàng.
Những người chưa từng
bị giáo dục lòng yêu mến và kính trọng sâu sắc đối với lãnh tụ vĩ đại Stalin
không thể hiểu nổi nỗi xúc động của chúng tôi khi thần tượng của mình bị quật
ngã, bị chà đạp.
Tôi còn nhớ tin
Stalin qua đời đến với chúng tôi như thế nào. Cuộc kháng chiến trường kỳ bước
vào năm thứ bẩy. Tôi đang ở Thanh Hóa. Hàng ngày, từng tốp máy bay Hellcat và
Spitfire từ Hà Nội chốc chốc lại bay vào quần đảo trên những làng mạc thanh
bình vùng tự do (8). Thỉnh thoảng chúng thu hẹp vòng lượn và bên dưới, từ mặt
đất, bốc lên những cột khói đen. Tin Stalin qua đời đến với chúng tôi trong một
ngày như thế. Người ta quên bẵng những máy bay - thần chết khi tiếng loa cất
lên vang vang trong thôn xóm báo tin người Cha, người Thầy vĩ đại của nhân dân
thế giới không còn nữa.
Lớp trẻ chúng tôi
lặng đi. Ít lâu sau, học sinh các trường phổ thông đã ra rả học bài thơ Ðời Ðời
Nhớ Ông của Tố Hữu (9), trong đó nhà thơ khóc Stalin :
“Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương Ông thương
mười.
Yêu con, yêu nước, yêu nòi,
Yêu bao nhiêu lại thương Người bấy nhiêu,
Ngày xưa khô héo quạnh hiu,
Có Người mới có ít nhiều vui tươi...”
Tôi quyết định bỏ
Shakespeare đấy đã để tìm hiểu những gì đang xảy ra. Tôi đem những thắc mắc của
mình hỏi giáo sư Turkin. Ông thầy giảng môn kịch bản điện ảnh xua hai tay :
- Chính trị không
phải cái để cho chúng ta, anh bạn trẻ ạ. Khi còn ở tuổi 20 tôi cũng chú ý tới
nó, y như anh bây giờ, sau đó thì... thôi, tôi chán. Mà không phải chán, tôi
sợ. Tôi khuyên anh quên nó đi. Những việc anh thấy hôm nay có vẻ ghê gớm thật
đấy, nhưng ngày mai mọi sự lại có thể khác. Dây vào làm gì!
Nghe tôi trình bày,
giáo sư môn văn học nước ngoài Nina Anosova ra hiệu cho tôi đi theo bà.
Chúng tôi xuống tầng
hầm của nhà trường. Trong góc tối, bà chỉ cho tôi cái thang dựng sát tường:
- Ðối với tôi thời
Stalin gắn liền với cái thang này. Nó trở thành biểu tượng. Anh có thấy chân
dung các nhà lãnh đạo Ðảng và Nhà nước treo trên hội trường không ? Thời Stalin
còn sống, cái thang được dùng đến luôn. Thỉnh thoảng anh thợ điện Stepan lại
vác nó lên để tháo vài vị xuống, treo vài vị khác thế vào. Báo Pravda (Sự Thật)
thông báo họ là những tên phản bội, kẻ thù của nhân dân xô-viết. Rồi chính
những vị vừa được treo lên lại bị gỡ đi - hóa ra họ cũng là kẻ thù của nhân dân
xô-viết nốt. Tất cả đều từng được ngợi ca là bạn chiến đấu, là học trò ưu tú
của Lênin và Stalin. Cứ mỗi vị bị bắt thì một loạt cán bộ khác bị bắt theo, như
là một đợt sóng. Ngay tại trường ta này những cán bộ hiền lành bỗng nhiên cũng
bị công an đang đêm tới nhà bắt đi. Hồi ấy chúng tôi chỉ biết ngạc nhiên : chế
độ mình tốt thế sao có lắm người chống lại đến thế, lắm kẻ thù của nhân dân
xô-viết đến thế ? Tôi không tin những người nọ là kẻ thù của nhân dân xô-viết,
tôi biết rõ họ mà, người khác cũng không tin, nhưng chẳng ai dám nói ra. Thật
xấu hổ, nhưng chúng tôi đã sống hèn như thế đấy!
Anosova là người
trung thực. Bà không bịa đặt. Chẳng lẽ bà cũng là một trong những kẻ thù của
nhân dân xô-viết?
Tôi được nghe một
người vừa được tha về từ trại tập trung Kôlưma nổi tiếng (10) phát biểu.
Người đàn ông đứng
tuổi, trước kia làm việc tại văn phòng nhà trường, khóc nức nở trong cuộc họp
chi bộ(11): “Các đồng chí ơi ! Tôi bị Ðảng đưa đi giáo dục mười một năm. Trở
về, tôi như bị lạc vào một thế giới khác. Tất cả đều khó hiểu, mọi cái đều xa
lạ. Hãy giúp đỡ tôi, các đồng chí ! Tôi muốn được làm một người bình thường... như
mọi người”.
Người tù được tha
không hề thốt lên một lời oán trách đảng. Ông cũng chẳng nói gì tới lý tưởng
cộng sản. Dường như cơn ác mộng còn đó, về tới Moskva rồi ông vẫn chưa hết sợ.
Nhưng lý trí phản bác rằng cảm giác của tôi sai, rằng nhờ tính đảng cao nên
trải qua đọa đầy ông ta vẫn trung thành với đảng. Chỉ đến khi chính mình nếm
trải những gì mà những người cộng sản nọ nếm trải tôi mới hiểu trực cảm của tôi
là đúng.
Ðó chính là cái sợ.
Không phải cái gì khác (12).
Trong những cuốn hồi
ký được xuất bản sau đó, các tác giả viết rằng khi nước Ðức Quốc xã vượt qua biên giới Ba Lan tiến vào
lãnh thổ Liên Xô, xé toạc hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau Xô-Ðức, Stalin mới
ngã ngửa người ra thấy các tướng lĩnh và cán bộ chỉ huy quân đội đã nằm gần hết
trong các trại tập trung. Ông hạ lệnh tha khẩn cấp để họ trở về đi đánh nhau
với Ðức. Ðiều đáng ngạc nhiên và hơn nữa, đáng khâm phục, là những người được
tha đều sẵn sàng ra ngay mặt trận để chiến đấu chống quân xâm lược.
Những người bị bắt
oan khi được tha vẫn phải ký vào một tờ giấy cam đoan không nói lại với ai về
giai đoạn đã qua. Một quân đoàn trưởng gặp cấp dưới, tư lệnh sư đoàn, tại nhà
an dưỡng miền Nam Liên Xô: “Kìa, Ivan, lâu lắm tôi mới được gặp đồng chí! - ông
mừng rỡ kêu lên - Dạo này đồng chí gày quá !”, “Báo cáo thủ trưởng, tôi vừa đi
công tác xa về. - tư lệnh sư đoàn trả lời - Tôi trông thủ trưởng cũng không
được khỏe ?”. Quân đoàn trưởng cười: “Tôi cũng vậy, tôi vừa đi công tác xa về”.
Một số người bênh
Stalin nói rằng Sta-lin không biết gì về các nguyên soái, các tướng lĩnh bị bắn
hoặc bị đi đầy. Tôi không tin. Cái huyền thoại về vị lãnh tụ anh minh bị cấp
dưới bịt mắt, bị lừa dối, không đứng vững trước sự thật hàng ngày diễn ra bên
những người dân biết suy nghĩ như giáo sư Anosova.
Một người bạn ở khoa
lý thuyết điện ảnh, Naum Kleiman (13), cho tôi biết chính anh và gia đình đã bị
đầy đi Sibir gần chục năm chỉ vì họ là người Do Thái. Mà người Do Thái, theo
Stalin, là giống người không tin được, phải chịu tội chung cùng với những bác
sĩ Do Thái bị bắt trong cái gọi là “vụ án bọn áo choàng trắng” ở Lêningrad(14).
Mãi tới khi Stalin qua đời Naum mới được trở về Moskva. Anh nói anh không bao
giờ quên chuyến đi tới miền Cực đông băng giá trong toa chở súc vật với những
thanh gỗ đóng chéo ngoài cửa. Cách di chuyển dân đi đày của cơ quan an ninh
Liên Xô giống hệt cách phát-xít Ðức chuyển tù.
Câu chuyện của Naum
làm tôi choáng váng. Chủ nghĩa cộng sản trong hình dung của tôi không có và
không thể có gì chung với tệ kỳ thị chủng tộc. Tôi quan niệm mọi giống người là
như nhau, bình đẳng với nhau, người ta sinh ra là để thương yêu nhau. Tôi rất
thích một ca khúc của Lưu Hữu Phước (15), mở đầu bằng hai câu “Vàng, đen, trắng
- nước da không chia tấm lòng. Biên giới kia khôn ngăn mối dây tâm tình...” Ðó
chính là thế giới mà tôi muốn được thấy khi đi với chủ nghĩa cộng sản. Chủ
nghĩa cộng sản của Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ và Huỳnh Ngự hoàn toàn không giống thế.
Có thể, tôi sai. Trong tôi chủ nghĩa cộng sản có dáng dấp Thiên Chúa giáo, nơi
mọi người đều là con cái Chúa. Lần đầu tiên tôi được thấy một chủ nghĩa cộng
sản phân biệt chủng tộc.
Những đứa trẻ cũng
không được yên khi cuộc trấn phản đã bùng lên thành cơn cuồng tàn sát.
Nhân danh cách mạng
người ta chuyên chính cả với con nít. Cách suy nghĩ của những nhà chuyên chính
vô sản thật đơn giản : nếu cha mẹ đã là kẻ thù của nhân dân xô-viết thì con cái
họ lớn lên nhất định cũng sẽ là kẻ thù của nhân dân xô-viết. Một trong những
nghị định của Bộ Nội vụ thời Sta-lin ghi rõ : “...Vợ con những tên phản bội Tổ
quốc phải bị giam giữ trong các trại tập trung với thời hạn không dưới 5-8 năm
tùy theo mức độ nguy hại cho an ninh xã hội. Những đứa trẻ có hại cho an ninh
xã hội phải đem xử án, tùy theo tuổi, tùy theo mức độ nguy hại và khả năng cải
tạo chúng, chúng phải bị giam giữ trong các trại tập trung, các trại cải tạo
lao động của Bộ Nội vụ hoặc giam giữ tại các nhà trẻ với chế độ đặc biệt…” (16).
Thì ra dưới lớp vàng
son lộng lẫy trưng ra mặt tiền một xã hội tuyệt vời lại là những vụ thanh toán
cung đình, những vụ thủ tiêu mờ ám, những vụ trấn phản đẩy hàng triệu dân chúng
vô tội vào các trại tập trung khủng khiếp, không trừ phụ nữ và trẻ em.
Tôi bị sốc thật sự.
Một phần trong những
tội ác của Stalin - tôi nói một phần vì sau này người ta còn phát hiện nhiều
tội ác khác, thí dụ như vụ thủ tiêu binh lính, sĩ quan và các nhà chính trị Ba
Lan vào năm 1940 (lực lượng những người kháng chiến Ba Lan này chạy sang lánh
nhờ đất bạn) tại khu rừng Katyn thuộc tỉnh Smolensk. Con số được nói tới khoảng
30.000 người. Không thể nào tưởng tượng nổi: bắn chết 30.000 người rồi vùi
trong các huyệt tập thể. Lời bình trong một bộ phim tài liệu về khu rừng khủng
khiếp nói trên nói rằng ở đây còn có cả di thể các công dân xô-viết “không rõ
là những ai, con số họ là bao nhiêu, bởi vì chẳng ai quan tâm tới những người
xấu số ấy”. Những gì được nêu lên trong Báo cáo mật (17) do Nikita Khrusốp
trình bày trước Ðại hội XX còn xa mới tới sự thật. Không biết bằng cách nào,
chỉ ít lâu sau Ðại hội, Báo cáo mật đã được đăng tải trên trang nhất những tờ
báo lớn ở “thế giới tự do”. Những người cộng sản Liên Xô được đọc Báo cáo mật
về tình hình quốc gia mình sau những kẻ vô công rồi nghề ở các nước khác.
Lẽ đương nhiên, các
đoàn đại biểu dự Ðại hội đều nhận được Báo cáo mật. Nhưng ở Việt Nam trừ các ủy
viên Bộ Chính trị và vài ủy viên Ban Bí thư, không ai được đọc nó. Tôi được
biết nội dung Báo cáo mật do tướng Lê Liêm kể lại. Ông chỉ là ủy viên Trung
ương, không có tiêu chuẩn đọc Báo cáo mật, ông phải đi mượn. Nhiều ủy viên
Trung ương khác thậm chí chưa được cầm nó trong tay.
Báo cáo mật là tiếng
nói bất bình, là sự lên án lối cai trị tùy tiện, độc đoán, tàn bạo nhưng chưa
phải sự đoạn tuyệt với nó. Nikita đã không đi đến cùng. Hoặc ông chưa đủ gan,
hoặc ông còn bị kiềm chế bởi các thế lực thân Stalin, hoặc chính ông thấy xấu
hổ nếu phơi bày tuốt tuột những cái xấu của chế độ xô-viết. Vì thế báo cáo mới
là mật, mới không công khai. Cái còn thiếu trong bản báo cáo là thái độ sám
hối. Trong báo cáo Nikita xuất hiện chỉ với tư cách người buộc tội. Ông xấu hổ
trước những gì xảy ra trên đất nước xô-viết. Ông kịch liệt lên án những việc
làm bất nhân, vô đạo. Nhưng chẳng lẽ không phải chính ông đã từng ở trong đám
thuộc hạ của Stalin trong khi tội ác diễn ra, nếu không trực tiếp thì cũng gián
tiếp nhúng tay vào máu. Ông cũng chưa một lần nói “Không!” để chặn đứng bàn tay
giết người của Stalin.
Như một nghịch lý, những người dựng nên chế độ xã hội chủ
nghĩa lại thiếu đức tính mà họ có thừa khi còn đấu tranh chống nền chuyên chế :
lòng dũng cảm. Chỉ tới Ðại hội XX
các đại biểu mới bàng hoàng trước sự thật : trong số 139 ủy viên Trung ương được Ðại hội XVII (1934)
bầu ra đã có tới 98 người bị bắn và tống giam. Vị chi là trên hai phần ba.
Không một ai trong những người còn sống sót dám lên tiếng. Stalin đã thành công
trong việc đánh thức bản năng sinh tồn trong mỗi người. Ai cũng sợ cái chết cầm
chắc khi động tới lãnh tụ vĩ đại. Không cứ Ban chấp hành Trung ương, trong số 1.956 đại biểu đi dự Ðại hội
XVII có tới 1.108 người sau này bị kết án phản cách mạng, bị bắt và bị giết.
Hiện tượng Khrusov
gây ra sự ngạc nhiên có lý trong hàng ngũ những người cộng sản Việt Nam .
Kể cả những người có
tư tưởng cấp tiến nhất trong thời kỳ ấy cũng không hiểu nổi vì sao ngay trong
lòng chủ nghĩa xã hội đã được thiết lập vững chắc ở Liên Xô lại nảy nòi ra một
Khrusov bặm trợn dám đạp đổ thần tượng.
Tôi cho rằng trong
khi giải thích hiện tượng Khrushov người ta có khuynh hướng làm rối rắm vấn đề.
Sự thật, theo tôi, đơn giản.
Khrusov cũng là con
người. Như mọi con người, ông thèm tự do. Chế độ toàn trị tước đoạt mọi quyền
tự do không riêng của bầy nô lệ mà của cả quần thần. Chỉ có thấm thía nỗi đau
khổ bị mất tự do, ý thức được nỗi nhục nhằn phải làm thân tôi tớ, Khrusov mới
đủ dũng khí tự tước bỏ quyền thống trị mặc nhiên có nếu như ông không vì tự do
mà phanh phui tệ sùng bái cá nhân Stalin (18).
Trong ý nghĩa này
Khrushov còn hơn một anh hùng, ông là một Con Người, viết hoa.
Cuộc tấn công của Ðại
hội XX vào tệ sùng bái cá nhân không phải chỉ là quả bom nguyên tử ném vào dinh
lũy chế độ chuyên chế ở Liên Xô. Nó còn làm rung chuyển toàn bộ hệ thống xã hội
chủ nghĩa. Bất kỳ nước nào thuộc hệ thống này cũng có sự sùng bái cá nhân y như
thế.
Nhưng nghịch lý còn
đó : những người cộng sản mới hôm trước đi đầu trong việc xóa bỏ sùng bái cá
nhân, bảo vệ quyền con người, thì hôm sau lại đàn áp những người dân thường tại
Hungari (19) chỉ vì những người này dám đòi thêm một chút tự do. Ông Khrushov
chống sùng bái cá nhân biện bạch : xe tăng Liên Xô đến Budapest để bảo vệ chủ nghĩa xã hội !
Thì ra sống bảo thủ dễ
chịu hơn sống sáng tạo nhiều.
Hoàn toàn bị bất ngờ
trước bước ngoặt trong phong trào cộng sản quốc tế do Ðại hội XX gây ra, Ðảng
Lao động Việt Nam khéo léo chọn thái độ kẻ ngoài cuộc : dào, chống sùng bái cá
nhân là phải thôi, là đúng, lãnh đạo là phải tập thể chứ, nhưng đó là chuyện
Liên Xô, chuyện các nước Ðông Âu, đâu phải chuyện nhà mình. Và thế là trong khi
cả thế giới cộng sản chống sùng bái cá nhân hối hả dẹp đi những trò chướng mắt
của thói xấu đó thì ở Việt Nam người ta vẫn ngang nhiên trương chân dung ông Hồ
Chí Minh và ông Trường Chinh ở hàng đầu trong những cuộc mít tinh, biểu tình.
Ðại hội XX lôi tôi ra
khỏi nghệ thuật, bắt tôi mở mắt ra để thấy ở bất cứ nước nào có chế độ độc tài
tình hình cũng thế cả. Những nhà độc tài của mọi nước chỉ cho phép tồn tại thứ
nghệ thuật tay sai, nghệ thuật bồi bếp, để thực hiện chức năng tôn vinh nền
chuyên chính và nhà độc tài, để đánh bóng mạ kền cho chế độ. Mọi hoạt động nghệ
thuật ở bên ngoài không gian sinh tồn đã được quy định đều bị coi là bất hợp
pháp.
Mùa đông năm 1956 tại
trường Ðại học Ðiện ảnh Liên Xô xảy ra một sự kiện chưa từng có. Sinh viên Cộng
hòa Nhân dân Triều Tiên Hô Un Pây, nhà thơ, đảng viên cộng sản, trong cuộc họp
bất thường của chi bộ mà anh là bí thư, đã lên tiếng đòi Ðảng Lao động Triều
Tiên phải nghiêm khắc kiểm điểm Chủ tịch Kim Nhật Thành (20) về những hiện
tượng phi dân chủ, sùng bái cá nhân.
Trước khi sang Liên
Xô học, Hô Un Pây là sĩ quan tình báo hoạt động tại Hán Thành, nhiều lần bị
thương, bị địch bắt. Sau khi anh gửi kiến nghị, các nhân viên mật vụ Triều Tiên
đội lốt cán bộ ngoại giao đến trường mời anh tới gặp đại sứ, rồi giam anh lại
trong sứ quán. Hô Un Pây đã dùng mẹo nhà nghề lừa được bọn chúng. Anh nhảy từ
tầng lầu thứ tư xuống, vùng thoát ra ngoài. Tuyết gom thành đống dưới chân
tường đã giảm nhẹ cú rơi từ độ cao hơn hai chục thước.
- Chúng nó định thủ
tiêu cậu? Ngay trong sứ quán? - được tin anh thoát hiểm, chúng tôi kéo đến hỏi
thăm.
- Không, chúng nó nói
sẽ áp giải mình về nước.- anh kể về cuộc đào thoát của anh khỏi sứ quán, cánh
tay bị sái khi ngã đeo trước ngực.- Mình đề nghị chúng nó cho gặp vợ trước khi
về (anh có vợ, cũng người Triều Tiên, học tại trường Y Moskva), đề nghị cho
mình quay lại ký túc xá lấy quần áo thì chúng nó cười gằn: “Về đến Triều Tiên
mày không cần vợ nữa đâu, quần áo thì một bộ đã thừa đủ”.
Nước mắt dòng dòng Hô
Un Pây đọc cho tôi nghe những bức thư anh gửi Trung ương Ðảng, chính phủ, quốc
hội, gửi Kim Nhật Thành : “Tôi tuyên bố từ bỏ Ðảng đã phản bội nhân dân Triều
Tiên anh hùng và đau khổ... Tôi đau lòng từ bỏ quốc tịch Cộng hòa Nhân dân
Triều Tiên, vì nó không xứng đáng với tôi, nó không phải là quốc tịch của tôi
mà là dấu ấn đóng trên trán tên nô lệ... Trong mình tôi mãi mãi chảy dòng máu
của tổ tiên và tôi mãi mãi mang trong tôi niềm tự hào là người Triều Tiên...”
Tôi gai người khi
nghe Hô Un Pây đọc những hàng chữ chua xót.
Người của Kim Nhật
Thành đã thất bại trong vụ bắt cóc Hô Un Pây. Liên Xô sau Ðại hội XX đã là Liên
Xô khác. Nhưng cũng chưa khác lắm. Trường Ðại học Ðiện ảnh Liên Xô đã làm một
việc đáng xấu hổ. Người ta công bố lệnh đuổi học đối với sinh viên Hô Un Pây mà
không nêu lý do.
Hô Un Pây bỏ đi Tashkent (21) làm giảng
viên văn học Triều Tiên.
Sau việc xảy ra với
Hô Un Pây, tôi kinh tởm Kim Nhật Thành và cái nhà nước của ông ta. Anh trung úy
Hồng quân Liên Xô (22) đã biến Bắc Triều Tiên thành một trại lính, trong đó dân
chúng bị cai trị theo cách lính tẩy.
Phản ứng của Mao
Trạch-đông đối với những kết luận của Ðại hội XX mạnh mẽ hơn cả. Mao không tha
cho Khrushov tội dám tấn công vào trật tự đã được thiết lập một lần cho mãi mãi
tại cái quốc gia cho đến lúc ấy còn đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa, mà phản ứng
dây chuyền của nó có thể làm lung lay ngai vàng của chính Mao.
Chống sùng bái cá
nhân không thể không ảnh hưởng tới vị trí độc tôn của Mao. Ðể đối phó với tình
hình mới, khi những tiếng nói đòi dân chủ và tự do vang lên ngay bên trong “bức
màn tre” Trung Quốc, Mao gài bẫy “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh” (trăm
hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng (23)) để “cỏ dại”, “tiếng lạ” lộ hình. Cuộc vận
động này mở đầu cho cuộc tấn công nhằm vào những người muốn thay đổi trật tự xã
hội Trung Quốc, gọi bất cứ ai không ưa Mao và không được Mao ưa là phần tử hữu
khuynh chống Ðảng chống chủ nghĩa xã hội.
Những lời bài bác
Liên Xô vốn có sẵn trong Mao nay được nhấn mạnh thêm. Sự rạn nứt trong khối xã
hội chủ nghĩa và trong phong trào cộng sản quốc tế bắt đầu.
Cuộc họp mặt các đảng
cộng sản và công nhân trên thế giới năm 1957 và đặc biệt Hội nghị 81 đảng cộng
sản và công nhân thế giới tại Moskva vào tháng 11 năm 1960, bốn năm sau Ðại hội
XX Ðảng Cộng sản Liên Xô, với bản Tuyên bố chung gượng gạo, chỉ là những thỏa
hiệp bất đắc dĩ. Bị lôi kéo vào cuộc chiến ý thức hệ không những chỉ có những
đảng cầm quyền một số nước xã hội chủ nghĩa, mà còn một loạt các đảng cộng sản
và công nhân. Tình trạng phân liệt xảy ra trong hầu hết các đảng, có những nước
có tới hai ba đảng, đảng nào cũng xưng mình là mác-xít - lê-nin-nít.
Trong cuộc chiến ý
thức hệ Mao hi vọng Bắc Kinh sẽ trở thành trung tâm lãnh đạo phong trào cộng
sản quốc tế. Báo chí Trung Quốc khua chiêng gõ mõ về một thời đại mới - thời
đại gió Ðông thổi bạt gió Tây, trung tâm cách mạng chuyển về châu Á.
Ðến lượt mình Khrusov
lại phạm vào sai lầm tổ tông truyền của chủ nghĩa nước lớn : cắt viện trợ, rút
toàn bộ chuyên gia giỏi về nước (24). Lập tức các phương tiện truyền thông của
cái quốc gia gần một tỷ dân được huy động toàn lực để vạch mặt những tên phản
bội chủ nghĩa Mác - Lênin, vạch mặt bọn xét lại hiện đại và chủ nghĩa xét lại
hiện đại. Cuộc tấn công bằng nước bọt và mực in diễn ra theo bài bản mà người
Việt Nam
đã hân hạnh được biết trong Cải cách ruộng đất : bắt đầu bằng đấu lưng (vạch
tội khi kẻ bị đấu ngồi quay lưng lại), sau mới đấu mặt (đấu trực diện, chỉ tận
mặt, gọi đích tên mà đấu).
Trong giai đoạn đầu
tiên của cuộc cãi vã giữa hai nước đàn anh, ông Hồ Chí Minh, nhạc trưởng của
cái dàn nhạc khôn ngoan chỉ chơi một bài tủ “Kết đoàn chúng ta là sức mạnh”
liền cho cử nhạc lên, nhưng lần này tiếng kèn yếu ớt của ông bị tiếng trống của
hai bên xung đột đang hăng máu ăn thua dập tắt.
Do kém học thức, các
văn kiện Liên Xô làm các nhà lãnh đạo Việt Nam thất đảm bởi giọng văn hàn lâm
cao đạo. Trong khi đó cách lý giải theo lô gích tam đoạn rất bình dân của các
lý thuyết gia Bắc Kinh hợp với tầm kiến thức của họ hơn. ấy là chưa kể giữa hai
nước cộng sản châu Á trước nay vẫn có một mẫu số chung là gốc rễ phong kiến lạc
hậu, trong lòng mỗi người dân có một ông quan. Trong tâm trạng hoang mang trước
một tương lai bỗng dưng trở thành không xác định của phong trào cộng sản, các
nhà lãnh đạo Việt Nam, mặc dầu đã ngả theo Trung Quốc, vẫn kiên trì chủ trương
đường lối khôn ngoan của nhà nghèo - gửi tiền vào hai ngân hàng cùng một lúc.
Cho nó chắc ăn.
- Ông Cụ lừng khừng
vì ông lúng túng trong những vấn đề phức tạp của cuộc đấu tranh lý thuyết. -
cha tôi giải thích lập trường trung dung của ông Hồ trong cuộc cãi vã quốc tế -
Ông Cụ chỉ thích những cái đơn giản. Cái vụ ông chọn Ðệ tam Quốc tế chứ không
chọn Ðệ nhị Quốc tế ở Ðại hội Tours
là một thí dụ. Quốc tế tốt là Quốc tế ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở
các thuộc địa.
Ông Hồ thuộc sử nước
nhà lắm. Ðánh nhau với thiên triều, thắng thì thắng đấy, mà vẫn phải sai sứ
sang cầu hòa, xin được làm chư hầu. Noi gương các cụ, ông nhũn nhặn với bất kể
Trung Quốc nào, Trung Quốc Tưởng hay Trung Quốc Mao. Ðường đường là chủ tịch
một nước năm 1945 ông Hồ vẫn hạ mình thân đến chào các tướng Tiêu Văn và Lư Hán
(25) vào ngày họ tới Hà Nội. Ông căn dặn cha tôi phải lo thuốc phiện cho tướng
Long Vân con (26) “kẻo nó giận thì lôi thôi lắm, thằng nhóc ấy có thể ảnh hưởng
xấu đến mối bang giao của ta với họ”. Khi La Quý Ba, đại sứ đầu tiên của Trung
Quốc Mao tới Việt Bắc, ông sai cha tôi phải chọn địa điểm cho đẹp, dựng nhà cho
đẹp để họ La ở : “Mình thế nào cũng xong, chứ với người ta thì phải chu đáo. Họ
xét nét lắm đó!”. Ông nhớ lần ông bị bắt ở Hongkong (27), ngày một ngày hai sẽ
bị Anh trao cho Pháp, những đồng chí Trung Quốc đã lờ ông đi, mặc cho ông tự
xoay xỏa. Ông cũng không quên lần ông tới Bắc Kinh để đi tiếp Moskva, bị Mao
bắt chầu chực chán chê ở nhà khách rồi mới cho tiếp kiến. Ông nhớ, và ông để
bụng.
Biết ông Trần Huy
Liệu đang điên tiết vì bức ảnh đăng trên Nhân dân nhật báo Bắc Kinh với dòng
chú thích: “Ðồng chí Trần Huy Liệu, trưởng đoàn đại biểu Việt Nam đã được hân hạnh Mao chủ tịch
cho bắt tay”, nhân Diễn Đàn Bắc Kinh năm 1965, ông Hồ Chí Minh an ủi ông Liệu:
“Người ta bao giờ chả rứa, thiên triều mà!”.
Một hôm tôi đến chơi
thấy bức ảnh Mao Trạch-đông vẫn thường treo trong nhà không còn ở chỗ cũ, tôi
hỏi thì ông Liệu kể cho nghe chuyện xảy ra với ông ở Bắc Kinh, chuyện ông Hồ an
ủi ông. Ông nói: “Tao cũng
như Bác Hồ, tao ỉa vào thiên triều, tao là thằng dân tộc chủ nghĩa”.
Chính thái độ lừng
khừng trong giai đoạn này của Hồ Chí Minh làm cho lớp đàn em đang hăng máu
chống Liên Xô coi thường ông(28). Mặt ngoài họ làm ra vẻ kiên trì đường lối
đứng giữa, trên thực tế họ đã sà vào chiếu bạc rồi, đã xỉa tiền vào cửa Trung
Quốc rồi.
Khởi đầu cuộc đấu
tranh giữa hai đường lối ở Việt Nam
là như vậy. Nó có diện mạo một cuộc thánh chiến vì lý tưởng mác-xít. Càng về
sau nó càng lộ ra tính chất đời thường. Nói chung, chính trị cởi bỏ áo quần thì
nó là đời thường, như tôi thấy.
Chuyện đó nói sau.
Cuộc tấn công lý
thuyết nhằm vào điện Kremli đã được họ Mao tính kỹ. Nó giúp Mao Trạch-đông bắn
một mũi tên mà được hai con thỏ: một mặt nó che lấp hậu quả nặng nề của bước
nhảy vọt vĩ đại đã và đang làm suy kiệt nền kinh tế Trung Quốc, mặt khác nhân
cơ hội này Trung Quốc sẽ giành lấy vị trí lãnh đạo thế giới cộng sản.
Thế giới cộng sản
đang tách đôi: hai con đường, hai mô hình xã hội.
Bị trói buộc bởi ý
thức hệ cộng sản, chúng tôi chỉ có sự lựa chọn hai lấy một. Không có con đường
thứ ba. Không lưỡng lự, chúng tôi bỏ phiếu cho mô hình Liên Xô. Mô hình này,
theo chúng tôi, tốt hơn hẳn mô hình Trung Quốc. Tại Liên Xô đang manh nha một
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó những quyền tự do và dân chủ
được luật pháp bảo đảm. Nhà nước này chủ trương hòa bình tiến lên chủ nghĩa xã
hội, chứ không lấy bạo lực áp đặt chủ nghĩa xã hội lên các dân tộc, là cái phù
hợp với tình hình thế giới hiện tại.
Chế độ xã hội Trung
Quốc, cũng như chế độ xã hội Việt Nam không hứa hẹn một cái gì tương
tự. Nếu ở Trung Quốc là chế độ toàn trị cởi truồng thì ở Việt Nam còn giữ lại
manh khố.
Lấy Trung Quốc làm
thí dụ. Mao muốn thế giới thấy dưới sự lãnh đạo của ông ta Trung Quốc trong một
thời gian cực ngắn sẽ đạt được sản lượng gang vượt nước Anh. Thế là các lò
luyện thép sân sau mọc lên như nấm trên đất nước bao la. Người ta mang ban thờ
ra đốt lò. Chẳng ai cần tới thứ gang ấy, chúng chẳng để làm gì.
Mấy anh bác học nhà
quê trình lên Mao một con toán lập theo quy tắc tam suất rằng nếu một con chim
sẻ một ngày ăn hết bằng này hạt thóc thì toàn bộ chim sẻ ở Trung Quốc trong một
năm sẽ ăn hết bao nhiêu. Một con số khủng khiếp. Người cầm lái vĩ đại bèn hạ
bút ký một nhát ra lệnh tiêu diệt bằng hết lũ chim ăn hại. Gần một tỉ dân đổ ra
đồng, khua chiêng, gõ mõ, thúc trống, đập mẹt, đập thùng, đốt pháo... làm cho
trăm họ chim chóc kinh hồn táng đởm bay tán loạn, bay mãi, bay mãi mà không dám
đáp xuống, không còn chỗ nào yên để đáp xuống, cho tới khi rã cánh thì rơi
xuống mà chết, hoặc để bị đập chết. Tôi rùng mình khi nhìn thấy những bức ảnh
xác chim chất cao như đống rạ trên họa báo Trung Quốc .
Thiên nhiên lập tức cho Mao một cái
tát trời giáng(29). Mất mùa. Sâu bệnh. Không còn chim để bắt sâu. Cùng với chim
sẻ mọi giống chim biến mất trên đại lục mênh mông. Nạn đói hoành hành.
Chẳng bao giờ người
cầm lái vĩ đại lẫn đám đệ tử của ông ta nhận sai. Cái vụ tàn sát chim, cũng như
những vụ tàn sát người, rồi bị lờ tịt, cho chìm vào quá khứ, coi như chưa từng
xảy ra.
Cơn cuồng phong bắt
đầu từ Ðại hội XX Ðảng cộng sản Liên Xô lớn dần thành cơn bão trong khối nhân
sinh cộng sản, mà mắt bão ở Trung
Quốc . Chúng tôi cảm thấy rõ rệt
bầu không khí ngột ngạt báo trước cơn bão sẽ tràn tới Việt Nam . Nhưng
chúng tôi không có cách nào tránh nó.
Ðành tự an ủi: mình
còn may chán - ở Việt Nam
chỉ có bão rớt thôi!
---------------
Chú thích
(1) Những ca sĩ nổi
danh giữa thập niên 50.
(2) Những đạo diễn
tên tuổi của trào lưu Làn Sóng Mới của điện ảnh Ý.
(3) Seguei Mikailovich
Eisenshtein (1898-1948), đạo diễn, nhà lý luận điện
ảnh Liên Xô . Bộ phim Ivan Bạo đế gồm ba phần: phần
Một được giải thưởng Stalin năm 1945, phần Hai miêu tả Ivan Bạo đế có nhiều nét
giống Stalin nên không được dựng và chiếu, mãi tới năm 1956 mới được được đưa
ra công chúng, phần Ba tác giả chưa hoàn thành, tôi chỉ được xem toàn bộ phim
này vào năm 1991 tại Viện bảo tàng điện ảnh bản chưa hoàn chỉnh tại trường đại
học điện ảnh.
(4) Về sau Guenadi Shpalikov
viết kịch bản, làm đạo diễn, làm thơ. Cuộc đời anh kết thúc bi thảm. Anh nghiện
rượu nặng rồi tự vẫn, thất vọng thấy cuộc sống xã hội chủ nghĩa không đẹp như
anh muốn thấy. Shpalikov để lại những bộ phim mà khán giả xô-viết rất yêu mến:
“Lang thang trên phố phường Moskva”. “Cửa ô Ilích”, “Nhũng
chuyến xe điện đi về tỉnh xa”.
(5) Khrushov Nikita Sergeievich
(1894-1971) Bí thư thứ nhất Ðảng cộng sản Liên Xô 1953-1964. Tên của Khrushov
phiên theo cách phát âm Nga, ở phương Tây họ của ông được viết Khrushchev.
(6) (1879-1953).Tên
thật là Iosif Vissarionovich Dzugashvilli, con một gia đình nông dân tỉnh Gori
(nước Cộng hòa Gruzia), thời niên thiếu theo học Chủng viện Tbilisi, bị bắt và
đi đầy Sibir vào những năm 1902-1904, tham gia Ðảng Xã hội Dân chủ Nga từ năm
1899, “học trò và bạn chiến đấu của Lênin”, như được ghi trong Lịch sử Ðảng
cộng sản Liên Xô. Sau khi Lênin chết (1924) trở thành tổng bí thư Ðảng cộng sản
Liên Xô.
(7) Pushkin A.S.
(1799-1837), nhà thơ lớn của nước Nga.
(8) Vùng của các lực
lượng kháng chiến, phân biệt với vùng tạm chiếm do quân Pháp chiếm đóng.
(9) Nhà thơ, ủy viên
Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương. Tố Hữu bắt đầu lên nhanh sau vụ
đánh “Nhân văn - Giai phẩm”, sau đó trở thành tổng tư lệnh nền văn nghệ xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
trong một thời gian dài cho tới khi nhậm chức phó thủ tướng phụ trách kinh tế.
(10) Một trong những
trại tập trung nổi tiếng nhất Liên Xô thời Stalin, được miêu tả tỉ mỉ trong
tiểu thuyết “Quần đảo ngục tù” của Solzhenitsyn.
(11) Tôi tình cờ rơi
vào một cuộc họp chi bộ mở rộng Ðảng cộng sản Liên Xô do chủ trương công khai
hóa mọi công việc của đảng trong lý thuyết đảng toàn dân rất dễ thương của
Nikita Khrusov. Khrusov cho rằng đảng không có gì bí mật đối với dân bởi vì mọi
công việc đảng làm là vì dân. Trong cuộc họp mà tôi được dự người ta chỉ bàn
chuyện mắc thêm máy điện thoại công cộng cho nhà ở tập thể của sinh viên,
chuyện làm vệ sinh quanh trường sở, chuyện kết nạp đảng viên mới.
(12) Veléri Frid, nhà
biên kịch điện ảnh nổi tiếng, từng ở tù 11 năm trong các nhà tù GULAG, đồng ý
với nhận định của tôi. Sự sợ hãi dưới thời Stalin đã hình thành như một tính
cách xô-viết.
(13) Naum Kleiman,
viện trưởng Viện bảo tàng điện ảnh, chuyên gia về Eisenshtein.
(14) Vụ này bắt đầu
bằng một bức thư của nữ bác sĩ Timashuk tố cáo âm mưu chống Ðảng và Nhà nước
xô-viết của một nhóm bác sĩ.. Một cuộc tổng khủng bố nổ ra, nhiều chuyên gia y
tế lỗi lạc bị bắt và bị giết. Những biện pháp chuyên chế trung cổ được áp dụng.
Stalin ra lệnh trói viện sĩ Vinogradov bằng xích sắt. Mục đích của nhà độc tài
xa hơn - qua vụ “áo choàng trắng” ông muốn lợi dụng lời khai của các bị can để
triệt hạ các đối thủ của mình trong Bộ Chính trị.
(15) Nhạc sĩ nổi
tiếng, tác giả nhiều ca khúc cách mạng, trong đó có hai bài được chính quyền
Việt Nam Cộng hòa và chính quyền lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam chọn làm
quốc ca (dưới tên Huỳnh Minh Siêng).
(16) Trích chỉ thị
của bộ trưởng Bộ Nội vụ nhân dân số 00486, đề ngày 15.8.1937. Sau cuộc chính biến
mùa thu năm 1991 báo chí Liên Xô (cũ) khui ra được rất nhiều văn kiện mật và
tối mật của chính quyền xô-viết liên quan tới những vụ trấn áp.
(17) Tên chính thức
của nó là: “Về tệ sùng bái cá nhân và hậu quả của nó” do Nikita Khrusov đọc
suốt đêm 24 rạng ngày 25 tháng Hai năm 1956 trong một phiên họp bí mật của Ðại
hội, mà không một đoàn đại biểu của các đảng anh em có mặt tại Ðại hội được
tham dự.
(18) Ðáng ngạc nhiên
là trong chuyện vạch tội ác của Beria, Nikita Khrusov cũng dùng những phương
pháp bịa đặt đặc trưng của thời kỳ Stalin. Beria bị xử như một tay sai đế quốc.
Thực ra, như bây giờ mọi người đã biết, Beria cũng xuất thân từ thành phần lao
động, vào Ðảng năm 1930, ủy viên Trung ương năm 1934 (cùng một lượt với Khrusov
và Bunganin), ủy viên Bộ Chính trị từ 1939. Beria còn là bộ trưởng Bộ Nội Vụ,
thống chế quân đội Liên Xô, một trong ba ủy viên Bộ Chính trị được vinh dự đọc
điếu tang Stalin.
(19) Ngày 23.10.1956,
nhân dân Hungari, với trí thức và sinh viên đi đầu, nổi dậy chống chế độ độc
tài. Imre Nagy, một nhà lãnh đạo chủ trương cách tân trong đảng cộng sản lên
làm thủ tướng. Ông kêu gọi lập chính phủ liên hiệp, dân tộc tự trị, kinh tế
nhiều thành phần, nhưng ngày 4.11 quân đội Liên Xô vào dập tắt cuộc nổi dậy, hạ
bệ Imre Nagy. Ông bị quân đội Liên Xô mang sang Rumani, rồi bị chính quyền
Hungari (thân Liên Xô) mang về nước năm 1957, hành quyết năm 1958.
(20) Kim Nhật Thành
(Kim Il Sung, tên thật là Kim Song Ju, 1912-1994), chủ tịch nước Cộng hòa Nhân
dân Triều Tiên.
(21) Thủ đô nước Cộng
hòa xô-viết Uzbekistan
(Ouzbékistan).
(22) Trước khi được
Liên Xô đưa về Triều Tiên sau chiến thắng phát-xít, Kim Nhật Thành phục vụ
trong Hồng quân Liên Xô, cấp bậc trung úy.
(23) Cuộc vận động “Bách
hoa tề phóng, bách gia tranh minh” được Mao Trạch-đông phát động từ tháng
5.1956. Nó được đặc biệt đẩy mạnh sau Ðại hội VIII kỳ I (từ 15.9-27.9 năm 1956)
của Ðảng cộng sản Trung Quốc.
(24) Theo những nguồn
tin Trung Quốc thời kỳ đó thì tháng 7-1960 Khrushov đã đơn phương xóa bỏ 600
hiệp định và hợp đồng, rút toàn bộ chuyên gia đang làm việc tại Trung Quốc về
nước làm tổn hại nặng nề cho nền kinh tế Trung Quốc. Một số tài liệu Liên Xô
nói rằng Trung Quốc yêu cầu cho rút chuyên gia về.
(25) Hai tướng chỉ
huy các cánh quân của quân đội Trung Hoa Dân quốc vào Việt Nam giải giáp
quân đội Nhật bại trận.
(26) Ðể phân biệt với
tướng Long Vân bố không sang Việt Nam .
(27) Ông Hồ Chí Minh
bị cảnh sát Hongkong bắt năm 1931.
(28) Năm 1965, trong
một cuộc nói chuyện với cán bộ tuyên giáo ở Hưng Yên, trưởng ban tuyên giáo
Trung ương Tố Hữu nói: “Ông Cụ lẫn cẫn rồi, mọi việc bây giờ đều do anh Ba (Lê
Duẩn) và tụi tôi giải quyết”.
(29) Càng thấy rõ Mao
Trạch-đông chẳng hề đọc sách của Marx và Engels. Trong cuốn Phép Biện Chứng Của
Tự Nhiên, Engels đã cảnh cáo loài người chớ có kiêu ngạo, chớ tưởng mình có thể
chế ngự thiên nhiên.
---------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét