Thứ Ba, 12 tháng 6, 2012

Đêm giữa ban ngày - Vũ Thư Hiên (p2.ch6 - ch10)


Chương 6

Hôm sau, tôi lại bị gọi ra. Thấy Huỳnh Ngự ngồi trong phòng hỏi cung, tôi quay ngoắt lại. Huỳnh Ngự nghiến răng ken két sai cai ngục đưa tôi sang phòng bên. Tôi ngồi đấy, một mình trong căn phòng trống rỗng, ngáp ngắn ngáp dài. Ðến gần trưa quản giáo mới đưa tôi về.
Suất ăn lạnh ngắt đợi tôi ở xà lim. Trên phản, bên cái bát men đựng suất cơm tù là bộ quần áo tôi mặc trên người khi bị bắt.
Trong khi tôi vắng mặt quản giáo đã đem thức ăn vào cho tôi, nhân tiện trả lại tôi quần áo. Về sau mới biết việc quản giáo đưa cơm vào tận xà lim cho tù là ngoại lệ. Có vẻ người trong vụ chúng tôi được đối đãi khác, được nể nang hơn so với tù thường. Tôi nghĩ không phải chúng tôi được Ðảng yêu mến, mà chắc Ðảng lo chúng tôi có thể gây chuyện om sòm, không có lợi.
Chẳng có chuyện gì để nói, anh bạn tù nhẩn nha giới thiệu cho tôi biết về cảnh sống trong xà lim.
Thường lệ, đến giờ ăn thì quản giáo mở cửa cho tù trong các xà lim ra nhận phần cơm, sau đó đóng cửa lại. Ðộ nửa tiếng sau, tính rằng tù đã ăn xong, họ lại trở vào mở cửa cho tù ra trả bát rếch. Ðối với tù xà lim không có hiệu lệnh cho giờ ăn, không kẻng cũng không trống. Người tù không có quyền được ăn đúng giờ. Quản giáo có khi bận việc riêng, nhà bếp gánh cơm cho khu xà lim cả tiếng đồng hồ rồi cũng chưa buồn vào mở cửa cho tù ra nhận. Mùa hè còn đỡ, chứ mùa đông ăn nguội đối với tù là cực hình.
Tôi rất muốn biết có ai cùng vụ với mình ở đây không, nhưng ngoài mấy tiếng ho khan, tiếng đằng hắng khe khẽ vẳng đến từ những xà lim gần tôi không nghe thấy người ta nói chuyện với nhau. Trong xà lim tù không được phép nói to. Mỗi lần tôi quên, hơi cao giọng một chút là anh bạn tù đã nhắc :
- Chết, anh nói khẽ chứ !
Nói to, gây tiếng động lớn bị cấm ngặt. Chỉ có một lần tôi thấy người tù nói to, nói oang oang, bất chấp mọi cấm đoán. Anh ta điên. Ðiên thì phải cho đi bệnh viện, lệ phải thế, ở nước nào cũng thế. Nhưng để tin chắc người tù điên thật chứ không điên giả, Ban Giám thị để anh ta trong xà lim một thời gian đã. Suốt thời gian ấy, những người tù xà lim đành chịu trận với những tiếng kêu gào xé họng, những bài ca ư ử như tiếng người bị bóp cổ, những cơn khóc lóc thảm thiết nghe rợn tóc gáy giữa đêm khuya.
Cái cùm sắt dưới chân phản lúc nào cũng sẵn sàng ngoạm lấy cổ chân người tù nếu anh ta vi phạm nội quy, mà tội dễ bị phát hiện nhất là tội nói chuyện với xà lim bên cạnh.
Thế hệ ông tôi không biết đến loại cùm này. So với cùm gỗ lim thời phong kiến đó là sự cải tiến mà bản quyền thuộc về nền văn minh thuộc địa. Nó là một thanh sắt bản rộng nối với một thanh sắt khác bằng bản lề. Khi người tù đã tra hai cổ chân vào hai chỗ lõm rồi, cai ngục mới chốt lại bằng khóa ở bên ngoài. Cái cùm không có cỡ, dùng chung cho mọi loại chân. Anh bạn tù dí dỏm nói rằng trông nó hao hao cái cổng tam quan.
Vì cái cùm là biểu hiện quyền uy, cho nên cán bộ quản giáo khoái trưng nó ra lắm. Họ cũng chẳng ngần ngại dùng nó mỗi khi có dịp.
Quản giáo thường xuyên rình mò bên ngoài, người ở trong khó mà biết được. Tưởng quản giáo đi rồi, tù buồng nọ liền í ới gọi buồng kia, thế là bị bắt quả tang. Cách rình mò của đám quản giáo giống hệt trò trốn tìm của trẻ con - quản giáo vờ loẹt quẹt đi khỏi khu xà lim, rồi rón rén đi những bước chân mèo quay trở lại. Không phải chỉ có quản giáo rình mò, các ông bộ đội cũng rình mò. Tóm được một tên tù phạm nội quy để cùm chân nó cái chơi là thú vui của lính tráng coi tù.
Tôi chiến thắng lần thứ hai trong ngày tù đầu tiên, không để sót cọng rau nào. Chỉ có nước rau đen xì, quá mặn, là tôi bỏ. Những con mọt luộc không gây phiền nhiễu cho đường tiêu hóa, cả bèo tấm cũng vậy.
Huỳnh Ngự trả lại quần áo nhưng lại quên phát chăn chiếu. Anh bạn tù nói rằng đêm Noen, hơn nữa lại chủ nhật, thủ kho nghỉ. Tôi nghĩ khác: nếu đã có người để phát quần áo thì cũng có thể phát chăn chiếu chứ. Người ta không phát là vì kịch bản của vụ bắt đã ghi không phát, để cho tôi nếm cái rét Hỏa Lò.
Ðêm xà lim khó chịu nhất ở cái bóng điện sáng choang, có dễ tới 200 oát, treo ở chính giữa, bên trong rọ sắt. Nó sáng suốt đêm. Sau cái tranh tối tranh sáng ban ngày ngọn đèn chói chang làm cho mắt rất nhức nhối. Tôi lấy cái quần gấp lại che mắt nhưng ánh sáng vẫn luồn qua được mấy lần vải để chui vào võng mạc.
- Kệ nó, rồi quen tuốt ấy mà! - từ phản bên anh tù nói vọng sang.
- Hồi mới vào đây anh có khó chịu lắm không?
- Ai chẳng khó chịu. Chẳng ai muốn sống như thế này.
Anh bạn tù ngủ không cần che mắt. Ðể cho tôi đỡ rét, anh đưa cho tôi cái màn.
- Anh cứ dùng, đừng ngại. Mùa đông ở đây thảng hoặc mới có vài con muỗi mắt, tôi chịu được.
Tôi ngần ngại đắp cái màn lên người. Tôi lầm. Nó không hôi, nhưng cũng chẳng thơm tho.
Trong ánh sáng chói lòa những con muỗi chui sâu vào bên trong gậm phản ẩn nấp chờ thời. Những con choai choai thiếu kiên nhẫn xông lên đốt chúng tôi đều bị tiêu diệt nhanh chóng. Trên tường đầy vết máu khô, di tích cuộc chiến hàng ngày của tù với muỗi và rệp. Anh bạn nói tôi số đỏ, Hỏa Lò vừa mới được phun DDT vài ngày thì tôi vào. Một tháng nữa xem, thuốc hả rồi ấy à, muỗi lại bằng trấu, rệp lại nhung nhúc. Anh kể rệp khôn hơn muỗi nhiều. Khi người tù chống lại bằng cách trải nylon lên phản, chui vào màn rồi gấp chân màn lại nhiều lần cho rệp không chui vào được, tức thì chúng dùng cách nhảy dù từ trên trần xuống. Tôi tặc lưỡi, trùm cái màn lên người. Rồi mình sẽ quen, tôi nghĩ, nếu người khác quen được.
Lúc mới bước chân vào tôi không sao chịu nổi bầu không khí tù hãm đầy mùi xú uế trong xà lim. Thế mà mới có mấy giờ đồng hồ qua, tôi đã không còn thấy khó chịu như trước. Lúc mới vào cái im ắng trong khu xà lim đè nặng lên tôi, giờ tôi lại thấy nó thú vị - ở ngoài không phải lúc nào tôi cũng được yên tĩnh như thế.
Nói tóm lại, chịu được
Anh tù hóa ra không đến nỗi hà tiện lời như tôi tưởng. Dần dà anh cũng tâm sự với tôi chút ít.
Anh cho biết anh tên Thành, hồi kháng chiến chống Pháp là bộ đội tình nguyện ở Thượng Lào.
Thấy tôi không có ý định cởi mở với anh, anh ngừng ngay những lời tâm sự. Nét mặt anh không vui. Biết làm thế nào được, cần phải quan sát anh cái đã. Tôi tin rằng chúng tôi ở cùng nhau cũng là một phương án của công an.
Tôi thao thức. Phản bên, anh bạn tù ngâm thơ :
Lần này chị bước sang ngang,
Là tan cả giấc mộng vàng từ đây.
Rượu hồng em uống cho say,
Vui lên cùng chị vài giây cuối cùng
Rồi đây sóng gió bão bùng,
Ðầy thuyền hận chị lo không tới bờ.
Miếu thiêng vụng kén người thờ
Nhà hương khói lạnh chị nhờ cậy em.
Ðêm nay là trắng ba đêm,
Chị thương thân chị con chim lìa đàn.
Một vai gánh vác giang san,
Còn vai nữa gánh muôn vàn nhớ thương.
Lòng sầu tóc rối tơ vương,
Em còn cho chị lược gương làm gì ?...
Trong tù tôi còn nhiều lần được nghe người ta ngâm Lỡ Bước Sang Ngang. Những vần thơ của Nguyễn Bính(1) không hiểu sao lại hợp với tâm trạng người tù đến thế? Cũng là một thứ lỡ bước trong cuộc đời, mỗi người một cách, chắc vậy.
Mỗi người tù là một số phận riêng, chẳng số phận nào giống số phận nào. Mà chẳng phải người tù nào cũng có nỗi niềm oan ức. Hầu hết họ đều phạm tội đối với xã hội và họ đang bị sống cách ly, bị trừng phạt xứng với tội của họ. Họ có chung nỗi buồn của kẻ cô đơn, bị giam cầm trong cái chuồng thú giống cái chuồng của tôi và họ than thở nỗi mình qua những vần thơ Nguyễn Bính.
Nguyễn Bính qua đời, theo người ta kể, vào đêm trừ tịch Bính Ngọ (1966) trong một hoàn cảnh bi thảm. Hàng xóm thấy mấy ngày ông không ra khỏi nhà, báo công an đến phá cửa vào thì thấy nhà thơ nằm chết còng queo bên chai rượu uống dở, trên manh chiếu rách. Cũng lại xóm giềng chung tiền mua cho ông cỗ ván mộc và cùng nhau đưa chân nhà thơ đã để lại một Lỡ bước sang ngang đến nơi an nghỉ cuối cùng. Hội Nhà văn chỉ được biết về cái chết của ông sau khi ông đã mồ yên mả đẹp.
Tôi không có hân hạnh quen biết Nguyễn Bính. Hồi Nguyễn Bính làm báo Trăm Hoa thì tôi đang ở Liên Xô. Tôi chỉ có hân hạnh quen Thiết Vũ, cán bộ Sở báo chí, người đã đánh Nguyễn Bính (theo nghĩa đen, thượng cẳng chân hạ cẳng tay). Trong một cơn yêu Ðảng ác tính, cho rằng Nguyễn Bính dám chửi xỏ Ðảng, Thiết Vũ đã nện Nguyễn Bính một trận dữ dội, đến nỗi các báo phải lên tiếng. Kể lại chuyện cũ Thiết Vũ tỏ ra ân hận (2), anh nói sau đó anh đã xin lỗi Nguyễn Bính.
Theo lời đồn, và theo những lời kể không rõ ràng trong Cát Bụi Chân Ai của Tô Hoài, Nguyễn Bính chết đi còn để lại đứa con trai. Trước hôm chết, ông bế con ra phố, cho không một người qua đường. Người xin chắc cũng chẳng biết người cho là Nguyễn Bính. Ðứa bé sẽ lớn lên với họ khác tên khác, không biết nó là con nhà thơ dân dã tuyệt vời, một nhà thơ lớn của thi ca Việt Nam. Những thiên tài thường giàu linh cảm. Nguyễn Bính tiên đoán cuộc ra đi cuối cùng của ông sẽ diễn ra trong nỗi cô đơn bậc nhất mà con người có thể gặp :
Chân bước hững hờ theo bóng lẻ,
Một mình làm cả cuộc phân ly.
Tính từ ngày khởi đầu vụ đánh Nhân văn - Giai phẩm cho tới nay là sắp trọn một con giáp. Phải chăng lịch sử trận chiến hư cấu với những vết thương có thật đã đi được một vòng để quay lại với hình dạng khác ?
Trước ngày bị bắt không lâu tôi gặp Trần Dần(3). Anh giơ xe điếu dứ dứ vào mặt tôi mà phán :
- Này, cẩn thận đấy ông nhá! Nhìn đây này!
Anh chỉ cái sẹo ở cổ, nó được Nguyễn Sáng ghi lại trên bức ký họa bút sắt trên tờ Nhân Văn, kỷ niệm một cuộc tự vẫn không thành.
Văn Cao(4) khó chịu với Trần Dần. Lý do: Trần Dần trong khi tự kiểm thảo đã đụng tới nhiều người, kéo họ vào cuộc với anh, làm cho họ điêu đứng.
- Thằng Dần tiếng thế mà không có gan.- Văn Cao nói,- Mới bị đánh đã gục, đã phản tỉnh lung tung. Nó khai với Tố Hữu rằng Văn Cao khuyên tụi nó phục xuống mà đánh. Mà mình có nói thế bao giờ đâu. Mình chẳng chủ trương đánh ai. Thằng văn nghệ làm văn nghệ, thằng chính trị làm chính trị, mỗi thằng mỗi việc. Mình chỉ bảo tụi nó: làm gì thì làm, phải từ từ, phải ngó trước ngó sau. Ðâu có cái câu phục xuống mà đánh...
Văn Cao kể anh có gặp Nguyễn Hữu Ðang(5), Trần Dần, Hoàng Cầm, Trần Duy vài lần thật, nhưng chỉ bàn chuyện sáng tác, chuyện làm báo, không phải họp bàn chuyện chống lãnh đạo.
Qua những lần trò chuyện với Trần Dần, Trần Duy (6), và những người khác trong vụ Nhân văn - Giai phẩm, được nghe các anh kể về giai đoạn đen tối đối với văn nghệ sĩ và trí thức những năm 1956-1957, trong rất nhiều chi tiết rối rắm, bùng nhùng, cái thật cái giả, cái phải cái trái, lẫn lộn không biết đâu mà lần, tôi thấy nổi bật lên một điều - những nhà lãnh đạo của chúng ta rất giỏi xui nguyên giục bị. Sau trận đánh, hàng ngũ văn nghệ sĩ tan tác, người nọ sợ người kia, người này hận người khác, mọi người nói xấu nhau. Nghe mà buồn, mà ngán cho thế thái nhân tình.
Tôi tin Văn Cao, nhưng tôi không nghĩ Trần Dần hèn (7). Tôi biết chỉnh huấn là thế nào. Trong không khí chỉnh huấn, con người có thể bị biến đổi do tự kỷ ám thị trong một tập thể tự kỷ ám thị, như trong cuộc lên đồng. Trần Dần, khi tâm thần hoảng loạn, lại bị xúi giục, có thể bị ám thị rằng Văn Cao đã nói như thế. Còn Văn Cao, trong tâm trạng hậm hực cũng dễ hiểu nhầm bạn mình lắm.
Thỉnh thoảng lắm tôi mới rẽ vào thăm Trần Dần, vào nhanh rồi đi ngay. Anh cũng muốn thế, tôi ngồi lâu một chút là anh giục, sợ nguy hiểm cho tôi. Nhà cầm quyền nhìn anh như con bệnh suốt đời có khả năng gây ra lây nhiễm. Tôi thì lại không thấy ở anh bất kỳ sự nguy hiểm nào. Hồi mới ở Liên Xô về tôi thương Trần Dần, tôi nghĩ mình may mắn hơn anh. Bây giờ anh thương lại tôi, hóa ra anh còn may mắn hơn tôi. Dường như Trần Dần đã thấy trước, bằng trực giác, trận đòn thù tôi sẽ phải chịu.
Trần Dần ít nói (hay bị đánh nặng quá mà thành ít nói?), có khi ngồi cả buổi với nhau anh chỉ nói vài câu tào lao. Nói cho đúng, nói thì vẫn nói, nhưng không bao giờ có chuyện về một đề tài cụ thể, mà là những mẩu độc thoại cần có hai người để thành đối thoại. Tôi nhớ một hôm anh thủ thỉ: “Này, mình cũng người Nam Ðịnh đấy, cậu ạ. Cái vùng đất thịt này nổi tiếng vì những văn tài và những kẻ bất phục. E rằng trong máu chúng ta có cả hai thứ”. Anh hút thuốc lào liên tục, tiếng điếu bát ròn tanh tách vang trong căn phòng vắng lặng. Tôi tha hồ mầy mò những mẩu bản thảo vương vãi quanh cái điếu, lặng lẽ đọc, thỉnh thoảng lại giật mình bắt gặp một tia chớp chói lòa trong chữ nghĩa của anh. Nhưng dù anh rất quan tâm tới bộ cánh cho ý nghĩ của mình, tôi thấy những ý thơ của anh luôn luôn cảm thấy chật chội vướng víu trong những bộ cánh cách tân. Chia tay, anh hỏi tôi : “Cậu hiểu mình muốn nói gì chứ ?”. Tôi gật đầu. Nhưng tôi chẳng hiểu gì trong những lời ngắn ngủi và lộn xộn của anh, câu trước không ăn nhập với câu sau, chưa nói hết mà đã tưởng nói hết rồi. Nếu anh muốn truyền tâm trạng anh sang tôi bằng ánh mắt của anh để tôi hiểu tâm trạng đó thì đúng là tôi đã hiểu. Tôi hiểu và tôi buồn. Buồn cho anh. Buồn cho tôi.
Trần Dần thương tôi, muốn tôi học được nết sợ hãi. Như anh đã học.
Thế hệ chúng tôi bất hạnh: chúng tôi ra đời trong thân phận nô lệ, lớn lên trong khói lửa chiến tranh và trưởng thành trong nỗi sợ hãi các đồng chí.
Tôi chạnh nghĩ đến cha tôi. Giờ này ông ở đâu? Theo lời đồn thì ông bị giam trong một biệt thự đầy đủ tiện nghi tại Hà Nội. Tôi không tin. Lời đồn không thể kiểm chứng nọ chắc hẳn do một trung tâm có chỉ đạo tung ra. Cũng như trong những việc đồi bại khác, các nhà lãnh đạo vẫn thích chưng ra bộ mặt tử tế - các đồng chí tuy có sai lầm khuyết điểm thật, nhưng đều là người có công với cách mạng, cho nên cách đối xử với các đồng chí phải khác.
Tôi lo cha tôi đêm nay lại bị cơn đau gan dày vò. Bệnh gan là hậu quả những cơn sốt rét rừng mà ông kiếm được từ trại giam Sơn La của Pháp. Nhưng ông còn đau đớn hơn bởi sự đối xử tàn nhẫn của những đồng chí ngày hôm qua. Dòng suy tưởng lan man dẫn tôi về năm 1949, khi tôi bắt đầu cuộc đời người lính. Khi ấy tôi chưa đủ mười sáu tuổi. Ðể được nhận vào bộ đội, tôi và mấy người bạn thân rủ nhau nhét đá vào túi quần cho đủ cân để vượt qua cuộc sát hạch. Súng sính trong bộ quân phục kaki mới tinh do mẹ may cho, tôi đứng vào hàng ngũ bộ đội, lòng tràn đầy tự hào. Cả trường đổ ra tiễn chúng tôi. Mẹ tôi, nước mắt lưng tròng, giúi cho tôi mấy đồng bạc phòng khi tôi cần đến. Sự săn sóc của mẹ làm tôi xấu hổ. Tôi vùng khỏi mẹ, chạy đi. Tôi đã là anh bộ đội cụ Hồ rồi mà mẹ còn coi tôi như bé bỏng lắm.
Chúng tôi hành quân theo đường Kim Tân, Kiểu, Bái Thượng, qua Nho Quan, giữa những đồi sim hoa tím của Hữu Loan (8), qua những rừng lau sậy của Trọng Hứa, bằng những bài thơ, bài hát của các anh: Bông lau ngập ven đồi. Ðây đồi xưa, đây rừng xưa in bóng cô nàng... Chiều ơi, lúc chiều về rực nắng nương khoai, trâu bò về giục mõ xa xôi, hỡi chiều...
Tôi nhớ chuyến đi gian nan vượt đường số 6, ở quãng giữa hai bốt Ðồng Bến và Ðồng Bái gần Lương Sơn. Lần đầu tôi giáp mặt với cái chết hiện hình trong những bộ xương người trắng hếu trong cỏ rậm mà những tên lính mới chúng tôi phải chúi vào đó để trốn đạn cối địch bắn cầm canh trong ánh hoàng hôn ảm đạm.
Tôi nhớ đêm vượt dốc Sống Trâu trên đường từ Khu 3 lên Việt Bắc trong mưa tầm tã, trong ánh chớp xé rách bóng tối dày đặc của rừng già. Chúng tôi chặt cây làm gậy chống, người nọ bám vào người kia mà đi, mà vẫn ngã oành oạch trên triền dốc dựng đứng. Lên được đến đỉnh rồi, bắt đầu đổ dốc thì tôi bị cảm lạnh. Run lẩy bẩy, tôi loạng choạng ngã sấp mặt vào bùn, sặc sụa. Tôi cứ nằm đấy, nhổ phì phì những vốc bùn lợm giọng, cố hết sức cất mình lên mà không nổi. Trên lưng tôi là cái ba lô sũng nước mưa, quanh bụng tôi là cả yến gạo chứa trong hai ruột tượng, kèm theo khẩu mút-cơ-tông(9) nặng chịch bám chặt vào vai. Bỗng có ai đó dừng lại bên tôi, cúi xuống tháo từng thứ trên người tôi, tháo hết, rồi vực tôi dậy. Tôi luống cuống bám chặt lấy người ấy. Khi trên người tôi không còn vật nặng nào, tôi thấy tôi nhẹ bỗng, nhẹ đến mức tưởng chừng trong khoảnh khắc đó, không còn gì giữ lại, tôi sẽ bay vụt lên trên bầu trời đen kịt. Một ánh chớp lóe lên, tôi nhìn thấy anh Môn, trung đội trưởng của tôi, đang ôm chặt tôi trong tay. Anh lấy khăn lau mặt cho tôi và dìu tôi đi, trên người anh chồng chất gấp đôi trọng lượng hàng ngày. Tôi xấu hổ vì sự kém cỏi của mình, tôi nằng nặc đòi anh trả tôi những thứ anh phải mang đỡ tôi, anh nhất định không nghe. “Cậu sốt bừng bừng rồi đây này, đừng gắng thêm nữa. Ðường ta đi còn dài”.
Cuộc cách mạng này là cái gì vậy, khi người của nó không còn tình thương ? Chỉ cần thấy một đứa trẻ như tôi trong một đêm hành quân cực khổ vì cách mạng thôi người có lương tri không nỡ đối xử với nó thế này.
Một tiếng sấm nổ gần làm tôi giật mình. Thành bật dậy, mắt đỏ ngầu:
- Cái gì thế?
Một tiếng sét tiếp theo làm màng nhĩ muốn rách. Trong những xà lim bên cạnh những người tù cũng đồng loạt tỉnh giấc. Tiếng ho húng hắng. Tiếng người thì thào. Tiếng nước tiểu chảy vào bô.
Lắng nghe, tôi biết mình lầm. Bên ngoài xà lim có ai đó đang đập rầm rầm vào những tấm tôn, như thể giận dữ ném chúng xuống nền xi măng. Những tiếng động vang dội bên trong những bức tường xà lim làm chúng tôi tưởng là sấm sét.
Tiếng động chát chúa vừa lặng đi thì lại đến tiếng béc-giê tru lên từng hồi. Thì ra có một con chó được thả vào khu này. Nó lồng lộn đòi ra. Mọi lối ra đều đóng, nó nhảy chồm chồm lên những tấm tôn xếp nghiêng ngoài sân.
- Quái lạ, sao họ lại thả chó vào đây nhỉ ?
Thành ngồi hẳn dậy, lẩm bẩm. Anh chậm chạp vê rất lâu một điếu thuốc lào.
Con chó lại tru lên một hồi dài, như tổ tiên nó từng tru như thế trong những rừng thẳm nguyên khai. Tôi biết chắc đó là một con béc-giê. Những năm lâu rồi, khi gia đình tôi còn ở phố Nhà Rượu, đêm đêm tôi vẫn nghe tiếng những con béc-giê tru lên từng hồi như thế từ những chuồng sắt cũi sắt của Nhà thương Chó ở đầu Lò Ðúc.
- Buổi chiều nghe có tiếng người ta xếp gì loảng xoảng bên ngoài mình đã nghi nghi.- Thành nói,- Mình nghĩ: xưởng thợ còn rộng chán, họ xếp nguyên liệu vào đây làm gì? Lúc đi cung ông có thấy gì ngoài sân không?
- Tôi không để ý.
- Lúc về cũng không?
Tôi gật đầu.
Chúng tôi không ngủ lại được. Thành hút thuốc lào. Ðiếu thuốc đầu tiên sau giấc ngủ làm anh say dúi dụi. Tôi sợ anh ngã xuống sàn nhưng anh chỉ đảo đồng đảo địa một hồi rồi tỉnh.
- Hôm nay ông đi cung chắc có chuyện không bình thường?
- Là thế nào?
- Có căng không?
- Cũng như mọi khi.
- Không xảy ra cãi cọ gì?
Tôi không muốn kể cho Thành nghe chuyện tôi làm cho Huỳnh Ngự tức tối. Nhưng tôi cũng không muốn nói dối.
- Nói cho đúng, cũng không được êm dịu cho lắm.
- Thế thì hiểu rồi. - Thành cười - Con chó được đưa vào đây là có tính toán cả đấy, ông bạn ạ. Cả những tấm tôn nữa. Người ta chơi ông đâm ra chơi luôn tụi tôi, tệ quá!
Tôi cười gằn :
- Tệ gì? Chó má ấy thì có!
- Thây kệ, nghĩ làm đếch gì! - Thành dùng hai tay vuốt râu như tín đồ đạo Hồi - Coi như chuyện vặt đi. Ông biết chơi cờ không?
Tôi lắc đầu. Về cái khoản cờ bạc tôi đặc cán mai. Tôi không biết chơi bất cứ thứ gì. Của đáng tội, hồi còn nhỏ tôi có biết chơi tam cúc. Nhưng tam cúc không được coi là bài bạc. Trẻ con nhà quê đứa nào mà không biết chơi tam cúc. Những ngày Tết trẻ con có tiền mừng tuổi, chúng chơi tam cúc để tập làm người lớn. Người lớn quê tôi mê đủ mọi thứ bài bạc, từ xóc đĩa cho tới tổ tôm. Nhất là cánh lái gỗ. Rời quê hương lên rừng làm thuê, giàu lên thì mở lối, trở thành lái.
Những ông lái gỗ làm nhà trên bè, tài sản cóp nhặt được trong nhiều năm, đánh tổ tôm tài bàn suốt con đường lênh đênh về xuôi, đánh cho tới nhẵn túi, cho tới khi trở thành anh chân sào cho một lái khác, trên con bè trước kia là của mình.
Thành ngáp trẹo quai hàm, nói :
- Ngày tù nhiều khi dài ơi là dài. Rồi tôi sẽ dạy ông chơi cờ cho khuây khỏa. ông mới vào chưa biết chứ sống trong xà lim nhiều lúc mệt lắm. Phát điên lên được. Chơi cờ cũng vợi đi được một phần. Nhưng chơi một mình thì chán...
Con chó lại tru lên. Nó chỉ ngừng từng lát khi quá mệt.
Tôi định bụng hôm sau tôi sẽ phản kháng chuyện này. Họ muốn hành tôi thì cứ việc hành, nhưng không được làm khổ lây người khác.
- Họ cũng đã chơi anh thế này? - tôi hỏi.
- Không phải y như thế. Họ có nhiều bài bản. Với mỗi người mỗi khác.- Thành lửng lơ,- Mình cứ phải tỉnh táo, tùy cơ mà ứng biến. Ðã ở trong tay người ta rồi nhất cử nhất động đều phải cân nhắc. Cũng chẳng nên gây sự với họ làm gì...
Cứ rỉ rả như thế, Thành cho tôi rất nhiều kiến thức bổ ích cho đời tù của tôi sau này.
- Ðã nói gì thì cứ thế mà nói, trước sao sau vậy, kẻo họ hành cho tới số đấy. Lại nữa, nói về mình thì lỡ miệng còn được - mình làm mình chịu. Lỡ lời làm hại người khác thì ân hận cả đời. Trong một vụ án người ta chú trọng nhất cái anh đầu vụ. Với người có liên quan họ nhẹ nhàng thôi. Cũng có khi không bẻ gãy được người đầu vụ, họ đôn người khác lên thay...
Thành nằm xuống. Lát sau tôi đã nghe anh ngáy khe khẽ. Con chó vẫn cứ thế, thỉnh thoảng nó lại tru lên một hồi, giọng mỗi lúc một yếu. Nó thấm mệt, nó tuyệt vọng, hay là chúng tôi đã quen với nỗi tuyệt vọng của nó, tôi không rõ.
Tôi tập trung tư tưởng vào một điểm trong hư vô, cố tách mình khỏi những ý nghĩ vẩn vơ, thở đều đều theo phương pháp khí công.
--------------
Chú thích
(1) (1918-1966) Nhà thơ dân dã rất nổi tiếng với các tập Lỡ Bước Sang Ngang, Hương Cố Nhân, Mười Hai Bến Nước... Ðoạn người tù ngâm có khác với nguyên bản của nhà thơ.
(2) Trong cuốn “Cát Bụi Chân Ai” Tô Hoài có nói tới việc tờ Trăm Hoa của Nguyễn Bính được mua giấy do Nhà nước cung cấp, khiến người đọc nghĩ rằng tờ Trăm Hoa là do Ðảng Lao dộng Việt Nam chủ trương, mà Nguyễn Bính là người thực hiện, để đối phó với phong trào đòi tự do, dân chủ của văn nghệ sĩ, trí thức hồi ấy. Tôi cho rằng không phải. Nếu Nguyễn Bính làm báo theo chỉ thị của Ðảng thì ở Sở Báo chí những cán bộ cỡ Thiết Vũ phải được biết, và như thế vụ Thiết Vũ đánh Nguyễn Bính khó có thể xảy ra. Trong những lần gặp Thiết Vũ tôi không thấy Thiết Vũ nói đến một chuyện như vậy.
(3) (1926-1996) Nhà thơ cách tân, tác giả tập thơ Ta Nhất Ðịnh Thắng, tiểu thuyết Người Người Lớp Lớp, một trong những nhân vật bị coi là đứng đầu nhóm Nhân văn - Giai phẩm.
(4) Nhạc sĩ, nhà thơ, họa sĩ nổi tiếng (1923-1995), tác giả Tiến Quân Ca, một bài hát rất phổ biến trong những ngày nổ ra cuộc Cách mạng Tháng Tám, được chủ tịch Hồ Chí Minh đề xuất và Quốc Hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chọn làm quốc ca. Sinh thời ông bị chính quyền bạc đãi vì những tư tưởng tự do, dân chủ.
(5) Nguyễn Hữu Ðang (1913), tham gia cách mạng năm 1929, năm 1930 bị bắt, ra tòa năm 1931, nhưng vì nhỏ tuổi nên chỉ bị quản thúc. Tham gia Mặt trận Dân chủ Ðông Dương, viết báo Ngày Mới, Thời Báo và các báo Tin Tức, Ðời Nay do Ðảng Cộng sản Ðông Dương chỉ đạo, tham gia Hội truyền bá quốc ngữ cùng Võ Nguyên Giáp, Ðặng Thai Mai. Ðảng viên cộng sản từ năm 1943, năm 1945 là thứ trưởng Bộ Thanh niên. Năm 1956 bị kết án 15 năm tù. Mãn hạn, còn bị quản thúc 20 năm.
(6) Nhà thơ Trần Dần, nhà thơ Hoàng Cầm, họa sĩ Trần Duy là mấy nhân vật được nói tới nhiều nhất trong vụ Nhân văn - Giai phẩm. Trần Dần được coi như người đứng đầu nhóm Nhân văn - Giai phẩm, người phát ngôn của bộ phận trí thức đòi chia quyền lãnh đạo với Ðảng.
(7) Theo một số nhân chứng, Trần Dần là người không biết sợ, Trần Dần không hèn. Câu phục xuống mà đánh là do Hoàng Cầm phát ra, nhưng Trần Dần đã “gánh” cho Hoàng Cầm.
(8) Nhà thơ, rất nổi tiếng với bài “Màu tím hoa sim”.
(9) Súng trường Pháp.

Chương 7

- Cung, cung, cung!
Viên quản giáo nông dân đứng trong khung cửa, mặt dửng dưng buông một câu trống không.
Thành ngồi im, đầu gối quá tai, không tỏ ra phản ứng nào.
Tôi ngơ ngác: anh ta gọi tôi? Hay gọi Thành?
- Cung, cung, cung!
Anh ta nhắc lại.
Ðến lúc ấy Thành mới nói :
- Ông quản giáo gọi ông kìa!
Ra thế! Vậy mà anh chàng quản giáo cù lần kia không nói rõ là đi cung cho rồi, cứ lằng nhằng mãi cái từ ngữ thổ tả của nhà tù, bắt tội tôi phải hiểu.
- Mặc quần áo vào còn đi chứ! - Thành lại giục.
Khốn nạn, tôi có còn gì nữa mà mặc! Tôi đã mặc hết cả rồi. Trong xà lim lạnh buốt tôi đã phải đắp lên mình tuốt tuột những gì tôi có mà vẫn còn thấy rét. Nhiệt độ mấy ngày qua tụt xuống đùng đùng. Mùa đông thực sự đã đến. Nằm khàn trong xà lim, không bị gọi ra đi cung, tôi ngán ngẩm nghe gió bấc thổi ù ù bên ngoài. Nếu tôi bị bắt muộn vài ngày chắc chắn tôi đã có thêm cái áo len. Hôm bị bắt trời còn ấm, may mà tôi lại vận áo bông.
- Nhanh lên! - Viên quản giáo nhắc.
Tôi cẩn thận khép chặt hai vạt áo bông cho gió khỏi lùa vào trong người.
Chỉ còn có việc xỏ chân vào giày là xong. Giày cũng không cần buộc dây. Dây giày đã bị thu, chắc hẳn người ta nghĩ rằng có thể dùng nó mà treo cổ.
Phải dành vài dòng cho đôi giày, nó đáng được nói đến. Tôi bị tê thấp. Lo sắp tới mùa đông vợ tôi xăng xái kiếm cho tôi một đôi giày đen, da Mông Cổ hẳn hoi. Ðôi giày bị Huỳnh Ngự khám rất kỹ, tưởng y sẽ dùng dao banh cả đế ra để tìm cái y muốn thấy. Ðôi giày đẹp là thế, da mềm lắm, đóng cũng khéo, nhưng về mặt thực dụng, khốn nạn cho tôi, nó lại thua xa đôi dép lốp rẻ tiền.
Tù xà lim buổi sáng được ra ngoài làm vệ sinh thân thể một lần cho cả ngày. Mỗi lần được dăm phút, không tính thời gian đóng cửa mở cửa. Xà lim có hai người, mỗi người được ngót nghét hai phút rưỡi. Chúng tôi phải đi như chạy (nhưng không được phép chạy thật) để vào phòng tắm đổ bô, rửa bô, rửa mặt rồi đi về. Thế mà sau này, áp dụng vận trù học tôi và Thành còn đi đại tiện được (xin lỗi), còn tắm được trong mấy phút ngắn ngủi ấy mới tài.
Tôi còn có thể làm nhanh hơn nếu không vướng đôi giày. Ði rửa phải xếp nó ở xa cái vòi nước chảy tồ tồ trong phòng tắm chật hẹp. Rửa xong phải nhảy lò cò tra chân vào cho nhanh để trở về phòng giam, có khi phải đi cà nhắc vì một bàn chân chưa xỏ hẳn được vào giày. Bất tiện là thế nhưng lại không thể quăng nó đi được. Nhà tù Việt Nam không có lệ phát dép. Trừ một bộ quần áo, một cái chăn sợi, một manh chiếu, người tù nhập trại không được phát một thứ đồ dùng thiết thân nào khác. Bàn chải, thuốc đánh răng, xà-phòng đều do gia đình tiếp tế (1). Bên cạnh Thành tôi là người vô sản chính cống. Khác với tôi, khi bị bắt anh đã biết phải mang theo cái gì.
Chúng tôi đi qua xưởng thợ, nơi mấy người tù áo sọc đang cặm cụi gò hàn. Họ chăm chú làm việc, không để ý đến chúng tôi. Nhưng không phải, những con mắt tò mò vẫn liếc xéo quan sát người tù đi qua. Viên quản giáo đứng trên đống sắt ngổn ngang la hét, giọng Nghệ An đặc sệt :
“Ê, anh tê, mần đi chợ! Ngọ ngọ cải chi? Vào nơi ni rồi phãi chăm chĩ lao động! Không chăm chĩ lao động thì đừng cỏ hòng về, chị cỏ chệt mục xương!”
Trong khu xà lim tù binh cây thông Noen ủ rũ vẫn đứng đó, mấy ngọn đèn màu leo lét. Cái máy ghi âm vẫn chạy, tiếng méo xẹo. Ðỗ Nhuận vẫn ê a “Hồng Hà mênh mông... trôi cát tới chân làng quê.ê.ê... Cuối sông, ngoài bến Việt Trì có những chàng áo nâu về...”
Lần này viên quản giáo không đưa tôi tới phòng hỏi cung lần trước mà đi xa hơn, tới gần cổng Hỏa Lò, nơi có một lối đi hẹp dẫn vào những ngôi nhà dài thuộc cánh phải. Anh ta bảo tôi đứng đợi trong lối hẹp đó.
Từ chỗ tôi đứng mở ra một nhánh nhỏ với một dẫy phòng đóng kín cửa. Nhìn bề ngoài những phòng này giống các phòng tập thể cho cán bộ độc thân, nhưng tôi nhanh chóng gạt đi ý nghĩ đó - ở cửa mỗi phòng là một cái khóa Tuto treo lủng lẳng.
Bỗng tôi giật mình: cách tôi chừng mươi mét, phía ngách hành lang, một người tù già tóc bạc phơ, dáng đi nặng nhọc, hai tay bưng tô cơm, một con cá khô cắm đầu xuống giương chẽ đuôi cứng đơ lên trời. Người tù ngẩng mặt lên và tôi nhận ra tướng Ðặng Kim Giang. Bác Giang của tôi gày xọm, râu mọc dài, cũng bạc như cước. Chao ôi, chúng nó đã làm gì bác mà mới có hơn hai tháng tù bác thay đổi nhiều đến thế? Nhưng phong thái ông xem ra vẫn không thay đổi, vẫn đàng hoàng lắm. Nhìn thấy tôi ông mỉm cười. “Ðừng sợ, cháu! Phải cứng rắn lên!”, cái nhìn của ông nói. Một giây sau ông đi khuất vào một khúc quanh, theo sau là một quản giáo áo màu hoàng thổ. Có phải với cái nhìn ấy, nụ cười ấy ông muốn nhắn tôi phải kiên định, không nhận gì hết. Nhưng tôi thì kiên định cái quái gì chứ! Tôi có gì để mà nhận? Hay ông lo tôi bị dụ dỗ, bị lung lạc, do quá sợ hãi mà bị bọn chấp pháp ép cung, khai bậy bạ cho người khác?
Tướng Ðặng Kim Giang hoạt động cách mạng cùng với cha tôi từ những năm 30, từng ở tù cùng cha tôi tại ngục Sơn La. Trước khi trở thành đảng viên cộng sản ông chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Quốc dân đảng. Trong kháng chiến chống Pháp ông làm tổng cục phó Tổng cục Hậu cần, là chủ nhiệm hậu cần mặt trận Ðiện Biên Phủ. Hòa bình lập lại, ông phụ trách khối bộ đội chuyển sang làm nông nghiệp, với chức vụ thứ trưởng Bộ Nông trường. Nhanh nhẹn trong chiếc áo choàng bằng dạ kaki cấp tướng, ông xăng xái lúc ở chỗ này lúc ở chỗ khác trên địa bàn rộng lớn miền Bắc. Chúng tôi, những đứa cháu con bạn ông, rất yêu ông. Trông ông chẳng có gì của vị tướng trong cái hình dung thông thường của mọi người. Ông giản dị, xuề xòa và hồn hậu. Cũng giống như chúng tôi, những người lính nông dân vừa rời tay súng về cầm cày không coi ông là tướng, mà là người cha, người chú trong gia đình.
Khi nổ ra cuộc xung đột ý thức hệ Trung-Xô, ông không do dự đứng ngay về phía Liên Xô. Là đảng viên cộng sản lão thành, nhưng ông không rành lý thuyết cộng sản bao nhiêu. Ông, theo chỗ tôi biết, là một nho sĩ với phương châm xử thế bất biến lấy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín làm đầu.
Với tinh thần nho sĩ ông gay gắt lên án Stalin giết hại đồng chí để củng cố quyền lực, ông chống Mao, mà ông gọi là “tên đồ tể” cũng mạnh mẽ không kém.
- Stalin ngập trong máu, bác biết lắm chứ, nhưng đó không phải là chủ nghĩa xã hội.- ông nói với tôi,- Cái nhà không xấu chỉ vì chủ nhà là một thằng khốn nạn. Bác nghĩ thế. Hôn quân có thể làm sập một vương triều, nhưng không làm mất nổi một đạo. Cháu thấy không, các triều vua thay nhau đổ trong khi Nho giáo, Khổng giáo vẫn cứ trường tồn. Chủ nghĩa Mác với tư tưởng giải phóng nhân loại còn mãi. Chủ nghĩa Mác không muốn thấy một nhân loại như bây giờ. Nhân loại phải được sống hạnh phúc. Con người phải được sống như con người. Khrusov lên án sùng bái cá nhân là phải lắm, người có luân thường tất không thể làm khác. Mao mới là tên ăn cháo đá bát. Lợi dụng chống Khrusov chống luôn Liên Xô. Thử hỏi không có Liên Xô làm sao Trung Quốc có ngày nay? Công nghiệp gang thép ai dựng cho? Rồi công nghiệp máy cái, tàu bay, tàu biển, ô tô? Trước kia Trung Quốc có gì? Ngày nay có gì? Ừ thì lãnh đạo Liên Xô cư xử không nên không phải khi nổ ra bất đồng, nhưng ai là người đổ mồ hôi sôi nước mắt giúp Trung Quốc vững vàng được như bây giờ? Là nhân dân Liên Xô chứ, là người lao động Liên Xô chứ. Xét cho cùng, cũng chẳng lấy gì làm lạ - mộng vương bá là cố tật của người Trung Hoa. Cứ xem sử Trung Quốc thì thấy, mỗi vùng mỗi vua, anh nào cũng lăm le bá chủ thiên hạ, chưa bá chủ được chưa yên. Nước ta rồi còn khổ với mấy cái anh bá này!
Trong thời gian làm thứ trưởng Bộ Nông trường ông đã đề xuất những chủ trương táo bạo như khuyến khích sản xuất bằng lợi ích vật chất, chia ruộng phần trăm cho nông trường viên, hợp tác đầu tư với các nước xã hội chủ nghĩa, cho các nông trường liên doanh với các nông trường nước bạn. Tất cả những chủ trương cách tân đó đều bị Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ coi là “xét lại”, “đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”.
Tướng Giang đi khuất rồi, tôi còn phải đứng đợi một lúc nữa mới thấy viên quản giáo xuất hiện.
Anh ta lẳng lặng dẫn tôi tới một phòng hỏi cung khác nằm sâu trong dãy nhà bên cánh trái Hỏa Lò. Ðợi tôi ở đó là một người đàn ông cao to, da mặt bì bì, đẹp trai như một con hà mã. Trong quân phục dạ dành cho cấp tá, không quân hàm, bên trong chiếc áo choàng cũng bằng dạ, y lừ lừ nhìn tôi.
Thế là chúng nó phải thay người làm việc với mình, tôi nghĩ. Nhìn Huỳnh Ngự khúm núm bên cạnh y, tôi đoán y là cấp trên của Huỳnh Ngự.
Ðã một tuần lễ trôi qua kể từ hôm tôi bị bắt, nếu không hơn. Trong những ngày đó, sau cuộc cãi vã tay đôi làm Huỳnh Ngự tức điên, y còn gọi tôi ra vài lần nữa, nhưng cứ vừa nhìn thấy y là tôi bắt viên quản giáo đưa tôi lộn lại xà lim. Cái lối chơi chướng ấy thế mà được việc. Cần phải cho chúng nó biết tôi không dễ nhá. Cha tôi nói về đối sách của ông với nhân viên sở Liêm phóng : “Chỉ cần run sợ một chút là chúng lấn tới. Cho chúng nó đánh, cho chúng nó tra khảo, tra chán rồi chúng nó mệt, chúng nó bỏ. Chứ tỏ ra sợ đòn thì cứ cần hỏi gì là chúng nó lại lôi ra”.
- Tôi đã đọc những báo cáo về anh. - người đàn ông đặt tập hồ sơ đang đọc khi tôi bước vào lên bàn - Hôm nay tôi bố trí thời gian gặp anh...
Tôi lặng thinh nhìn y.
- Chỉ để khuyên anh một điều, với tư cách người lớn tuổi...
Tôi không nói gì.
- Trước hết, tôi khuyên anh không nên cố chấp.- bằng giọng không có hồn, y dề dà nói,- Anh là trí thức, hẳn anh biết cổ nhân có câu: “chấp kinh thì phải tòng quyền”...
Tôi liếc nhìn Huỳnh Ngự. Bên cạnh con người này y nhỏ bé hẳn, so rụi hẳn, chẳng giống Huỳnh Ngự những ngày trước. Không đợi con hà mã nói hết, tôi hất hàm chỉ Huỳnh Ngự, làm ra vẻ không biết hoặc không nhớ tên y :
- Nếu anh có ý định phổ biến nội quy trại giam cho tôi một lần nữa, như anh này đã phổ biến thì tôi xin cảm ơn, tôi đã được nghe kỹ...
- Khoan đã. Tôi hiểu anh đang bực bội trong lòng. Bực bội là phải thôi, ai muốn mình bị Ðảng coi là kẻ thù của cách mạng? Nhưng cho tới giờ đã có ai coi anh là kẻ thù đâu! Sai thì có, sai quá đi ấy chứ. Do nhận thức sai nên hành động sai. Cũng là lẽ thường tình. Sai thì sửa. Mao chủ tịch dạy: chỉ có hai thứ người không sai thôi - ấy là đứa trẻ trong bụng mẹ và người nằm trong quan tài. Mình chưa hiểu ra cái sai, Ðảng biết thì Ðảng chỉ ra, Ðảng uốn nắn cho, sửa chữa cho. Vì thế, như tôi vừa nói với anh, tôi nhắc lại lần nữa anh nghe cho rõ: đừng cố chấp. Nội quy, xét cho cùng, nó là cái gì? Nó chẳng là cái gì hết - một quy ước được soạn ra cho cuộc sống tập thể mà mọi người có trách nhiệm tuân thủ để duy trì trật tự chung...
- Tôi nói rồi: tôi không thích cái nội quy ấy.- tôi lạnh nhạt, đồng thời cương quyết,- Tôi không chấp nhận nó.
- Bình tĩnh, bình tĩnh nào! Nghe tôi nói đã. Sáng nay anh Thành (2) thay mặt anh Sáu, có vào đây gặp các anh, từng người một.- người đàn ông vẫn bình thản, nhưng qua giọng nói, cách nói của y tôi hiểu y phải cố gắng lắm mới giữ được bình tĩnh như thế,- Nhưng rồi do công tác đột xuất lại phải quay về ngay, không gặp được. Anh Thành ủy nhiệm tôi phổ biến cho các anh quyết định mới nhất của Bộ Chính trị và Ban tổ chức Trung ương...
Người được ủy nhiệm của Bộ Chính trị và Ban tổ chức Trung ương không thèm tự giới thiệu.
Sau mới biết tên y là Trúc, không rõ họ gì, cục trưởng Cục chấp pháp. Trúc là nhân vật quan trọng nhất trong đám quan binh mà tôi được tiếp kiến kể từ khi bước chân vào Hỏa Lò. Trong ngành công an người giữ chức cục trưởng quan trọng hơn thứ trưởng ở các bộ khác.
Y đúng là một nhà “mác-xít - lê-nin-nít” chân chính. Y nói nhân nói nghĩa, nhưng không nhích một li khỏi lập trường chuyên chính vô sản. Tôi không ngạc nhiên nếu sau những lời phi lộ dài dòng đầy nhân ái y sẽ nói tới những quyết định tàn bạo.
Có thể nói toàn thể cán bộ hồi ấy được Ðảng nhuộm đỏ một màu máu. Bạo lực được tôn sùng như biểu hiện của tính kiên định cách mạng. Những câu cách mạng đầu lưỡi được đánh giá như nhiệt tình chiến đấu cho sự thắng lợi của đường lối mác-xít.
Tại tòa soạn chúng tôi học tập liên miên. Tài liệu học tập là những bài giảng của Trung ương gửi xuống, của Nhà xuất bản ngoại văn Bắc Kinh do sứ quán Trung Quốc phát không. Công việc củng cố lập trường chiếm hết thời giờ làm báo. Ðược cái làm báo xã hội chủ nghĩa không khó. Tờ báo là công cụ giáo dục nhân dân, không cần bán chạy, chỉ cần minh họa các chủ trương của Trung ương sao cho khéo là được. Không ai trách anh nếu anh viết giống bài nào đó đã in rồi trong báo Ðảng. Nhai lại những gì báo Ðảng viết đã không mang tội đạo văn thì chớ, lại còn được khen: ý thức tổ chức cao. Nay có viết giống Ðài phát thanh Bắc Kinh hoặc Nhà xuất bản ngoại văn Bắc Kinh thì cũng được khen không kém: lập trường vững.
Trong những buổi kiểm điểm theo tinh thần nghị quyết 9 các nhà báo ngồi cùng các nhân viên tòa soạn, cả anh tiếp phẩm lẫn chị cấp dưỡng. Mọi người đua nhau lên án bọn xét lại hiện đại chủ trương chung sống hòa bình giữa các chế độ xã hội khác nhau, thi đua hòa bình, quá độ hòa bình lên chủ nghĩa xã hội. Ai đọc được nhiều tài liệu của Ðảng, của Trung Quốc, lại có trí nhớ tốt, phát biểu hăng hái, thì được coi là tích cực học tập.
Trong Hỏa Lò, Huỳnh Ngự cũng ông ổng chửi chung sống hòa bình :
- Là người thời không thể sống với dã thú. Mà bọn tư bản là dã thú, chung sống làm sao được với chúng nó. Bây giờ anh đã thấy đường lối nớ sai chưa?
- Chưa.- tôi đáp,- Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải có hòa bình trước đã, tôi quan niệm như vậy. Còn cụm từ chung sống hòa bình mà báo chí quen dùng là do dịch sai gây ra hiểu nhầm. Người Nga nói mirnoe soshushestvovanie, người Pháp nói coexistence pacifique không có nghĩa chung sống hòa bình, mà là cùng tồn tại trong hòa bình.
Huỳnh Ngự hừ một tiếng không rõ rệt.
Vài năm sau trên báo chí không thấy dùng cụm từ chung sống hòa bình nữa. Người ta dùng đúng từ như tôi nói hôm đó: cùng tồn tại trong hòa bình.
Cuốn Người Với Người Là Bạn của nhà văn Liên Xô Boris Polévoii (3) bị đặt lên bàn mổ. Nó bị phỉ nhổ là lá cờ rách của “chủ nghĩa nhân đạo chung chung”, thứ đồ bỏ nhặt từ trong đống rác thối tha của chế độ tư bản. Các nhà tuyên giáo (4) nói rằng thứ nhân đạo chung chung của bọn xét lại hiện đại không mê hoặc nổi ai. Nhưng cứ phải cảnh giác (!), họ nhấn mạnh, bởi vì nó thường dùng hình thức văn học là cái đi vào lòng người một cách êm ái.
Chủ nghĩa cộng sản, cũng theo các nhà tuyên giáo, đương nhiên hàm chứa chủ nghĩa nhân đạo tiến bộ nhất, văn minh nhất, rộng rãi nhất, cao cả nhất. Mọi thứ chủ nghĩa nhân đạo khác, không phải của giai cấp vô sản, chỉ là những ngôn từ rỗng tuếch, là lời lẽ mị dân.
Chúng tôi họp suốt ngày. Không phải một hai ngày, mà ngày này qua ngày khác. Dưới cái quạt trần quay vù vù và sự chủ tọa của thư ký tòa soạn Nguyễn Thanh Ðịch, các cán bộ của tờ báo mồ hôi nhễ nhại phê phán tính chất nhân đạo phi giai cấp của những bộ phim xô-viết: Số Phận Con Người, Ðàn Sếu Bay Qua và Bài Ca Người Lính (5). Dù không tán thành, mỗi người cũng phải phụ họa đôi ba câu vô thưởng vô phạt. Tôi ngồi im. Ngồi im cũng là một thái độ, và các nhà “mác-xít” cấp phường nhìn tôi bằng cặp mắt hằn học. May cho tôi, bí thư chi bộ Hoàng Nguyên Kỳ là một họa sĩ. Anh chỉ giữ ý thức tổ chức đến mức vừa đủ. Anh dặn tôi: “Chớ có phát biểu ngang xương đấy nhá!”.
Nhân đợt học tập chống chủ nghĩa xét lại hiện đại, những chồng báo lưu của tòa soạn được mang ra. Dưới ánh sáng của Nghị quyết 9, người ta đọc lại các số báo xuất bản một hai năm trước bằng kính lúp. Một số bài bị mang ra phê phán, trong đó không thể thiếu những bài của tôi. May cho tôi - những câu chữ bị đem ra mổ xẻ, bị lên án hóa ra lại là của quý vị Phạm Văn Ðồng, Trường Chinh, Lê Duẩn, mà tôi đã lười biếng cóp vào bài viết. Thậm chí tôi còn nghịch ngợm đóng vai phản tỉnh, đề nghị cho tôi được nghỉ học để ngay lập tức viết thư lên các vị lãnh đạo. Tôi giận các vị lắm, tôi nhất quyết buộc các vị phải công khai nhận sai lầm, chính vì các vị mà tôi sai lầm theo. Thư ký tòa soạn tỉnh giấc đấu tranh vội vã ngăn tôi lại.
Không khí chỉnh huấn tưởng đã vĩnh viễn lùi xa vào quá khứ nay trở lại với sức mạnh gấp đôi.
Nạn nhân đầu tiên của cuộc tiến công ầm ĩ vào chủ nghĩa xét lại là Minh Tranh, giám đốc Nhà xuất bản Sự Thật. Là một Nhà xuất bản chuyên cho ra những cuốn kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, lẽ thường giám đốc phải là người con trung thành của những giáo điều mác-xít. Ai ngờ Minh Tranh lại là một trong những tên xét lại cứng đầu. Mấy anh cán bộ tuyên giáo không có thông tin cập nhật, không biết tôi là phần tử có nghi vấn nên nói với tôi : “Bọn xét lại có ba pháo đài kiên cố là Viện Triết học, Nhà xuất bản Sự Thật và Ủy ban khoa học nhà nước”. Viện Triết có Hoàng Minh Chính, Nhà xuất bản Sự Thật có Minh Tranh, còn Ủy ban khoa học nhà nước thì có Tạ Quang Bửu.
Minh Tranh không bị hạ ngục. Ông được Ðảng ban cho ân huệ được rời bỏ cái ghế giám đốc mà chính ông không thiết tha. Trước khi rời Hà Nội ông tới chia tay với cha tôi. Hai người lững thững đi bộ dọc đường Hai Bà Trưng. Tôi không biết họ nói gì với nhau trong buổi chiều đầy lá rụng hôm đó. Cha tôi đánh giá cao Minh Tranh, coi ông là một đồng chí có học và có tinh thần cách mạng kiên định. Tôi không rõ Minh Tranh đi đâu. Ông biến khỏi thành phố, như rời xa ổ dịch. Không ai nghĩ ông sợ. Mọi người đều hiểu - ông đi vì chán ngán.
Tôi buồn. Tôi ngơ ngác. Tôi không thể hiểu nổi những lời thóa mạ bỗng dưng nổi lên đùng đùng nhằm vào một kẻ thù không biết mặt. Cứ như thể mọi người chung quanh tôi bất thình lình phát điên. Không điên thì không thể nói ra những luận điệu phi nhân như thế với bè bạn, anh em mình. Ðến chủ nghĩa Mác họ cũng chỉ biết bập bõm thì làm sao họ biết được mặt ngang mũi dọc cái chủ nghĩa xét lại chủ nghĩa Mác nó thế nào.
Nhìn sâu vào phong trào chửi bới chủ nghĩa xét lại, tôi rùng mình. Chưa bao giờ tôi chứng kiến một sự hư hỏng trong tâm hồn người như thế. Người ta bới lông tìm vết trong các đồng chí với nhau, người nọ vu cáo người kia, anh này hại anh khác, đấu đá nhau không thương tiếc. May là số đông vẫn cố giữ đạo đức truyền thống. Họ tham gia cuộc đại đấu đá do Ðảng đề xướng một cách vừa phải, chỉ đủ để trình ra cái lập trường không thể thiếu, để cấp trên khỏi quên họ trong những đợt xét lên lương, xét thăng chức. Mỗi người đều có những đứa con phải nuôi, một ngân sách gia đình eo hẹp, tất cả đều bị viêm màng túi, như chúng tôi thường cay đắng tự nhạo báng.
Nỗi sợ hãi bị Ðảng nghi ngờ làm cho người ta phải ra sức chứng minh rằng họ trước sau một lòng một dạ trung thành với Ðảng.
Cái sợ được vun trồng, chăm bón nhiều năm đã cho vụ mùa bội thu.
Năm 1963 tôi có viết một kịch bản điện ảnh nhan đề Ðêm Cuối Cùng, Ngày Ðầu Tiên. Nội dung kể chuyện một anh du kích đường sắt trong đêm chót của chiến tranh đã lặn lội đi gỡ trái mìn anh đặt và dự tính sẽ được giật nổ sáng hôm sau. Lệnh ngừng bắn làm đảo lộn kế hoạch của anh. Anh du kích đã mất cả gia đình trong chiến tranh. Anh coi chú bé liên lạc đi cùng anh như con ruột. Hai người bị quân Pháp trong một đồn ven đường phát hiện. Chú bé hy sinh. Vượt qua nỗi đau anh du kích tiếp tục gỡ mìn, thực hiện lệnh trên. Kịch bản được thông qua để đưa vào sản xuất. Những biên tập viên Xưởng phim truyện Hà Nội tâm đắc đoạn cuối tả con tàu dừng lại trước người du kích đường sắt vừa gỡ xong quả mìn. Những người lính Pháp trên chuyến tàu “ngượng nghịu tháo những cái mũ sắt nặng nề xuống, cầm trước bụng bằng hai tay, như cách cầm mũ phớt, đầu cúi thấp trước thi hài người du kích tí hon, người anh hùng đã cứu họ khỏi cái chết cầm chắc... Trước khi là lính, mọi người lính đều là dân”.
Anh Phạm Văn Khoa (6) đề nghị tôi để anh làm đạo diễn. Ðoàn làm phim được thành lập. Tôi được lĩnh một món tạm ứng kha khá cho kịch bản, là của hiếm trong những năm ấy. Kịch bản hoàn toàn phù hợp với tinh thần hướng về nền hòa bình chung và tình hữu nghị giữa các dân tộc.
Những nhà điện ảnh Việt Nam vừa dự Liên hoan phim ở Leiptzig (7) về đã nghĩ tới Giải thưởng lớn hoặc một Huy chương vàng cho nền điện ảnh nước nhà.
Ðùng một cái, tướng Nguyễn Chí Thanh đăng đàn diễn thuyết trong một hội nghị cán bộ trung cao cấp quân đội kịch liệt lên án kịch bản này. Ông tướng nông dân buộc tội tác giả kịch bản trắng trợn tuyên truyền cho chủ nghĩa nhân đạo chung chung, tính người chung chung bên ngoài tính giai cấp. Giọng điệu của Nguyễn Chí Thanh khi phê phán các tác phẩm văn học không khác giọng điệu Ðài phát thanh Bắc Kinh là mấy.
Bộ phim chưa được quay bị đình lại, coi như xóa sổ.
Hồi ấy Xưởng phim truyện Việt Nam đã cho đánh máy kịch bản Ðêm Cuối Cùng Ngày Ðầu Tiên thành nhiều bản để chuyển cho các cơ quan văn nghệ nghiên cứu, hi vọng dùng ý kiến của nhiều nguồn dư luận khác nhau buộc Nguyễn Chí Thanh rút lại ý kiến của ông (8). Nhưng chẳng ai dại gì đối đầu với viên đại tướng nhà quê tự thị trong cảnh loạn lạc của cuộc đấu tranh không biết lối ra ở đâu.
Thời gian này các nhà lãnh đạo bỗng nổi cơn sính văn chương. Các nhà-thơ-lãnh-tụ xuất hiện, lúc đầu còn bẽn lẽn, còn dè dặt, càng về sau càng tự nhiên. Nguyễn Chí Thanh không làm thơ được như Trường Chinh, Lê Ðức Thọ (9) thì làm nhà phê bình. Các tác phẩm vốn đã bị các tên lính gác cổng tư tưởng ở các Nhà xuất bản, các cấp tuyên giáo xét nét duyệt đi duyệt lại, nay lại thêm ông tướng Quảng Lạc (10) nhảy vào soi mói. Lác đác cũng có những tác phẩm không đến nỗi tồi, nhưng chỉ cần trong đó có vài dòng không vừa lòng ông tướng, thế là sấm sét lại nổi lên đùng đùng trên bầu trời văn chương, tác giả của chúng bị đánh tơi tả. Ðó là những trường hợp xảy ra với Hà Minh Tuân (tiểu thuyết Vào Ðời), với Phù Thăng (tiểu thuyết Phá Vây).
Tôi đã đi hơi xa sự kiện trong Hỏa Lò.
Cục trưởng Cục chấp pháp bắt tôi phải chờ đợi một lúc lâu để tôi ý thức được tầm quan trọng của điều y sẽ nói :
- Quyết định mới nhất của Ðảng về việc xử lý vụ của các anh là như sau...
Tôi chẳng bao giờ hiểu nổi khái niệm Ðảng trong những ông cán bộ này. Họ thường nói Ðảng chủ trương thế này, Ðảng quyết định thế nọ, nhưng Ðảng là Ðảng nào - Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban tổ chức Trung ương, hay là đảng đoàn Bộ thì người ta lại không nói rõ.
Tại đồng bằng sông Hồng thậm chí tôi còn được nghe một câu nói thế này trong một hội nghị cán bộ xã :
“Chúng ta đã cấy hết diện tích theo đúng kế hoạch trên giao xuống trong điều kiện “toàn Ðảng toàn dân ho gà...”.
Hóa ra toàn Ðảng có nghĩa là cái Ðảng bé của xã, có khi chỉ là một chi bộ mươi người, chứ không phải cái Ðảng to.
Không hiểu cái Ðảng mà ngài cục trưởng đang nói tới có phải là Ðảng to không, hay chỉ là Ðảng bé, Ðảng đoàn Bộ Nội vụ chẳng hạn ?
Tôi dán mắt vào mặt y, chờ đợi lời phán quyết của Ðảng.
- Bộ Chính trị đã họp và quyết định để vụ của các anh trong phạm vi nội bộ.
Tôi không tin ở tai mình. Thế tức là chủ trương của cái Ðảng lớn rồi! Không phải của Ðảng bé!
- Do đó… - y nói tiếp, cố ý để tôi nuốt từng lời.- vụ án sẽ được xử lý nội bộ, coi như mâu thuẫn nảy sinh trong nội bộ Ðảng, nội bộ nhân dân, nội bộ phong trào cộng sản quốc tế, chứ không áp dụng luật pháp hoặc các biện pháp xử lý hành chính...
Chao ôi, chẳng lẽ một sự bắt bớ ồn ào như thế, rùm beng dư luận như thế, để rồi kết thúc lặng lẽ thế này ư? Nhà cầm quyền đã tỉnh, hay là dư luận xã hội đã đánh thức họ?
Xử lý nội bộ có nghĩa là chúng tôi sẽ được thả, sẽ được trở về nhà mình, sau khi phải viết những bản xưng tội, phải đấm ngực mà kêu rên thống thiết mea culpa, mea maxima culpa (11). Một thứ xà lách chỉnh huấn trộn xà lim?
Hãy cảnh giác, không có lẽ mọi chuyện lại đơn giản như vậy.
- Có phải chúng tôi sắp được về? - tôi thọc một mũi thăm dò - Ðảng bao giờ cũng sáng suốt.
- Cái đó tôi không biết,- Trúc nhăn nhó.- Ðảng sẽ thả các anh hôm nay, ngày mai hay thả lúc nào là do Ðảng quyết định. Mà giá có biết chúng tôi cũng không được phép nói trước khi Ðảng lệnh xuống cho chúng tôi.
Y nói tràng giang đại hải một hồi về chính sách nhân đạo của Ðảng, rằng chủ trương của Ðảng bao giờ cũng nhất quán là trị bệnh cứu người. Vả lại, phòng bệnh hơn chữa bệnh, thậm chí có trường hợp chưa tới mức phải bắt mà Ðảng vẫn bắt thì chẳng qua cũng chỉ nhằm để các anh không đi quá xa. Ðảng đau lòng lắm, y nói, khi phải bắt cán bộ của mình, nhưng trong sự việc cụ thể này những hành động sai trái của chúng tôi đã vượt quá giới hạn mà Ðảng có thể chịu đựng, cho nên Ðảng buộc phải dùng biện pháp giam giữ, tuy nhiên giam giữ thế này cũng không nhằm mục đích nào khác hơn là “giáo dục các anh, để đưa các anh trở lại trong lòng Ðảng...”
Nghĩa là, than ôi, chẳng có gì mới. Chúng tôi vẫn tiếp tục ở tù. Lạy Chúa tôi lòng lành! Ðảng của chúng tôi tốt quá, tử tế quá!
Tôi buồn ngủ. Dù sao con béc-giê của Huỳnh Ngự cũng làm tôi ngủ ít hơn là không có nó. Tôi nói ngủ ít hơn vì đòn đánh của Huỳnh Ngự không gây được hiệu quả mong muốn. Thành xé một mụn giẻ, tước sợi tơi ra như bông, chúng tôi vê lại làm nùi nhét vào lỗ tai, gắng rồi cũng ngủ được.
Tôi cúi xuống, giấu cái ngáp trẹo quai hàm.
- Sở dĩ Ðảng giao việc trông nom các anh cho cơ quan an ninh chúng tôi vì cơ quan chúng tôi có điều kiện tốt nhất, thích hợp nhất để giúp đỡ các anh cải tạo tư tưởng...
Tôi không nhịn được cười. Thì ra người ta tin rằng xà lim Hỏa Lò là điều kiện thích hợp nhất, tốt nhất cho sự cải tạo tư tưởng. Cứ đà này Ðảng sẽ lần lượt cho hết thẩy cán bộ vào ở xà lim để cho tư tưởng họ tiến bộ hơn, trung thành với chủ nghĩa xã hội hơn.
- Các anh đang làm một công việc rất cần thiết cho Ðảng, đó là: bằng những báo cáo của mình giúp Ðảng củng cố tổ chức, để Ðảng đã vững mạnh rồi còn vững mạnh hơn nữa. Có nghĩa là ngay tại đây các anh cũng có công tác để làm, cũng tham gia chống Mỹ cứu nước… Chúng tôi có trách nhiệm giúp đỡ các anh hoàn thành nhiệm vụ. Công việc của chúng ta càng được tiến hành khẩn trương bao nhiêu thì Trung ương càng có điều kiện quyết định tương lai của các anh sớm bấy nhiêu. Tôi mong chóng được gặp lại các anh trên những cương vị công tác mới...
Trời hỡi, cứ như tôi là đứa trẻ không bằng! Ban tổ chức Trung ương muốn quăng một mẻ lưới lớn đây. Nhưng sai những con chim mồi ngớ ngẩn đi làm mẹ mìn thì ngu quá!
Viên cục trưởng không nhận thấy cái nhếch mép của tôi.
- Tôi cũng thông báo để các anh được biết: chiếu cố công lao của các anh đối với cách mạng, Ðảng giữ nguyên biên chế cho các anh. Giữ nguyên biên chế có nghĩa là các anh vẫn được hưởng nguyên lương, nhưng gia đình chỉ được lĩnh một nửa, cho tới khi các anh trở về. Mọi tiêu chuẩn cung cấp ở ngoài thế nào ở đây thế vậy, nguyên như trước... Tiêu chuẩn thịt của anh bao nhiêu nhỉ?
- Một cân.
- Hơn cả tôi đấy. Ðường bao nhiêu?
- Cân rưỡi.
- Nhiều thế?
Nghe trong câu hỏi của y có âm sắc khó chịu. Y tiếc cho nhà nước hay ghen tị với tôi?
Tôi lạnh nhạt :
- Ðó là tiêu chuẩn cho phóng viên phải công tác xa tòa soạn trong điều kiện chiến tranh (12)...
- Ra thế! Anh sẽ được hưởng đúng tiêu chuẩn của anh khi còn ở đây, coi như đang công tác xa tòa soạn...
Từ chỗ chúng tôi đang ngồi tới phòng làm việc của tôi tại tòa soạn chưa đầy hai trăm mét tính theo đường chim bay. Theo cách y diễn đạt thì không phải tôi đang ở tù, tôi chỉ công tác xa tòa soạn mà thôi.
Không biết trong những ngày này ở tòa soạn người ta đang nói gì về tôi? Nhiều người thương tôi, tôi biết. Kể cả những người buộc phải nói theo Ðảng rằng tôi là tên phản động. Với nửa lương của tôi vợ tôi khó bề xoay xỏa để nuôi hai đứa con. Khi chưa bị bắt lương tôi đã chẳng ra gì, nhưng hàng tháng còn kiếm thêm chút ít bằng nhuận bút dịch và viết, cũng đỡ. Trong những ngày đó tôi không biết tôi sắp có đứa con thứ ba.
Sau khi cha tôi bị bắt, gia đình tôi được một tổ sản xuất thương binh giúp đỡ. Không hề quen biết riêng cha tôi hoặc tôi, các anh thương binh thời chống Pháp tỏ ra có lòng nhân ái không ngờ. Ái ngại cho một gia đình cách mạng bị trấn áp, các anh tự tìm đến bàn cách giúp chúng tôi sinh sống. Ðó là một việc mạo hiểm. Ngôi nhà số 5 Hai Bà Trưng bị theo dõi ngày đêm. Những người đến thăm đều bị công an hỏi: đến gặp ai, có việc gì, nói những chuyện gì? Các anh chân thật và mộc mạc trong sự phản kháng thầm lặng.
Mẹ tôi lúc đầu còn e dè: hay họ là cá chìm(13)? Chẳng bao lâu sau chúng tôi hiểu ra: tình đồng chí vẫn còn lại trong những con người bình dị.
Các anh đã có mặt bên cạnh gia đình tôi trong suốt thời gian hai cha con tôi nằm trong tù. Chúng tôi mãi mãi coi các anh là ân nhân. Làm sao có thể quên anh Trường cụt một tay một chân, anh Phúc thương tích đầy mình, đã nhường cơm xẻ áo cho chúng tôi trong những ngày khốn khó.
Cho đến ngày tôi bị bắt, chúng tôi đã được lĩnh hai lần tiền công dán túi ni-lông trong hợp đồng mà các anh thương binh nhường cho.
Mẹ tôi đếm tiền, nhẩm tính, rồi vui mừng ra mặt:
- Sống được, các con ạ!
Ðang vui bà bỗng ngẩn người :
- Nếu chúng nó chặn nốt cả đường sống này nữa thì biết làm sao đây? Thời Pháp thuộc mẹ còn chống chọi được, bọn thực dân tiếng thế chứ không đến nỗi ác như bọn này. Bây giờ khó lắm, mọi sự làm ăn đều khó, chúng nó bịt kín mọi đường, bắt mọi người muốn sống phải phụ thuộc chúng nó. Lạy Trời, nếu chúng nó không phá thì các anh ấy giúp được. Mẹ tin các anh ấy, có các anh ấy mẹ thấy yên tâm hẳn. Nhưng nếu các anh không giúp được nữa thì các con phải tự lo, tính trước đi thì vừa...
-------------
Chú thích
(1) Quà gia đình gửi vào cho người tù. Gọi bằng tiếp tế trong thời kỳ này rất sát nghĩa, bởi vì phần nhiều quà gửi vào là thực phẩm để cho người tù đỡ đói.
(2) Nguyễn Trung Thành, nguyên vụ trưởng Vụ bảo vệ Ðảng vào thời kỳ đánh xét lại. Trong thư gửi Tổng bí thư Ðảng cộng sản Việt Nam. Trần Minh Việt (Lê Quang Dụ), phó bí thư thành ủy Hà Nội kiêm phó chủ tịch ủy ban hành chính Hà Nội, bị bắt ngày 18.10.1967 có viết : “Hai người trực tiếp tham gia vụ đàn áp này là ông Thành (nguyên vụ trưởng Vụ bảo vệ Ðảng, Ban tổ chức Trung ương) và ông Dương Thông (Bộ Nội Vụ)”.
(3) Vào thời kỳ này cuốn Người Với Người Là Bạn của nhà văn xô-viết Boris Polévoy đang bị những lý thuyết gia cộng sản Việt Nam phê phán về lập trường tính người chung chung.
(4) Tuyên truyền và giáo dục.
(5) Vào giai đoạn sau Ðại hội XX ÐCSLX, ngành điện ảnh Liên Xô đã cho ra đời nhiều tác phẩm tiến bộ như Ðàn Sếu Bay Qua, Số Phận Con Người, Bài Ca Người Lính...Những tác phẩm này bị các cơ quan tuyên giáo Trung Quốc, Việt Nam tấn công dữ dội. Ðài phát thanh Bắc Kinh dành hàng tháng trời để phê phán chúng.
(6) Nguyên giám đốc Quốc doanh chiếu bóng và chụp ảnh được thành lập năm 1953, tiền thân của ngành điện ảnh Việt Nam, năm 1954 làm giám đốc Xưởng phim truyện Hà Nội, rồi  đạo diễn phim truyện.
(7) Một tỉnh thuộc Cộng hòa Dân chủ Ðức (Ðông Ðức), thường được tổ chức các cuộc Liên hoan phim trong các nước xã hội chủ nghĩa.
(8) Sau khi tôi ra tù, vào cuối thập niên 70, nhà biên kịch Hoàng Tích Chỉ, giám đốc một trong hai  Xưởng phim truyện Hà Nội muốn tiếp tục công việc bỏ dở đã cho người đi tìm kịch bản này, nhưng không tìm ra. Bản thảo bị công an thu khi khám nhà đã không được trả lại.
(9) Trường Chinh có bút danh Sóng Hồng, Lê Ðức Thọ (Phan Ðình Khải) dùng chính bí danh.
(10) Tướng trong các vở tuồng, khi bước ra sân khấu bao giờ cũng vỗ ngực xưng danh “Như ta đây...!”. Quảng Lạc là một gánh hát thời trước Cách mạng Tháng Tám, sau lập một nhà hát mang tên của gánh tại Hà Nội.
(11) Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng (tiếng la-tinh, lời cầu nguyện hàng ngày của tín đồ Thiên chúa giáo).
(12) Vào thời gian này cán bộ được mua nhu yếu phẩm theo tiêu chuẩn hàng tháng như sau: gạo - 13,5kg, thịt 0,3kg, đường 0,5 kg, đậu phụ 1kg, vải 4,5m/năm... Nhưng không phải các hàng tiêu chuẩn đều được mua đúng với tên gọi của chúng: gạo thường được thay bằng ngô hoặc nửa ngô nửa gạo, thịt thường được thay bằng đậu phụ hoặc cá khô vv...
(13) Công an mật.

Chương 8

- Nào, ta mần việc, hỉ ?
Huỳnh Ngự nói, run rẩy xoa xoa hai bàn tay vào nhau cho đỡ cóng.
Thái độ Huỳnh Ngự mềm mỏng hẳn. Cứ như thể nhờ cấp trên xuống giải quyết chúng tôi đã giảng hòa được với nhau, giờ đã có thể thân mật với nhau được rồi. Tôi thấy cũng nên quên đi cuộc cãi cọ bữa trước. Muốn hay không, tôi vẫn phải làm việc với một tên chấp pháp, mà làm việc với tên mình biết rồi tốt hơn nhiều so với tên mình chưa biết.
Huỳnh Ngự bận rộn bầy ấm chén lên bàn, lấy nước sôi pha trà, ra dáng chủ nhà. Vừa chuyên trà từ chén nọ qua chén kia, y vừa ôn tồn nói với tôi :
- Nè, tui nói anh đừng tự ái, chớ đám nhà văn các anh là chúa hay nghĩ ngợi lung tung. Việc bình thường rơi vào tay các anh là cứ rối tinh rối mù lên không còn biết đâu là đầu đâu là cuối nữa. Còn về lập trường thì ôi thôi, khỏi nói, khi tả khuynh khi hữu khuynh, nói tóm lại dao động lung tung. Trong bọn nhà văn các anh, Nguyễn Ðình Thi(1), Nguyễn Khải được coi là lập trường vững nhất, đúng vậy không ?
- Tôi không rõ. Trong giới văn nghệ chưa có bình bầu lập trường. Nhưng cứ tạm coi là vậy đi. Thì sao?
- Vậy mà, tui nói cho anh hay, kể cả mấy anh nớ, cũng không thể làm việc trong cơ quan an ninh tụi tui lấy một ngày. Nói rứa để anh rõ. Ðảng lựa chọn người mần chuyên chính vô sản khe khắt ra răng. Cơ quan an ninh tụi tui không lạ chi ba cái lập trường tả hữu bất tường của mấy ảnh... Anh cũng rứa, lập trường cái chi, Ðảng tính cái chi mà vừa bị bắt đã bi quan muốn chết, mất hết lòng tin ở Ðảng. Ðó, anh coi, Ðảng đã có quyết định rồi, có giống như các anh nghĩ mô...
Tôi không hiểu y muốn gì. Tôi lặng thinh.
- Hì hì, nghe trên phổ biến rồi, bữa ni anh còn thắc mắc không? Hết rồi chớ? Có thắc mắc thì cứ phát biểu, Ðảng cho phép các anh nói thẳng, nói thật, nói hết, thì cứ mạnh dạn mà nói. Tui có trách nhiệm giải đáp mọi thắc mắc của các anh, tuốt tuột. Anh phải biết khi tư tưởng chưa thông suốt thì làm việc sẽ khó, khó lắm. Mà ta phải làm sao cho công việc Ðảng giao được tốt nhứt, hiệu quả nhứt. Anh hiểu chớ?
Câu đáp bật ra theo phản xạ tự nhiên, như không phải tôi nói :
- Khoan nói tới chuyện hiệu quả. Trước khi làm việc chúng ta cần phải thỏa thuận với nhau chuyện hôm nọ còn bỏ dở cái đã.
Chà, sao tôi lại thế nhỉ? Tôi đã định bụng quên cái chuyện đôi co bữa trước trong ngày hôm nay rồi kia mà. Có lẽ thái độ coi tôi như trẻ con của Huỳnh Ngự làm tôi phát khùng.
Huỳnh Ngự ngạc nhiên, hay làm ra vẻ ngạc nhiên :
- Chuyện chi hè?
Tôi thấy ái ngại cho y. Y thiệt thòi quá! Ðáng lẽ đương nhiên được gọi bằng ông ngon lành thì y lại đụng đầu với một thằng dở hơi và cù nhầy là tôi để phải mà cả lằng nhằng cả buổi chỉ vì một từ. Mà tôi cũng dở. Quay lại đề tài cũ trong một ngày có điều kiện để không cãi nhau làm gì?
Khi bị gọi đi cung tôi đã vạch cho mình cách ứng xử khác. Tôi định bụng nếu có gặp một chấp pháp khác hay gặp lại Huỳnh Ngự thì tôi cũng sẽ không gây sự nữa, mà sẽ mềm mỏng để moi ở người đối thoại những điều tôi cần biết. Không có những tên chấp pháp thì làm sao tôi có thể biết được sự gì đang xảy ra bên ngoài. Nhưng gọi y bằng ông để y gọi mình bằng anh là bất bình đẳng, cũng không được!
Chúng tôi im lặng hồi lâu.
Tôi quyết định rút chân ra khỏi bãi lầy :
- Hay là thế này vậy: gọi bằng anh thì không được, quy định cấm, chính tôi cũng không muốn. Gọi bằng ông thì tôi đã nói rồi, tôi không chịu - nó quá ư bất bình đẳng. Thôi thì, nếu anh không phản đối, chúng ta sẽ chọn một cách xưng hô khác, ở giữa, vừa phải cho cả hai...
- Anh cứ nói.
- Anh lớn tuổi hơn tôi nhiều, tuổi anh nằm giữa hai thế hệ cha tôi và tôi, chi bằng tôi gọi anh bằng bác xưng tôi, còn bác thì cứ gọi tôi bằng anh là xong. Như vậy tuy không hợp với nội quy cho lắm, nhưng cũng không trái với nó...
Huỳnh Ngự lưỡng lự vài giây. Rồi chặc lưỡi:
- Vậy cũng được.
Rốt cuộc, chúng tôi đã đạt được một thỏa hiệp không đến nỗi tồi. Nếu không chúng tôi còn lúng túng còn lâu, chưa biết khi nào mới thoát khỏi ngõ cụt.
Huỳnh Ngự còn khó chịu một chút, tôi biết. Về phía mình, tôi hài lòng. Ðã đến lúc phải chấm dứt, bằng cách này hay cách khác, cuộc tranh luận vô bổ.
Tôi hiền lành nhìn Huỳnh Ngự, nói bằng giọng yêu cầu được thông cảm :
- Bác đừng buồn tôi, bác Ngự ạ. Con người thường có những nguyên tắc không thể vượt qua. Bác vừa nói đám nhà văn hay nhiễu sự. Cái đó có phần đúng...
- Chu cha, lại còn có phần đúng! - Huỳnh Ngự lườm tôi, nhưng trong cái lườm không có ý ghét bỏ - Ðúng quá đi chớ! Các anh là rứa, chỉ thấy cây mà không thấy rừng, đã vậy lại còn thích chẻ sợi tóc làm tư, chẻ làm tư rồi còn muốn chẻ làm tám. Rút cuộc đa thư loạn thị, mới hiểu sai đường lối của Ðảng, hiểu sai rồi đâm mất lòng tin. Nghĩ làm chi cho mệt trong khi ở trên đã có Ðảng, có Trung ương nghĩ hộ cho hết trơn hết trọi. Ðảng là trí tuệ, là bó đuốc soi đường, là lương tâm thời đại (2)... Ðảng được võ trang bằng chủ nghĩa Mác-Lênin, cho nên Ðảng không thể sai lầm. Chúng ta, như anh hùng Lôi Phong bên Trung Quốc đã nói, mà nói rất đúng, chỉ là những cái đinh ốc của cách mạng. Nhưng phải là những cái đinh ốc không rỉ kìa !
Tôi bất giác mỉm cười.
Anh chàng Lôi Phong mà Huỳnh Ngự nói là một anh hùng từ nông dân được những nhà lãnh đạo mao-ít Trung Quốc đôn lên làm anh hùng, làm tấm gương sáng cho cả nước noi theo. Anh chàng gàn bát sách này quyết không đi xe điện để dành hai xu cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Anh ta nhặt bàn chải răng người ta vứt đi trong thùng rác, rửa sạch để dùng lại, cũng vì mục đích cao cả đó. Ðể đồng đội khỏi phải đi cả chục cây số đến hiệu cắt tóc, Lôi Phong lấy tiền dành dụm mua cái tông-đơ rồi đè đầu một đồng chí Lý nào đó ra mà cắt. Sau đây là đoạn tôi nhớ gần như nguyên văn trong cuốn sách mang tên anh ta : “Ðồng chí Lý kêu váng lên, nói tông-đơ rứt tóc chịu không nổi. Lôi Phong bèn mở sách Mao chủ tịch ra đọc”. Ðọc rồi, thông rồi, Lôi Phong thêm quyết tâm, lại tiếp tục cắt. Ðồng chí Lý vẫn kêu la. Lôi Phong vò đầu bứt tai rồi “lại mở sách Mao chủ tịch ra đọc”. Anh tiểu đội trưởng Giải phóng quân là người đề xướng cái thuyết nổi tiếng toàn Trung Quốc rằng mỗi con người trong xã hội phải là cái đinh ốc không rỉ của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Tất nhiên, mỗi người mỗi nghề, tui không đi sâu, tui không hiểu giới văn nghệ sĩ bằng anh,- mắt kém, Huỳnh Ngự không nhận thấy nụ cười thoảng qua trên mặt tôi - nhưng tui cũng có gặp người nầy người nọ trong đám văn nghệ sĩ chớ, tui cũng hiểu được các anh phần nào chớ. Nói thiệt, tui thấy các anh đông tây kim cổ cái chi cũng biết, nhưng cái chính, cái cốt lõi, là chủ nghĩa Mác vô địch thì, hè hè, các anh lại chẳng nắm được là bao...
- Thì bác chả nói mỗi người mỗi nghề đó sao! - tôi nhấp trà, hiền lành đáp - Bác có nghề của bác, tôi có nghề của tôi, bác thạo nghề của bác, chúng tôi thạo nghề chúng tôi...
Huỳnh Ngự không để cho tôi nói hết câu, y chặt ngang :
- Nhưng trong chế độ của chúng ta thì làm nghề nào cũng vậy, phải lấy chủ nghĩa Mác làm đầu. Nhiều người mắc sai lầm là bắt đầu từ chỗ nớ, từ chỗ không đánh giá đúng tầm quan trọng của chủ nghĩa Mác vô địch, không chịu học tập chủ nghĩa Mác vô địch, khoa học của mọi khoa học. Nó là kim chỉ nam cho hành động. Chỉ có dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác ta mới nhìn mọi sự được minh bạch, trắng ra trắng, đen ra đen...
Ðĩa hát cũ, chẳng cần nghe cũng biết trong đó có gì.
Không khí trở lại như ban đầu, không còn căng thẳng.
Tôi tận hưởng chén trà ngon đậm đặc trong căn phòng lạnh căm căm, dưới ánh sáng không phải của chủ nghĩa Mác mà của ngọn đèn vàng vọt trong buổi sáng ảm đạm. Ở ngoài nhìn vào chắc hẳn ai cũng phải nghĩ ở đây có hai người đang dông dài chuyện trà dư tửu hậu.
- Bữa ni ta chưa dùng tới giấy bút. - Huỳnh Ngự đổ bã ấm thứ nhất rồi không vội vã pha ấm thứ hai - Chuyện vãn cũng là một hình thức làm việc, anh có đồng ý vậy không? Nhứt là đối với những người làm công việc trí óc như tụi mình. Ủa, râu anh sao mà mọc nhanh quá vậy?
Tôi bất giác đưa tay lên mặt. Ðúng là râu mọc nhanh thật. Tôi chẳng bao giờ có ý định để râu, thành thử chẳng quan tâm tới râu ria. Tôi có thói quen cạo mặt hàng ngày kể từ khi thành đàn ông.
- Cạo đi! Ðể vậy gớm chết đi được!
- Kệ, chẳng sao. - tôi chặc lưỡi - Có phải tôi đang ở nhà mình đâu. Cũng chẳng có việc gì phải ra phố.
Huỳnh Ngự sững một giây, nghĩ xem có phải tôi định nói xỏ không.
- Ðể tui kêu quản giáo cắt tóc cho anh. Tóc cũng tốt rồi. Hôm nay anh cạo đi cái đã, tui sẽ đưa dao bào cho anh.
- Cảm ơn.
Huỳnh Ngự đưa tôi tới cửa ngách. Nó mở ra một mảnh sân tí din, nơi ri rỉ một vòi nước hỏng van. Chỉ cần động khẽ vào cái vòi là nước chảy tung tóe, nhưng không dễ khóa nó lại. Muốn khóa nó phải vặn nhẹ nhàng cho tới khi nước ngừng chảy, nín thở mà hãm nó tại đúng vị trí ấy rồi rón rén đi ra. Tôi tranh thủ rửa mặt mũi chân tay cho thoải mái trong khi chờ viên quản giáo đi lấy dao cạo.
Mảnh sân tiếp giáp với tường Hỏa Lò, mặt quay ra đường Hàng Bông Thợ Nhuộm. Ðứng bên vòi nước tôi nghe rõ mồn một tiếng bánh xe đạp lăn trên mặt đường nhựa, tiếng người lao xao.
Chao ôi, giá mà lúc có được mảnh giấy trong tay nhỉ! Tôi sẽ viết mấy dòng nhắn tin cho gia đình rồi lợi dụng một phút sơ hở của Huỳnh Ngự, xin ra rửa ráy và ném nó qua bức tường kia.
Người nhặt được sẽ đem mẩu thư tới cho gia đình tôi. Tôi tin vẫn còn nhiều người tốt bụng. Nhưng trong tay tôi chẳng có mẩu giấy nào, chẳng có cái bút nào.
- Nè, dao bào đây, cạo đi!
Nhìn thấy con dao tim tôi thắt lại.
Tôi nhận ra nó, con dao cạo cũ mà lớp kền mạ đã bong từng mảng. Ðó là con dao của cha tôi.
Ông dùng con dao nhãn hiệu Gillette này đã nhiều năm.
Nghĩa là cha tôi đang ở đây, ngay trong Hỏa Lò này. Nghĩa là tin đồn ông bị Ðảng giữ tại một biệt thự đầy đủ tiện nghi là tin vịt. Bằng việc cho tôi thấy con dao, Huỳnh Ngự muốn tôi hiểu một điều: nếu cha tôi cũng đang ở Hỏa Lò, thì điều đó có nghĩa là Ðảng đã thẳng tay trừng phạt, không chiếu cố gì hết. Không có chuyện người ta nể nang gia đình cách mạng mà nương nhẹ cho cha con tôi. Chúng tôi chỉ có một con đường: đầu hàng, chịu khuất phục.
Tôi điềm tĩnh cạo mặt, cố tình không cho Huỳnh Ngự được hí hửng thấy kết quả dự liệu. Thậm chí tôi còn khe khẽ huýt sáo.
Trả lại Huỳnh Ngự con dao, tôi hồn nhiên nói :
- Bác có biết không, cạo mặt sướng nhất là dùng loại dao cạo này, nhưng lưỡi phải đúng là lưỡi Gillette, và phải nhúng dao vào nước thật nóng kia, lúc ấy râu cứ đi êm như ru.
- Vậy hả?
Huỳnh Ngự chưng hửng.
Càng thấy rõ việc tôi nhìn thấy tướng Ðặng Kim Giang chẳng phải là ngẫu nhiên. Huỳnh Ngự dựng vở, có điều y là đạo diễn vụng... Y muốn đánh tiếng cho tôi biết đến những bậc lão thành cách mạng, thành tích đầy mình, vào đây rồi cũng đành chịu tho, huống hồ tôi.
Cái gọi là xử lý nội bộ của Ðảng là thế. Nó không hơn một lời hứa suông nhằm moi ở chúng tôi lời nhận tội theo ý muốn. Cụm từ xử lý nội bộ chỉ tô đậm thêm tính chất phi lí của vụ án do Ðảng làm. Ðảng, mà lại làm án đã là phi lý rồi. Chẳng Ðảng nào có quyền lập án, xử án cả.
- Tui mừng cho anh.- Huỳnh Ngự đặt tay lên vai tôi,- Nếu Ðảng đã quyết định để vụ này trong nội bộ có nghĩa là ở đây không có mâu thuẫn địch ta, mâu thuẫn đối kháng, mà chỉ có mâu thuẫn nội tại, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân mà thôi. Anh thấy chưa? Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào người cộng sản cũng cứ phải tin tưởng ở Ðảng. Ðảng bao giờ cũng anh minh, cũng sáng suốt. Ðã bảo là không phải mâu thuẫn địch ta thì tức là mâu thuẫn trong nhà với nhau, Ðảng chỉ giơ cao đánh sẽ, ví như cha mẹ thấy con cái hư thì phải đánh, chớ đánh con mình lòng cha mẹ cũng đau đớn lắm...
Tội nghiệp cho Ðảng quá!
Tiếp theo Huỳnh Ngự cho chạy đĩa hát khác về các loại hình mâu thuẫn được Mao Trạch-đông tổng kết trong trước tác Bàn Về Mâu Thuẫn. Tôi đã đọc cuốn này qua bản viết lại theo cách Việt Nam cho dễ hiểu của Hồ Chí Minh. Ðối với Mao, đó là cẩm nang chia để trị dành cho các giáo đồ, phân biệt các loại kẻ thù lớn bé, xa gần, các loại đồng minh lâu dài và giai đoạn. Nó là một chương trong bộ Sấm truyền mao-ít.
Huỳnh Ngự không phải là ngoại lệ trong lớp cán bộ cỡ gia nhập cách mạng theo phong trào, tiến thân bằng lý lịch. Vỗ ngực khoe thành phần cơ bản, hợm hĩnh với những ưu đãi tinh thần được Ðảng ban phát, những loại cán bộ này luôn phô ra, một cách rất hoạt kê, vốn hiểu biết nghèo nàn của họ bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu. Họ vênh vang tự đắc về những hiểu biết chỉ riêng họ mới có.
Các lãnh tụ - những người độc quyền chân lý - bao giờ cũng dành cho họ những suất chân lý lớn hơn hẳn lũ thần dân bên dưới. Không hiếm lần chúng tôi phải chầu chực ở nhà ông chủ nhiệm tờ báo để được nghe ông nói lại những gì ông được trên phổ biến. Thông thường, mỗi khi có những sự kiện lớn hoặc chính sách mới ban hành thì Trung ương phổ biến cho cấp tỉnh, cấp tỉnh phổ biến cho cấp huyện, cứ thế chân lý của Ðảng đi lần lần xuống đến người cuối cùng trong bậc thang xã hội.
Xã hội Việt Nam trong những năm ấy là xã hội khép kín. Một lỗ thủng để dân chúng có thể nhòm được ra ngoài là sơ suất của ngành an ninh, là trọng tội đối với kẻ đã dám khoét cái lỗ thủng đó hoặc phát hiện ra nó để sử dụng. Mọi thứ sách báo nước ngoài đều là sách báo địch, mọi thứ đài nước ngoài đều là đài địch, trừ các sản phẩm văn hóa của các nước xã hội chủ nghĩa. Sau Ðại hội XX ít lâu, sách báo Liên Xô và các nước Ðông Âu cũng bị cấm nốt, cũng bị coi là những sản phẩm văn hóa độc hại (3). Tin của Việt Nam Thông tấn xã cũng chia làm nhiều loại : loại thường, loại mật và loại tối mật. Loại thường là tin tức trong nước, tin nước ngoài được biên soạn lại cho sự sử dụng rộng rãi. Cán bộ cấp cao được đọc tin mật, hoặc tin tối mật. Tin mật và tối mật, không phải lấy từ kho tin tình báo mà lấy từ các đài phát thanh nước ngoài, vẫn là thứ bị cấm ngặt, không ai được nghe. Cán bộ thấp, cấp cơ sở hoặc dân thường thì nghe loa truyền thanh cũng đủ. Người dân, không trừ cả giới trí thức, trí thức kỹ thuật hay trí thức nhân văn thì cũng thế, chỉ còn cách tự túc món ăn tinh thần bằng những câu chuyện ngồi lê đôi mách.
Ngu dân là chính sách không của riêng Việt Nam. Chỉ sau Ðại hội XX người dân xô-viết mới được biết đến Giã Từ Vũ Khí của Ernest Hemingway, Chùm Nho Nổi Giận của John Steinbeck(4). Ðến cả thơ của Esenin(5) cũng bị cấm trong thời gian dài, người Nga chỉ được đọc thơ ông qua các bản chép tay. Vào năm 1957, khi thơ Esenin được xuất bản, trước mỗi cửa hiệu sách là những dòng người xếp hàng rồng rắn cả cây số. Tôi cũng phải xếp hàng cả nửa ngày để mua cuốn Bút Ký Triết Học của Lênin trong thời kỳ này.
Ở Việt Nam kiến thức được chia thành hai loại: chính thống và phi chính thống. Người giám định văn hóa duy nhất có thẩm quyền là Ðảng, hiện thân trong cái gọi là Ban Tuyên-Giáo, Ban Tuyên-Huấn, Ban Khoa-Giáo, Ban Văn hóa-Tư tưởng vv. Những gì không được các Ban nói trên cho là chính thống thì nhân dân không được dùng. Cho nên những vụ đốt sách Victor Hugo, Shakespeare, Guy de Maupassant, Molière... đập đĩa nhạc của Beethoven, Verdi, Mozart (6)... được lặp đi lặp lại nhiều lần không phải chuyện lạ. Nhà cầm quyền không muốn nhân dân được biết những gì họ không muốn cho biết. Và ở đây, một nghịch lý nảy sinh : trong khi các lãnh tụ ngủ yên trên chức vị, thì nhân dân ngày một trưởng thành về nhận thức do sự học hỏi vụng trộm, còn các vị thì mỗi ngày một lùn thêm trong mắt họ.
- Tôi muốn hỏi bác câu này.
- Ðược, anh cứ hỏi.
- Theo bác, chừng nào tôi sẽ được về nhà với vợ con?
Huỳnh Ngự lắc đầu :
- Cái nớ tui không trả lời được. Cái nớ phụ thuộc ở anh nhiều hơn ở tui. Căn cứ thái độ của anh mà Ðảng sẽ cho anh về lúc nào.
- Tôi chắc cũng không lâu nữa đâu.
- Căn cứ nơi mô mà anh nghĩ rứa?
- Thì căn cứ vào quyết định của Ðảng mà cấp trên vừa phổ biến đó. Ðảng đã nói rõ: đây là mâu thuẫn trong nội bộ Ðảng, nội bộ nhân dân, Ðảng không áp dụng luật pháp cũng như các biện pháp hành chính...
- Ðúng vậy!
- Nhưng đó là đối với các đảng viên của Ðảng thôi chứ! Tôi không phải đảng viên thì Ðảng giữ tôi làm quái gì? Ðã không phải là đảng viên thì lẽ đương nhiên tôi không phải chịu bất cứ kỷ luật nào của Ðảng...
Huỳnh Ngự ngớ ra. Câu hỏi và cách suy luận ngây ngô của tôi đưa y vào ngõ cụt.
- Vả lại, theo thiển ý của tôi, Ðảng cho bắt đảng viên thế này cũng là vạn bất đắc dĩ, Ðảng không nghĩ được cách nào khác nên mới làm như thế. Nó không đúng Ðiều lệ. Kỷ luật cao nhất đối với đảng viên chỉ có khai trừ là hết, không thể có chuyện bắt giam. Chẳng riêng điều lệ Ðảng ta, các đảng phái khác cũng vậy.
- Anh lý sự gớm.
- Cho nên Ðảng mới có quyết định vừa rồi. Thả ra là phải. Nếu các đảng viên còn được thả thì dĩ nhiên, là người ngoài Ðảng, tôi phải được thả sớm hơn họ...
- Cái nớ thì tui lại không dám khẳng định. Các hình thức kỷ luật của Ðảng không phải là bất di bất dịch. Ðảng linh hoạt trong đối sách, luôn sáng tạo những hình thức đấu tranh mới, kể cả trong lãnh vực đấu tranh tư tưởng...
Y đối đáp kể cũng giỏi. Y có cái lô-gích của y. Nhưng cách y phát triển lô-gích mới tài. Y bảo:
- Còn chuyện anh bị bắt cùng các đảng viên thì anh nghĩ thử coi, nghĩ kỹ chút thì hiểu liền à? Anh tham gia cách mạng từ lúc còn là đứa trẻ, đúng vậy không hè?
- Nếu tính cả những việc mà cha tôi và các bạn ông sai tôi làm hồi bí mật là tham gia cách mạng thì đúng thế... Còn nếu tính từ ngày tôi ăn cơm của cách mạng, lĩnh phụ cấp của cách mạng để làm việc cho cách mạng thì có thể tính từ năm 1946 khi tôi gia nhập một đội tuyên truyền xung phong ở Nam Ðịnh.
Huỳnh Ngự cười hì hì :
- Thấy chưa? Tui là tui nắm lý lịch anh rõ lắm. Anh đã ở trong hàng ngũ cách mạng từng ấy năm, từng ấy năm anh chiến đấu dưới lá cờ của Ðảng, được Ðảng giáo dục, bồi dưỡng để trở thành trí thức cách mạng như bây chừ, cho nên Ðảng mặc nhiên coi anh như đảng viên. Anh phải lấy làm hãnh diện mới phải. Còn bây chừ có khuyết điểm thì Ðảng lại giáo dục cho tốt lên. Sửa chữa xong khuyết điểm thời lại về với Ðảng.
Ngụy biện đến nước ấy là cùng!
Tôi không cãi. Tôi còn nghịch ngợm đeo lên cho tôi cái mặt nạ xúc động nữa kia. Thử nghĩ mà xem, có thể nào không xúc động cho được khi Ðảng dành cho mình vinh dự lớn đến thế! Nếu mang cái cuộc đối thoại kỳ cục đó nhào nặn thành một truyện ngắn kiểu Azis Nexin (7) thì ắt hẳn phải đặt cho nó cái tên: Tôi Ðược Coi Như Ðảng Viên Của Ðảng Vĩ Ðại Như Thế Nào.
Tôi không còn gì để nói nữa. Câu chuyện vãn cho một ngày làm việc đến đó kết thúc được rồi.
- Bữa ni có vậy thôi, anh về nghỉ.- Huỳnh Ngự đứng lên, vuơn vai nặn ra một cái ngáp thân mật.- Quên, còn chuyện thuốc lá cho anh. Tui đã báo cơ quan anh gởi tiêu chuẩn trà thuốc của anh vô, không hiểu sao chưa thấy gởi... Ðợt cung cấp nầy hơi chậm. Cơ quan tui cũng rứa hà, bữa đực bữa cái, thời chiến mà... Anh cầm tạm bao nầy về hút cho đỡ ghiền.
Trong suốt buổi gặp gỡ Huỳnh Ngự nhiều lần nhả khói thuốc về phía tôi nhưng không thấy phản ứng y muốn thấy. Bao thuốc để trên bàn, trước mặt tôi, không được tôi đụng đến.
- Cảm ơn. Tôi đã quyết định không hút nữa là không hút.
Huỳnh Ngự điềm nhiên bỏ bao thuốc vào túi.
- Còn việc nầy nữa! Anh Hoàn(8) sẵn sàng cho anh gặp. Anh có đề nghị được gặp anh Hoàn không?
- Không! Tôi nghĩ rằng tôi chẳng có gì để nói với ngài bộ trưởng.
Cách gọi Trần Quốc Hoàn bằng ngài rõ ràng chướng tai Huỳnh Ngự, nhưng lần này y không bắt bẻ. Nếu cái gì cũng bắt bẻ chắc y chẳng còn thời giờ nào làm việc với tôi về những chuyện khác.
- Tùy anh.
Chúng tôi chia tay, lần này không giống như những kẻ thù, nhưng cũng không phải là những người bạn.
Tôi trở về xà lim, lòng trĩu nặng. Bỏ ra ngoài tính chất bất cần đời pha chút tinh nghịch cố hữu đã giúp tôi sống qua mấy ngày tù đầu tiên, tôi thấy trước mặt một tương lai xám xịt. Không thể nói trước cái gì sẽ đến với chúng tôi. Xử lý nội bộ chỉ là một cách nói. Họ chẳng dại gì mang chúng tôi ra xử công khai. Họ thừa hiểu chúng tôi là người thế nào. Họ sợ khi có diễn đàn chúng tôi sẽ vạch trần tội ác của họ, vạch trần sự lộng quyền đã mang lại những tai họa cho dân tộc, cho đất nước. Cho dù sau đó là pháp trường hoặc thủ tiêu.
“Con người là một sinh vật kỳ lạ. Chỉ mình nó thích nghi được với mọi hoàn cảnh”, Dostoevsky vĩ đại đã nói như thế trong Hồi Ký Nhà Chết (9). Quả nhiên, rồi tôi cũng quen dần với cuộc sống bị giam cầm. Nói quen thì không đúng, tôi dần thích nghi được với nó, hơn nữa còn thích nghi được một cách không đến nỗi quá khổ sở.
Tôi tự khẳng định rằng một khi đã sa vào tay bọn độc tài thì đừng hi vọng được chúng rủ lòng thương. Những tên độc tài ở mọi thời đại, mọi quốc gia đều giống nhau. Chúng hoặc là những tên vị kỷ đến cùng cực, trong trường hợp tốt hơn cũng là những tên cuồng tín thâm căn cố đế.
Chúng sẵn sàng hy sinh đến giọt máu cuối cùng của người khác để thực hiện mục đích. Thảng hoặc cũng có những tên độc tài có công làm cho quốc gia trở nên thịnh vượng trong thời điểm nào đó. Nhưng những cái tưởng chừng là công trạng ấy chẳng gột sạch được tội ác của chúng khi vinh quang của chúng được xây dựng trên những núi xác chết và những đại dương bi kịch.
Không thể so sánh bi kịch của cá nhân với bi kịch của một quần thể, một dân tộc, để nói rằng bi kịch cá nhân không có ý nghĩa. Bi kịch nào cũng là bi kịch. Mỗi con người cảm nhận bi kịch của mình cụ thể hơn bi kịch của số đông và vì thế nỗi thống khổ của một cá nhân là nỗi thống khổ cần được chia sẻ trong tình nhân ái.
Thành lồm cồm bò dậy đón tôi :
- Về sớm thế?
- Họ bảo đi thì đi, họ bảo về thì về. Anh có phải đi đâu không?
- Không.
Thành trả lời, tránh cái nhìn của tôi. Tôi thấy anh lúng túng. Không hỏi thêm, tôi lẳng lặng về chỗ mình.
Nếu người ta bắt tên chỉ điểm gặp họ để báo cáo về tôi thì gọi y ra vào lúc tôi đi cung là tiện nhất.
- Ăn đi, cơm canh nguội ngắt rồi.
Thành bối rối đẩy suất cơm tù đến trước mặt tôi.
Tôi ngồi xuống, xếp chân bằng tròn trước khổ hình hàng ngày.
---------------
Chú thích
(1) Nhà văn, nhạc sĩ, nhà thơ, nổi tiếng với những tác phẩm Xung Kích, Sống Mãi Với Thủ Ðô... Ông là một nhà văn hàng đầu trong đội quân Văn nghệ của Ðảng.
(2) Câu chữ của Phạm Văn Ðồng.
(3) Giới thạo tin kể rằng chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô A.N. Kosyghin (1904-1981) trong cuộc hội đàm với thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Ðồng năm (1965 ?) đã hỏi thẳng về chuyện báo chí Liên Xô bị cấm bán. Thủ tướng Phạm Văn Ðồng chối. Kosyghin đề nghị ngừng hội đàm để cả hai cùng đi ra phố xem hư thực ra sao thì Phạm Văn Ðồng thoái thác. Ðể giữ hòa khí với nước đàn anh, người ta vẫn mua sách báo Liên Xô với khối lượng lớn như trước, nhưng chở thẳng đến các nhà máy giấy để tái chế.
(4) Ernest Miller Hemingway (1899-1961), nhà văn Mỹ nổi tiếng. John Ernst Steinbeck (1902-1968), nhà văn Mỹ nổi tiếng, giải thưởng Nobel.
(5) Nhà thơ trữ tình (Nga).
(6) Victor Marie Hugo (1802-1885), William Shakespeare (1564-1616), Jean Baptiste Poquelin Molière (1622-1673), Guy de Maupassant (1850-1893), Ludwig Van Beethoven (1770-1827), Volfgang Amadeus Mozart (1756-1791), Giuseppe Verdi (1813-1901)... - các nhà văn, nhà  soạn kịch, nhạc sĩ nổi tiếng thế giới.
(7) Nhà văn châm biếm Thổ Nhĩ Kỳ, nổi tiếng trong độc giả Việt Nam với tập truyện Nếu Tôi Là Ðàn Bà.
(8) Trần Quốc Hoàn.
(9) Fiodor Mikhailovich Dostoevsky (1821-1881), nhà văn nổi tiếng của Nga cuối thế kỷ XIX, tác giả Tội ác Và Trừng Phạt, Thằng Ngốc, Anh Em Nhà Karamazov... Mấy năm trước đó tôi có dịch cuốn Hồi Ký Nhà Chết theo kế hoạch Nhà xuất bản Văn hóa. Bản thảo đã chuẩn bị xong, nhưng cuốn sách không được phép in vì Dostoevsky bị Maxime Gorky nhận định là “một thiên tài độc ác”.

Chương 9

Chiến thắng Cao-Bắc-Lạng (1950) không chỉ xóa sổ hai binh đoàn cơ động Le Page và Charton, giải phóng một vùng rừng núi rộng lớn, nó còn mở tung cửa biên giới phía Bắc, chấm dứt tình trạng cô lập của nước Việt Nam kháng chiến.
Ngay lập tức sau khi biên giới hai nước được nối liền, người anh em cộng sản phương Bắc đã viện trợ cho nước Việt Nam kháng chiến đủ thứ - lương thực, vũ khí, quân dụng. Cùng với các thứ hàng hóa thiết yếu, đời sống tinh thần của chúng tôi phong phú hẳn lên với những điệu Ương ca tưng bừng, những buổi chiếu bóng lưu động ngoài trời với những bộ phim hấp dẫn: Bạch Mao Nữ, Nam Chinh Bắc Chiến, Chiến Sĩ Gang Thép... Chúng tôi được phát bát men, ca men thay cho cái gáo dừa khổ hạnh của nhà chùa. Trên ngực chúng tôi chói sáng huy hiệu Mao chủ tịch.
Chẳng bao lâu sau tôi phát hiện ra rằng kèm theo những niềm vui mới, sự nối liền biên giới Việt-Trung còn đem đến cho chúng tôi những điều khó chịu.
Ðập vào mắt chúng tôi là sự phân biệt phẩm trật kỳ cục trong Giải phóng quân. Ðàng sau khẩu hiệu “tất cả để phục vụ cách mạng”, những anh lính trơn và hạ sĩ quan sống như trâu ngựa, cúc cung tận tụy phục vụ cấp trên, bảo gì làm nấy, như những cái máy. Cuộc cách mạng Việt Nam khởi đầu bằng một lối sống khác hẳn, làm cho chúng tôi sững sờ trước những cảnh tượng khó hiểu nọ. Chúng không phải chỉ khó hiểu mà còn khó chịu. Chúng tôi không phải quá ngu để không thấy được Ðảng Việt Nam hoàn toàn tin theo hình mẫu Trung Quốc, do đó nếp sống của quân đội Trung Quốc anh em sẽ là nếp sống tương lai của quân đội Việt Nam.
Thời kỳ này tôi đang theo học khóa 6 Trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Ðây là nơi quân kỷ quân phong được tôn trọng và thi hành khắt khe hơn hẳn ở các đơn vị khác, quân chính quy cũng như quân địa phương.
Nhưng kỷ luật sắt của bộ đội Việt Nam không có gì giống trật tự phong kiến trong quân đội nước bạn. Như ở mọi đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam, chúng tôi sống với nhau như trong một gia đình lớn, không có sự phân biệt sĩ quan với học viên, ăn cùng mâm, nằm cùng lán, mọi tiêu chuẩn gần như ngang nhau. Những cái đó không có trong Giải phóng quân Trung Quốc, ít nhất thì cũng trong các đơn vị Giải phóng quân đầu tiên qua Việt Nam.
Lần đầu tôi được thấy tận mắt trong quân đội cách mạng cũng có lính hầu là ở trạm Quảng Nạp, một trong cửa ngõ vào ATK (1) từ ngả Thái Nguyên. Trước đó tôi không bao giờ hình dung có người đi làm cách mạng chỉ để hầu ai đó. Trong quân đội Việt Nam cũng có các vệ sĩ, hồi mới kháng chiến còn gọi là gác-đờ-co (2) nhưng họ hoàn toàn không phải là lính hầu. Cơn sốt rét rừng bất chợt buộc tôi phải nằm lại trạm này đã cho tôi có dịp quan sát mấy đoàn cố vấn Giải phóng quân đi ngang. Những cố vấn Trung Quốc, thường là cấp tướng, đến Việt Nam mang theo cả đoàn lính hầu nhộn nhịp, nào bảo vệ, nào cần vụ, nào cấp dưỡng, nào giám mã. Khi cố vấn lên đường công tác, anh cấp dưỡng quảy nồi niêu xoong chảo lên vai, anh cần vụ lỉnh kỉnh chăn màn gối đệm trên vai, anh giám mã chạy tới cúi gập mình xuống làm cái kê cho cấp trên đạp lên lưng mình mà leo lên ngựa. Cố vấn đến nơi cần nghỉ ngơi thì cần vụ kê giường trải nệm, bày ra nào chậu nào thau cho cấp trên rửa mặt rửa chân, cấp dưỡng te tái lo nấu cơm nấu nước, bảo vệ lăm lăm súng đứng gác, giám mã te tái đi cắt cỏ ngựa. Răm rắp, răm rắp, không chê vào đâu được.
Nhìn cảnh đó tôi vừa ngạc nhiên vừa ghê tởm. Có lẽ không có quân đội nào trên thế giới có thứ lính hầu khốn khổ khốn nạn như lính cần vụ Trung Quốc.
Ăn uống trong quân đội Trung Quốc cũng phân biệt rõ rệt theo cấp bậc, hay nói cho đúng hơn, theo đẳng cấp. Lính trơn cho tới cấp chỉ huy trung đội thì ăn tiêu chuẩn đại táo, tức là mức ăn phổ thông, thấp nhất. Trên đại táo là trung táo, dành cho cấp chỉ huy đại đội tới tiểu đoàn. Tiểu táo là mức ăn dành cho cấp trung đoàn trở lên. Cao nhất là đặc táo, dành riêng cho các nhà lãnh đạo, để đãi khách, bữa nào cũng như tiệc.
Nỗi kinh ngạc của chúng tôi kéo dài không lâu - cả về mặt này quân đội Việt Nam cũng nhanh chóng tiếp cận quân đội đàn anh. May mắn thay, cái sự phân biệt các thứ táo tồn tại không lâu, và ở mức độ thấp hơn nhiều. Ở ngoài mặt trận không ai dám liều lĩnh sao chép nguyên bản cái trật tự đẳng cấp kỳ cục ấy. Trước mặt người lính là kẻ thù xâm lược, người lính có thể nổi giận.
Mà ở chiến trường thì chẳng ai biết được người lính nổi giận sẽ hành động thế nào. Ðiều chắc chắn là sức chiến đấu của quân đội sẽ giảm sút.
Tiếp đến là chỉnh huấn. Ở quê hương nó, nó mang tên chỉnh phong, gọi tắt cuộc vận động chỉnh đốn tam phong: học phong, văn phong, Ðảng phong trong Ðảng cộng sản Trung Quốc (3).
Chỉnh huấn là chuyện hết sức lạ lùng đối với chúng tôi, những chàng trai học trò vừa xếp bút nghiên lên đường kháng chiến. Cứ đinh ninh rằng mình cũng tựa những tráng sĩ thời xưa, thanh gươm yên ngựa ra sa trường. Ðến chỉnh huấn mới ngã ngửa ra rằng không phải: đi theo cách mạng trước hết là để cải tạo những tư tưởng thối tha, bao giờ cũng sẵn có trong mình như một thứ tội tổ tông truyền. Phải cải tạo tư tưởng để xứng đáng là người của Ðảng, của xã hội mới.
Người ta giảng cho chúng tôi: tất cả ưu điểm các anh có được là nhờ ơn Ðảng, nhờ ơn cách mạng. Tất cả khuyết điểm các anh mang trong mình là do phong kiến, đế quốc truyền cho.
Nhờ chỉnh huấn chúng tôi mới biết ngoài thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và tay sai, chúng tôi còn một lũ một lĩ kẻ thù khác. Hi vọng rồi đây sẽ có người viết kỹ về chỉnh huấn, bởi vì không thể nói ngắn về nó được. Không nói kỹ về chỉnh huấn thì không thể hiểu được cái cơ địa tâm thần của vài thế hệ cách mạng, không giải thích được vì sao con người Việt Nam có thể trở thành ù lì trong mấy thập kỷ như vậy được. Ðọc báo chí phương Tây tôi buồn cười thấy họ hiểu biết quá kém về cái trò chỉnh huấn mà họ gọi là tẩy não.
Tôi được biết chỉnh huấn vào năm 1951, trong một hội nghị cán bộ Liên đoàn Thanh niên Việt Nam. Trong hội nghị này Ðoàn Thanh niên Lao động Việt Nam ra đời, thay cho Ðoàn Thanh niên Cứu quốc trước nó, trong vai trò trợ thủ và hậu bị của Ðảng, trên ngực mỗi đoàn viên từ nay sẽ sáng chói huy hiệu tay cầm cờ đỏ sao vàng tiến lên do họa sĩ Tôn Ðức Lượng vẽ. Cuộc chỉnh huấn được tổ chức ngoài chương trình được thông báo trong công văn triệu tập. Những cán bộ vừa dự chỉnh phong ở Hoa Nam về làm hướng dẫn viên (4). Những người vừa qua một cuộc đại tẩy não bên nước bạn rất nghiêm nghị, ít cười nói, trong bộ đồng phục cán bộ Trung Quốc, với cây bút Kim Tinh gài trước ngực, với cuốn sổ tay có hình Mao chủ tịch phương phi.
Thoạt đầu hướng dẫn viên giới thiệu một số tài liệu - bài giảng của Mao Trạch-đông, Lưu Thiếu-kỳ, Ngãi Tư-kỳ dành cho cán bộ... Sau đó, mỗi học viên liên hệ những điều học được với tư tưởng và hành động của bản thân, đưa những thu hoạch ra trình bày trước tổ để tập thể góp ý, phân tích, phê phán. Chúng tôi lén gọi những buổi phê phán là những tự xỉ vả. Ai tự xỉ vả nhiều được coi là thành khẩn. Những bản cung khai tội lỗi xuất sắc nhất được báo cáo trước toàn hội nghị, gọi là báo cáo điển hình.
Vắt óc mãi không nghĩ ra tội gì khả dĩ coi được, tôi bộc lộ rằng tôi thương địa chủ, tôi lén lút đem khoai lang cho mấy đứa con kẻ thù đói lả; tôi có tư tưởng sợ địch khi nhìn thấy trong tờ Paris Match ảnh chụp hàng đàn máy bay với những trái bom bay ra như trấu vãi. Mặc dầu đã tố thêm cho ra vẻ thành khẩn, tội lỗi của tôi vẫn chưa ăn thua gì với tội lỗi những người cùng tổ: họ bộc lộ cha mẹ là phú nông, địa chủ; có anh bộ đội khai đóng quân ở đâu là hủ hóa (5) ở đó, có anh còn khai đã ngủ với em ruột... Học viên vận dụng kiến thức vừa học được xỉ vả thậm tệ những người bộc lộ. Nào là với tư tưởng bóc lột của cha mẹ truyền lại đồng chí không xứng đáng là cán bộ cách mạng. Nào là hủ hóa với con gái nông dân lao động có khác nào con hủ hóa với mẹ vân vân và vân vân. Nói chung, sự suy diễn theo luật tam đoạn được tha hồ đẩy tới phi lý. Tôi nhớ mãi một buổi báo cáo điển hình, khi một anh chàng hùng hổ đứng lên xơi xơi xỉ vả người báo cáo: “Ðồng chí có biết với tư tưởng như thế, với hành động như thế, đồng chí là cái giống gì không? Ðồng chí là... là... con chó, là con chó ghẻ... con chó ghẻ lang thang... trên... trên...”. Ðến đó anh ta ngắc ngư mãi không tìm ra đoạn tiếp cho câu ví. Thế rồi đánh liều, anh ta nói một hơi: “...lang thang trên... cánh đồng... cánh đồng xanh”.
Tôi nhìn quanh. Mặt người nào người nấy đỏ lựng. Không phải vì căm thù tư tưởng địch, mà vì nhịn cười.
Thâm ý của các tác giả chỉnh huấn, theo tôi nghĩ, nhằm làm cho con người tự ti đi, hạ mình xuống mức thấp nhất bên cạnh Ðảng cao vòi vọi, đấng cứu thế vô song, để trở thành dễ trị.
Cái mớ tạp pí lù made in China ngày một lớn sau khi chiến tranh Triều Tiên kết thúc. Một phái bộ Trung Quốc với La Quý Ba (cố vấn tối cao về chính trị), Vi Quốc Thanh (cố vấn tối cao về quân sự) đặt bản doanh tại Việt Bắc, tham gia vào mọi công việc của ban lãnh đạo Ðảng (La Quý Ba và Vi Quốc Thanh còn tham gia các cuộc họp của Bộ Chính trị) khẳng định thêm vị trí hình mẫu Trung Quốc trong đời sống của khu kháng chiến. Họ đều có mặt trong những bức ảnh cha tôi giữ, với ông Hồ, với Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh.
Tôi nói lại chuyện cũ để giải thích việc đang xảy ra trong Hỏa Lò.
Ðùng một cái, Huỳnh Ngự bảo tôi :
- Ta ngừng công việc. Anh viết lý lịch cái đã.
Lại lý lịch! Tôi muốn kêu trời. Chúng bắt tôi viết lý lịch làm gì khi chúng có thể lấy lý lịch cán bộ của tôi tại cơ quan?
Cần phải làm dân Trung Quốc hoặc Việt Nam mới biết đến tận cùng nỗi bực mình do chứng lý lịch cuồng gây ra. Trước hết, đó là cái sự phải khai không chỉ cuộc đời mình, cha mẹ anh em mình, mà cả chú bác cô dì nội ngoại, khai đầy đủ chi tiết họ tên, thành phần, nghề nghiệp, trước cách mạng làm gì, ở đâu, sau cách mạng làm gì, ở đâu vân vân. Những thế hệ đã nằm yên dưới mộ cũng bị dựng dậy để khai trước Ðảng họ là ai.
Mà có phải viết một lần là xong đâu. Thỉnh thoảng lại có lệnh viết lại lý lịch, không biết để làm gì. Trong kháng chiến lý lịch bị mối xông phải viết lại đã đành, hòa bình rồi vẫn viết và viết.
Thuyên chuyển công tác - viết, chuyển cơ quan - viết, đi học nghiệp vụ - viết, vào Ðoàn (6) - viết, vào Ðảng - viết. Ðể khỏi phải viết quá nhiều, tôi nhờ cô văn thư cơ quan đánh máy sẵn cho một tập. Khốn nỗi người ta lại không nhận lý lịch đánh máy mới cực.
Tôi còn khổ với sự khai lý lịch ở chỗ tôi cảm thấy mình dối trá. Ðể tránh bị lục vấn lôi thôi, tôi lờ tịt một ông bác bên nội, một ông bác bên ngoại. Từ khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, nào tôi có biết hai ông ở đâu, làm gì. Chỉ biết hai ông dinh tê (7) vì không chịu được gian khổ, thế thôi. Nghe nói một ông buôn bán chi đó, ông kia làm thư ký Nhà Dây thép (Bưu Ðiện). Có anh cán bộ tổ chức chẳng hiểu tình cờ thế nào lại biết tôi có hai ông bác ấy, nhưng anh ta lờ đi cho tôi. Thế là tôi đâm ra mắc nợ. May là anh ta chỉ vì cảm tình cá nhân với tôi chứ không có ý lợi dụng.
Sự quản lý cán bộ và dân chúng nói chung bằng lý lịch là đặc điểm chung cho tất cả các nước xã hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam, trong hai thập niên 50 và 60 nó được đẩy tới mức cao nhất nhờ chủ nghĩa thành phần. Nếu anh là bần nông, cố nông nữa càng tốt, ba đời không dính dấp gì với các giai cấp bóc lột, không có thân thuộc làm việc cho chính quyền cũ, đi lính chẳng hạn, thì anh được coi là cán bộ có lý lịch trong sạch, anh cứ yên tâm thẳng tiến. Ngược lại, chẳng may anh ra đời trong một gia đình giàu có, phú nông hoặc địa chủ, hoặc tệ hơn, cường hào gian ác, thì đời anh ra tóp (8). Một anh bạn cùng công tác với tôi có ông chú ruột ở miền Nam. Chẳng hiểu anh ta nghe ai nói, thành khẩn khai trong lý lịch có ông chú làm việc cho chính quyền Sài Gòn. Từ đó anh không được giao một công việc quan trọng nào, không được cử đi nước ngoài, mỗi lần xét tăng lương là một lần lý lịch anh được giở ra. Sau khi đất nước thống nhất mới biết ông chú làm cho địch của anh chỉ là một ông tùy phái trong một trường tư thục, gọi nôm là loong-toong.
Nhà báo Chính Yên mai mỉa :
- Khi nào có suất đi nước ngoài, nhất là các nước tư bản, thì chúng nó rêu rao thằng Chính Yên là con quan tuần phủ (9), để nó đi Tây cho nó chạy sang với địch à ? Còn khi nào phải sang Lào viết phóng sự chiến tranh thì chúng nó khiêm tốn nhường ngay cho đồng chí Chính Yên, đồng chí ấy có kinh nghiệm chiến đấu. Tổ sư đời !
Chính Yên làm biên tập viên báo Nhân dân, một nhà báo có tài theo chúng tôi đánh giá, một “bồi bút siêu hạng” theo anh tự nhận. Anh tham gia tổng khởi nghĩa Tháng Tám, chiến đấu bảo vệ thủ đô, là sĩ quan lâu năm trong quân đội. Nhưng suốt cuộc đời đi với cách mạng (đi theo cách mạng, nói cho đúng cách thời ấy), anh chỉ là kẻ ăn nhờ ở đậu, gánh vác mọi khó khăn, phần ngon anh chưa kịp nhường đã có kẻ khác hưởng.
Chẳng phải chỉ chúng tôi khổ về chuyện lý lịch. Ngay thủ tướng Phạm Văn Ðồng cũng khổ. Ông Ðặng Xuân Thiều, anh em con chú con bác với nguyên tổng bí thư Trường Chinh, không rõ từ đâu lại biết được câu chuyện hi hữu trong lịch sử nước ta, rằng do sự trớ trêu của số phận vị thủ tướng thâm niên cao nhất thế giới lại... chưa từng vào Ðảng cộng sản (10) bao giờ.
Huỳnh Ngự hài lòng. Tôi hoàn thành bản lý lịch một cách xuất sắc, không nói gì tới hai ông bác, cũng không bỏ sót đứa em nào.
- Anh thấy đó! Anh sinh trưởng trong một gia đình cách mạng nòi, có lý mô anh lại đi với bọn phản cách mạng? Con đường anh đi đã được Ðảng vạch sẵn. Ðó là con đường duy nhất: đi theo sự lãnh đạo của Ðảng, của Bác Hồ vĩ đại. Ðược đi dưới lá cờ vinh quang của Ðảng, của Bác là hạnh phúc vô cùng lớn lao của mỗi cán bộ cách mạng!
Từ trên bức tường đối diện, ngay trên đầu Huỳnh Ngự là Bác Hồ tiên phong đạo cốt, với vầng trán cao lồng lộng, cặp mắt anh minh và chòm râu thưa phơ phất, đang hiền từ nhìn xuống đứa cháu bị bỏ tù. Bên dưới chân dung Bác là lời Bác dạy “Công An Là Bạn Dân” viết nắn nót, chữ đỏ rực trên nền giấy vàng!
Chúa ơi, tôi đang ở đâu thế này ? Phải sống với một ông bác và đám bạn bè thế kia mà gọi là hạnh phúc được ư?
Tôi buồn. Hi vọng mau chóng được ra khỏi đây nguội dần.
Thành tìm cách an ủi tôi. Nhưng anh không vẽ ra một viễn cảnh dễ chịu, mà làm ngược lại - cho tôi quen với sự thật.
- Ai sa chân vào đây mà mang tội chính trị là coi như đời tàn. Anh ta chỉ có một sự lựa chọn : hoặc là quyết sống, hoặc là tự sát.
- Anh cho rằng với tù chính trị người ta cứ giam miết, không thả?
- Sao không? Có thả chứ. Nhưng người ta chỉ thả khi nào tin chắc tên tù đã mất hết ý chí. Mà biết đến mùa quít nào người ta mới tin chắc?
Trong những cuộc học tập chính trị, giảng viên bao giờ cũng nhấn mạnh mục đích tiêu diệt ý chí của địch. Tiêu diệt sinh lực đã đành là quan trọng, tiêu diệt ý chí mới là cơ bản. Tiêu diệt sinh lực cũng nhằm mục đích cuối cùng là tiêu diệt ý chí.
Bây giờ tôi là địch rồi. Họ sẽ sử dụng đối sách như đối với địch. Mà tôi có ý chí quái gì đâu cơ chứ!
- Anh có hay nhận được thư nhà không? - tôi hỏi Thành.
- Thi thoảng.
- Chị với các cháu lười viết à?
- Ðâu phải. Chấp pháp có cho nhận mới được nhận chứ. Thời gian mới bị bắt tôi không được nhận thư, người ta sợ thông cung. Sau, họ cho nhận, nhưng kiểm duyệt kỹ, cái nào đúng lập trường, khuyên mình cải tạo tốt thì họ cho nhận, thư nào có giọng oán trách Ðảng thì họ hủy. Ðược nhận thư hay không còn phụ thuộc vào thái độ cải tạo của mình nữa...
Tôi rõ ràng không phải là tù cải tạo tốt rồi, ngay từ ngày đầu tiên.
Cái sự vô công rồi nghề làm tôi rầu rĩ. Không rầu rĩ sao được khi cả ngày ngồi bó gối nhìn vào bức tường trước mặt và không sao xua đuổi được hàng đống bòng bong những ý nghĩ quậy lộn trong đầu.
Huỳnh Ngự cho quản giáo mang vào cho tôi mấy tờ Nhân dân có đăng “Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng”. Tôi hiểu: y muốn cho tôi thấy chúng tôi là loại tội phạm nào theo pháp lệnh này. Khi đã ra tù tôi có ý tìm lại, mới biết Trường Chinh ký “Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng” vào ngày 30.10.1967, nhưng hồi đó hoặc giả tôi không chú ý, hoặc giả mãi tới tháng 12 người ta mới đăng, nhưng tôi nhớ rất rõ rằng tôi được đọc nó trong Hỏa Lò, tức là vào cuối tháng 12 chứ không sớm hơn. Sự việc Trường Chinh ra sức hợp pháp hóa việc làm của Lê Ðức Thọ chứng tỏ Trường Chinh đã cum cúp tuân lệnh Duẩn-Thọ, chứng tỏ họ đã kết lại với nhau thành một băng rồi, và như vậy thì chúng tôi chẳng còn gì để mà trông đợi. Giọng hàn lâm phố huyện của pháp lệnh này, với những khái niệm mơ hồ về sự liên hệ với “nước ngoài” và “người nước ngoài” xới lên mảnh đất màu mỡ cho những hành động không kiềm tỏa của bọn độc tài.
Thành nhìn tôi ái ngại. Bằng những câu chuyện xa xôi, anh khuyên tôi đừng tuyệt vọng. Người tù mang tâm trạng tuyệt vọng sẽ thua ngay từ trận đầu trong cuộc chiến dai dẳng với những nỗi khốn khó trong cuộc sống giam cầm. Người tù chỉ có thể sống được đến ngày ra khỏi nơi tù ngục nếu anh ta không để nỗi tuyệt vọng hủy hoại. Cách tốt nhất là buộc mình quên mình đi, tự xóa sổ sự hiện diện của mình đi trong tâm thức, như cách các đạo sĩ yoga thường làm.
Tôi buồn rượi. Làm sao học được cách biến mình thành gỗ đá vô tri vô giác đây? Con người từ tấm bé vốn chỉ quen học sự khẳng định mình, bằng mọi cách nó nhắc nhở mọi người rằng nó có, nó đang hiện diện trong cộng đồng, nó không phải vô hình vô ảnh, thế mà giờ đây nó lại phải học cách quên mình đi, xóa mình đi, khốn nạn là thế!
Phải mất bao nhiêu thời gian tôi mới học được nghệ thuật đó?
Viên cai ngục không nhắc nhỏm gì tới việc tôi nhờ anh ta nữa. Tôi nghĩ anh ta chưa có thời gian.
Sau mới biết lời hứa của cai ngục với tù là thứ lời hứa tào lao nhất trần đời. Chẳng bao giờ anh ta nhắn hộ tôi cả.
Sau mấy ngày hỏi cung liên tục, với những câu hỏi lăng nhăng nhảy từ đề tài này qua đề tài khác, đề tài nào cũng xa cách cái mà tôi rất muốn biết - họ định buộc tôi vào tội gì - Huỳnh Ngự bỗng nhiên bỏ bẵng, không gọi tôi ra đi cung tiếp.
Một hôm tôi lại bị điệu ra. Lần này không phải đi cung. Ðón tôi là mấy tay công an trẻ, lạ hoắc.
Họ đưa tôi tới một góc sân đầy rêu, bảo tôi ngồi xuống một cái ghế đẩu, đàng sau là một mảnh vải xám bẩn thỉu mắc vào một sợi dây phơi quần áo.
Thì ra họ đưa tôi ra chụp ảnh, lăn tay. Một phó nháy ra lệnh cho tôi ngồi trong mọi tư thế thẳng, nghiêng phải, nghiêng trái. Tôi phải đeo một biển số trước ngực, đúng cách chụp ảnh tội phạm.
Một người khác, phụ việc cho anh ta, ép mười đầu ngón tay tôi vào cái bảng mực in đen xì để lấy dấu. Sau đó tôi được đưa đi rửa tay. Không có xà phòng, tôi phải chà tay vào đất cát đến khi hai bàn tay đỏ ửng. Thế mà cái mực in quái ác vẫn không đi. Cả tuần sau tay tôi vẫn còn đen.
Thế là rõ. Ðây là cách người ta làm với tù chứ chẳng phải xử lý nội bộ gì hết.
Tôi cho rằng diễn biến của tình hình có chiều hướng xấu đi, chí ít thì cũng không tốt lên. Là đoán vậy thôi, chứ làm sao biết được ở ngoài kia cái gì đang xảy ra. Từ khi vào xà lim tôi không được đọc một tờ báo nào.
Que sera sera (11), ngồi bó gối trong cái chuồng chật hẹp tôi hát khẽ, tự an ủi, tự khuyến khích, cảm thấy lòng mình dần tĩnh lại. Bên ngoài, bầu trời mùa đông vẫn xám xịt một màu chì bức bối.
Thường một lần đi cung kéo dài cả buổi sáng hoặc chiều, thành thử tôi cứ đinh ninh trong lúc tôi vắng mặt những người tù ở xà lim bên cạnh cũng bị gọi ra đi cung như tôi. Hóa ra không phải.
Chỉ những người mới bị bắt mới đi cung nhiều. Sau một thời gian làm việc liên tục, thỉnh thoảng họ mới bị gọi ra. Thành nói anh không đi cung đã hơn hai tháng. Có xà lim cả năm không đi cung.
Cũng Thành cho biết, ở Hỏa Lò có vài khu xà lim nằm rải rác ngoài rìa, giữa là trại chung gồm những nhà giam lớn mà tôi đã đi qua. Nơi chúng tôi đang ở gọi là xà lim 3, nằm ở khu vực bên trái Hỏa Lò, gần nhà bếp. Con đường gần xà lim 3 nhất là đường Hai Bà Trưng. Nhà tôi nằm ở đầu đường đàng kia con đường này, phía sông Hồng. Từ đây đi bộ về nhà tôi mất chừng mười lăm phút.
Tù xà lim Hỏa Lò không được đi dạo hàng ngày. Cũng không được đọc báo, không được mượn sách. Tôi đồ rằng Hỏa Lò không có cả thư viện cho công an, đừng nói gì thư viện cho tù. Nói tóm lại, nó chẳng giống như cái nhà tù mà tôi hình dung qua sách báo và phim ảnh nước ngoài.
Một ngày cửa xà lim được mở ra năm lần: buổi sáng một lần cho tù ra đổ bô, rửa ráy; trưa và chiều mỗi bữa hai lần cho tù nhận cơm và trả bát rếch. Thay vào viên cai ngục nông dân hôm trước là một người đàn ông, cũng dáng nông dân nhưng đã được cách tân, rất hách dịch, rất ít lời, tù sợ một phép. Thành nói y tên Hách, nhưng tôi đồ rằng đó là biệt hiệu tù đặt cho y chứ không phải tên thật. Quả vậy, tên cúng cơm của y là Dư, chắc hẳn cha mẹ y đặt cho với hi vọng đời y sẽ sung sướng trong thừa thãi.
Cai ngục thường không tự giới thiệu tên họ với tù. Phép lịch sự ở đây đại khái cũng giống như phong tục nước ngoài, người ta biết nhưng không theo. Viên cai ngục thoạt vào Hỏa Lò tôi gặp có hai biệt hiệu: Sứ giả Hòa bình hoặc Ðiền Mũi đỏ. Tên Sứ giả Hòa bình là do tù đặt. Viên quản giáo này bao giờ cũng thân mật đáp lễ khi tù chào chứ không kênh kiệu lặng thinh như các quản giáo khác. Ði kiểm tra khu xà lim anh ta luôn dừng lại ở các judas, nói một câu hỏi thăm, cho tù lửa hút thuốc hoặc vui vẻ đáp lại một câu hỏi về ngày giờ. Người tù cảm thấy mình được an ủi với một viên quản giáo như thế. Ðiền là tên thật. Anh ta có cái mũi lúc nào cũng đỏ lựng như mũi người nát rượu, mặc dầu anh ta không phải dân nghiện.
Tôi thích quan sát Hách. Tôi nghĩ nếu rồi đây tôi có may mắn được làm phim về nhà tù Việt Nam thì anh ta sẽ là nguyên mẫu không chê vào đâu được. Cai ngục phải như anh ta mới đúng là cai ngục chứ. Một vai cai ngục giống Sứ giả Hòa bình thì thể nào cũng bị khán giả chê, cho là không giống, không đúng. Thế mới biết cuộc đời phong phú hơn trí tưởng tượng, còn chúng ta thường nô lệ những hình dung giáo điều.
Thấp bé, với số tuổi đáng trọng, Hách đi những bước đĩnh đạc, khoan thai, rõ ràng là vay mượn, nhưng đã nhập thần. Người tù cúi đầu len lén chui qua cái nhìn lừ lừ bên trên cặp tròng kính lấp loáng của viên quản giáo quyền uy. Hách đứng đó, nhìn những con vật ở trong chuồng chui ra, mái đầu còn xanh của y hơi cúi, như thể bị sức nặng của vẻ đường bệ đè xuống, đôi giày tây khẽ nhún nhẩy trong một nhịp chậm chạp cố ý. Tôi khoái mẫu người của Hách đến nỗi nhiều lần tôi bắt chước dáng điệu trịnh trọng của anh ta. Thành cười rúc rích khen tôi bắt chước khéo, còn tôi thì hình dung nếu có lúc phải hướng dẫn cho diễn viên thì phải biết cách đóng thế nào cho thật giống.
Khi mở cửa xà lim bao giờ Hách cũng lùi ra xa, nhún nhẩy ở bức tường đối diện. Tôi nghĩ y cẩn thận, lo bị tù tấn công bất ngờ.
- Dào, có gì đâu. - Thành giải thích - Trong xà lim hôi thối lắm. Mình ở quen không nhận thấy chứ người ở ngoài vào uế khí xộc vào mũi chịu không nổi đâu.
Niềm mong ước của cha mẹ Dư đã thành. Y không giàu, nhưng so với các quản giáo khác, y có nhiều thứ sang trọng hơn người. Trong các trại giam mọi thứ đều rẻ - một phong thuốc lào có thể đổi lấy một cái quần simili mới, một bao Tam Ðảo là giá cho một cái áo len. Thành kể cặp kính gọng đồi mồi của Hách giá ba cái bánh mì.
Kể ra ở trong xà lim ngày này qua ngày khác mà không có lần đi cung nào thì cũng chán. Ði cung cũng ví như một sự đổi gió, cho dù nó căng thẳng. Căng thẳng thì căng thẳng, vẫn còn hơn là sự đơn điệu kéo dài. Người tù ở hàng năm trong xà lim không đi cung hệt như con thú bị nhốt trong chuồng.
Nằm trong xà lim những ngày đầu tiên, ngoài nỗi nhớ vợ nhớ con, tôi bỗng nổi cơn nhớ Hà Nội da diết. Ai đời nằm giữa lòng Hà Nội mà nỗi nhớ cứ bổi hổi bồi hồi như thể mình đang ở nơi nào tít tắp bên kia địa cầu. Nhớ cồn cào. Nhớ lắm lắm. Bỗng thấy Hà Nội như một người. Bỗng phát hiện Hà Nội có bộ mặt không lẫn với bất cứ bộ mặt nào khác. So sánh Moskva với Hà Nội, tôi thấy Hà Nội đáng yêu vô cùng. Có lẽ chỉ có người Hà Nội mới coi thành phố là ngôi nhà của mình. Người Moskva coi Moskva là thành phố, là tài sản của nhà nước. Người Moskva chỉ ra đường khi có việc. Người Hà Nội bắc cái chõng ra hè, ngồi đấy mà cảm thấy như ngồi trong nhà. Sau năm 1954 người tứ chiếng theo chân đoàn quân chiến thắng ùa vào, người Hà Nội tản mát khắp bốn phương trời, kẻ di cư vào Nam, người bị đẩy đi mạn ngược lập vùng kinh tế mới.
Tưởng chừng Hà Nội không còn là Hà Nội nữa, thế mà không - Hà Nội vẫn là Hà Nội. Nó nuốt chửng những người xa lạ vào lòng, nhào nặn họ theo kiểu của nó, biến họ nếu không thành người Hà Nội hẳn thì cũng thành người của hè phố, nhưng là hè phố của nó.
Tôi là người Hà Nội tính theo đàng mẹ. Hà Nội là quê ngoại của tôi, là nơi tôi ra đời, vì mẹ tôi là “con gái hàng Bạc”. Người Việt vẫn quen với phụ hệ, tính quê theo bên nội, mà như thế thì tôi lại là người của đồng bằng đất thịt.
Ðể về quê, tôi phải đáp xe lửa tới Nam Ðịnh, qua Ðò Quan sang hữu ngạn sông Hồng, đi ô tô theo đường hàng tỉnh số 21 tới thị trấn Cổ Lễ rồi từ đó cuốc bộ vài cây số nữa theo con đê Vàng mới về đến làng. Tôi cũng gắn bó với cái quê nội đất thịt lắm, một phần tuổi thơ của tôi đã trôi qua ở đó. Thỉnh thoảng ở đâu đó bên ngoài Hỏa Lò người ta đốt lá rụng đầu đông, gió đưa khói những đống lá cháy âm ỉ lọt vào tận xà lim, y như khói những đống rấm ở nông thôn, và thế là nỗi nhớ cái quê đất thịt lại nổi lên xao xuyến lạ lùng.
Những ngày đầu tiên trong tù tôi không hề nghĩ tới một thời hạn giam giữ lâu tới vài năm. Chỉ vài tháng thôi, trong cái chuồng người gọi là xà lim, đã đủ chết rồi.
Suốt ngày anh bạn tù của tôi ngồi bó gối nhìn chòng chọc vào một điểm nào đó rất xa, mặc dầu trước mặt anh là bức tường xám xịt lốm đốm máu muỗi máu rệp và những tên người, trái tim bị mũi tên xuyên thủng, hai cổ tay bị xích, ngày bị bắt, những lời than van, những lời nguyền rủa, những câu chửi đời... Thành thử bức tường vì thế giống vách đá chùa Hương hoặc hang Ðầu Gỗ trên vịnh Hạ Long.
Lâu lâu đang ngủ Thành choàng tỉnh, ngồi dậy cục cựa một lát để sửa soạn cái nghi thức trang trọng của sự hưởng lạc trong xà lim. Trước hết, anh sờ soạng lấy cái điếu và gói thuốc giấu trong bọc quần áo ra, vê rất lâu những sợi thuốc màu cánh gián cho tới khi chúng xoắn vào nhau thành một viên tròn xoe đúng kích cỡ và tiêu chuẩn ngầm định rồi mới từ tốn nhồi vào nõ. Những sợi rơi ra ngoài được anh thu vén nhặt cho bằng hết cho khỏi phí. Ðoạn, anh khẽ khàng quẹt diêm lấy lửa, châm vào mảnh giấy đã vê sẵn thành đóm, dùng đóm này hút thuốc. Hút xong, Thành từ từ nhả khói rồi gục mặt vào hai đầu gối hồi lâu, người hơi đung đưa. Ðó là anh đang ngụp mình trong khoái lạc mà điếu thuốc mang lại.
Tôi thèm thuốc lá lắm nhưng làm sao có được nó trong bốn bức tường xà lim bây giờ? Thành mời tôi thuốc lào, nhưng lần nào hút tôi cũng ho sặc sụa.
Tôi không thể đừng để không nói thêm vài lời về cái điếu tự tạo của anh bạn tù. Nó là một cái hộp dẹt, hình chữ nhật, làm bằng hai vỏ bao diêm ghép lại, được bồi cho cứng thêm bằng giấy. Nõ điếu là khúc đầu của tuýp kem răng lộn ngược. Cái điếu có bề ngoài sặc sỡ bởi những ảnh mầu cắt trong họa báo, chắc hẳn từ giấy gói đồ tiếp tế. Tuy không có nước bên trong nhưng cái diếu kín hơi và thỏa mãn được cơn nghiền chẳng kém gì điếu ống hoặc điếu bát.
Ðể tiết kiệm diêm Thành chẻ một que thành hai, dùng tới đâu chẻ tới đó. Khi tôi vừa vào anh còn kín đáo quay mặt vào tường để chẻ diêm, cái chăn lòa xòa che khuất hành động giấu giếm. Trong xà lim chỉ có hai người với nhau, giấu cũng chẳng được, anh đành tiết lộ:
- Trong tù cấm ngặt không được giữ dao hoặc vật gì có thể dùng làm dao. Chết nỗi con dao ở đây lại cần lắm, bao nhiêu việc phải dùng nó, không có không xong: cắt móng chân móng tay, vót que tăm hay là chẻ diêm thế này chẳng hạn... - anh rì rầm giải thích - Không phải người ta sợ mình dùng dao đâm cán bộ đâu, thứ dao này thì đâm chết ai, cơ mà người ta sợ cái khác...
Anh cho tôi xem con dao anh chế tạo. Nó là một mẩu sắt đai thùng dài lối bốn năm phân, rất bén.
Tôi không hiểu anh làm cách nào để cho mẩu đai thùng nọ trở thành cứng và bén như thế. Trong xà lim tất nhiên không có lửa để tôi, không có đá để mài. Với kích cỡ liliput con dao dễ dàng chui gọn vào nẹp quần nẹp áo.
- Họ sợ tù tự sát?
- Cũng chỉ trong thời kỳ giam cứu thôi. - Thành lắc mạnh cái đầu bù xù - Trong thời kỳ này, là khi còn đang hỏi cung, cán bộ chấp pháp phải chịu trách nhiệm về người tù. Có trường hợp cán bộ chấp pháp dọa dẫm thế nào không biết, anh tù vừa mới vào được mấy ngày đã treo cổ chết tốt. Ðiều tra xong mới biết anh ta chẳng có tội tình gì ráo. Dĩ nhiên, trách nhiệm là liên đới - không riêng cán bộ chấp pháp, cả cán bộ quản giáo, cả bộ đội gác cũng có khuyết điểm.
- Chỉ là khuyết điểm thôi ư? Có ai trong bọn họ bị truy tố không?
- Làm gì có! Tất nhiên, cũng bị lôi thôi tí chút. Giả thử anh tù nọ bà con với cán bộ cỡ, người ta moi móc ra, cố tình kiện cáo thì cũng phiền lắm đấy. Nhưng kiện công an thì phải coi chừng, công an người ta bênh nhau lắm, có khi đã chẳng được gì mà còn mắc vạ. Con kiến mà kiện củ khoai. Với dân đen thì họ chẳng lo, cứ lờ tịt đi là xong. Thằng tù ấy mà, cái mạng nó có giá gì!
- Anh tù lấy đâu ra thừng mà treo cổ?
- Xì, có gì khó, xé cái quần ra, hoặc cái chăn, bện lại một loáng là xong.
Thảo nào, người ta phát cho tôi cái quần không có dải rút.
- Còn xong cung rồi thì xin mời, muốn tự sát tự sinh gì mặc mẹ mày. Càng đỡ tốn gạo. ấy là nói tù xà lim, chứ tù ở các trại làm ra của cải gấp bao nhiêu lần tiền nuôi họ ấy chứ. Thử tính mà xem, nuôi thằng tù hết có mười hai kí rưỡi gạo một tháng, mà nó làm như trâu, nó chẳng cần ai nuôi, tự nó làm ra cái để nuôi nó, nhà nước chẳng mất gì sất. Nước sông công tù, đã có câu như vậy.
- Thế thì nhà nước lợi nhỉ? Càng nhiều tù càng lợi.
- Thời Pháp thuộc chỉ có mấy trại ai cũng biết tên Hỏa Lò là một, Chí Hòa là hai, Sơn La là ba, Ban Mê Thuột là bốn, Lao Bảo là năm, Bá Vân là sáu, Côn Ðảo là bảy... - Thành thủng thẳng liệt kê các nhà tù của Tây - đếm đầu ngón tay còn thừa. Thời ta thì sao? Trung ương hàng chục trại, tỉnh nào cũng trại... Chẳng nói đâu xa, ngay ở Hà Nội ngoài cái Hỏa Lò ra, còn có một nhà tù nữa, cũng lớn lắm, thuộc Bộ quản lý, là trại B, hay là trại Thanh Liệt. Ông có nghe nói đến trại Thanh Liệt bao giờ không?
- Không.
- Ông không nghe nói là phải. Chẳng ai biết cái trại này đâu, người ta giữ kín lắm. Nó đâu ở gần thị xã Hà Ðông. Xà lim ở đấy mới thật ác, không có chút ánh sáng nào lọt vào. Diện tích còn hẹp hơn xà lim Hỏa Lò nhiều. Mấy ngày rồi ông chưa đi cung nhỉ?
- Bốn.
Anh gật gù.
- Lạ thật. Thường tù mới bắt vào người ta hỏi cả ngày lẫn đêm, cho đến khi mệt lử ra rồi họ còn chưa tha, đàng này... Cái ông chấp pháp của ông có dễ chịu không?
- Tôi không rõ anh cho thế nào là dễ chịu? Có thể tay này là dễ chịu cũng nên, phải qua vài tay mới so sánh được. Mà này, anh có biết vì sao người ta gọi cái anh công an hỏi cung là chấp pháp không? Trước kia người làm việc hỏi cung gọi là dự thẩm, nếu tôi không nhầm.
Thành suy nghĩ một lát.
- Tôi nghĩ đó là do mấy chữ chấp hành pháp luật nói tắt.
Cách Thành giải thích không đủ thuyết phục tôi.
- Chấp hành pháp luật thì mọi công dân đều phải chấp hành. Nếu anh ta thừa hành pháp luật thì sao không gọi là thừa pháp, hoặc hành pháp? Lại còn cái lối nói đi cung nữa, nghe chướng không chịu được.
- Thoạt kỳ thủy, tôi cũng không hiểu như ông, nghe cũng chướng lắm, nghe mãi rồi quen, thấy nó cũng bình thường. Ngôn từ trong ngành công an này tựa như tiếng lóng của lưu manh vậy, không ở trong nghề chúng nó nghe cứ như vịt nghe sấm. Thế mà ở tù ít lâu là hiểu hết, chẳng cần ai giải thích.
Cách so sánh của Thành làm tôi bật cười.
Thành kiên nhẫn giải thích cho tôi những điều đối với tôi là lạ lẫm, anh độ lượng không coi lỗ hổng kiến thức của tôi là sự đần độn. Mà làm sao tôi có thể biết được những từ quỷ quái ấy kia chứ, khi trại giam là một thế giới cách biệt hoàn toàn với thế giới người thường. Người đọc Việt Nam hầu như chẳng biết gì về cái thế giới đóng kín ấy. Ðề tài trại giam là đề tài cấm kỵ. Các nhà báo không được phép thò mũi vào công việc của ngành trừng phạt, xin lỗi, tôi nói nhầm, ngành cải tạo. Trong những người tôi quen chỉ có anh Trần Ðĩnh, phóng viên báo Nhân Dân, là đã có dịp tham quan Hỏa Lò để lấy tư liệu cho cuốn hồi ký Bất Khuất anh ghi chép cho ông Nguyễn Ðức Thuận. Trần Ðĩnh rồi cũng rơi vào số những người bị gọi là xét lại hiện đại, nhưng anh chỉ bị ép về hưu non, bị trù úm, chứ không bị đưa vào ở trong những cái xà lim anh đã được xem ở Hỏa Lò.
Thảng hoặc cũng có vài nhà văn nhà báo được mời đi xem để viết về trại giam xã hội chủ nghĩa.
Họ ngồi trên com-măng-ca phóng vù vù qua những cánh đồng, những lán sản xuất thủ công của tù để tối đến dự các cuộc chè chén với Ban Giám thị, với tư cách khách quý của ngành. Ðể hiểu tâm tư người tù, họ vừa ngồi xỉa răng vừa nghe anh tù do Ban Giám thị lựa chọn cho gặp. Anh tù, tất nhiên, một mực ca tụng hệ thống cải tạo của Ðảng và Nhà nước. Về sau tôi có được đọc mấy bài báo loại này. Cứ như mấy nhà văn nọ miêu tả thì hệ thống cải tạo của Việt Nam là tuyệt hảo, là cây gậy thần gõ vào đầu tên tội phạm nào là tên ấy lập tức cải tạo tốt, thành người tử tế, thành công dân lương thiện, thậm chí thành công dân gương mẫu.
Trong thời gian ở trại Phong Quang (Lao Kai) tôi biết nhà văn Bùi Huy Phồn tức Ðồ Phồn có đến thăm trại này. Chắc chắn ông phải biết tôi đang ở đó, nhưng ông không gặp tôi, hoặc vì người ta can gián, hoặc chính ông coi tôi là tên cầm bút phản động. Những người tù được Ban Giám thị lựa chọn trong số cải tạo tốt sau cuộc gặp gỡ kể rằng họ vừa gặp “một thằng nhà văn nói láo nhà báo nói điêu”.
- Thế còn cai ngục? Bây giờ được gọi là quản giáo, có phải vì ngoài việc canh giữ cho tù khỏi xổng anh ta còn phải dạy dỗ chúng mình không?
Thành cười toác. Anh có tiếng cười thật hồn hậu.
- Làm gì có chuyện dạy dỗ! Trình độ của quý vị ấy thường chỉ trên mức thoát nạn mù chữ một ít thôi thì hỏi giáo dục ai? Giáo dục cái con khỉ!
Anh cho biết ngành công an đặc biệt coi trọng lý lịch cán bộ. Người được chọn vào ngành này nhất thiết phải thuộc thành phần cơ bản (tức là bản thân hoặc cha mẹ thuộc các tầng lớp vô sản - công nhân, nông dân hoặc bộ đội), hơn thế, phải tuyệt đối trong sạch, tức là không có dây mơ rễ má gì với các giai cấp bóc lột bởi huyết thống, trực hệ cũng như bàng hệ. Người ta nói vào ngành công an bị truy xét lý lịch bốn đời là chuyện không ngoa đâu, nếu không phải bốn thì cũng ba.
Nếu anh đã là công an thì con anh, cháu anh được nhận vào công an dễ hơn hẳn so với người khác, cho dù họ cũng con bần cháu cố. Cũng theo Thành thì trong ngành này đông nhất dân Thanh Nghệ Tĩnh, những tỉnh không có chiến sự trong kháng chiến chống Pháp. Những cán bộ đắc thọ này, kháng chiến thành công rồi, mới dắt díu con cháu vào theo. Trong ngành quản lý trại giam nhiều người Sơn Tây và Thanh Hóa, cái đó cũng có ý nghĩa truyền thống - hai tỉnh này có những trại giam đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tôi nghe Thành dẫn giải, phục lăn. Càng ngày tôi càng tin Thành không phải một tên giết người.
Anh phải là cán bộ đã lăn lộn nhiều, hiểu biết rộng, có cách nhìn nhận, phân tích sự việc sắc bén, chứ nhất quyết không phải cán bộ thường. Dần dà, qua những câu chuyện tâm tình tôi thấy trong anh lộ ra hình ảnh một cán bộ quân đội lâu năm, dày dạn kinh nghiệm. Bằng cách gợi đến những chiến dịch lớn trong kháng chiến chống Pháp, nhắc đến những người tôi quen ở các cấp tiểu đoàn, trung đoàn, Thành cho biết anh đã từng gặp ai trong những người đó. Quan hệ giữa chúng tôi vì thế càng thêm gần gụi. Ðiều tôi không hiểu là nguyên nhân nào làm anh không dám thổ lộ với tôi về vụ án của anh ?
Khi tôi làm ra vẻ tình cờ nói tới tướng Ðặng Kim Giang, hỏi anh có biết tướng Giang không thì anh nói :
- Ông ấy tôi biết. Ông ấy còn có một cái tên nữa là Lý Giang. Chả là trước ông có chân lý trưởng hay phó lý trong hội đồng kỳ mục (12). Thế mà tác phong lại rất chi là bình dân mới lạ, lính tráng lắm. Hồi Ðiện Biên ấy, tiếng là ông Trần Ðăng Ninh làm tổng cục trưởng, chứ toàn bộ công tác hậu cần cho mặt trận này, tôi biết, là do một tay ông Giang lo, công to lắm. Anh cũng biết ông Giang à ?
Tôi lắc đầu :
- Tôi không quen.
Lát sau, tôi nói thêm :
- Nghe nói ông ấy vừa bị bắt.
Ðang nằm gối đầu trên đôi tay, Thành bật dậy :
- Sao? Anh nói sao? Bậy, làm gì có chuyện ấy được? Ông Giang là bậc lão thành cách mạng, hoạt động chống Pháp từ trước khi có Ðảng, là bậc khai quốc công thần, công lao còn hơn cả mấy ông lãnh đạo bây giờ, ai bắt được ông ấy?
Nhìn vẻ mặt Thành, tôi hiểu tin này làm anh choáng váng.
- Vừa qua nhiều người bị bắt lắm. Cùng bị với thiếu tướng Ðặng Kim Giang còn có một số người nữa, như viện trưởng Viện Triết học Hoàng Minh Chính...
- Anh nghe nói hay biết chắc?
- Tôi nghe, nhưng chuyện đó là chắc chắn. Cả Hà Nội biết.
- Lạ thật! Lạ thật! - Thành lẩm bẩm - Phải anh Hoàng Minh Chính trước kia làm công tác thanh niên không ?
- Chính anh ấy. - tôi đáp.
- Tôi không quen Hoàng Minh Chính, nhưng nghe tiếng anh ấy thì nghe nhiều - anh nói, tư lự - Anh Chính này hồi 54 lãnh đạo một đội quyết tử quân đánh sân bay Gia Lâm mà, người giỏi lắm, được ông Trường Chinh quý lắm. Sao lại thế được? Chà chà, chuyện gì đang xảy ra ở ngoài kia vậy? Anh còn nghe nói những ai bị nữa ?
- Cục trưởng Cục quân báo Lê Trọng Nghĩa, anh biết chứ?
- Anh Nghĩa, cục trưởng Cục 2?
Thành kêu lên. Lần này anh nhảy hẳn sang bên phản tôi.
- Thật thế không? - anh thì thào.
- Thật. Anh biết anh Nghĩa à?
Thành vỗ đùi đánh đét.
- Biết quá đi chứ. Ai nữa?
- Còn ai nữa nhỉ? À, còn ông này, không biết anh có biết không: ông Vũ Ðình Huỳnh, nguyên vụ trưởng Vụ Lễ tân Bộ Ngoại giao?
Thành trợn mắt.
- Cả ông Vũ Ðình Huỳnh nữa ư?
Tôi giả bộ ngạc nhiên :
- Anh cũng quen ông ấy?
- Không. - Thành thần ra, lắc đầu - Tôi cũng chỉ biết tiếng. Trước ông này làm bí thư cho cụ Hồ.
- Ðúng đấy.
Thành bậm môi suy nghĩ rồi thở dài :
- Tôi biết tiếng ông ấy là do thế này. Tôi có anh bạn thân, anh ấy chịu ơn ông ấy lắm. Nếu không có ông Vũ Ðình Huỳnh thì ông cụ anh ta đã bị bắn. Công ông ấy là công sống tết chết giỗ với gia đình bạn tôi. Hồi Cải cách ruộng đất nghe nói ông ấy còn cứu nhiều người nữa, không phải chỉ mình gia đình anh bạn...
- Chuyện ông Huỳnh bị bắt là chính xác. Nhà ông chú tôi ở sát nách nhà ông ấy, tin ấy không sai được. Ông chú tôi còn trông thấy công an xích tay ông ấy giải đi.
- Chà chà, - Thành buồn bã lắc đầu - Chẳng lẽ cụ Hồ còn đấy mà lại để mặc cho người ta muốn làm gì thì làm?
Tôi im lặng một lát rồi nói :
- Biết đâu chả phải chính cụ Hồ muốn thế? Anh thử nghĩ mà xem: Cụ là lãnh tụ tối cao cơ mà, ai dám qua mặt Cụ.
- Anh nghĩ thật như vậy à?
Anh nhìn tôi như nhìn một tên khiêu khích.
- Tôi không biết, - tôi lắc đầu - nhưng trước nay có việc gì quan trọng ở đất nước mà không có sự chỉ đạo của cụ Hồ?
- Ừ nhỉ.
Thành thở dài :
- Tội nghiệp quá!
Ðúng là Thành chẳng biết gì về vụ án chúng tôi. Anh không đóng kịch.
- Anh có nghe nói vì sao các ông ấy bị bắt không?
- Ban Tổ chức Trung ương Ðảng có thông báo gì đó, nhưng chỉ trong phạm vi nội bộ Ðảng. Tôi không được dự, cũng không biết đích xác là thế nào. Nghe nói các ông ấy bị buộc tội có  âm  mưu phản loạn...
- Bậy. Anh có tin thế không?
- Chuyện quốc gia đại sự ai thèm cho dân đen biết. Thông báo vậy thì biết vậy, biết có thật hay không?
Thành buồn xỉu. Anh bò về phản mình hút hai điếu thuốc liền.
- Không hiểu nổi! Chịu! Không thể tưởng tượng được!
Suốt hôm ấy anh không nói gì nữa. Một nỗi buồn, mà cũng có thể nỗi lo âu, xâm chiếm lòng anh. Trước khi đi ngủ, anh xem xét mọi xó xỉnh trong xà lim, rồi xuống ngồi bên tôi.
- Này, anh đừng có nói gì về chuyện hôm nay nhá! - anh thì thào - Nói chẳng có lợi gì đâu, mà hại cho cả hai. Ở trong nhà tù, tốt nhất là câu trả lời: không. Không biết, không nghe, không thấy.
- Tại sao vậy?
- Trong tù nó thế.
Tôi ngạc nhiên :
- Mình có nói chuyện gì ghê gớm đâu.
- Rồi anh sẽ hiểu. Nhà tù, nó phức tạp lắm. Phức tạp vô cùng. Tôi không dọa anh đâu, nhưng có khi chỉ vì chuyện không đâu mà mình đâm ra thêm tội. Tôi đã có một tội kinh tế rồi, thêm một tội chính trị nữa là tàn đời...
-------------
Chú thích
(1) Tên gọi An toàn khu của chính phủ kháng chiến tại Tuyên Quang - Thái nguyên (khu Việt Bắc). Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Tổng tham mưu cũng nằm trong khu vực này.
(2) Garde-corps theo tiếng Pháp.
(3) Ngày 1.2.1942, trong lễ khai giảng trường Ðảng của Trung ương Ðảng cộng sản Trung Quốc tại Diên An Mao đã đọc diễn văn về “Chỉnh đốn tác phong của Ðảng”. Ðó lần chỉnh phong đầu tiên ở Trung Quốc nhằm chống chủ nghĩa giáo điều, về thực chất là chống ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản.
(4) Tôi không nhớ rõ lắm, nhưng hình như trong những người này có Nguyễn Ðức Bình, về sau này là ủy viên Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương khóa VII.
(5) Hủ hóa ở đây không còn nghĩa gốc là tồi tệ đi, xấu đi, hư hỏng đi. Nó có nghĩa là sự ăn nằm với phụ nữ không phải vợ mình (ngủ với vợ hoặc chồng chưa cưới cũng bị coi là hủ hóa). Trong các cuộc chỉnh huấn người ta thường lục vấn nhau chuyện hủ hóa, dường như nó quan trọng hơn những khuyết điểm khác.
(6) Ðoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, về sau đổi tên thành Ðoàn Thanh niên Cộng sản Việt Nam.
(7) Bỏ vùng kháng chiến về nội thành, do tiếng Pháp entrer.
(8) Nghĩa là không ra cái gì, theo cách nói hồi ấy.
(9) Thực ra Chính Yên cũng không phải con quan tuần. Cha anh chỉ là một ông huyện, nhưng quê ở Hà Nội, nhà cửa khang trang, khiến những cán bộ không biết gì về hệ thống hành chính thời Pháp thuộc đôn ông lên làm ông tuần phủ.
(10) Ông Ðặng Xuân Thiều (1911-1965) tham gia cách mạng rất sớm, bị tù nhiều năm. Tôi tin ông nói có sở cứ. Cha tôi cho rằng trong chuyện này có lẽ chỉ có vấn đề thủ tục kết nạp không được rõ ràng (ngày tháng, người giới thiệu), do một sự ngẫu nhiên nào đó, chẳng hạn những người giới thiệu đã chết và không có ai xác nhận việc kết nạp, chứ cuối năm 1940 các ông Phạm Văn Ðồng, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan cùng dự một lớp huấn luyện ở Hoa Nam do ông Hồ Chí Minh tổ chức, điều này có nghĩa ngay từ hồi ấy ông Ðồng đã hiển nhiên là đảng viên cộng sản.
(11) Muốn ra sao thì ra (tiếng Tây-ban-nha).
(12) Một hình thái quản lý hương thôn cổ, gồm những người có uy tín trong làng, được tập hợp lại theo sự tiến cử của những bậc tiền nhiệm và các bô lão chứ không phải do dân cử, có nguồn gốc từ xã hội bộ lạc.

Chương 10

Con người có số mệnh hay không có số mệnh ?
Câu hỏi này luẩn quẩn suốt trong óc tôi vào những ngày tù đầu tiên. Tôi ghi lại ở đây câu chuyện về một hiện tượng thoạt nhìn có vẻ chẳng ăn nhập gì với cuốn sách nhưng là cái làm lung lay tận gốc thế giới quan tưởng chừng đã vững chắc trong tôi, ảnh hưởng tới tâm trạng tôi trong những năm sau này.
Trước hết, cần phải nói ngay rằng hồi ấy tôi duy vật từ đầu đến chân. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật trong tôi có nguồn gốc tầm thường. Cha mẹ tôi duy vật thì tôi duy vật, như lẽ đương nhiên phải thế. Nghe chuyện mẹ tôi kể thì vào thời con gái của bà chủ nghĩa duy vật đặt chân lên nước ta không phải với tư cách một triết thuyết mà như một cái mốt. Nó như ánh sáng điện bỗng bừng sáng trong ngôi nhà xưa nay leo lét đèn dầu. Phàm người thuộc thế hệ bà mà có chút ít tây học đều trở thành duy vật. Chí ít thì họ cũng khoe mình là như thế. Người có chân trong tổ chức cách mạng lại càng duy vật hơn ai. Duy vật đồng nghĩa với cách mạng. Bạn bè cha mẹ tôi đều duy vật cả, trừ ông Tiến cố. Ông có số phận long đong. Vốn là một nhà duy vật cuồng nhiệt, đảng viên Ðảng cộng sản, không hiểu sao ông nhảy sang Thiên Chúa giáo. Rồi trong một mưu toan đầy thiện chí nhằm làm mai cho hai thứ mà ông yêu, Thiên chúa giáo bác ái và chủ nghĩa cộng sản bạo hành, ông bị các đồng chí tống ra khỏi hàng ngũ (1).
Tôi chưa bao giờ tin cả thần thánh lẫn ma quỷ. Bà ngoại tôi sùng Phật, thích đi lễ chùa và ăn chay, làm việc bố thí. Bên nội hãnh diện về mấy đời theo Thiên Chúa giáo, xưng mình đạo gốc, chăm đọc kinh, chăm xưng tội chịu lễ. Bên ngoại lặng lẽ nhập đạo Phật với đạo thờ cúng tổ tiên, coi hai thứ là một.
Cha tôi bỏ đạo khi thành cộng sản. Việc cha tôi bỗng dưng không đi nhà thờ, không xưng tội chịu lễ không những chỉ làm cho ông bà tôi rụng rời chân tay. Nó làm cho cả họ nhớn nhác. Người làng xì xào cha tôi vào hội kín, vì thế ông bỏ đạo. Cha tôi nói ông bỏ đạo vì cho rằng thực dân Pháp đã dùng Thiên Chúa giáo để thôn tính nước ta. Mẹ tôi giải thích việc cha tôi bỏ đạo bằng sự tiếp xúc của cha tôi với ông Ðinh Chương Dương (2) và phong trào cách mạng. Ông cho rằng người cách mạng phải dứt khoát với mọi cái gắn liền với những mưu mô của thực dân.
Cái còn lại của đạo Chúa trong cha tôi là lời dạy của Ðức chúa Giê-su Ki-ri-xi-tô : “Hãy thương yêu người ta như mình vậy”. Ông thường căn dặn chúng tôi rằng nhân vô thập toàn, con người ta ai cũng có khuyết điểm, mình cũng vậy, cho nên phải độ lượng với nhau, phải sống khoan dung, nhân ái. Gặp hồi chỉnh huấn, cán bộ luôn miệng nói phải vì nhân dân quên mình, thì cha tôi cười.
Ông nói rằng chẳng bao giờ ông tin những người khoe họ yêu nhân dân hơn yêu bản thân. “Yêu người bằng yêu mình là tốt lắm rồi ! - ông dạy tôi - Chúa cũng chỉ dám mong người ta yêu người bằng yêu mình mà còn không xong. Hai ngàn năm rồi nhân loại vẫn chưa thực hiện được lời Chúa dạy, mà nay muốn thực hiện điều hơn thế là nói khoác”.
Mẹ tôi thờ ơ với cả hai thứ đạo. Bà không từ chối đi nhà thờ, không chăm chỉ đi chùa, nhưng cũng không phản đối các bà chị chồng đưa các con bà đi rửa tội, chịu Mình Thánh Chúa. Cả bên nội lẫn bên ngoại đều không trách được mẹ tôi, bà chỉ không siêng năng chứ không báng bổ đạo như cha tôi, nhưng cả hai bên đều ngấm ngầm không hài lòng về bà. Bà ngoại tôi không chịu được những lời sàm báng của con gái đối với giới sư sãi, nhưng nhất quyết bắt mẹ tôi phải trung thành với đạo thờ cúng tổ tiên thuần Việt, là thứ đạo mẹ tôi bao giờ cũng tôn trọng.
Vào thời gian xảy ra vụ xét lại chống Ðảng, tôi đang viết tiểu thuyết Pháo Ðài Xanh, cuốn sách được ấp ủ từ nhiều năm. Ðó là cuốn biên niên sử của một làng. Nó sẽ là hình ảnh của sự thay đổi diễn ra trên đất nước. Ngôi làng trong cuốn sách chính là quê nội của tôi. Tôi sống lâu hơn, nhiều hơn với cái quê nhà gạch và đường nhựa, nhưng trong tình cảm tôi gắn bó với cái quê nghèo bùn lầy nước đọng hơn.
Quê nội để lại dấu ấn đậm nét trong tuổi thơ của tôi. Nó là miền đất ruột rà của tôi. Nó chiếm hết tình yêu bé bỏng của tôi.
Tôi được mẹ tôi đưa về quê nội năm tôi lên sáu. Cha tôi vừa bị Pháp bắt. Mẹ tôi không thể cùng lúc vừa nuôi mấy anh em tôi, vừa đi làm thuê, vừa hoạt động cách mạng. Bà đưa tôi về quê cho bà chị chồng nuôi đỡ. Ðó là một bà già cô độc, cao lớn, mặt mũi dữ tợn, đuồn đuỗn như một cái phất trần, tên là bà Gái. Cô tôi sống trọn đời đồng trinh trong ngôi nhà ông bà tôi để lại khi đàn em của bà đã tứ tán phương xa. Trong thời gian mấy năm ở với cô Gái, tôi quyến luyến bà, và qua những lời dẫn tích của bà, nhà ái quốc chân chính của làng mình, tôi quyến luyến mảnh đất của cha ông.
Chúng tôi ở trong một ngôi nhà gỗ năm gian, với mấy gian nhà ngang bằng tre nứa mọc ra ở một đầu hồi, kết thúc bằng một gian bếp thấp tè và một chuồng lợn lụp xụp. Nơi đây các bác tôi, các cô tôi (tức là các bà chị của cha tôi) ra đời và lớn lên trong sự ấp ủ của cha mẹ, một ông nhà nho không gặp thời làm nghề bốc thuốc với một bà vợ không biết chữ, nhưng tần tảo và đảm đang, như bất cứ người vợ nào trong những năm xa xưa ấy. Trong ngôi nhà trước kia hẳn rất ồn ào, nay vắng lặng, chỉ còn hai cô cháu tôi, tôi tìm thấy những quyển vở bằng giấy bản với những chữ nho ngòng ngoèo - vở học của cha tôi khi ông bắt đầu ê a Tam tự kinh của một nền học đã chìm nghỉm trong quá khứ.
Tình yêu đối với đất nước ở mỗi con người cũng khó giải thích như tình yêu trai gái. Trong sáu anh chị em của cha tôi chỉ có mình ông đi làm cách mạng. Với đất nước ông có một tình cảm ruột thịt lạ lùng, khó hiểu đối với chính tôi, đứa con ông. Dường như ông không thể sống không có tình yêu dâng hiến đó, như tình yêu Chúa trong lòng tín đồ tử vì đạo. Tôi nhớ ông đã bực bội như thế nào khi đọc trong một cuốn sách giáo khoa của đứa cháu gái lời dạy của một nhà lãnh đạo cho học sinh rằng các cháu phải yêu nước vì “nước ta giàu và đẹp”. Ðó là tình yêu vụ lợi, chứ đâu còn là yêu nước, ông kêu lên, nếu nước ta nghèo và xấu thì sao ? không cần yêu nữa à ?
Mặc dầu rời bỏ quê hương từ khi còn nhỏ, cha tôi lúc nào cũng quyến luyến nó, và ông truyền tình yêu đối với mảnh đất ruột rà lại cho những đứa con mình.
Trong cuốn sách dự định, khởi đầu bởi tình yêu đó, tôi muốn ghi lại những số phận người trong làng tôi, một làng quê của đồng bằng Bắc bộ, như là hình ảnh thu nhỏ của cách mạng giải phóng dân tộc qua những thời kỳ tiền khởi nghĩa, kháng chiến chống Pháp, Cải cách ruộng đất... Tôi hi vọng qua những sự kiện xảy ra qua những số phận người trong một làng dựng nên một mảng lịch sử với những bước thăng trầm không phải chỉ của một thế hệ nông dân mang trong mình khát vọng truyền nối về một cuộc sống no đủ, thanh bình.
Mấy cuốn sổ tay của tôi kín đặc tên người tên đất, phong tục, tập quán, thổ ngữ, gia phả, thần phả, những phác họa nhân vật, tính cách, tiểu sử của những nhân vật ấy, cả những tư liệu về chức vụ, quân hàm của quân đội lê-dương, quân đội viễn chinh Pháp vv...
Kể chuyện này ra thì buồn cười, nhưng đúng thế: cái mà tôi còn thiếu cho cuốn tiểu thuyết là một ông thầy bói. Ông này, theo tư liệu thu được, phụ trách một cơ sở kháng chiến trong thành phố. Nhà chiêm tinh phương Ðông được viên đại tá tư lệnh xếch-tơ(3), một cựu sinh viên toán-lý ham nghiên cứu phương Ðông thần bí, coi như thầy học. Ông thầy bói cũng yêu mến đệ tử của mình. Trong ông tình yêu cuộc kháng chiến và tình yêu anh học trò đánh nhau chí tử.
Tôi không biết gì về bói toán, nhất là khoa tử vi. Từ ngữ của cái nghề cổ xưa nhất thế giới, tên gọi các vì sao không có thật trên bầu trời thế tục xa lạ đối với tôi. Ðể có được những nhân vật sinh động tôi không ỷ vào trí tưởng tượng vốn không được giàu có, mà thường tìm kiếm trong đời thực những nguyên mẫu cho tới khi có thể, như các nhà văn thường nói, sờ thấy được nhân vật tương lai. Hemingway chia xẻ kinh nghiệm viết văn cho người đi sau “Cái bịa lớn bao giờ cũng giống thật”. Tôi bịa kém. Tôi nghĩ khác : cái thật phong phú hơn cái bịa. Nói cách khác, cuộc đời mới là người bịa chuyện giỏi nhất.
Ðúng vào lúc tôi đang viết mấy chương đầu cho cuốn sách thì cha tôi bị bắt, nhà tôi bị khám, bản thảo bị tịch thu. Vào thời điểm rối ren như thế mà tiếp tục viết thì thật gàn dở, nhưng tôi không muốn công việc bị gián đoạn. Tôi chán nản, tôi hụt hẫng, tôi có cảm giác mình chẳng còn lúc nào để viết nữa. Tôi chạy tới với sáng tác như thể nó là cứu cánh. Mà cũng có thể tôi cần được ngụp lặn trong bận rộn để tách mình khỏi những ý nghĩ đen tối về tai họa đang đến.
Tôi đã gặp kẻ hủy diệt thế giới quan của tôi trong bối cảnh như vậy.
Ðồn rằng gần đền Hàng Trống có một ông thầy bói giỏi. Ông có thể nói ra vanh vách chuyện quá khứ của mình, còn những gì ông nói về tương lai thì sau nghiệm ra thấy đúng cả.
Người khuyên tôi đến xem bói là cô em dâu tôi, rất tin ở bói toán, và vợ tôi, vốn chẳng bao giờ mê tín dị đoan.
Ðược chứng kiến cảnh công an nửa đêm hùng hổ tới nhà bắt cha tôi, vợ tôi lo cho số phận của tôi. Mà số phận tôi cũng tức là số phận cái gia đình bé nhỏ mới được xây dựng gồm vợ chồng tôi và hai đứa con lít nhít, một trai một gái. Nếu tôi cũng bị bắt thì gia đình tôi tan nát. Lương vợ tôi không đủ nuôi thân, nói gì nuôi hai đứa con. Trong hoàn cảnh chúng tôi bất cứ ông thầy bói nào cũng đáng tin nghìn lần hơn một chính quyền dối trá.
Ông thầy bói mù cảm thấy sự có mặt của chúng tôi qua những tiếng dép bước rón rén vào nhà.
Ông nói, giọng sẽ sàng :
- Xin các vị chờ cho một lát.
Chúng tôi đến đã sớm nhưng có người còn sớm hơn. Ông thầy bói đang xem cho một bà đứng tuổi mặt mày thiểu não, luôn miệng vâng dạ, thỉnh thoảng lại suỵt soạt khấn khứa.
Nhà chật, ông hành nghề trên cái phản. Người trong nhà đi lại loẹt xoẹt, ra đụng vào chạm ầm ĩ, coi như không có ông. Chúng tôi ngồi ghé vào mép cái phản không mấy sạch sẽ. Tôi thất vọng.
Tôi tưởng sẽ gặp một cụ đồ nho thất thế với cặp mắt sáng anh minh, giọng nói sang sảng, chứ không phải ông già mù với đôi tay xương xẩu sờ soạng trên chiếc chiếu bẩn để tìm cái đĩa ông vừa đặt xuống. Giọng ề à ông nói với bà khách những chuyện tương lai tầm phào : tháng này bà có lộc, nhỏ thôi, nhưng cũng là lộc, còn tháng sau thì phải cẩn thận kẻo mất cắp, tháng sau nữa sẽ có người nhà ở xa về mang đến tin vui...
Ông không có chỗ trong cuốn tiểu thuyết của tôi. Ông sẽ lạc lõng trong đó như một nhân vật quặt quẹo. Ðã định đứng lên ra hiệu cho vợ tôi lẻn về thì quẻ bói của bà khách đến trước cũng vừa xong.
- Mời ông bà ngồi.
Vẫn yên vị, xếp bằng tròn, ông thầy bói quay mặt về phía chúng tôi, hướng rất đúng, như thể đàng sau cặp kính đen là đôi mắt sáng.
Ðành lê chân ngồi vào chỗ bà khách vừa bỏ đi.
- Sáng nay tôi độn, biết ông sẽ đến. - cặp kính đen nhìn tôi - Thánh dạy : có quý nhân đến nhà !
Trời đất quỷ thần ơi, tôi mà là quý nhân của ông ư, ông thầy bói ? Quý nhân theo cái nghĩa nào vậy ? Ông nhầm rồi. Tôi chẳng có thể là quý nhân trong bất cứ nghĩa nào, cho bất cứ ai.. Một ngàn lần không, ông thầy bói của tôi ạ, tôi không phải quý nhân trong bất cứ nghĩa nào, càng không thể là quý nhân của ông. Thậm chí tôi cũng chẳng còn tiền để đặt quẻ cho hậu hĩ.
- Không dám. - tôi lúng túng nói - Chúng tôi đến phiền xin cụ xem cho một quẻ.
- Vâng. Ông muốn xem hung cát ? Hay công danh, tài lộc ?
- Cụ cứ nói những gì cụ thấy, xin lỗi, những gì Thánh dạy...
Một nụ cười độ lượng thoảng qua mặt ông thầy.
- Xin ông cho biết ngày sinh tháng đẻ.
Tôi nói. Nhìn xéo qua cặp kính đen, tôi thấy một đôi mắt trắng đục - ông già bị lòa thật. Ông già ngẩng đầu lên, trán hơi nhăn lại, lẩm bẩm một hồi rồi sờ soạng tìm cái đĩa. Bằng hai bàn tay thành kính, ông nâng cái đĩa lên ngang trán, suỵt soạt khấn. Rồi hạ cái đĩa xuống, ông trầm ngâm gieo tiền. Ba đồng trinh rơi xuống mặt đĩa kêu rổn rảng. Sau khi rờ rẫm sờ từng đồng một để biết sấp ngửa, và hẳn cũng để kéo dài thời gian suy nghĩ, ông xoa xoa chúng trên mặt đĩa một lát rồi chậm rãi nói với tôi :
- Tôi sẽ nói ba điều. Nếu ông thấy tôi nói đúng thì ta xem tiếp. Nếu sai, tức là Thánh không cho, xin ông lại đây vào bữa khác.
Tôi sẽ không trở lại đây nữa, bất kể Thánh cho hay không cho.
- Xin cụ cứ nói.
- Thứ nhất, ông đã từng xuất ngoại.
Một câu chẳng quan trọng, không có ý nghĩa. Nhưng kể cũng lạ, căn cứ vào đâu mà ông già mù kia đoán được tôi đã ở nước ngoài ? Tôi không ở nước ngoài lâu tới mức giọng nói bị thay đổi. Một mùi lạ, xà phòng thơm hoặc nước hoa ? Cũng không có chuyện đó. Tôi vừa mới từ những hố bom trở về. Tôi tắm nước ngòi, nước ao tù, không xà phòng, chỉ cốt gột sạch bùn đất. Người mù có khứu giác tinh tường, nhưng ông không thể thấy ở tôi mùi nước ngoài nào.
- Có đúng vậy không ?
- Dạ, thưa cụ cứ nói tiếp.
- Thứ hai, mùa thu năm nay nhà ông có hỉ, hỉ qua tiếp đến hạn.
- Dạ ?
- Hỉ đây ứng vào anh em ông, hoặc em trai lấy vợ, hoặc em gái lấy chồng. Còn hạn, nó ứng vào cụ thân sinh ra ông.
Ông thầy bói nhẩn nha nói trúng vào những sự kiện vừa xảy ra trong gia đình tôi - mùa thu em trai kế tôi lấy vợ, sau đó đến cha tôi bị bắt. Tôi sững sờ.
- Sao mà lại có người số lận đận thế ! - ông già ngẩn người, tư lự - Lạ thật, lạ thật !
- Là sao, thưa cụ ?
- Cứ như Thánh dạy thì hiện nay cụ thân sinh ra ông đang mắc hạn tụng đình, tức là có chuyện lôi thôi nơi cửa quan...
Tôi vờ phản bác :
- Sao có chuyện thế được, thưa cụ ? Cụ thân sinh tôi đã về hưu, hiện sơ tán ở Tam Ðảo. Cụ đã có tuổi, chẳng làm gì để có thể mắc vào chuyện lôi thôi.
Ông thầy bói nghiêng đầu kiên nhẫn nghe.
- Vậy mà cứ như quẻ này thì cụ nhà bị bắt rồi.
Ông nói sau một lát im lặng, như thể khi tôi nói ông bận lắng nghe ai đó đang nói với ông, chứ ông không nghe tôi.
Tôi lặng đi. Có thể có sự thật như thế không : một ông già xa lạ, và ông ta biết được những việc xảy ra trong nhà người khác ?
- Nhưng...
- Lận đận quá ! - ông già lắc đầu ái ngại - Tính ra thì thời Tây Tây bắt, thời Nhật Nhật bắt, đến thời ta cũng không yên. Con người sao mà khốn khổ thế ! Cương cường quá, thẳng tính quá, nên mới bị tai vạ. Cự môn đắc địa lại gặp Hỏa tinh, Thất sát... Lại còn thêm mấy hung tinh nữa, mới nguy... Cứ như tôi suy thì cụ nhà không vướng vào chuyện kinh tế đâu, mà đây là chuyện chính trị...
Tôi không còn muốn chối nữa. Nhưng tôi chỉ nói :
- Tôi sẽ đi Tam Ðảo thăm cụ tôi ngay.
- Ông đi đi ! Tuy chẳng giúp gì được cụ nhà đâu, nhưng đạo làm con ông phải đi. Mà lạ, cụ nhà gặp nạn ít ra cũng gần cả tháng rồi mà sao không ai báo cho ông biết ?
- Thưa cụ, tôi vừa đi công tác khu 4 về.
Vợ tôi đưa mắt cho tôi.
- Bây giờ phiền cụ xem cho tôi.
Ông thầy bói cúi đầu xuống. Ngón cái đi những bước chậm chạp trên những ngón tay xương xẩu.
- Tôi nói thẳng ra nhá ?
- Vâng, cụ cứ nói thẳng.
- Thế này : chính ông cũng sẽ gặp hạn, ông ấy, nhưng không phải ngay bây giờ. Qua tháng này đã, trong tháng sau...
Tôi liếc vợ tôi. Mặt nàng nhợt đi khi nghe câu nói đó. Tội nghiệp, vợ tôi thương tôi biết bao nhiêu.
- Hạn sẽ xảy ra bất ngờ...- ông ta nói tiếp - Tôi biết, ông không tin đâu, nhưng nó sẽ đến đấy. Hạn này là hạn có kẻ gắp lửa bỏ tay người, việc không có nó bảo là có, việc xong rồi nó bảo là chưa...
Tôi suy nghĩ. Thế là thêm một người khẳng định tôi sẽ bị bắt. Khác ở chỗ người này không nhìn vào tình hình chính trị mà căn cứ ở những vì sao không có thật.
- Hạn liệu có dài không, thưa cụ ? - tôi hỏi.
Ông thầy bói lắc đầu :
- Tôi không nói trước được. Nếu ông cúi mình xuống, không cãi lại, người ta nói gì cũng gật, buộc cho mình cái gì cũng ừ, cứ nhận hết thì xong. Bằng không hạn sẽ kéo dài : hai thành bốn, bốn thành tám, tám thành mười sáu... cứ thế mà nhân lên mãi...
Vợ tôi nước mắt đã lưng tròng.
Xong quẻ, tôi đưa cho ông thầy bói nhiều hơn số tiền tôi định đưa. Tôi hỏi ông về chữ quý nhân mà ông dùng cho tôi thì ông nói :
- Quý nhân là người đáng quý, không có nghĩa nào khác. Không phải ông cho tôi tiền hay cho tôi quà mới là quý nhân. Mong còn có dịp gặp lại nhau.
Trước khi ra về tôi đặt câu hỏi cuối cùng :
- Thưa cụ, cụ đã xem cho nhiều người, biết nhiều số phận, tôi muốn hỏi cụ : có phải thời nay người xấu nhiều hơn người tốt không ?
Ông già cười khà khà :
- Cuộc đời phải có âm có dương, có đực có cái, có xấu có tốt, mới là cuộc đời chứ. Dĩ nhiên, có hồi âm thắng dương, có hồi dương thắng âm, tựu trung chông chênh là thường tình, cân bằng là hãn hữu. Ông có số nhìn xa trông rộng, ông thừa hiểu sự đời, còn hỏi tôi làm gì ?
Trong khi đối thoại với Huỳnh Ngự ở sân Hỏa Lò tôi lại nhớ đến lời tiên tri của ông thầy bói mù: hạn này là hạn có kẻ gắp lửa bỏ tay người, việc không có nó bảo là có, việc xong rồi nó bảo là chưa...
Vậy cái kẻ gắp lửa bỏ tay người kia là ai ?
Rõ ràng không phải cái anh chàng thư lại đang đứng trước mặt tôi rồi. Y bất quá là một tên công sai nhiệt tình.
Kẻ gắp lửa bỏ tay người là chủ của y kia. Tôi nghĩ tới Lê Ðức Thọ. Nhưng cả khi đó, cả bây giờ tôi vẫn không hiểu : Thọ muốn gì ở tôi ?
Tôi không hoạt động chính trị. Tôi làm việc, như bất cứ ai trong bất cứ xã hội nào. Tôi thích chủ nghĩa xã hội bởi nó hứa hẹn một tương lai đẹp - tự do, công bằng xã hội, kinh tế phồn vinh.
Nhưng những thứ bán kèm với nó như đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản, ý thức tổ chức, dân chủ tập trung không được lòng tôi. Cuộc đấu tranh gọi là chống chủ nghĩa xét lại hiện đại mà nhà cầm quyền dấy lên không phải của dân tộc Việt Nam. Càng không phải cuộc đấu tranh của tôi, vì tôi, cho tôi. Tôi chẳng thích chủ nghĩa xét lại nào hết, hiện đại cũng như không hiện đại.
“Hạn này là hạn có kẻ gắp lửa bỏ tay người, việc không có nó bảo là có, việc xong rồi nó bảo là chưa...”. Tôi không thích chính trị mà nhà cầm quyền cứ lôi tôi vào là đúng với câu việc không có nó bảo là có. Tôi đã xa lánh chính trị mà nhà cầm quyền cứ giữ rịt tôi trong nó là ứng với câu việc xong rồi nó bảo là chưa...
Rất có thể người ta không ưng được tôi vì tôi đã vi phạm không phải một lần những điều cấm kỵ.
Lần đầu với truyện ngắn Ðêm Mất Ngủ (báo Văn Nghệ, 1961), tôi bị Tố Hữu lên án “Vũ Thư Hiên lộ rõ tâm trạng bất mãn với chế độ hiện hành”, trong bài viết : “Giương cao ngọn cờ tính Ðảng, chống chủ nghĩa xét lại hiện đại trong văn nghệ”. Cùng bị vạch mặt chỉ tên như những tên xét lại hiện đại trong văn học còn có Nguyên Ngọc và Ngô Ngọc Bội. Tố Hữu coi Nguyên Ngọc nói móc họng Ðảng, ví lòng dân như mạch nước ngầm, không dễ thấy nhưng quật đổ được những công trình lớn. Ngô Ngọc Bội (với truyện ngắn Chị Cả Phây) bị Tố Hữu gọi là freudiste (4). Ở Việt Nam mà bị coi như freudiste là nặng lắm.
Lần thứ hai tôi bị đánh là vì kịch bản Ðêm Cuối Cùng Ngày Ðầu Tiên, tôi đã kể trong chương trước. Lần thứ ba nhẹ hơn cả, do truyện ngắn Ðêm Mùa Xuân. Nó không bị đánh trên mặt báo, nhưng tập truyện ngắn cùng tên (Nhà xuất bản Lao động, 1963) bị thu hồi một cách lẳng lặng.
Ðòn nặng nhất là bài báo của Tố Hữu. Nó xuất hiện trên báo Nhân dân, sau đó được tất cả các báo nhất tề đăng lại, không trừ cả báo Văn Nghệ đã đăng truyện ngắn này. Giáo sư Hoàng Xuân Nhị còn gán thêm cho tôi một tội mà nhà lãnh đạo văn nghệ bỏ sót : “Vũ Thư Hiên đã phất cao ngọn cờ ấn tượng chủ nghĩa nhằm chống lại đường lối văn nghệ xã hội chủ nghĩa của Ðảng”. Trong trận đòn hội chợ, nhà phê bình văn học Phong Lê bồi thêm cho tôi một quả đấm muộn trên tập san Nghiên cứu Văn học, cũng với ý ấy. Tôi giận Phong Lê hơn giận vị giáo sư khả kính.
Phong Lê thuộc lớp trẻ chúng tôi, lẽ ra không bảo thủ mới phải. Anh em nói Phong Lê chậm hiểu, nhưng không cơ hội. Hai chục năm sau quả nhiên anh cũng bị đánh vì những ý nghĩ vượt ra ngoài khuôn phép.
Từ sau những sự kiện đó tôi không được in nữa.
Nói chung, nhà văn, nhà thơ nào một lần lỡ bút hoặc lỡ lời đều bị như vậy. Vũ Bão (5), tác giả cuốn Sắp Cưới, một cuốn sách hay về Cải cách ruộng đất vì giọng văn dân dã hiếm có, để cho nhân vật nói Trường Chinh bị mất chức tổng bí thư bằng câu “mất bay cái chức Ðảng trưởng”, mà nhiều năm bị treo bút, còn hơn cả Lev Tolstoi bị Nhà Thờ Chính giáo Nga phạt vạ anaphema (6) vì tội báng bổ.
Cái khác là Nhà Thờ có thông báo hẳn hoi, có cha đạo cao rao trên tòa giảng cho đàn chiên được biết, còn chúng tôi bị rút phép thông công ngầm, bằng chỉ thị ngầm.
Năm 1964, Nghị quyết 9 được phổ biến rộng rãi, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại hiện đại được phát động người ta liền rầm rộ tổ chức những cuộc rà soát các ấn phẩm để tìm ra những cái có tư tưởng xét lại hoặc bị ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại.
Ai nấy sợ xanh mắt. Bói ra ma quét nhà ra rác, đầu chẳng phải cũng phải tai. Ðến nhà văn Ðỗ Quang Tiến ở báo Văn Nghệ, người chọn đăng truyện ngắn Ðêm Mất Ngủ (7) của tôi, vốn hiền lành, chẳng ai có thể buộc tội ông xét lại, cũng chối phăng tội của ông, đổ ụp nó cho tập thể. Tất nhiên, truyện ngắn được in phải qua mấy người duyệt, Ðỗ Quang Tiến đã ranh mãnh cho nó qua được những con mắt cảnh giác lúc chúng mệt mỏi. Ðỗ Quang Tiến cười hì hì bảo tôi : “Không làm thế truyện ngắn của cậu không thể ra được, ra rồi mình chối phăng, làm gì nhau tốt ?”.
Tôi quý Ðỗ Quang Tiến không phải chỉ vì ông đã tìm cách “lăng xê” (8) tôi. Ðối với người mới vào nghề đó là cái ơn lớn. Năm 1956 tôi mới có vài truyện ngắn in trên các tờ Văn Học, Tổ Quốc và Ðộc Lập. Ðỗ Quang Tiến, với tư cách biên tập viên báo Văn Học, đã chọn in Ðường Số 4 và sau đó Ðêm Mất Ngủ, vào năm 1961. Ông nhà văn xuất thân công chức, trước Cách mạng Tháng Tám ở Nha Thương chính hay Ty Kiều lộ tôi không nhớ rõ, đã có sự hy sinh thầm lặng cho việc vun xới các mầm non văn nghệ. Tôi và các bạn văn trẻ thường tới nhà ông. Chúng tôi chen chúc nhau trên chiếc chiếu hẹp, uống trà đặc, nói chuyện văn chương. Ðỗ Quang Tiến có nhiều ý hay, nhiều câu chuyện dí dỏm và những dự định viết không thành. Có người chê Ðỗ Quang Tiến hèn.
Tôi không nghĩ như vậy. Tôi tiếc những tác phẩm không ra đời. Tôi không coi sự hèn chút ít, tức là hèn nhưng không hại ai, được lịch sự gọi bằng không có gan, là thói xấu. Hầu như các nhà văn vào thời kỳ đó đều hèn một chút, nếu không nhiều. Ðó là bản năng tự vệ, có sẵn trong bất cứ sinh vật nào. Không hèn, chính anh sẽ rơi vào sổ đen, nhẹ thì không được lên lương, hoặc mất đứt cơ may ra nước ngoài một chuyến. Nặng, anh có thể bị đẩy đi lao động, chuyển công tác, hoặc bị tống ra ngoài biên chế.
Không kể vụ Nhân văn - Giai phẩm xảy ra đã hơn chục năm, với Nguyễn Hữu Ðang, Thụy An, Phan Tại, Hoàng Công Khanh, Phùng Cung (9) bị đi tù, hình thức bắt giam chưa được dùng cho văn nghệ sĩ. Trừ trường hợp Tuân Nguyễn (10), nhà thơ, cán bộ Ðài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, bị bắt mùa hè năm 1965.
Một sáng chủ nhật tôi đến rủ Tuân Nguyễn đi ăn sáng thì thấy cửa nhà anh khóa trái. Tôi ngạc nhiên. Bình thường vào ngày nghỉ nhà thơ lười của chúng tôi chẳng bao giờ dậy sớm. Chủ nhật, mười hai giờ trưa anh vẫn còn trên giường. Tuân Nguyễn có thói quen đọc sách khuya. Uống cà phê một mình thì buồn, tôi dong xe đi tiếp, đến Vũ Huy Cương (11). Cương rầu rầu báo cho tôi tin dữ : Tuân Nguyễn bị bắt rồi. Chuyện thế này : Tuân Nguyễn cả tin hớ hênh đưa cho một ông bạn nào đó cuốn sổ tay trong có mấy bài thơ anh mới làm. Cuốn sổ rơi vào tay công an. Ông bạn của Tuân Nguyễn, hoặc là một nhà mác-xít chân chính, hoặc là một tên chỉ điểm, trong trường hợp này rất có thể chỉ là một. Ðáng tiếc, chẳng bao giờ chúng tôi được biết kẻ làm việc nhơ bẩn đó là ai.
Chúng tôi đoán, và đoán không sai : Tuân Nguyễn bị bắt vì bài thơ Trái Tim Hồng Ngọc. Nó được làm nhân đám tang ông Dương Bạch Mai. Anh rất quý ông, gọi ông bằng thầy, ví trái tim ông như viên hồng ngọc vĩnh viễn ngời sáng : “Một tiếng nói chúng tôi chờ đã mất. Ðau đớn này đau đớn nào hơn. Chân lý không muốn nằm dưới đất...” Tôi tiếc không tìm được bài thơ của anh để giới thiệu ở đây. Nó vĩnh viễn biến mất. Bài thơ gây xúc động sâu sắc trong chúng tôi hồi ấy.
Vì bài Trái Tim Hồng Ngọc, và vì một số bài thơ chưa từng đăng báo, anh bị tù tám hoặc chín năm, tôi không nhớ rõ.
Khi bị bắt Tuân Nguyễn ốm yếu lắm. Anh em đồn anh bị lao phổi. Các đồng chí quẳng anh vào tù, ở trong tù anh lại được các bạn tù, phần đông là lưu manh, chăm sóc. Ðêm đầu tiên từ trại tù trở về Hà Nội anh ngủ gục ở ga Trần Quý Cáp. Một cô điếm đi ăn sương gặp anh, thương tình đưa anh về túp lều của cô trong khu ổ chuột sau Khâm Thiên. Cô an ủi anh, cưu mang anh trong những tháng đầu tiên trở về với cuộc sống, khi anh quá chán nản, không muốn gặp mặt bè bạn, thậm chí muốn tự sát. Tuân Nguyễn đứng lên được là nhờ cô. Cảm động trước lòng nhân ái bao la của người con gái không quen biết, anh ngỏ ý muốn gá nghĩa cùng cô, nhưng cô từ chối : “Anh ơi, chúng mình khác nhau nhiều quá, anh làm sao có hạnh phúc với em được. Anh sống sao nổi trong xã hội này nếu vợ anh là em, một con điếm ?!”.
Thời kỳ này là thời kỳ phần lớn những cây bút trẻ im tiếng. Họ không chịu gò mình vào nền văn nghệ quan phương khô xác và kênh kiệu.
Trong bầu không khí ngột ngạt đầy những điều cấm kỵ khó có hứng để mà viết. Nguyễn Tuân phân trần về những cái ông viết để trả nợ cho những chuyến đi : “Khi ngồi vào bàn nhà văn phải thấy thoải mái trong lòng thì may ra, may ra thôi, hắn mới viết được một cái gì đó ra hồn. Ngòi bút khi viết mà ngập ngừng, mà run rẩy thì chỉ cho ra những văn phẩm nước ốc, có khi lại còn bốc mùi thum thủm. Khốn nỗi, thời nay im lặng không xong. Im lặng người ta bảo mình không bằng lòng họ, mình có ý chống họ. Cho nên anh đừng lấy làm lạ thấy tôi viết mấy cái ba lăng nhăng. Chẳng qua thỉnh thoảng tôi phải nhảy ra mà hô présent (12) một cái cho phải phép, để cho người ta khỏi bẻ hành bẻ tỏi...”
Ông thầy bói đúng. Có kẻ gắp lửa bỏ tay người...
Sau khi bị bắt tôi tin có thật một Nostradamus (13), cũng như có thật một Trạng Trình.
Nhưng nếu mọi hành động của con người đều nằm trong tiền định thì con người còn là cái gì ? Nó chẳng quyết định được gì hết sao, loại sinh vật có trí khôn là chúng ta ? Nó chỉ là con rối trong tay định mệnh sao ? Nguyễn Du của chúng ta đúng hay sai khi ông nói “Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” ?
-------------
Chú thích
(1) Ông Tiến cố (tên thật là Nguyễn Văn Tiến) có lần bị mật thám bắt tại nhà tôi, khoảng năm 1937, hồi ấy ở phố Huế. Mẹ tôi đề nghị viên thanh tra mật thám người Pháp Lanèque để ông Tiến ăn xong bữa cơm trước khi vào tù vì "Trời đánh còn tránh bữa ăn". Lanèque nhận lời dùng cơm cùng gia đình tôi. Bữa cơm chia tay được chụp ảnh kỷ niệm nhưng bức ảnh này đã bị mất trong vụ công an khám nhà năm 1967. Mẹ tôi nhận xét : "Mật thám Pháp đối với kẻ thù lịch sự và tử tế hơn công an ta đối với dân". Do quan hệ với các chức sắc Thiên Chúa giáo, ông Tiến bị chính quyền bắt đi tập trung cải tạo nhiều năm.
(2) Cụ Ðinh Chương Dương (1885-1972) là một trong những người sáng lập Thanh niên Cách mạng Ðồng chí hội, người tổ chức và đào tạo rất nhiều nhà cách mạng có xu hướng cộng sản tại Việt Nam. Một số được cụ Ðinh gửi sang Tàu dự các lớp huấn luyện do cụ Hồ tổ chức. Quê ở huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa. Bị Pháp cầm tù nhiều lần tại nhiều nhà tù khác nhau với số năm tù tổng cộng là 33 năm. Sau Cách mạng Tháng Tám, cụ Ðinh ít được nói đến, cho dù với tư cách một nhà cách mạng lão thành đã có nhiều cống hiến cho cách mạng.
(3) Tiếng Pháp secteur, tiểu quân khu, thường bao gồm lãnh thổ của một tỉnh (province) thời thuộc Pháp). Không có khái niệm tương đương trong thuật ngữ quân sự Việt Nam.
(4) Sigmund Freud(1856-1939), nhà tâm thần học người ỏo, người xây dựng ngành phân tâm học, chủ trương bản năng dục bị dồn nén vào vùng vô thức chỉ huy cách hành xử của con người. Ông là tác giả của những cuốn Khoa Học Các Giấc Mơ (1901), Ba Khảo Nghiệm Về Lý Thuyết Tính Dục (1905), Tâm Lý Tập Thể Và Sự Phân Tích "Cái Tôi" (1923).
(5) Tên thật là Phạm Thế Hệ (sinh năm 1932), một nhà văn thiên về lối viết trào lộng, vốn không phải là lối viết được các nhà lãnh đạo yêu thích.
(6) (1828-1910), nhà văn lớn của nước Nga, tác giả Chiến Tranh Và Hòa Bình, Anna Karenina. Do những tư tưởng tiến bộ Lev Tolstoi bị Giáo hội Chính thống Nga rút phép thông công.
(7) Ðêm Mất Ngủ - truyện ngắn nói về một thương binh đã chuyển ngành. Vết thương ở đầu gây ra chứng mất ngủ triền miên. Trong một dêm không ngủ được anh đi lang thang trong thành phố. Trên đường anh phát hiện một bóng đen bám sát anh lẵng nhẵng.  Anh hiểu đó là một nhân viên công an. Họ chạm trán lúc trời hửng, trò chuyện với nhau và nhận ra nhau là hai người lính ở hai đơn vị quân đội đã từng phối hợp đánh một đồn địch.
(8) Từ tiếng Pháp lancer = ném ra, tung ra, ở đây có nghĩa là giúp đỡ vào văn đàn, để làm quen với độc giả.
(9) Những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ bị đi tù liên quan tới vụ Nhân văn - Giai phẩm, trong đó có những người có án và những người không có án.
(10) Tuân Nguyễn, (1931-1983), nhà thơ. Sau khi được tha, với tư cách cán bộ miền Nam tập kết, anh được hưởng trợ cấp hàng tháng khi trở về thành phố Huế sau năm 1975. Tuân Nguyễn vào Sài Gòn sinh sống, rồi mất vì một tai nạn giao thông. Trong lời điếu một người bạn thân của Tuân Nguyễn nói về anh “Thời đại như ngã ba sông. Anh như con thuyền giữa dòng nước xoáy. Thuyền anh vượt thẳng mà sông lại cong. Chạm bờ sông nước dìm anh tận đáy...”
(11) Biên tập viên Xưởng phim hoạt họa. Sau bị bắt trong vụ “nhóm xét lại chống Ðảng” vào đầu năm 1968.
(12) Présent : tiếng Pháp, có nghĩa là : Có mặt !
(13) Nostradamus (tên thật Michel de Nostredame, 1503-1566) nhà vật lý và thiên văn Pháp, nổi tiếng với cuốn Thế Sấm Ký, gồm những lời tiên tri từ năm 1500 tới ngày tận thế, được coi như sẽ xảy ra vào năm 3797.
-------------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét