Đời nó thế
Tác giả: Ngọc Giao
Đã lâu lắm, tôi không tiếp được tin tức của
anh Thông, một người bạn hiền có đức hạnh mà thầy mẹ tôi vẫn răn tôi nên lấy
làm khuôn mẫu. Anh người trong Thanh, hồi ấy ra Hà Nội trọ tại nhà tôi. Chúng
tôi cùng học một trường, một lớp, ăn một bàn, ngủ chung một chiếc giường tây.
Chúng tôi ít khi có sự bất bình, tuy chúng
tôi vốn chẳng ưa nhau lắm, chỉ đôi lần xảy ra cuộc cãi lý trong vài phút lại
hòa ngay. Anh rất đứng đắn, rất lễ phép và điều hơn hết đối với thầy mẹ tôi,
anh coi như cha mẹ đẻ. Có lần mẹ tôi bị ốm xoàng, anh tỏ vẻ âu sầu lo lắng, và
hi sinh một ngày học để ở nhà sắc thuốc, bóp đầu, nâng giấc mẹ tôi. Rồi nhằm
vào lòng mê tín của các cụ anh bàn nên cúng “dâng sao giải hạn” thì bệnh tất
lui. Thế là anh khăn áo chỉnh tề, bày vàng hương, thắp đèn, thắp nến, lăng xăng
như một anh cung văn vậy. Thầy mẹ tôi cảm động lắm, thế mà trong khi các ngài
đang cảm động, đang nức nở khen anh là người tử tế hiếm có thì tôi lại ngồi vắt
vẻo ở rạp chiếu bóng vỗ tay cười một vai ngộ nghĩnh khéo khôi hài. Vô phúc cho
tôi, cái tin ấy thầy mẹ tôi đều biết. Tôi bị một trận mắng nên thân. Nghĩ anh
Thông mách, tôi thù ra mặt. Nhưng chúng tôi vốn có lệ không được giận nhau quá
ba giờ.
Thầy tôi cũng thương anh hết sức. Bởi vì
anh khéo chiều chuộng, khéo nói, khéo cả chân tay. Buổi sáng, mặc tôi ngủ say,
anh dậy sớm nhất, pha trà sen mời thầy tôi uống và đón lúc thầy tôi muốn hút
thuốc lào, anh vê thuốc, đánh diêm, vắt chiếc cần trúc vào tận miệng thầy tôi,
như thế, một cụ già khó tính đến đâu, cũng phải đem lòng cảm mến.
Cả nhà khen anh có hiếu. Đối với thầy mẹ
tôi anh còn tha thiết thế, huống hồ đối với các cụ sinh ra anh thì còn hiếu thảo
gấp trăm phần.
Anh lại được cả cái đức tốt là ghét ái
tình.
Đừng ném cuốn tiểu thuyết văn chương mơ mộng,
đĩ thõa trước mắt anh ấy.
Đừng kể cho anh ấy nghe chuyện những tấm
thân trắng như bột bánh trôi của các cô đào chiếu bóng.
Đừng vớ lầm cái cán bút trong sạch của nhà
đạo đức ấy mà viết những dòng trai lơ để “thuốc” một ả nào.
Đó là những điều nghiêm cấm mà vẻ mặt lạnh
lùng, và đôi mắt sâu sắc của anh Thông đã dọa thầm tôi.
Không bao giờ anh chịu bỏ chiếc khăn xếp với
chiếc áo the vá khuỷu. Các bạn ở trường chế giễu, anh chỉ mỉm cười. Anh là một
cái “thái cực” ở bên tôi: một thằng chí ngoan, chí hiếu, nhũn nhặn, keo kiệt,
khúm núm như lão hủ nho, thế mà ông Trời sao lại bắt chung đụng với một thằng
như tôi, ham chơi, nghịch ngợm, hiếu để tâm, lễ độ tùy lúc, lại hay làm đỏm,
hay vòi tiền đi xem chiếu bóng. Thành thử, tôi bị thầy mẹ tôi ghét, mà anh càng
ngày càng được các cụ yêu, thường xì xào bàn kín rằng sẽ gả anh cho con Mùi, em
gái tôi hiện là lưu học sinh năm thứ ba trường nữ Sư phạm.
Anh Thông có lẽ thám thính được cái tin mừng
đó, lại càng cố mua chuộc lòng tin yêu của các cụ, đến nỗi nịnh hót quá, lễ
phép quá, khiến anh có vẻ nô lệ như một con lừa vậy.
Có ai dám ngờ anh có gan khoác tay gái chơi
đêm? Thế mà tôi đã gặp anh đi cùng người đẹp, một đêm kia, trên bờ Hoàn Kiếm.
Người đẹp ấy... thì ra là cô bán kem, nước đá, mà các bạn trai đều nhẵn mặt và
tôi nhớ đích là con yêu tinh ấy đã khiến một người bạn thân thiết của tôi phải
sáu tháng kêu trời, sau một đêm để tia nọc độc của nàng tự do chạy thẳng vào mạch
máu.
Thấy hiển nhiên con rắn độc ấy sắp quấn chặt
vào cổ anh Thông, tôi rùng mình muốn kéo anh ra khỏi hoạn nạn. Nhưng sực nghĩ đến
những nỗi căm hờn cũ, những lúc vì tấm gương sáng của anh mà tôi bị đòn, bị mắng
thì lòng thương bạn không còn nữa. Tôi đã lánh đường, để mặc anh đi suốt đêm
hôm ấy.
Thế rồi, mấy ngày sau, tình cờ tôi lại tóm
được tập thư xanh tím của anh, lại tóm được mấy chiếc ảnh chụp các cô đầm hở
đùi, hở ngực, mà anh giấu tận lần trong một chiếc gối bông.
Đúng một tuần lễ, kể từ đêm anh phạm tội
“ngoại tình”, người anh gầy rộc hẳn đi, mặt xanh như tầu lá, ngày nào cũng lên
cơn sốt. Tuy thế, anh không dám đưa con ở giặt quần áo của mình.
Thầy mẹ tôi thương xót, bảo mời ông lang đến
xem mạch. Anh van vỉ xin đừng mời đến. Các cụ cứ yên trí là anh chỉ bị cảm
xoàng, tự nhiên sẽ khỏi. Sau không đành tâm trông thấy anh gầy yếu quá, mẹ tôi
lập đàn cúng, mời ông thầy đến, chiêng trống suốt một đêm.
Mà bệnh vẫn tăng lên dữ dội.
Thầy tôi định viết thư vào Thanh mời ông
thân anh ra, song anh nằng nặc xin đừng để ông thân anh biết, vì nếu biết, cụ
buồn.
Cả nhà không hiểu căn bệnh của anh. Duy có
một mình tôi hiểu. Nhưng tôi không dám nói ra. Thấy nhiều lúc anh nằm đậy chăn
thút thít khóc, tôi hối hận về cái tội ác của tôi. Nếu tôi can ngăn anh đừng đi
với ả hàng kem thì đâu có bệnh tật này. Có lẽ Trời run rủi cho tôi ác thế để trừng
phạt cái thói đạo đức giả của anh chăng!
Hai ba tháng ròng, người anh gầy như một
cành cây khô sắp gẫy. Thương hại, tôi mách anh đến một lão lang. Quả nhiên, anh
khỏi sau một thời kỳ trị bệnh khá lâu.
Từ đấy, chịu ơn tôi, anh sợ tôi như sợ vía
cô hàng kem vậy.
Cách ít độ, đến kỳ thi, anh trượt; còn tôi
không ngờ, lại đỗ! Cùng vụ thi ấy, con em gái tôi cũng đỗ. Anh Thông xấu hổ,
không chờ thầy me tôi nhắc đến việc nhân duyên tốt đẹp của anh với em Mùi, anh
đã lẳng lặng xếp áo quần, sách vở vào va li, từ biệt chúng tôi về Thanh để hầu
hạ ông thân sinh, bù lại những tháng ngày xa xôi, không thể quì dưới gối phụng
thờ.
Bảy năm cách biệt, bây giờ tôi mới được thư
anh gửi ra mời tôi vào chơi.
Tôi vui vẻ nhận lời.
Xe vừa đỗ ngoài cửa, anh đã chạy ra niềm nở
đón. Tôi la lên mừng rỡ, và rung hai cái vai đầy thịt, vỗ cái bụng bành trướng
của anh mà cười. Anh béo như con lợn quay, mình mặc bộ tây vải vàng, chân đi
“ghệt” tựa như một ông Tây chủ đồn điền, hay một người săn bắn, - thiếu chút nữa
tôi không thể nhận ra ông đồ lễ phép, khúm núm, gầy oặt, đã trọ ở nhà tôi năm nọ.
- Anh khá lắm hể?
Thông híp mắt, bạnh má ra cười, giơ tay giới
thiệu tòa nhà tây, chiếc xe ô tô mới và khu vườn đầy hoa thơm, cỏ lạ, đoạn thân
ái xóc cánh tay tôi lôi sềnh sệch vào nhà.
- Joseph! Jean! Ra chào bác Kim, bạn của ba
đi, các con!
Tức thì, hai thằng bé, một thằng mặt vàng ệch,
ngớ ngẩn như thằng khách con, mặc bộ áo quần lính thủy, một thằng đen trũi, tóc
quăn, mặc quần đùi vải đỏ, sơ mi cụt tay bám đầy đất cát, dắt nhau vào, bắt tay
tôi rối rít.
Sau cuộc giới thiệu tên tuổi các quí tử,
anh mời tôi dùng “áp-pê-rô” [Rượu khai vị]. Tôi hỏi thăm vợ anh. Anh bảo:
- Nhà tôi đang giở cuộc “xì” ở bên vợ chồng
chú Sênh, lát nữa sẽ về. Ồ, “en” nói chuyện có duyên, buồn cười ra phết, tôi đố
anh nhịn được mới tài.
Tôi lại hỏi thăm ông thân anh ngồi đâu để
tôi chào. Thì anh chặc lưỡi, lôi tôi ra vườn thăm hoa, rồi kéo tôi vào nhà, kể
huyên thuyên rằng anh mới tậu thêm được hai cái nhà tây nữa, vị chi là sáu cái.
Mai kia anh sẽ bán cái đồn điền đáng giá chín ngàn của anh cho một người Pháp,
vì anh chán đồn điền lắm.
- Mùi phú quý, anh ạ, nếm mãi cũng không
còn thấy thú. Bây giờ tôi chỉ thèm sự an nhàn. Thỉnh thoảng sai đánh xe đưa vợ
con đi chơi các nơi xa lạ. Mình thì bàn đèn sẵn đấy, gái đẹp chỉ vẫy một cái là
bay đến như bươm bướm. Hôm nào trời êm ả, lại vác súng đi bắn mấy con mòng, con
két về nhắm rượu...
Tôi đang thầm ca tụng hạnh phúc của người bạn
sung sướng thì tên bồi gõ cửa vào mời chúng tôi sang phòng ăn.
Chúng tôi kéo ghế ngồi. Hai thằng con ở
ngoài vườn, xô nhau chạy vào nhảy lên bàn, lên ghế, chấm những ngón tay đầy đất
cát vào các đĩa ăn. Thông mắng yêu các con rồi nhìn tôi cười sằng sặc:
- Bác xá cho các cháu. Chúng nó nghịch ngợm,
tự nhiên chẳng khác con tây. Ấy thế cũng hay! Chả lẽ bắt chúng nó đần độn, hiền
lành, nhút nhát, như các trẻ An nam thì hỏng hết.
Tôi chưa kịp khen các ông quí tử và chưa kịp
trả lời câu nói có nghĩa lý, lạ lùng, trái ngược của ông đồ nhu nhược, hủ lậu ấy
thì có tiếng chửi đầy tớ, mắng con chó săn, rủa chú Sênh ăn non... nhiếc anh
lính Tây chạy làng, vang động cả gian phòng khách. Giữa lúc tôi ngơ ngác, gót
giầy mang cá đã cồm cộp gõ trên nền gạch hoa, rồi một người đàn bà mặt còn đầy
nộ khí bước vào.
Thông vội đẩy ghế nhỏm mình, giới thiệu tôi
với người đàn bà ghê gớm đó.
- A! Vợ hiền anh!
“Nàng” dịu nét mặt, nhe bộ răng trắng, cúi
đầu đáp lễ, đoạn ngồi xuống ghế, rót thêm rượu, vồn vã mời nâng cốc. Ba chúng
tôi chạm cốc, hai thằng con cũng bắt chước làm theo.
Vẫn không quên ông thân anh, nên tôi nhắc
anh mời cụ ra dùng cơm tiện thể cho vui.
Vợ anh vội đáp:
- Cụ tôi đã ăn từ sớm. Bác... mặc cụ tôi.
Thông nói tiếp:
- Anh cứ xơi rượu đi, ông cụ càng già càng
khó tính, ăn vặt luôn, không có giờ nào cả.
Tôi không hiểu câu nói nghĩa lý của nhà đạo
đức. Mà vợ chồng anh cũng không cần cho tôi hiểu, cứ nhồm nhoàm, nhai, uống, nuốt,
rồi lại gắp, cười, đùa, sung sướng như cặp vợ chồng mới cưới. Chợt có tiếng ho
khù khụ, tiếng ho của một người ốm yếu hình như không còn sức mà ho nữa, - rồi
một ông già gầy tựa bộ xương hom của anh thợ mã, mặc chiếc áo đũi nâu vá đụp, một
tay chống gậy, một tay chống đầu gối, cố bước lên thềm.
Không cần giới thiệu, tôi cũng có thể biết
ông già ấy là ông thân anh, là một người tốt phúc đã được anh - trước mặt thầy
me tôi, - hằng nhắc nhủ, thở than, ân hận rằng không được quì dưới gối phụng thờ,
chỉ vì đi “du học”!
Tôi đã biết vợ hiền anh.
Tôi đã biết thân phụ anh.
Và tôi đã hiểu anh.
Tôi đứng dậy chào. Ông cụ gật đầu, thở hổn
hển, rồi men vào kéo một chiếc ghế ngồi, nhìn lấm lét các món xào thơm ngạt
mũi, như thèm thuồng lắm.
Hai thằng nhãi tru tréo lên, tựa như thấy một
lão ăn mày hóa hủi.
- Ghế này của Jean. “A-lê”, sang kia ngồi với
thằng Jacques.
- Bẩn lắm, ngồi cạnh lây cả rận chấy sang
quần áo mới của người ta, “San bu-ru”! [Con cú rù bẩn]
Chúng nó lùi, chúng nó nhổ, chúng nó tránh
xa, mà khốn nạn, ông già có hiểu gì đâu!
- Kìa, anh cạn cốc đi, ông cụ tôi câm đấy.- Lại điếc mới khổ người ta chớ!
Rồi bộ môi son toét nở:
- Thật là của nợ!
Tôi không thể trả lời. Lòng tôi đau như bị
một vết thương. Ông cụ run tay cầm đũa, nhìn cái bát rỗng mà người con dâu quí
còn đang bận gậm chiếc đùi gà quay, chưa muốn xới cho lão một thìa cơm.
- Anh Kim, cạn cốc đi!
- Bác xơi tự nhiên cho. Chém cha cái thằng
bếp nhé! Nó làm món xào mặn quá... Lương những sáu đồng một tháng mà chẳng làm
trò gì nên thân cả. À, kìa bác Kim, sao ăn yếu thế?
Mấy đầu ngón tay móng đỏ, trắng mịn như
thoa phấn, cầm thìa tiếp thức ăn vào bát tôi. Tôi ngượng ngùng nhìn bát ông già
chỉ dính vài hột cơm mà chẳng có một miếng thịt, một lá rau. Tôi nhìn cặp mắt cụ,
cặp mắt hiền từ mấy mươi năm nay vẫn âu yếm nhìn các con thân mến, lúc ấy đỏ ngầu
như có mấy giọt lệ ngập ngừng không dám trào ra trước vẻ mặt tàn ác của con.
- Mời anh!
- Mời bác! Chỗ tình thân, xin đừng làm
khách.
- Anh lưu ở chơi đây vài ngày. Tối ta đi
hát, mai ta đi săn. Ở đây nhiều cảnh thú lắm.
- Lát nữa, em sai mời vợ chồng anh ký bên cạnh
chú thím Sênh đầu phố, và người bạn Tây ở trong trại đến chơi “xì” tiêu khiển.
Ăn xong, vợ chồng Thông cùng tôi đi bách bộ
trong vườn. Anh trỏ cho tôi trông cái chuồng con bằng gỗ sơn xanh, treo trên
cành cây bưởi lớn, lá rủ xuống lòa xòa:
- Anh coi, đây là “tòa biệt thự” của đàn
chim bồ câu giống. Tháng trước thả bay thi đã giật giải nhất đấy. Có người
khách giả tôi chín mươi đồng cả đàn, mà tôi không bán, đủ biết giá trị đến đâu!
Rồi vợ anh vỗ vai tôi, nheo mắt, nháy:
- Đây là con đực, kia là con cái. Cặp vợ chồng
ấy đẻ mắn lắm. Mà lại mớm mồi khéo nữa. Bầy chim con chóng lớn lạ.
Vợ chồng anh khoan khoái cười ầm ĩ trong
khi ngắm con chim đực đang tha rác bay lên kết ổ, và con chim cái lục sục mớm
thóc cho đàn chim non kêu ríu rít.
Tôi ngoảnh nhìn ông cụ già, thân sinh anh,
đang ngồi lẻ loi, ủ rũ dưới bậc thềm, vạch áo ra tìm rận bỏ lên mồm cắn.
Đã hiểu rõ người bạn xưa kia làm khuôn mẫu
cho tôi về khoa luân lý; đã ghê tởm cái cảnh giầu sang sung sướng của người bạn
thâm giao, - tôi ngay chiều hôm ấy, vội cắp mũ ra ga, dẫu rằng vợ chồng anh giận
dỗi vì không giữ được tôi ở lại chơi để cùng anh nếm mùi phong lưu, phú quí trong
cái cảnh gia đình êm ấm: tiền sẵn, vợ đẹp, con ngoan, và mai kia anh sẽ đặt tiệc
mừng thượng thọ cho ông cụ thân sinh tốt số đã được vợ chồng anh đêm ngày nâng
giấc phụng thờ, và trước khi bị điếc, bị câm, đã để lại cho vợ chồng anh cái
gia tài khá lớn.
Tiểu thuyết thứ Bảy, 1942
Tái bản trong tập “Hà Nội cũ nằm đây”, NXB
Phụ Nữ - 2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét