Một Gia Đình
Tác giả: Guy De Maupassant
Dịch giả: Vũ
Yến Ly
Nhà xuất bản Lao động - 2005
Tôi đi thăm người bạn Simon Radevin mà tôi
đã không gặp từ mười lăm năm nay.
Xưa kia đó là người bạn tốt nhất của tôi,
người bạn luôn chia sẻ mọi ngọt bùi cùng tôi, là người cùng tôi chia sẻ biết
bao buổi tối dài đầy vui vẻ thanh bình, là người tôi có thể dốc bầu tâm sự, là
người mà mỗi khi tôi có một suy nghĩ, một ý tưởng dù lạ lùng, dù vớ vẩn, dù
thông minh hay ngớ ngẩn tôi cũng sẽ tìm đến người đó để sẻ chia hoặc để thực hiện
những ý tưởng dù là ngông cuồng, ngốc nghếch nhất, là người mà tôi luôn cảm thấy
dễ chịu thoải mái khi ở bên.
Trong suốt một thời gian dài, chúng tôi gần
như không hề dời nhau. Chúng tôi cùng sống, cùng chơi, cùng suy tưởng, cùng mơ
mộng với nhau, chúng tôi có cùng sở thích; chúng tôi cùng yêu mến một số đồ vật
đáng yêu, cùng đọc, cùng thán phục cùng những cuốn sách, những tác phẩm nghệ
thuật giống nhau, cùng có cảm giác giống nhau, và thường cùng bật cười trước một
điều buồn cười vớ vẩn gì đó mà không cần phải liếc mắt nhìn nhau.
Thế rồi anh ta cưới vợ. Anh đột ngột lấy một
cô gái quê lên Paris để kiếm tìm một đức lang quân.
Làm thế nào mà một cô gái bé nhỏ, gày còm với
mái tóc vàng xỉn, với đôi tay thô kệch, với đôi mắt nhạt và vô hồn, có giọng
nói the thé, hoàn toàn giống hàng trăm hàng nghìn con búp bê vô hồn lại có thể
tóm được một người đàn ông thông minh và tinh tế đến thế? Làm sao người ta có
thể hiểu điều đó được? Hiển nhiên là anh ta mong muốn có được hạnh phúc, một hạnh
phúc bình dị, lâu bền trong vòng tay của một phụ nữ đức hạnh, dịu dàng và chung
thủy; và anh ta đã thoáng thấy tất cả những cái đó trong đôi mắt trong suốt của
cô gái láu lỉnh có mái tóc nhạt màu này.
Anh ta đã không nghĩ rằng một người đàn ông
hoạt bát, nhanh nhẹn, rất dễ rung cảm sẽ mệt mỏi chán nản vì tất cả những cái
mà anh ta đang nắm chặt lấy, trừ phi anh ta không u mê đờ đẫn đến nỗi không còn
hiểu được bất cứ điều gì nữa.
Giờ đây anh ta sẽ thế nào nhỉ? Vẫn hoạt bát
nhanh nhẹn, hóm hỉnh, hay cười, đầy nhiệt huyết hay đang uể oải trong nhịp điệu
sống ở nông thôn? Một người đàn ông có thể thay đổi sau mười lăm năm chứ nhỉ!
Tàu dừng ở một ga nhỏ. Tôi xuống tàu, một
người đàn ông to béo, rất to béo với đôi má phinh phính đỏ hây hây, với cái bụng
phệ lao bổ về phía tôi với hai cánh tay dang rộng và kêu to: “Georges”. Tôi ôm
hôn anh ta nhưng tôi vẫn còn chưa nhận được ra anh ta. Thế rồi tôi rên rỉ một
cách ngu ngốc, ngớ ngẩn:
- Cristi, cậu không hề gày đi.
Anh ta vừa cười vừa trả lời:
- Cậu muốn gì bây giờ? Một cuộc sống tốt đẹp!
Một bàn ăn đầy thức ăn ngon lành! Những giấc ngủ ngon không mộng mị! Lẽ sống của
tôi là được ăn ngon miệng và ngủ đẫy giãc!
Tôi đứng lặng ngắm nhìn anh, kiếm tìm trong
dáng hình trước mặt, những nét thân quen xưa. Chỉ duy đôi mắt là không thay đổi
gì về hình dáng, nhưng tôi không còn nhìn thấy cái cách nhìn thân thuộc xưa nữa,
tôi tự nhủ: “Nếu đúng là cái nhìn phản ánh suy nghĩ, thì những suy nghĩ trong
cái đầu của người bạn thân tôi từng rất hiểu, rất đồng cảm đã khác trước rất
nhiều”.
Tuy ánh mắt anh vẫn lấp lánh sáng, một ánh
sáng vui vẻ, yêu đời nhưng nó không còn sáng lên ánh sáng thông minh, dí dỏm,
hài hước xưa nữa. Bỗng nhiên Simon nói với tôi:
- Xem này, đây là hai đứa lớn nhà tôi.
Nhìn theo tay anh chỉ, tôi thấy một cô nhỏ
khoảng mười bốn, trông đã ra dáng thiếu nữ lắm rồi và một cậu nhỏ mười ba, còn
đang mặc đồng phục của trường cấp hai, chúng tiến lại gần tôi đầy vẻ rụt rè.
Tôi kêu lên:
- Con cậu đấy à ?
Anh vừa cười vừa trả lời:
- Ừ.
- Cậu có bao nhiêu đứa?
- Năm! Vẫn còn ba đứa ở nhà!
Anh ta trả lời đầy vẻ tự hào, hài lòng, đầy
vẻ hoan hỉ. Trong tôi bỗng dâng lên một cảm giác thương cảm sâu sắc, trộn lẫn với
cảm giác hơi khinh thường đối với con vật giống kiêu căng và ngây thơ dành cả
đêm cho việc duy trì nòi giống. Con đực đó được nhốt trong một ngôi nhà ở nông
thôn, như thể một con thỏ bị nhốt trong lồng.
Tôi leo lên chiếc xe ô-tô anh ta tự lái và
chúng tôi đi về phía thành phố, một thành phố buồn tẻ với nhịp sống ngái ngủ lờ
đờ. Trên phố vắng ngoe vắng ngoắt, thỉnh thoảng có một vài con chó hay hai ba kẻ
giúp việc đi qua đi lại. Thỉnh thoảng mới có một cửa hàng nhỏ ngoài cửa có giá
để mũ.
Simon vừa đi vừa chào và gọi tên tất cả những
người đàn ông mà chúng tôi gặp trên đường về, tôi có cảm tưởng anh biết hết,
thuộc hết tên của tất cả những cư dân trong thành phố nhỏ bé này. Tôi vẩn vơ
nghĩ, hẳn anh ta định ăn đời ở kiếp ở chốn này, chôn vùi thân xác cũng như mọi
suy nghĩ tình cảm của anh ta ở mảnh đất này.
Chỉ một lát chúng tôi đã đi qua vùng thành
phố, và ô-tô bắt đầu vào trong một khu vườn trông như một công viên thu nhỏ, rồi
dừng lại trước cửa một ngôi nhà trông hoàn toàn giống một lâu đài.
- Đây là hang ổ của tôi. - Simon nói để chờ
một lời khen.
Tôi trả lời:
- Tuyệt thật.
Trên bậc thềm, xuất hiện một người phụ nữ,
trang điểm, ăn mặc kỹ càng, cẩn thận để tiếp khách, với những lời có sẵn để hỏi
khách. Đó không còn là cô gái nhỏ tóc vàng nhạt nhẽo mà tôi đã gặp ở nhà thờ
cách đây mười lăm năm trước. Giờ đây trước mặt tôi là một phụ nữ đẫy đà, trang
sức lòe loẹt với những búp tóc xoăn, một trong những kiểu quý bà nhạt nhẽo,
không có tuổi, không có tính cách, không lịch thiệp, không duyên dáng, không có
chính kiến, chẳng có gì ngoài dáng vẻ bề ngoài là một quý bà. Đó là một người mẹ
điển hình, một cỗ máy đẻ, một con gà mái, một cỗ máy bằng xương bằng thịt mà mọi
suy nghĩ trong đầu chỉ là con cái và các cuốn sách nấu ăn.
Cô ngỏ lời chào đón tôi, theo đúng thể thức
chào khách, khi vào trong phòng tiền sảnh tôi thấy xuất hiện ở đó ba đứa nhỏ
đang đứng xếp hàng tề chỉnh như thể những tên lính cứu hỏa.
Tôi hỏi:
- Á à! Đây là những đứa còn lại phải không?
Simon hớn hở gọi tên từng đứa:
- Jean, Sophie và Gontran.
Cửa phòng khách đã mở sẵn. Tôi đi vào đó và
tôi nhìn thấy sâu trong một chiếc ghế sa-lông có ai đó đang động đậy, một người
đàn ông, một ông già liệt.
Bà Radevin đi lại gần ông già:
- Đây là cha tôi, thưa ông, ông cụ năm nay
được tám mươi bảy tuổi.
Rồi cô hét vào tai ông lão nghễnh ngãng: “Đây
là bạn của Simon, bố ạ”. Ông cụ cố hết sức đưa tay ra hiệu chào tôi và rồi vừa
khóc “oe, oe” vừa vẫy tay ra hiệu. Tôi nói với ông cụ: “Ông thật đáng mến, thưa
ông”. Rồi tôi ngồi phịch xuống một chiếc ghế. Simon vừa vào, anh cười:
- Á! À! Cậu đã làm quen với bố vợ mình đấy
à. Ông cụ rất kỳ cục, bọn trẻ con hay lôi ông ra làm trò tiêu khiển. Ông rất
háu ăn, bạn thân yêu của tôi ạ, ông ngốn tất cả những gì có trên bàn. Cậu không
thể tưởng được, ông có thể ăn nhiều đến thế nào đâu nếu người ta không để mắt đến
ông. Nhưng rồi cậu sẽ thấy, cậu sẽ thấy. Ông đang chăm chú nhìn đĩa đường như
thể đang ngốn ngấu dáng hình khêu gợi của các cô gái trẻ kia. Cậu chưa bao giờ
gặp một người buồn cười đến thế đâu, rồi cậu sẽ thấy.
Rồi anh đưa tôi vào phòng nghỉ, để tôi rửa
mặt mũi chân tay. Đã đến giờ ăn tối, tôi nghe tiếng chân bước rùng rùng ngoài cầu
thang, tôi quay lại. Phía sau tôi bọn trẻ đi thành một hàng dài mà đi đầu là bố
của chúng, không nghi ngờ gì là để tỏ lòng tôn kính tôi.
Phòng của tôi trông ra thảo nguyên, một thảo
nguyên khô cằn, đơn điệu, chẳng có gì ngoài cỏ, lúa mì và yến mạch. Không có lấy
một bụi cây, một sườn đồi, trí tưởng tượng bị hạn hẹp, buồn rầu, giữa một cuộc
sống tẻ nhạt, mà mọi người trong nhà này đang sống.
Một tiếng chuông vang lên, đó là tiếng
chuông báo bữa tối đã sẵn sàng. Tôi đi xuống.
Bà Radevin nắm lấy tay tôi đầy vẻ trang trọng
và chúng tôi cùng vào phòng ăn. Một người hầu đẩy chiếc ghế bành của ông cụ vào
chỗ cụ ngồi, ông cụ nhìn lướt tất cả các đĩa ăn với một cái nhìn hau háu đầy tò
mò và quay đầu một cách khó khăn nhìn từ đĩa này đến đĩa khác, cái đầu lúc la
lúc lắc.
Thế là Simon xoa hai tay vào nhau và bảo
tôi: “Cậu sẽ rất buồn cười cho mà xem”. Và tất cả bọn trẻ hiểu ngay rằng người ta
sẽ cho tôi xem một màn trình diễn về người ông tham ăn, cùng cười toáng lên,
trong khi đó mẹ chúng vừa mỉm cười vừa nhún vai.
Simon quay về phía ông già, lấy tay làm loa
và hét vào tai ông: “Tối nay chúng ta có món bánh kem tráng miệng”.
Khuôn mặt nhăn nheo của ông lão sáng bừng
lên và ông rung người rất mạnh để biểu thị rằng ông đã hiểu và ông rất hài
lòng.
Và rồi người ta bắt đầu bữa tối.
“Xem này”. Simon rên lên. Ông lão không
thích món súp và từ chối ăn nó. Người ta bắt ông phải ăn vì nó tốt cho sức khỏe
của ông, người hầu tống vào miệng ông từng thìa súp đầy, trong khi ông cố chống
cự lại bằng hết sức bình sinh để khỏi phải nuốt cái thứ nước ông không thích
đó, chính vì thế ông làm đổ bẩn hết cả ông, cả bàn ăn và cả những người xung
quanh.
Bọn trẻ cười chảy cả nước mắt, trong khi đó
bố chúng, vô cùng hài lòng, lặp đi lặp lại: “Có buồn cười không, ông lão này?
Có tức cười không?”
Và trong suốt bữa ăn họ chỉ chăm chút cho
ông lão. Ông lão nghiến ngấu nhìn những đĩa thức ăn đặt trên bàn, và cố đưa bàn
tay run rẩy ra để kéo những đĩa thức ăn về phía mình. Mọi người cố tình đặt
chúng sao cho ông gần với tới được, để rồi xem ông cố công cố sức với chúng, vừa
run lẩy bẩy vừa cố lấy đà để lao được đến đĩa thức ăn. Mùi thơm của thức ăn khiến
ông chảy cả dãi ra vì thèm khát, ông vừa làu nhàu vừa cố với. Cả nhà reo hò vui
vẻ vì vẻ khốn khổ lố bịch của ông già.
Rồi người ta tiếp vào đĩa ông một miếng
bánh bé tẹo mà ông ăn ngốn ngấu hết ngay với hy vọng người ta sẽ tiếp thêm miếng
khác cho ông. Khi người ta mang bánh ngọt lên. Ông như người lên cơn động kinh.
Ông rên lên vì thèm thuồng.
Gontran hét lên với ông: “Ông ăn nhiều quá
rồi, ông không nên ăn nữa”. Và nó làm ra vẻ không cho ông ăn nữa.
Thế là ông già bật khóc nức nở. Ông vừa
khóc, vừa run rất mạnh trong khi đó tất cả bọn trẻ con cười ngặt cười nghẹo. Cuối
cùng người ta cũng mang phần của ông đến cho ông, một phần bánh rất nhỏ; ông
nhét ngay nó vào mồm nghiến ngấu, vừa ăn vừa phát ra tiếng kêu chóp chép như một
đứa trẻ phàm ăn. Vừa ăn vừa ợ, vừa nấc như một con vịt nuốt phải một miếng cá
quá to.
Rồi khi ông ăn xong, ông lại giậm chân để bảo
mọi người tiếp thêm cho ông.
Ái ngại cho ông già, mủi lòng tôi quay sang
ướm lời :
- Xem kìa, đưa thêm một chút bánh ngọt cho
ông chứ?
Simon trả lời:
- Ôi không! Bạn thân mến, nếu ông ăn quá
nhiều sẽ không tốt cho sức khỏe của ông đâu.
Tôi cứng họng trước những lời như thế. Ôi đạo
đức, ôi lập luận, ôi sự thông thái, ở tuổi ông, người ta đã tước nốt thú vui được
ăn của ông vì lo lắng cho sức khỏe của ông! Sức khỏe của ông! Người ta sẽ làm
gì được cho ông, cho một lão già liệt, run lẩy bẩy? Người ta giữ gìn sức khỏe
cho ông, người ta giữ cho ông được sống lâu hơn, như người ta nói ư? Giữ cho
ông sống được lâu hơn, nhưng sống lâu hơn được bao nhiêu ngày? Mười ngày, hai
mươi ngày, năm mươi ngày hay một trăm ngày? Để làm gì? Vì cái gì? Vì ai? Vì
ông? Hay để giữ cho gia đình một đồ vật để mà chơi, để mà đùa về thói tham ăn đầy
bất lực của ông?
Ông chẳng còn việc gì để làm trong cuộc đời
này nữa, chẳng còn gì nữa hết. Chỉ còn một mong muốn duy nhất còn lại, một thú
vui duy nhất; tại sao người ta không thỏa mãn cho ông cái niềm vui cuối cùng
đó, cho ông được hưởng cái niềm vui duy nhất còn lại đó cho tới ngày cuối đời?
Sau đó chúng tôi còn đánh bài rất lâu rồi
tôi mới lên phòng đi nghỉ: tôi buồn, buồn, buồn quá!
Tôi ra đứng ở cửa sổ nhìn ra ngoài, ngoài
kia, chẳng hề có một tiếng động nhẹ nào ngoài tiếng một con chim đang líu lo
hót trong một bụi cây ở một nơi nào đó. Chú chim này hẳn đang hót với một giọng
nhỏ nhẹ trong đêm để ru con mái ngủ, ấp trên những quả trứng.
Tôi lại nghĩ đến năm đứa con của anh bạn khốn
khổ của tôi, người hẳn giờ đây đang ngáy bên người vợ xấu xí của anh ta.
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét