Chùm Nho Phẫn Nộ
(The Grapes of Wrath)
Tác giả: John Steinbeck
Người dịch: Phạm Thủy Ba
Nhà XB Hội Nhà Văn - Năm XB 11-2020
Chương 15
Dọc đường cao tốc 66, những quán rượu nhỏ tạm
bợ, - Al và Suzy-Carl, ăn trưa; - Joe và Minnie, nhà hàng. Ăn nhẹ. Lều quán bằng
ván ghép. Quán hành lạc. Hai vòi bơm xăng ở quầy trước một cánh cửa lớn có lưới
sắt, một quầy rượu dài có ghế đẩu và thanh ngang để chân. Gần cửa, ba máy quay
xu phô ra phía dưới tấm kính cái gia tài vẻn vẹn những đồng năm xu mà một bàn
tay khéo léo có thể khoắng sạch. Và bên cạnh, chiếc máy quay đĩa tự động với những
đĩa hát chồng lên nhau như bánh đa, sẵn sàng rớt xuống giá đĩa và chơi một điệu
nhạc khiêu vũ: “Ti-pi-ti-pi-til”, “Xin cám ơn đã nhớ đến”, của Bing Crosby, của
Benny Goodman. Ở một đầu quầy một ngăn bàn đủ thứ: thuốc ho viên, suynfa, cà
phê Darpas, thuốc ngủ, kẹo, bánh, thuốc lá, lưỡi dao cạo, aspirin, Frono,
Seltzo, Alke, Setzer. Tường dán đầy quảng cáo với những hình phụ nữ mặc đồ tắm
tóc vàng hoe, may-ô trắng, ngực nở, eo thon, mặt trắng bệch, tay cầm một chai
Coca-Cola, miệng nở nụ cười duyên... - uống Coca-Cola thì được lợi thế đấy.
Quán rượu dài với các lọ muối, lọ hạt tiêu, bình mù tạt và khăn lau bằng giấy.
Những thùng bia phía sau quầy và phía trong cùng là các bình lọc cà phê bóng
loáng bốc hơi với những ống thủy tinh có ngấn chỉ mức cà phê. Còn có bánh kem
trong lồng lưới sắt, những quả cam xếp thành hình kim tự tháp bốn tầng. Và những
đống nhỏ các bánh ga tô, bánh bột ngô chồng lên nhau với nhiều cách sắp xếp
thay đổi.
Những quảng cáo giấy bồi nổi lên dưới tấm
mica lấp lánh: Bánh kem đặc sản địa phương. Không bán chịu. Mất lòng trước được
lòng sau. Các bà các cô có quyền hút thuốc. Nhưng xin để ý đến mẩu tàn thuốc.
Xin mời lại đây dùng bữa. Có bà nhà ngồi bên cạnh là hay nhất.
Ở một đầu quầy, những đĩa bày đủ các món
ăn, khoai tây, bò hầm, bò chiên, lợn quay đang chờ được cắt thành miếng.
Phía sau quầy, Minie, Suzy hoặc Mae, lứa tuổi
trẻ đã qua già chưa tới, tóc cuốn búp, môi son má phấn, khuôn mặt nhẫy nhụa mồ
hôi đáp lại nhỏ nhẹ khi khách gọi món ăn thức uống, báo lại với đầu bếp với tiếng
kèn đồng, mạnh tay đưa giẻ lau mặt quầy, theo vòng tròn, đánh bóng các bình cà
phê to bóng loáng. Gã đầu bếp tên là Joe, hoặc Carl, hoặc Al. Y nóng bức dưới
chiếc áo vét-tông trắng và chiếc tạp dề, những giọt mồ hôi nhỏ giọt trên cái
trán trắng dưới chiếc mũ bonê trắng của đầu bếp. Tính đồng bóng, ít nói, y chỉ
ngước mắt lên một thoáng lúc có một người khách bước vào. Y lau chùi cái vỉ nướng
thịt, ném miếng thịt thái lên chảo. Y lặp lại khe khẽ tên các món ăn đã đặt do
Mae truyền lại, nạo vỉ nướng thịt và lau nó bằng một miếng vải thô, ủ rũ và lặng
lẽ.
Mae là đầu mối tiếp xúc, tươi cười, cáu kỉnh,
sẵn sàng bùng nổ, tươi cười trong khi mắt mơ màng nhìn về một quá khứ xa xăm...
trừ phi có mặt những tay lái cam-nhông. Chính họ là xương sống của tiệm ăn. Chỗ
nào mà có xe cam-nhông đỗ lại, thì chỗ ấy khách đổ tới. Không có cách nào đánh
lừa được bọn lái cam nhông, họ lõi đời. Họ dẫn khách đến. Họ lõi đời. Cứ thử
đưa cà phê cũ ra xem, họ sẽ không thèm đặt chân vào tiệm nữa. Nếu đối xử tốt, họ
trở lại. Mae mỉm cười hở cả răng cả lợi khi thấy các chú tài bước vào quán. Cô
ưỡn thẳng lên một chút, sửa lại mái tóc phía sau để cho đôi vú căng ra theo cử
động của đôi bàn tay đang giơ lên, cô bắt chuyện phiếm, nói bâng quơ mấy chuyện
to tát, chuyện nắng, trời mưa, chuyện tầm phào hay hay.
Al không nói chuyện bao giờ. Y không bắt
liên lạc với khách hàng. Thỉnh thoảng nghe câu đùa vui, y nhếch mép mỉm cười,
nhưng không bao giờ cười thành tiếng. Đôi khi y ngước mắt lên khi tiếng của Mae
trở nên sôi nổi, rồi y lấy bay nạo vỉ nướng thịt, quệt hết mỡ dính ở mép chảo
và rót nó vào một cái chậu sắt nhỏ. Y lấy chiếc bay đập bẹp một miếng thịt kêu
xèo xèo. Y đặt các chiếc bánh bổ đôi để rán trên chảo. Y thu nhặt những lát
hành vương vãi trên đĩa, rải chúng lên thớt, lấy bay miết chặt. Y đặt một nửa
chiếc bánh nhỏ trên thịt, lấy bơ phết vào nửa kia rồi rắc gia vị thảo mộc thái
nhỏ lên cả chiếc bánh. Đặt bánh lên thịt, y luồn chiếc bay xuống tảng thịt mỏng
và giật một cái, lật nó lên, đặt cái nửa có phết bơ lên trên và bỏ tất cả vào một
chiếc đĩa con, một ít lá hẹ giấm, hai quả ôliu bên cạnh miếng xăng uých. Al cho
cái đĩa trượt dọc quầy hàng như trượt hòn đảo. Rồi y lại lấy cái bay cạo cạo vỉ
rán và buồn rầu nhìn chiếc nồi.
Những chiếc xe phóng nhanh trên đường 66.
Biển số đăng ký Mass, Tenni, R.N.Y, Vi, Ohio.
Lên đường về phía Tây. Những chiếc xe hơi đẹp
chạy sáu lăm cây số...
Đấy kìa, một chiếc Card chạy qua. Nom giống
một cỗ quan tài có bánh xe.
Đúng thế, nhưng trời, nó chạy mới khỏe chứ!
Cậu có thấy chiếc LaSalle kia không? Cái đó
tớ mới cần.
Tớ đâu phải con lợn, tớ thích loại xe
LaSalle.
Đã thế, sao không dùng Cadillac? To hơn một
chút, nhanh hơn một chút.
Tớ giá có một Zerphya thì hơn. Không có vẻ
gì là giàu sang nhưng trông cũng oách, mà chạy tốt. Một Zerphya... tớ chỉ cần
có thế.
Thôi, có lẽ cậu sẽ cười vào mũi tớ... nhưng
tớ sẽ chọn một Buik Puich. Tốt chán.
Mà, mẹ kiếp, giá cũng bằng chiếc Zerphya, lại
không vất vả.
Tớ đếch cần, tớ chẳng muốn đụng đến bất cứ
gì của hãng Henry Ford. Không ngửi được, không bao giờ. Tớ có một thằng em làm
việc ở đó. Giá cậu nghe hắn nói?
Dẫu sao, lái Zerphya thì vất.
Những xe hơi to lao trên đường cái. Những
bà, những cô xinh đẹp, uể oải vì nóng bức - những hạt nhân mà xung quanh có
hàng ngàn đồ phụ tùng; kem, pho mát, thuốc dán, thuốc nhuộm đủ các màu đựng
trong những lọ con - đen, hồng, đỏ, trắng, xanh, bạc - để thay đổi màu tóc, mắt
môi, móng tay, lông mi, lông mày, mi mắt. Dầu, hạt và thuốc viên để cho dạ dày
hoạt động. Một cái túi đựng chai lọ, ống tiêm, thuốc viên, thuốc bột lỏng, sáp
nhờn để cho quan hệ tình dục thành vô hại, không mùi, không thụ thai. Đó là
chưa kể số quần áo, phiền toái bỏ đời!
Những nếp nhăn của mệt nhọc xung quanh mắt,
những nếp nhăn của bất bình xung quanh miệng, những nịt vú nhỏ hẹp, bụng và đùi
bị ép trong những màng cao su. Và những cái miệng hé mở, thở hổn hển, đôi mắt
bướng bỉnh căm ghét mặt trời, căm ghét gió, căm ghét đất, oán giận thức ăn, căm
ghét sự mệt mỏi, căm giận thời gian hiếm khi khiến họ xinh đẹp thêm và luôn làm
cho họ già đi. Bên cạnh họ là những người đàn ông nhỏ bé, bụng như cái thùng, mặc
quần áo màu sáng và đội mũ panama; những người đàn ông sạch sẽ, hồng hào với những
cặp mắt bối rối phiền muộn, cặp mắt lo lắng băn khoăn. Phiền muộn vì các thể thức
chẳng ra đâu vào đâu, đói khát sự an toàn tuy vẫn cảm thấy nó sẽ biến mất trên
trái đất. Trên ve áo của họ có cái biểu hiệu của nơi hội họp và những câu lạc bộ
dịch vụ - những nơi họ có thể lui tới và nhờ ảnh hưởng của một số ít những người
tầm thường khác cũng buồn nản như họ, họ có thể tự trấn an, tự tin rằng, kinh
doanh là việc cao quý chứ không phải chuyện trộm cắp được nghi thức hóa, ngộ
nghĩnh mà họ biết; rằng những con người kinh doanh đều thông minh mặc dầu có những
ghi chép nói lên sự ngu đần của họ; rằng họ tử tế và có lòng từ thiện bất chấp
những nguyên tắc của sự kinh doanh hợp lý; rằng đời sống của họ phong phú chứ
không phải những chuỗi ngày đầy dẫy những lề thói chán ngắt mà họ đã quen thuộc,
và sẽ đến một lúc mà họ không còn sợ hãi nữa.
Và hai người kia, họ sẽ đi California, họ
đi để được ngồi trong phòng lớn khách sạn Beverly - Wilshire, ngắm nhìn những
núi non, nhìn cây cao sừng sững - chàng thì với đôi mắt lo âu, nàng thì mải băn
khoăn chẳng biết mặt trời sẽ khiến da nàng se lại như thế nào. Họ đi để ngắm
nhìn Thái Bình Dương, và tôi dám cuộc mất không với bạn một trăm ngàn đô la là
chàng sẽ nói: “Nó chả lớn như anh từng tưởng”. Còn nàng sẽ thèm khát những thân
hình trẻ trung tròn trĩnh trên bãi biển. Đi California, thật ra với mục đích là
lại trở về nhà. Để nàng có thể nói: “Có một mụ nào đó ngồi ở bàn gần chỗ chúng
tôi, tại Trocadere, mụ ta quả là món hổ lốn, nhưng phải công nhận là mụ biết ăn
mặc chải chuốt”. Còn chàng: “Tôi đã có dịp nói chuyện với những nhà doanh nghiệp
đứng đắn ở đấy. Họ không thấy có chút cơ may nào trừ phi chúng ta gạt bỏ được
cái thằng cha đó ra khỏi Nhà Trắng”. Lại nói: “Tôi biết được cái đó do một người
rất thạo tin tức, ông biết không, mụ ta bị giang mai. Mụ ta đóng trong phim
Warner. Người đàn ông nói, mụ ta thành đạt là nhờ ngủ với mọi người đóng phim.
Thế đấy, mụ ước gì được nấy!”. Những đôi mắt lo lắng không bao giờ thấy bình
tĩnh và cái bĩu môi không bao giờ tỏ ý bằng lòng. Chiếc xe ca lớn vẫn đi sáu
mươi dặm một giờ, chầm chậm như đi kiếm khách.
Em muốn uống cái gì mát.
Kìa đằng kia có chỗ. Muốn dừng không?
Liệu ở đấy có sạch không?
Cũng sạch như mọi thứ em đang đi tìm trong
cái xứ bị Chúa bỏ rơi này.
Thôi, có thể mấy chai sôđa là đủ rồi.
Chiếc xe hơi kêu ken két rồi dừng lại. Người
đàn ông béo mập lo lắng giúp vợ xuống xe.
Mae nhìn họ rồi nhìn đi chỗ khác lúc họ bước
vào. Al đang nhìn vỉ nướng thịt bèn ngước mắt lên, rồi lại cúi mắt xuống. Mae
biết tỏng. Người này sẽ uống một chai sôđa 5 xu rồi chê là không được lạnh. Mụ
vợ sẽ dùng sáu cái khăn lau bằng giấy rồi vứt bừa bãi xuống nền. Gã chồng sẽ
nghẹn và tìm cách đổ lỗi cho Mae. Mụ vợ sẽ hin hít như ngửi phải mùi thịt hôi
thối, rồi chúng sẽ đi ra và sau đó suốt đời rêu rao rằng cái dân miền Tây bẳn
tính. Và sau đó một khi đứng một mình với Al, Mae sẽ gán cho họ một cái tên. Cô
gọi họ là đồ đê tiện. Cánh lái xe cam-nhông! Món khách này mới ăn tiền đây!
Một chiếc cam-nhông to lớn đang tới. Mong
nó dừng lại, xua tan cái mùi của quân đê tiện kia. Khi mình còn làm việc ở
khách sạn Albuquerque, Al ạ, thấy mánh lới chúng ăn cắp... thượng vàng, hạ cám,
đủ thứ. Xe của chúng càng to, chúng ăn cắp càng nhiều... khăn mặt, đồ bằng bạc
và hộp xà phòng... không thể hiểu nổi.
Al, giọng rền rĩ: “Cô nghĩ họ lấy xe hơi cỡ
lớn và các thứ đồ khác ở đâu? Sinh ra họ đã có sẵn rồi ư? Cô thì chả bao giờ
giàu được”.
Chiếc xe tải, người lái và người phụ lái.
- Hay ta dừng lại làm một tách cà phê Java?
Tớ biết cái ổ rác này.
- Thế còn giờ giấc?
- Ô, chúng ta chạy vượt rồi.
- Vậy thì đỗ lại. Ở đó có một ả nhớ nhiều
chuyện tình xưa, mà nhộn lắm. Lại có Java ngon nữa.
Chiếc xe dừng lại. Hai người đàn ông mặc quần
soóc khía kiểu kỵ mã, đi ủng, giắc-két ngắn, mũ nhà binh, có lưỡi trai bóng
loáng. Cửa lớn có lưới sắt mở ra.
- Thế nào cô Mae?
- Ấy tưởng ai? Hóa ra anh Bill-Chuột Cống!
Anh trở lại chạy con đường này từ bao giờ?
- Được một tuần.
Anh chàng kia bỏ một đồng năm xu vào máy
hát tự động, nhìn đĩa hát đang trượt xuống giá đĩa đang quay. Giọng ca của Bing
Crosby - giọng ca vàng.
“Cám
ơn đã nhớ đến - Phơi nắng ở bãi biển - Có thể bị rức đầu. Nhưng không hề buồn
chán”.
Chú tài hát theo cố cho Mae nghe: “Em có thể là một con cá tuyết - nhưng không
bao giờ là đứa gái điếm”.
Mae cười phá lên: “Ai là em của anh, hở
Bill? Một người mới trên đường trường chăng?”.
Người kia bỏ một đồng năm xu vào máy bán
hàng tự động, được bốn thẻ tiền; anh lại bỏ chúng vào máy. Anh đi tới quầy.
- Nào, anh dùng gì?
- À, một tách cà phê. Có những bánh kem gì?
- Bánh kem chuối, dưa, sôcôla, bánh khoai.
- Cho bánh khoai - mà khoan, cái bánh to
kia là bánh gì?
Mae cầm bánh lên ngửi, - bánh kem chuối.
- Cắt cho một khoanh, khoanh rõ to.
Người đứng trước máy quay xu nói: cắt hai
miếng.
- Hai miếng đây, lấy đi. Gần đây có chuyện
gì hay không, anh Bill?
- Ồ, có đấy.
- Hãy coi chừng, có đàn bà đấy.
- Ồ, chả có gì là tục đâu. Có một thằng bé
đến trường muộn. Cô giáo hỏi: “Tại sao em đến trễ?”. Thằng bé đáp: “Em phải dẫn
con bò cái đi tơ lấy đực ạ”. Cô giáo nói : “Thế ông già em không thể làm được
việc đó sao?”. Thằng bé nói: “Có chứ ạ, nhưng ông ấy không khỏe bằng con bò mộng”.
Mae cười the thé, cười rít lên. Al đang
chăm chú thái hành ở bàn, ngước mắt lên, mỉm cười rồi lại cúi xuống. Cánh lái
xe tải, chỉ có thế mà thôi! Thế mà cũng phải trả hăm lăm xu cho Mae. Cà phê và
bánh kem mười lăm xu, đãi Mae mười xu. Nhưng họ cũng không tìm cách tán tỉnh cô
nàng.
Cùng ngồi với nhau trên ghế đẩu, cùi dìa cắm
thẳng trong tách cà phê. Nói chuyện tào lao. Al vừa kỳ cọ chiếc vỉ nướng thịt,
vừa lắng nghe nhưng không bình luận gì. Tiếng hát của ca sĩ Bing Crosby ngừng bặt.
Các giá đĩa hạ xuống và đĩa rơi vào chồng đĩa. Ánh sáng màu tía tắt đi. Sau khi
đã làm cho máy hoạt động, làm cho Crosby ca hát và dàn nhạc hòa tấu, đồng kền
rơi vào trong hộp từ giữa các điểm tiếp xúc. Không như các đồng tiền lẻ khác, đồng
kền đã thực sự làm được một việc khó khăn vất vả, đó là chịu trách nhiệm cụ thể
về một sự phản ứng.
Hơi nước phun ra ở nắp bình cà phê. Máy nén
của tủ lạnh nhè nhẹ phát ra tiếng bình bịch trong một lúc rồi ngừng hẳn. Quạt
điện ở trong góc chậm rãi quay đầu từ trái sang phải, quét gian phòng bằng một
làn gió ấm. Trên đường quốc lộ, đường 66, xe vẫn chạy vèo vèo. Mae nói:
- Vừa nãy có một chiếc xe ca Massachussetts
đã dừng lại ở đây.
Anh chàng Bill cao to nắm chặt lấy miệng
tách cà phê, cặp cùi dìa vào giữa ngón tay cái và ngón tay trỏ rồi thời phù phù
cho nguội cà phê.
- Cậu cứ đi trên đường 66 mà xem. Xe khắp cả
nước đổ về đây. Tất cả đều đi về hướng Tây. Tớ chưa từng thấy nhiều xe đến thế.
Chắc chắn trên đường cái có nhiều em kháu lắm.
- Sáng nay, bọn tớ thấy một tai nạn xe hơi.
- bạn y nói. - Xe to - Cad cỡ lớn, kiểu đặc biệt, xinh xắn, thấp, màu kem - đâm
vào chiếc xe tải. Máy phát điện bẹp dúm lại thúc vào người tài xế. Chắc phải chạy
chín mươi cây số giờ. Tay lái đâm thẳng vào anh chàng, gã giãy giụa như con ếch
mắc lưỡi câu. Chiếc xe tuyệt vời. Trông đến ngon mắt. Nhưng giờ thì có thể đổi
lấy một nắm đậu phụng. Cũng may trong xe chỉ có một mình gã.
Al đang hí húi với món ăn, ngước mắt lên:
- Chiếc xe tải có bị gì không?
- Ôi lạy Chúa! Đâu phải tải tiếc gì! Một thứ
hổ lốn, do nhiều xe chắp vá lại mà thành, đầy những nồi niêu xoong chảo, nệm trẻ
con. Tóm lại cậu biết đấy, những thứ chở theo xe đi về miền Tây, ấy mà. Gã lái
Cad đang phóng gần bọn tớ, chín mươi cây số giờ, đang chạy nghiêng trên hai
bánh để vượt chúng tớ, thình lình một chiếc xe tải lao tới, đâm sầm vào chiếc
Cad, lúc thằng lái đang băng lên như thằng say mờ mắt. Lạy Chúa! Giường nệm, gà
qué, con nít bị hất tung lên, lả tả. Một đứa trẻ bị chết. Tai nạn chưa từng thấy.
Bọn tớ dừng lại. Ông già lái xe đứng chết lặng nhìn xác đứa trẻ. Không nói được
tiếng nào. Như câm. Trời! Trên đường đầy những gia đình đi về miền Tây. Tớ chưa
từng thấy nhiều đến thế. Ngày càng thêm tồi tệ. Lạ một điều là không biết họ từ
nơi ma quỷ nào.
- Tôi cũng lạ, tự nhủ không biết bọn họ đi
về đâu, - Mae nói - thỉnh thoảng có người ghé lại đây mua xăng, nhưng hầu như
chẳng mua cái gì khác. Thiên hạ đồn là họ hay ăn cắp. Chúng tớ chả có gì. Chúng
tớ chưa hề bị mất cắp thứ gì.
Bill hộ pháp vừa nhai tóp tép miếng bánh
kem vừa nhìn ra đường cái qua tấm cửa lưới sắt.
- Tốt nhất cậu nên buộc hành lý vào đi. Tớ
nghĩ là sắp có người đến bây giờ.
Một chiếc Nash 1926 mui kín nặng nề đỗ bên
đường. Chỗ ngồi phía sau chồng chất tận tới mui, nào bao tải, nào nồi niêu,
xoong chảo và gần sát nóc xe có hai thằng bé ngồi vắt vẻo. Trên mui xe một chiếc
nệm và một lều vải ghép lại, các cọc lều buộc dọc theo bậc lên xuống. Chiếc xe
dừng lại ngay chỗ bơm xăng. Một người đàn ông tóc đen, mặt lưỡi cày, chậm rãi
bước xuống. Tiếp đó, hai thằng bé từ đống đồ đạc trượt xuống theo.
Mae đi vòng quanh quầy hàng và đứng ở giữa.
Người đàn ông bận quần len xám, áo sơ mi xanh, lưng và nách đã xanh thẫm lại vì
mồ hôi. Hai thằng bé mặc quần yếm, rách mướp, vá chằng chịt và chỉ có thế. Tóc
chúng màu sáng, cắt ngắn đều một loạt, dựng đứng trên đầu. Mặt mũi chúng lem luốc
bụi bặm. Chúng đi thẳng tới vũng bùn dưới vòi máy nước và sục ngón chân vào
bùn.
Người đàn ông hỏi:
- Chúng tôi có thể xin một ít nước không,
thưa bà?
Một vẻ buồn phiền thoáng qua trên khuôn mặt
Mae.
- Hẳn rồi, ông cứ lấy đi.
Cô hơi quay đầu, nói khe khẽ qua vai: “Mình
sẽ để mắt tới vòi máy”. Và cô đứng trông chừng trong khi người đàn ông từ từ vặn
nút máy phát điện và cắm vòi nước vào.
Một người đàn bà ngồi trong xe, tóc màu gai
nói: “Xem ở đây có bánh không?”.
Người đàn ông khóa vòi nước và đóng máy
phát điện. Bọn trẻ con cầm lấy vòi nước, nâng cao lên và uống ừng ực. Người đàn
ông cất chiếc mũ đen lem luốc và đứng trước cửa lưới sắt với vẻ quá khiêm nhường.
- Thưa bà, bà có thể có cách nào bán cho
chúng tôi một ổ bánh mì không?
- Đây không phải tiệm bánh mì, - Mae đáp -
chúng tôi chỉ có bánh để làm xăng-uých.
- Tôi biết, thưa bà. - sự khiêm nhường đâm
ra nài nỉ. - Tôi biết. Chúng tôi cần bánh mì, mà nghe nói còn phải đi xa mới có
hàng quán.
- Nếu bán thì chúng tôi hết bánh làm xăng
uých, - Mae nói với giọng đã nao núng.
- Chúng tôi đói lắm, - người đàn ông nói.
- Sao ông không mua bánh xăng uých? Chúng
tôi có xăng-uých nhồi xúc xích, ngon lắm.
- Chắc chắn chúng tôi ao ước được thế, thưa
bà. Nhưng không thể được. Cả nhà chỉ có vẻn vẹn một hào, - Và ông nói lúng túng.
- Chúng tôi chỉ mua được ít thôi.
- Một hào thì ông không mua được ổ bánh
đâu, - Mae nói
- Chúng tôi chỉ có ổ bánh mười lăm xu.
Phía sau cô, Al càu nhàu: “Trời ơi, cô Mae,
bán cho họ đi”.
- Chúng mình sẽ hết bánh trước khi xe bánh
tới.
- Hết bánh, thì đã làm sao? - Al nói. Và
anh buồn rầu nhìn xuống món salad khoai tây anh đang ngào dở.
Mae nhún đôi vai nõn nà và nhìn hai người
lái cam-nhông như phân bua là cô khó xử biết chừng nào. Cô mở cửa lưới sắt, người
đàn ông bước vào mang theo cùng ông ta mùi mồ hôi chua gắt. Bọn trẻ len vào sau
ông, chúng đi thẳng đến tủ kính đựng kẹo và chúng đứng nhìn chòng chọc - đôi mắt
không tỏ vẻ đói khát hoặc hy vọng hoặc thậm chí thèm muốn, mà chỉ như quá đỗi
kinh ngạc là tại sao có thể có những thứ đó. Chúng cao bằng nhau và khuôn mặt
cũng giống nhau. Một đứa lấy ngón chân này gãi gãi mắt cá chân lấm lem của chân
kia. Đứa kia rỉ tai thì thầm cái gì đó và cả hai duỗi thẳng cánh tay đến nỗi
bàn tay nắm chặt trong túi quần yếm cuộn lên qua làn vải xanh mỏng.
Mae mở ngăn kéo, lấy ra một ổ bánh mì gói
trong giấy nền dài.
- Đây, một ổ bánh mười lăm xu.
Người đàn ông đội mũ lên đầu. Ông trả lời với
vẻ khiêm nhường không lay chuyển:
- Xin bà vui lòng, bà xem có cách nào cắt
cho một miếng mười xu không?
- Trời ơi, cô Mae, - Al cau có nói. - bán
cho họ ổ bánh đi.
Người đàn ông quay về phía Al:
- Không chúng tôi chỉ muốn mua đúng với giá
mười xu thôi. Chúng tôi đã tính sát nút rồi, thưa bà, để có thể đi tới
California.
Mae nói với vẻ nhẫn nhục:
- Ông có thể lấy bánh với giá mười xu.
- Như thế là tôi ăn cắp của bà, - ông ta
nói.
- Thôi, ông lấy đi, chính Al bảo ông thế, -
Mae nói.
Và cô đẩy ổ bánh bọc giấy nến qua mặt quầy.
Người đàn ông lấy ở túi sau ra một cái hầu bao bằng da, cởi dây thắt lưng và mở
hầu bao ra, bên trong đựng đầy tiền bạc và những tờ giấy bạc lấm lem.
- Thật là kỳ quặc khi phải chi li chặt chẽ
từng xu, - ông ta biện bạch - chúng tôi phải đi ngàn dặm đường nữa, mà không biết
có thể tới nơi được không...
Ông thọc ngón tay trỏ vào hầu bao, lần đúng
đồng mười xu, rồi đưa ngón tay cái vào cùng ngón tay trỏ cặp chặt lấy đồng xu.
Khi ông đặt nó lên quầy thì một đồng xu lăn ra theo. Ông toan bỏ đồng một xu
vào hầu bao thì bỗng trông thấy mắt hai đứa con dại đi trước quầy bánh kẹo. Ông
từ từ đi lại chỗ chúng. Ông trỏ vào những thanh kẹo bạc hà và hỏi:
- Thưa bà, có thứ kẹo một xu không?
Mae lại gần, nhìn vào tủ kẹo:
- Kẹo nào? - cô hỏi.
- Kìa, thứ có vạch kia.
Hai đứa bé ngước mắt nhìn khuôn mặt của cô
và chúng nín thở, miệng há ra, thân mình ở trần trở nên cứng ngắc.
- Ờ... Những cái đó. À, không, những cái đó
một xu hai chiếc.
- Vậy bà cho tôi cả hai chiếc.
Ông cẩn thận đặt đồng xu lên quầy. Bọn trẻ
thở ra nhẹ nhõm. Mae trao các thanh kẹo cho chúng.
- Xin bà đi. Cầm lấy, - Người đàn ông nói.
Chúng rụt rè đưa tay ra nắm lấy mỗi đứa một
chiếc, hai tay buông thõng giữ chặt thanh kẹo và không nhìn vào nó nữa. Nhưng
chúng nhìn nhau, miệng nhoẻn nụ cười cứng nhắc, ngượng ngùng.
- Xin cám ơn bà.
Nói xong, người đàn ông cầm bánh đi ra xe,
hai thằng bé đi theo sau, kẹo đại mạch kẹp chặt vào đùi. Như những con chuột nhắt,
chúng nhảy lên ghế trước, len lỏi lên nóc hàng rồi cũng như những con chuột nhắt
chúng lại lẩn vào hang. Người đàn ông lên xe và mở máy, tiếng động cơ gầm rú, một
làn khói dài xanh tỏa ra, chiếc Nash cũ lên đường phóng về miền Tây. Ngồi trong
tiệm ăn, các lái xe, Mae và Al đưa mắt nhìn theo họ. Bill hộ pháp xoay ghế lại.
- Kẹo đại mạch không bán một xu hai chiếc
đâu nhé! - Anh nói.
- Thì việc gì đến anh? - Mae nói gay gắt.
- Kẹo ấy năm xu một chiếc, - Bill nói.
- Thôi, đi thôi, - người lái phụ nói. -
Chúng ta bỏ mất nhiều thời gian rồi.
Hai người móc túi ra, Bill đặt một đồng tiền
lên quầy, người kia thấy thế, lại thọc tay vào túi và cũng đặt lên một đồng tiền.
Họ quay lại và ra cửa.
- Xin chào, - Bill nói.
- Khoan, - Mae gọi - chờ tí đã. Còn tiền thừa.
- Để làm quái gì! - Bill nói và tấm cửa lưới
sắt đóng sầm lại.
Mae nhìn họ leo lên chiếc xe tải to, nhìn họ
mở máy, sang số một, và nghe tiếng rên rỉ sang số hai khi chiếc xe tăng tốc độ.
- Al...- cô nói dịu dàng.
Al đang miết dẹp miếng thịt và lồng vào giấy
nến, anh ngước mắt lên.
- Có gì thế? - Anh hỏi.
- Anh nhìn xem, - Cô chỉ hai đồng tiền cạnh
mấy cái cốc - Hai đồng nửa đô la.
Al đi lại gần nhìn rồi trở lại tiếp tục
công việc.
- Cánh lái cam-nhông thế đấy, - Mae nói với
vẻ kính trọng. - Còn những bọn bần tiện...
Đàn ruồi đụng vào tấm lưới, kêu vo vo rồi
bay đi. Máy ép kêu bình bịch chốc lát rồi ngừng. Trên đường cao tốc 66, sự giao
thông đi lại vẫn o o, ve ve, ken ken náo nhiệt, xe tải, xe cọc cạnh, xe đẹp
dáng thuôn, và tất cả chạy trong tiếng ầm ầm nhức nhối.
Mae thu dọn đĩa, hất các mảnh bánh vụn xuống
thùng gỗ, lấy giẻ ướt đẫm lau quầy hàng theo vòng tròn. Rồi mắt cô lại nhìn ra
đường cái nơi mà cuộc sống đang ầm ào sôi động. Al chùi tay vào tạp dề. Anh
nhìn vào tờ giấy dính ở tường phía trên vỉ nướng thịt. Ba cột ghi các cột dấu
hiệu kẻ trên tờ giấy. Al đếm ở hàng dài nhất. Anh đi dọc quầy hàng tới số máy
tính ghi tiền mặt thu được, bấm vào nút “Không bán” và lấy ra một nắm tiền năm
xu.
- Anh làm gì đó? - Mae hỏi.
- Số ba sẵn sàng trúng. - Anh đi lại máy
quay xu thứ ba, bỏ những đồng năm xu vào, và khi bánh xe quay đến vòng thứ năm,
ba cái chắn ngang hiện ra và số tiền góp lại rơi xuống đĩa. Al nhặt hết tất cả
và trở lại quầy. Anh bỏ tiền vào ngăn kéo và đóng máy ghi tiền mặt. Sau đó, anh
trở lại chỗ cũ và xóa dòng ghi điểm. Anh nói:
- Con số ba nhiều người đánh hơn. Có lẽ
mình phải đảo hết vị trí mọi con số.
Anh nhấc một chiếc nắp lên và đảo món thịt
hầm đang từ từ sôi.
- Em lấy làm lạ, họ đi tới Califonia để làm
gì? - Mae hỏi.
- Ai?
- Những người vừa ở đây ban nãy.
- Có trời biết!
- Anh có cho là họ sẽ kiếm được việc làm
không?
- Tôi biết thế quái nào được! - Al nói.
Cô nhìn về hướng đông dọc con đường cái.
- Lại có một xe vận tải đang tới. Liệu họ
có dừng lại không? Hy vọng là thế.
Và khi chiếc xe to lớn nặng nề đỗ bên lề đường,
Mae túm lấy giẻ lau khắp mặt quầy, chùi sơ qua các bình cà phê bóng loáng rồi
nâng tay gạt của bình ga ở dưới lên. Khuôn mặt của Mae tươi hẳn lên khi cửa mở
và hai tài xế mặc đồng phục bước vào.
- Chào em gái!
- Tôi không muốn là em gái của bọn đàn ông
các anh. - Mae nói.
Họ cười và Mae cũng cười,
- Dùng gì các chàng trai?
- Ồ, một tách cà phê. Cô có những bánh kem
gì?
- Bánh kem dứa, kem chuối, kem sôcôla, kem
khoai.
- Cho tôi bánh khoai, mà khoan, cái bánh to
to kia, bánh gì vậy?
Mae gắp bánh lên ngửi:
- Kem dứa.
- Được, cắt cho tôi một khoanh.
Các xe tải vẫn vù vù một cách quái ác trên
quốc lộ 66.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét