Chùm Nho Phẫn Nộ
(The Grapes of Wrath)
Tác giả: John Steinbeck
Người dịch: Phạm Thủy Ba
Nhà XB Hội Nhà Văn - Năm XB 11-2020
Chương 29
Từ phía đại dương, các đám mây trên đầu các
dãy núi cao miền duyên hải và các thung lũng. Một trận gió ác liệt nổi lên, thổi
trên không trung với một sức mãnh liệt câm lặng, rì rầm trong các bụi rậm và gầm
thét trong các khu rừng. Mây bay đến tán loạn, chỗ thì vụn lại thành những cụm
nhỏ trắng, chỗ giàn ra thành những dải gấp nếp, chỗ thì xám xịt rách tả tơi rồi
mây ùn ùn chồng chất rất thấp, sát chân trời phía tây. Thình lình gió ngừng bặt,
cả cái khối dày đặc nặng nề nằm im lìm bất động. Mưa bắt đầu rơi. Thoạt tiên là
những cơn mưa nhỏ triền miên. Rồi đến những trận mưa rào xối xả, rồi tiếp đó là
một cơn mưa nhỏ hạt dầm dề, đều đặn. Cảnh vật bị nhấn chìm trong một lớp mù
xám, biến ban ngày sáng tỏ thành buổi hoàng hôn. Lúc ban đầu đất khô cứng hút
hơi ẩm và ngả màu đen, đất uống nước mưa suốt hai ngày ròng rã. Đất đã no nê,
những ao đầm thành hình và những hồ nước nhỏ chẳng mấy chốc đã phủ ngập những
chân ruộng thấp. Những hồ ao bùn ngập ngụa cứ dềnh lên từng giờ một, và mưa
liên miên quất vào nước lấp loáng. Cuối cùng, những dòng suối nhỏ trên các sườn
núi ngập nước, chảy tràn xuống các sông, gầm gào đổ cuồn cuộn vào các hẻm núi để
rồi trút thức lũ xuống thung lũng.
Mưa rơi mãi không ngừng. Suối con, sông nhỏ,
dâng tràn bờ tấn công vào các cây liễu và rễ cây to uốn ngả những thân cây liễu
là là, dòng nước đào xới rễ cây bông, quật đổ những cây to. Nước sục bùn và
xoay tròn vượt qua bờ và cuối cùng ùa tràn vào các cánh đồng, các vườn cây ăn
quả, các đồn điền với những cây bông sừng sững nhô lên như những bộ xương cháy
đen, những cánh đồng bằng phẳng biến thành những hố lớn màu xám bị mưa quét tơi
bời. Rồi nước nhấn chìm các đường cao tốc, xe cộ chỉ nhích lên thong thả, tự mở
lấy một lối đi trong các khối lỏng, kéo theo sau chúng một làn nước sủi bọt,
vàng nhờ nhờ. Đất thì thầm dưới những làn roi quất của mưa và những con thác gầm
thét dưới nước lũ đảo điên của những con suối nhỏ tràn trề.
Ngay từ trận mưa đầu tiên, những người di tản
đã bó gối ngồi thu lu dưới lều, tự nhủ: “Chắc sẽ chóng tạnh” hoặc hỏi nhau “Có
thể bao lâu thì tạnh?”. Khi các vũng nước bắt đầu hình thành, đàn ông bèn cầm
cuốc xẻng, đi ra ngoài dưới trời mưa và đắp những bờ kè bé nhỏ quanh các lều trại.
Cuối cùng thì cơn mưa ào ào tầm tã thấm qua vải lều và chảy ròng ròng theo các
vách. Thế rồi, nước quét phẳng những bờ kè nhỏ, xâm chiếm vào các lều làm ướt cả
giường cả đệm. Người trong lều phải ngồi lên trong quần áo ướt sũng. Rồi họ kê
thùng, bắc các tấm ván lên trên thùng. Sau đó thì họ ngồi lên ván, ngồi ngày ngồi
đêm.
Những chiếc xe cũ kỹ xếp hàng bên cạnh các
lều, nước tấn công hẳn vào các dây điện và ngâm vào các máy hòa khí. Các lều nhỏ
xám nhô lên như những hòn đảo giữa hồ. Mãi rồi người ta phải bỏ đi. Nhưng xe
không chịu nổ máy và dây điện bị chập mạch. Và khi động cơ chịu chuyển động rồi
thì bánh lại lún sâu trong bùn đặc. Thế là ai nấy phải đi bộ, vừa mang chăn, vừa
lội bì bõm trong nước. Họ ì ạch tiến lên, mỗi bước đi lại làm bắn nước tung tóe,
tay ôm con thơ lưng cõng người già. Và lúc thấy một vựa thóc đứng trên một chỗ
đất cao, họ bèn chen chúc nhau tới đây, người run lẩy bẩy lòng tuyệt vọng.
Một số trong bọn họ đi đến Sở Từ Thiện gần
nhất, nhưng rồi buồn bã trở về với gia đình.
Đã có những luật lệ... muốn được quyền cứu
trợ phải ở trong xứ được một năm. Đâu như chính phủ sắp làm một cái gì. Khi
nào, họ không biết.
Và ngày một ngày hai, một nỗi kinh hoàng
gia tăng xâm chiếm họ. Trong ba tháng sắp tới sẽ không có công ăn việc làm.
Ngồi chen chúc trong các nhà kho, họ co ro
run rẩy, và nỗi kinh hãi chụp xuống họ, các gương mặt xám lại vì nỗi sợ hãi. Trẻ
con đói kêu khóc, thức ăn lại không có. Rồi bệnh tật kéo tới, bệnh sưng phổi, bệnh
sởi, sởi ăn lên mắt, lên chùm tai.
Mà mưa vẫn triền miên tràn ngập các đường
cái vì cống rãnh không đủ để tiêu nước.
Thế là các nhóm người ướt lạnh thấu xương,
quần áo rách tả tơi và ướt lướt thướt, giầy dép nhão nhoét, đi ra khỏi lều và
khỏi các kho đầy ứ người. Bì bõm trong ao ngập ngụa bùn. Họ đi đến các phố xá,
tràn vào các cửa tiệm, các sở cứu nạn, ăn xin ít thức ăn, nuốt mọi sự xỉ nhục
vì một mẩu bánh, tìm cách ăn cắp, nói dối. Chẳng bao lâu, một cơn uất giận tuyệt
vọng bắt đầu ấp ủ dưới những lời kêu nài sau những thái độ quị lụy. Và trong
các thành phố nhỏ, lòng trắc ẩn của thiên hạ đối với những kẻ đói khát đó biến
thành cơn giận dữ, rồi thành nỗi lo sợ. Thế rồi bọn quận trưởng cảnh sát bắt
hàng toán tùy tùng mới phải tuyên thệ và vội vã đòi gửi tới nào súng, nào đạn
dược, nào lựu đạn cay. Những người đói khát lũ lượt ngổn ngang trên các đường
phố, sau các cửa hiệu, ăn mày một mẩu bánh, ăn mày rau úa, và nếu có dịp thì ăn
cắp.
Những người hoảng loạn lấy nắm tay đấm
thình thịch cửa nhà các thầy thuốc, nhưng thầy thuốc đang bận. Thế là những người
đó, mặt mày thất sắc, nhờ ông chủ tiệm báo với cảnh sát tư pháp.
Các ông này không bận rộn lắm. Xe của họ đi
lùi lại phía sau trong bùn lầy và chở các xác chết đi.
Và mưa vẫn rơi không ngớt, lộp bộp, nước
sông phá vỡ bờ, tràn ngập khắp cả vùng.
Rúc vào nhau dưới các túp lều, nằm dài trên
cỏ rơm ẩm ướt, cơn đói và nỗi sợ đẻ ra sự uất giận. Các thanh niên đi ra ngoài
không phải để ăn xin, mà để ăn cắp, và người lớn cũng ra ngoài để cố ăn cắp.
Các quận trưởng cảnh sát tuyển mộ thêm nhiều
tay chân và đặt mua thêm vũ khí, những người sung túc ngồi trong các ngôi nhà
khô ráo ấm áp, thoạt đầu thì cảm thấy thương hại, sau đó thì kinh tởm và cuối
cùng căm thù lũ người di tản.
Trên đồng cỏ ẩm ướt ở căn nhà kho mà nước rỏ
qua các kẽ mái, các người đàn bà vừa chuyển dạ đẻ, vừa thở hồn hển vì bị viêm
phổi. Các ông già bà lão chết co rúm trong một xó và cũng co rúm mà chết và các
cảnh sát tư pháp không thể nắn thẳng xác họ lại được nữa. Ban đêm, những người
đàn ông điên giận táo tợn bẻ khóa chuồng gà và cuỗm đi những con gà kêu quang quác.
Khi bị bắn đuổi, họ không chạy, không vội vã, mà ủ rũ, lội lõm bõm qua bùn lầy
tìm một chỗ trú ẩn.
Lúc bị bắn trúng họ rũ xuống kiệt quệ trong
bùn.
Mưa tạnh. Nước ứ đọng trên đồng ruộng, phản
chiếu bầu trời xám, rồi nước ứ lại từ từ trôi đi và đất lại rì rào thầm thì.
Người người đổ ra từ các chuồng gia súc,
nhà kho. Họ ngồi xổm xuống, đưa mắt nhìn lượn lờ trên cảnh ngập lụt. Họ ngồi lặng
lẽ. Thoảng hoặc họ khe khẽ chuyện trò.
Trước xuân đến, không có việc làm, không có
việc làm.
Mà nếu không có việc làm thì không có tiền,
có bánh.
Ai kia có một cặp ngựa, bắt chúng kéo cày,
kéo bừa hay kéo trục, không hề nảy ra ý nghĩ xua đuổi chúng cho chúng chết đói
vì không có việc làm cho chúng.
Nhưng đây là nói đến ngựa, còn chúng ta là
những con người.
Đàn bà quan sát đàn ông, rình mò những phản
ứng của họ, tự hỏi chẳng hay lần này họ có thối chí nản lòng hay không. Đàn bà
đứng im lặng và quan sát. Và khi một số đàn ông tụ họp lại, thì nỗi sợ biến mất
khỏi khuôn mặt họ, nhường chỗ cho cơn uất hận. Thế là đàn bà thở nhẹ nhõm, bởi
vì họ biết rồi ra mọi sự sẽ trôi chảy. Cánh đàn ông họ không bị nhụt chí, chừng
nào mà sự sợ hãi còn có thể biến thành sự uất giận, thì cánh đàn ông không nhụt
chí.
Những mầm cỏ non bé xíu bắt đầu chọc đất ló
ra, và chỉ trong mấy ngày, các quả đồi đã khoác mầu sắc xanh cùng với năm mới
đang bắt đầu.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét