Chùm Nho Phẫn Nộ
(The Grapes of Wrath)
Tác giả: John Steinbeck
Người dịch: Phạm Thủy Ba
Nhà XB Hội Nhà Văn - Năm XB 11-2020
Chương 8
Giữa các ngôi sao, bầu trời trở nên xám, và
mảnh trăng lưỡi liềm mảnh dẻ nom tái nhợt và huyền ảo. Tom Joad và ông mục sư
bước nhanh ngang qua cánh đồng bông trên con đường mà giờ đây chỉ hằn những vệt
bánh xe, vệt máy cày. Duy chỉ có bầu trời mờ ảo là sáng rạng ánh bình minh đang
gần. Phía tây mờ mịt, một vạch ở phía đông. Hai người lặng lẽ cất bước hít thở
thứ bụi cát đang tung lên dưới chân bước. Jim Casy nói:
- Tao hy vọng là mày biết mày đi đâu chứ?
Khi ngày đã rạng tao chả thích mình đứng trơ ra chờ ma chờ quỷ nào đó, chả biết
đâu mà lần.
Cánh đồng bông rộn rã cuộc sống đang thức
giấc với tiếng đập cánh của chim mái đang mổ mổ dưới đất, của đàn thỏ hoảng sợ
vụt chạy trốn. Tiếng chân dẫm đùng đục tung bụi, tiếng lào xào của các mô đất bị
dẫm nát dưới gót giầy, bóp nghẹt những tiếng động bí ẩn của rạng đông.
Tom nói:
- Tôi có nhắm mắt cũng lần ra chỗ đi. Tôi
chỉ đi nhầm đường khi nào tôi nghĩ nhiều đến nó. Cứ thẳng đường mà đi tội gì
nghĩ ngợi cho mệt. Lạy Chúa, tôi sinh ra ở đây mà. Hồi còn nhóc con, tôi đã chạy
khắp nơi xó xỉnh kia. Đằng kia có cái cây to, ông thấy không, khó mà không nhận
ra. Hồi xưa, bố tôi đã treo ở cái cây đó một con chó sói đồng cỏ chết. Nó cứ
treo lơ lửng cho đến lúc nói như ai nói, tan chảy ra, rồi rơi xuống. Thật ra
thì nó khô đét. Lạy Chúa, tôi hy vọng mẹ tôi đã bỏ cái gì vào nồi rồi. Bụng tôi
đói quay đói quắt.
- Tao cũng vậy. Mày muốn làm một miếng thuốc
lá không? Đỡ đói. Lý ra không nên đi quá sớm thế này. Tốt nhất là chờ sáng tỏ
đã. - Ông ngừng lại cắn một miếng thuốc, - Tao đang ngủ ngon.
- Lỗi tại cái thằng Muley dở hơi. Hắn làm
tôi phát cáu. Hắn đánh thức tôi dậy. “Tạm biệt Tom, tao đi đây. Tao phải đi
thăm mấy chỗ xó xỉnh”. Rồi hắn nói thêm: “Tốt nhất là cả hai ông cũng nên đi đi
thôi, như thế thì đến sáng, các ông đã rời cánh đồng rồi”. Hắn hâm nặng vì cứ sống
như chuột chũi. Chẳng khác hắn đang bị người Indian bám sát gót. Ông có tin là
hắn dở hơi không?
- Ấy tao không biết chắc nữa. Mày đã thấy
chiếc xe hơi tối hôm qua đã mò đến khi ta nhóm lửa. Nhà đổ nát thế nào, chắc mày
đã thấy. Có chuyện tệ hại đang xảy ra ở đây. Chẳng phải nghi ngờ gì nữa, hiển
nhiên là thằng Muley đã hóa điên. Cứ lảng vảng rình mò như thế, như con sói đồng,
ắt phải hóa điên. Có ngày rồi hắn sẽ giết một ai đó và người ta sẽ đưa chó săn
truy lùng hắn. Tao có thể thấy trước điều đó chắc như đinh đóng cột. Hắn ngày
càng điên thêm. Ra thế đấy, hắn không muốn đến với chúng ta?
- Không, - Joad nói. - Tôi tin là thấy người
thì hắn sợ. Hắn mà đến với chúng ta thì kể cũng lạ. Mặt trời lên thì chúng ta sẽ
tới nhà chú John.
Trong một lúc họ lặng lẽ bước đi; những con
cú muộn màng bay về phía các nhà kho, các hốc cây, các bể chứa để tránh ánh ban
ngày. Bầu trời phương đông vẫn nhạt dần, và người ta có thể phân biệt rõ cây
bông và đất đang chuyển sang màu xám nhạt.
- Quỉ thật, tôi không sao tưởng tượng nổi
làm thế nào họ có thể nhét tất cả vào nhà chú John được. Chú chỉ có một căn buồng
và một chái nhà dùng làm bếp và một nhà kho rộng bằng cái lỗ mũi. Chắc phải như
nêm cối.
- Tao còn nhớ đâu như chú John không có gia
đình thì phải. Ông ta ở một mình, đúng không? Tao không nhớ rõ lắm.
- Trên đời này, không ai sống bơ vơ cô độc
như ông ta, - Joad nói. - Vả lại ông ta cũng hơi hâm hâm... hơi như Muley,
nhưng một số mặt thì tệ hơn. Người ta có cơ bắt gặp ông khắp nơi, say mèm hoặc
thăm thú một mụ góa, ở cách hai mươi dặm, hoặc thắp đèn làm đất. Hâm hẳn. Thiên
hạ nhất loạt đều cho ông ta không sống lâu. Một người cô độc như vậy thì làm
sao sống lâu được. Nhưng chú John nom già hơn bố tôi. Có điều mỗi năm qua đi,
chú lại thêm khô đét và tiều tụy hơn. Tiều tụy hơn ông nội.
- Hãy nhìn ánh sáng đang đến kia kìa, -
Casy nói. - Chẳng khác bạc. Mà John không có vợ con sao?
- Có chứ, đã lập gia đình, mà có gia đình mới
càng rõ chú ấy là người như thế nào, ăn ở ra làm sao. Chính bố tôi đã kể tôi
nghe. Hồi ấy, chú John có một người vợ trẻ. Lấy nhau được bốn tháng. Đã có chửa.
Một đêm thím thấy bụng đau quặn, thím nói: “Mình nên đi tìm thấy thuốc”. Nhưng
chú John cứ ngồi đấy bình chân như vại. Chú nói: “Mình đau bụng, đơn giản thế
thôi. Mình bị bội thực. Gì cũng nhét vào dạ dày và rồi thấy đau bụng, thế thôi”.
Ngày hôm sau, đến trưa thì thím nói mê sảng, đến bốn giờ chiều thì chết.
- Bị gì vậy, - Casy hỏi, - Ăn thứ gì ngộ độc
hay sao?
- Không phải, đơn giản là có cái gì đó đã bục
trong bụng thím. Đau ruột thừa hay đại loại thế. Thế là, chú John xưa nay vẫn từng
thây kệ sự đời, lúc đó đâm ra thế nào ấy. Chú coi như mình đã phạm tội lỗi và một
thời gian lâu, chú chả còn muốn chuyện trò với ai nữa. Chú chỉ đành đi lang bạt
khắp nơi như thể không thấy gì hết, rồi chú có cầu nguyện chút đỉnh. Phải mất
hai năm chú mới hồi phục, hơn nữa, lại không còn như trước. Hơi ngớ ngẩn. Cuối
cùng thì chả ai chịu nổi. Lúc bọn tôi còn bé, mỗi lần bị giun sán hay đau ruột,
thế nào chú John cũng đi tìm thầy thuốc. Có lần bố tôi nói chú thôi chuyện đó
đi. Bọn trẻ con, chúng cứ là đau bụng suốt. Chú, chú hình dung chính lỗi tại
chú nên vợ chú mới chết. Con người thật ngộ. Cứ bỏ thì giờ ra để đem ân huệ cho
thiên hạ, như để chuộc tội... cho trẻ con thứ này thứ nọ, đặt một túi bột mì ở
cửa nhà ai đó. Có gì, chú cho gần hết nhưng nào có được sung sướng! Nhiều lần,
chú đi dạo một mình ban đêm. Nhưng dẫu sao cũng là tay trồng trọt giỏi. Ruộng của
chú được chăm sóc tốt.
- Tội nghiệp cho ông ta, - mục sư nói, - Sống
cô độc, tội nghiệp. Khi vợ chết, ông ta có năng đi nhà thờ không?
- Không, không hề. Ông không muốn lại gần
thiên hạ. Ông muốn sống một mình. Không có đứa bé nào là không mê ông. Nhiều lần
ông tới nhà vào đêm muộn, bọn tôi biết là ông đã đến, chả là ông vừa bước vào
thì đã có một gói kẹo cao su trên giường, cạnh mỗi đứa chúng tôi. Bọn tôi coi
ông như Chúa phúc đức hiện hình.
Người mục sư cắm cúi bước. Ông không đáp lại.
Ngày đang lên tỏa một chút sáng mờ mờ trên trán ông, đôi bàn tay đung đưa hai
bên hông, lung linh trong ánh sáng.
Tom cũng im bặt, như thể xấu hổ vì đã nói
những chuyện quá thân mật. Anh gấp bước và người mục sư cố bước kịp ngang hàng.
Bây giờ họ bắt đầu phân biệt được các sự vật ở phía xa xa, xám nhạt. Một con rắn
chậm rãi luồn ra ngoài đám ruộng bông và trườn qua đường. Tom chặn phắt nó lại
và nhìn kỹ:
- Con rắn ăn chuột đồng, - anh nói. - Để kệ
nó.
Họ đi qua cạnh con rắn và tiếp tục đi. Một
sắc đậm hiện ra ở phương đông và liền ngay đó ánh sáng của bình minh giăng trải
trên vùng quê. Ánh sáng càng đậm thì khuôn mặt của Joad hình như sẫm lại.
- Lúc này là lúc hay nhất, - Joad nói khẽ -
hồi còn bé, cứ trời thế này là tôi dậy một mình đi dạo... Có cái gì phía trước
chúng ta ấy nhỉ?
Một hội đồng những con chó nhóm họp trên đường
để tôn vinh một con chó cái. Năm chú chó đực loại chó chăn cừu và chó côlây -
giống nòi loại này đã mờ nhạt đi, kết quả của một đời sống quần tụ rũ sạch mọi
định kiến - chúng đang ve vãn ả chó cái. Mỗi con chó đực nhã nhặn hít ngửi, đứng
dừng lại trước một cây bông, nghiêm trang giơ một cẳng sau lên rồi tè, xong
xuôi rồi thì quay trở lại hít hít ngủi ngửi. Joad và người mục sư dừng lại để
nhìn và đột nhiên Joad cười phá lên vui vẻ:
- Lạy Chúa! Lạy Chúa!
Bây giờ thì tất cả lũ chó đã nhóm lại, xù
lông, vừa kêu ư ử vừa gầm ghè nhau, mỗi chú chờ đợi chú khác mở đầu cuộc ẩu đả.
Một chú leo lên phủ con chó cái và, thấy sự đã rồi, các chú khác đành đứng lảng
ra và quan sát sự việc một cách hứng thú, lưỡi thè lè và rỏ rãi. Hai người tiếp
tục cuộc hành trình.
- Lạy Chúa! - Joad nói. - Tôi tin là cái
con đực đang phủ lên con cái, chính là con Flash! - Anh lại bắt đầu cười, - nói
thế chứ tôi mà như nó thì người ta có gọi tôi, tôi cũng chả nghe tiếng!... Nhân
đây tôi nhớ lại một câu chuyện người ta kể về thằng Willy Freely hồi hắn còn trẻ.
Willy là đứa nhát gan, rụt rè ghê gớm. Thế này nhé, có một hôm hắn dẫn con bò
cái tơ đến cho con bò mộng nhà Graves. Ai nấy đều ra hết, chỉ còn lại Elsie
Graves. Mà Elsie thì chả rụt rè tí nào. Willy đứng đực ra đấy. Mặt đỏ dừ, không
thể mở miệng ra được. Elsie nói: “Em biết anh đến làm gì rồi! Con bò đực ở sau
chuồng ấy”. Thế là họ dẫn con bò cái vào, Willy và Elsie ngồi trên hàng rào chắn
để nhìn. Chả mấy chốc mà thằng Willy thấy nóng rực cả người. Còn con bé nhìn y
và làm bộ không biết gì liền hỏi: “Anh làm sao thế, Willy?”. Willy đang bốc lửa
và khó mà ngồi yên, “Lạy Chúa, Lạy Chúa, tôi cũng muốn làm như vậy!”. Elsie bèn
nói: “Thì ai ngăn anh, hở Willy, con bò cái tơ đó là của anh mà”.
Mục sư cười khe khẽ:
- Mày biết đấy, không còn là mục sư nữa thì
thật là dễ chịu. Trước kia người ta không kể với tao những chuyện như thế, hoặc
giả, có kể thì tao cũng không thể cười được. Tao không thể chửi thề được. Bây
giờ tao thích thì tao chửi thề, và khi thấy thèm chửi thề thì đâm ra dễ chịu.
Ở phương Đông, chân trời đỏ rực và dưới đất,
chim chóc bắt đầu cất tiếng kêu chiêm chiếp, lảnh lói.
- Ông nhìn kìa, - Joad nói. - Thẳng trước mặt
chúng ta ấy. Đó là cái bể chứa nước của chú John. Tôi không thể thấy cái động cơ
gió của chú ấy, nhưng chính đó là bể chứa, in rõ trên nền trời, ông thấy chứ? -
Anh rảo bước. - Không biết tất cả họ có đấy không?
Cái khối của bể nước sừng sững trên chỗ
cao. Trong lúc vội vã, chân Joad hất lên một đám bụi mù bao quanh đầu gối anh.
- Tôi tự hỏi chẳng hay mẹ tôi...
Bây giờ họ trông thấy những trụ chống của bể
nước và ngôi nhà, một thứ hộp vuông nhỏ bằng gỗ thô trần trụi và nhà kho co rúm
dưới các mái thấp trệt. Khói thoát ra từ ống khói bằng kẽm. Trong sân, ngổn
ngang cả một đống lộn xộn những đồ gỗ chồng chất, cánh và động cơ cối xay nước,
giát giường, bàn ghế, tủ...
- Lạy Chúa, họ chuẩn bị ra đi rồi, - anh
nói.
Trong sân có một chiếc xe tải, cao lêu
nghêu, nhưng là một chiếc xe tải lạ lùng, bởi phía trước nhắc nhở đến dáng chiếc
xe hòm kín thì mui xe bị cắt làm đôi ở chỗ giữa còn sàn xe thì chắp vào đó. Lúc
tới gần, hai người nghe những tiếng búa từ sân dội tới, vừa đúng lúc bờ của mặt
trời lóa mắt nhô lên phía trên chân trời, ánh sáng đổ xuống chiếc xe tải và soi
cho họ thấy bóng một con người và ánh chớp lóe của một chiếc búa đang giơ lên hạ
xuống. Mặt trời chiếu vào các cửa sổ. Những tấm ván hư hỏng vì mưa nắng, lấp
loáng. Hai con gà con lông tía vầy và trên nền đất và bừng đỏ dưới ánh mặt trời.
- Đừng kêu. - Tom nói. - Đi ren rén cho họ
phát hoảng một mẻ.
Nói rồi, anh bước nhanh đến nỗi cát bụi
tung lên đến ngang thắt lưng. Anh tới rìa ruộng bông. Bây giờ họ đang đứng
trong sân chính, đất dầm kỹ, lơ thơ đây đó mấy túm cỏ bị bụi phủ. Rồi Joad bước
chậm lại, tưởng hồ anh sợ phải đi quá xa lên phía trước. Người mục sư theo dõi
anh, cũng đi chậm lại theo sau anh. Tom thong thả tiến lên, đi quanh chiếc xe tải
một cách ngại ngùng. Đây là một chiếc xe hòm Hudson Super mà mui đã bị người ta
dùng đục xẻ đôi. Đứng trong xe, già Tom Joad đang lấy đinh đóng những thanh gỗ
cuối cùng ở cả hai thân xe. Khuôn mặt ông xám, râu ria xồm xoàm, cắm cúi xuống
công việc, mấy cái đinh ông cặp ở miệng tòi ra ngoài. Ông đặt một chiếc đinh, rồi
lấy búa nện một nhát sâu. Trong nhà, có tiếng một cái vòng đệm lò bếp kêu lách
cách và một đứa bé cất tiếng khóc. Joad tựa vào xe. Bố anh nhìn anh nhưng không
thấy anh. Ông lại đặt một chiếc đinh khác và lại đóng. Một đám bồ câu từ thành
bể bay tung lên, lượn một vòng rồi lại sà xuống đậu như cũ. Chúng khệnh khạng lại
gần để nhìn, bồ câu trắng, xanh, xám, cánh ngũ sắc lấp lánh.
Joad túm lấy chắn thành xe phía dưới của xe
tải. Anh ngước mắt nhìn ông già tóc hoa râm đứng trên xe. Anh đưa lưỡi liếm đôi
môi dày và khẽ gọi:
- Bố!
- Mày muốn gì? - ông già Tom càu nhàu qua
túm đinh ngậm miệng. Ông đội một chiếc mũ phớt cũ, bẩn, một chiếc áo gilê không
khuy mặc ngoài chiếc áo sơ mi lao động màu xanh. Nịt quần là một giây curoa yên
ngựa trơn bóng vì dùng lâu ngày; giày của ông bị nứt nẻ, đế phồng lên, đầu mút
cong ngược như chiếc thuyền sau những năm tháng nắng mưa, ẩm ướt và bụi bậm.
Đôi ống tay áo lót ôm chặt lấy cánh tay rắn chắc. Hông mảnh dẻ, bụng lép, đôi cẳng
ngắn nặng nề nhưng khỏe. Khuôn mặt chữ điền với một bộ râu lốm đốm bạc, hình
như sệ xuống phía cằm. Một cái cằm mạnh mẽ, nhô ra, khuôn theo bộ râu quai nón
và tới chỗ này thì râu đỡ sẫm hơn và do đó quai hàm thêm bạnh và nặng nề. Ở lưỡng
quyền mà râu không mọc lan lên được, nước da ngả sang màu nâu như cặn thuốc bẩn,
và ở khoé mắt luôn nhấp nháy, hằn lên những ria quạt. Đôi mắt màu nâu như hạt
cà phê, và khi ông nhìn vào đâu đó thì ông nghển cổ ra vì đôi mắt tối sầm và
long lanh đã kém. Đôi môi mảnh và đỏ ngậm chiếc đinh to.
Ông đang giơ búa lên chuẩn bị đóng chiếc
đinh khác, thì bỗng ông sững lại, và qua thành xe, ông nhìn Tom với vẻ khó chịu
vì bị gián đoạn. Rồi ông nhô cằm, nhìn thẳng vào mặt Tom. Đầu óc ông sáng dần
và cằm ông nhận ra. Chiếc búa từ từ hạ xuống, ông đưa tay trái rút mấy chiếc
đinh ngậm ở miệng. Vẻ lạ lùng, ông nói như tự nhủ: “Thằng Tom...”. Và rồi vẫn
như để tự bảo với mình:
- Ra là thằng Tom... Thằng Tom đã về.
Miệng ông lại há ra, một ánh hãi hùng lướt
qua đôi mắt:
- Tommy, - ông nói dịu dàng, - con vượt tù
sao? Có phải trốn đi không?
Ông thờ đợi vẻ căng thẳng.
- Không, bố ạ. - Tom nói. - Con đã hứa, họ
đã thả con. Con được tự do. Có tất cả giấy tờ đây.
Anh bám vào những chấn song phía dưới xe và
ngước nhìn lên. Già Tom nhẹ đặt chiếc búa xuống đất và bỏ đinh vào túi. Ông bước
qua thanh chắn và ông mềm người tuột xuống đất, nhưng một khi đứng gần đứa con
trai, hình như ông đâm ra bối rối và có vẻ lớ ngớ.
- Tommy, - ông nói, - nhà ta đi California.
Nhưng sắp viết để báo cho con hay. - Rồi ông nói mà như vẫn không tin có chuyện
đó. - Nhưng con đã về đây rồi. Con có thể đi cùng gia đình, nhất định là có thể!
Trong nhà nghe có tiếng nắp bình cà phê sập
xuống. Ông già Tom ngoái nhìn ra sau.
- Ta cho họ đớ ra một mẻ, - ông nói, đôi mắt
lấp lánh háo hức. - Mẹ con cứ nghĩ quẩn là bà ta sẽ không bao giờ còn trông thấy
được con nữa. Bà vẫn làm ra vẻ bình tĩnh như khi trong nhà có ai chết. Chút nữa
thì bà không muốn đi California nữa đấy, vì sợ không gặp lại con. - Một lần nữa
có tiếng chiếc vòng ghế lò kêu lích kích. - Đi, cho họ sửng sốt một mẻ. Cứ vào
tự nhiên như thể chưa bao giờ con rời khỏi nhà. Thử xem, mẹ con sẽ nói gì.
Cuối cùng ông sờ vào Tom nhưng chỉ rụt rè động
vào vai anh con, rồi lại bỏ tay xuống. Ông nhìn Jim Casy.
Tom nói:
- Chắc bố còn nhớ ông mục sư. Ông ấy đến
thăm chúng ta.
- Ông ta cũng bị tù, hay sao?
- Không. Con gặp ông ta trên đường cái. Ông
ấy đang định đi xa.
Bố trịnh trọng xiết chặt tay khách.
- Rất mừng được ông đến chơi nhà.
Casy nói:
- Được đến đây, tôi mừng lắm. Thấy được cảnh
một chàng trai trở về nhà, thật bõ công.
- Về nhà! - Bố tôi chua chát.
- Về với gia đình, - Casy nhanh miệng nói
chữa. - Chúng tôi đã qua đêm trong nhà cũ của ông.
Bố nhô cằm ra, quay lại nhìn ngôi nhà trong
chốc lát. Rồi ông quay về phía Tom.
- Làm thế nào được nhỉ? - Ông nói rất băn
khoăn. - Giả dụ tao vào và nói: có hai gã muốn được ăn trưa? Hay thế này hay
hơn, mày cứ vào, đợi cho mẹ trông thấy mày? Mày nghĩ thế nào? - Khuôn mặt của
ông sôi nổi vì háo hức.
- Không nên khiến mẹ con bị choáng, - Tom
nói. Không nên khiến mẹ sợ, Bố ạ.
Hai con chó chăn cừu gầy giơ xương, linh lợi,
đi gần, cho tới lúc chúng ngửi thấy hơi người lạ. Thế là chúng lùi lại, thận trọng
chăm chú, đuôi khẽ ve vẩy, nhưng mắt và mõm thì sẵn sàng tấn công hoặc thủ thế.
Một con vươn cổ ra tiến sang bên, sẵn sàng bỏ trốn, và dần dần tới cẳng Tom hít
hít một cách lộ liễu. Rồi nó lùi lại đợi ở ông bố một dấu hiệu nào đó. Con chó
kia không bạo dạn đến thế. Nó tìm một cái gì đó để khỏi mất thể diện, nom thấy
một con gà lông sắc hung đang cành nành đi gần đó, nó chạy tới vồ. Nghe tiếng
kêu chiếp chiếp phẫn nộ của chú gà, mấy túm lông nâu bay lòa xòa và con gà bỏ
trốn trong tiếng đập cánh hoảng hốt. Con chó kiêu hãnh nhìn mấy người rồi vẻ hỉ
hả, nó gieo mình lăn lê trong bụi đất, đuôi đập đập trên đất.
- Đi - Bố nói. - Giờ thì vào đi. Để Mẹ
trông thấy mày. Tao muốn nom mặt bà ấy khi bà ấy thấy mày. Đi. Xúp sắp được rồi,
bà ấy sẽ gọi toáng lên bây giờ. Từ nãy tao đã thấy bà bỏ thịt lợn ướp muối vào
chảo.
Ông dẫn họ đi qua cái sân lấm bụi đất mịn.
Nhà không có hiên, chỉ một bậc lên là tới cánh cửa, gần cửa, một cái thớt mặt xỉn
lại do những năm tháng bị băm thái. Bụi bặm ăn mòn lớp gỗ mềm, các thớ gỗ ở bề
mặt nổi lên. Mùi gỗ liễu cháy phảng phất trong không khí, và khi ba người tới gần
cửa, mùi thịt lợn, mùi bánh nóng và mùi cà phê ngào ngạt sôi trong bình tỏa ra.
Bố bước tới ngưỡng cửa để ngỏ và dừng lại, cả thân hình to lùn của ông chắn lối
ra vào. Ông lên tiếng:
- Mẹ nó này, có hai gã vừa ở ngoài đường
cái tới đây, họ phân vân không biết nhà ta có thể cho họ chút gì để ăn không.
Tom nghe tiếng mẹ nói, tiếng kéo dài, tươi
mát, trầm tĩnh, thân tình và khiêm nhường:
- Mời họ vào, - bà nói, - Thừa ăn. Bảo họ
phải rửa tay đi. Bánh nướng rồi. Tôi đang múc thịt ra đây. - Và tiếng mỡ lèo
xèo cáu giận từ bếp lò vẳng ra.
Bố bước vào, để cửa thông thoáng, và Tom
nhìn mẹ. Bà đang vớt những tảng mỡ to ở chảo rán ra. Cửa lò mở và những chiếc
bánh nóng sắp hàng dài trên một tấm tôn. Bà nhìn qua cửa, nhưng ánh mặt trời
chiếu phía sau lưng Tom nên bà chỉ nhìn thấy một cái bóng đen lồ lộ trong ánh nắng
vàng lấp lánh. Với một cái gật đầu dễ mến bà nói:
- Mời vào. Cũng may là sáng nay tôi nướng
nhiều bánh.
Tom đứng nhìn vào trong nhà. Mẹ đẫy người,
nặng nề sau bao lần chửa đẻ và lao động, nhưng không xồ xề. Bà mang một chiếc
áo choàng bông chùng bằng dạ xám, xưa có điểm hoa tô màu nhưng nay đã bạc phếch,
đến nỗi hình hoa bé tí chỉ còn chút xanh mờ nhạt hơn nền vải. Chiếc áo dài chấm
xuống tận mắt cá, đôi bàn chân khỏe và để trần của bà cử động nhanh, thanh
thoát trên nền nhà. Mái tóc thưa, xám thiếc, búi thành một túm gầy nhom phía sau
gáy. Đôi cánh tay khỏe, điểm những vết hoe hoe để trần tới khủy tay, đôi bàn
tay mập mạp và giống như bàn tay một em bé gái béo tròn. Bà nhìn vào ánh nắng.
Khuôn mặt đầy đặn không lộ vẻ uể oải mà cương quyết và phúc hậu. Đôi mắt màu hạt
dẻ hình như đã trải qua tất cả những tấn tuồng bi đát và cũng leo lên bấy nhiêu
bậc thang của những nỗi nhọc nhằn xót xa tới những vùng cao vợi của sự trầm
tĩnh và sự hiểu thấu siêu phàm. Hình như với niềm vui, bà nhận biết, chấp nhận
và tiếp đón vai trò của bà là bức thành lũy của gia đình, là nơi nương tựa bất
khả xâm phạm. Già Tom và con cái không thể biết thế nào là đau khổ hay sợ hãi,
nếu như chính bà không chấp nhận sự sợ hãi và đau khổ này, mà bà thì đã có thói
quen không chấp nhận như thế. Bởi lẽ, lúc gặp một điều gì may mắn, họ nhìn bà để
xem liệu niềm vui có thấm vào bà hay không, lúc đó cũng theo thói quen bà cười,
cười ngay dù lý do để cười thì chả nhiều gì. Nhưng tốt hơn niềm vui, là sự trầm
tĩnh. Trầm tĩnh, đó là điều người ta có thể dựa vào. Từ một địa vị lớn lao và
hèn mọn trong gia đình, bà có được sự trang nghiêm và một vẻ đẹp thanh khiết điềm
đạm. Là người chữa bệnh, đôi tay của bà đã trở nên vững vàng tươi mát, thanh thản;
là trọng tài, bà trở nên lạnh lùng và như một thần nữ bà không thể sai lầm.
Hình như bà có ý thức rằng nếu bà chao đảo, thì cả gia đình sẽ rung chuyển, và
nếu một ngày nào đó bà suy yếu hoặc tuyệt vọng thật sự, cả gia đình sẽ sụp đổ,
toàn bộ ý chí hoạt động của họ sẽ bị tan biến.
Qua sân chói lòa nắng bà nhìn cái bóng sầm
tối của gã đàn ông. Bố đứng gần đấy, run rẩy vì sốt ruột.
- Mời vào, thưa ông. Xin mời vào, - bà nói.
Và Tom hơi lúng túng, bước qua cửa, mắt bà
đang cúi xuống chảo mỡ bèn dịu dàng ngước lên, chiếc nĩa rơi tõm xuống nền nhà.
Bà mở tròn xoe đôi mắt. Bà thở mạnh, miệng mở rộng. Bà nhắm mắt lại. Bà nói:
- Tạ ơn Chúa. Ôi! Xin tạ ơn, lạy Chúa! Con
xin tạ ơn Chúa! - Nhưng đột nhiên khuôn mặt bà trở nên lo lắng, - Tommy, họ
không truy lùng lại con chứ? Con không vượt tù chứ?
- Không, mẹ ạ. Tự do tạm thời. Con có đủ giấy
tờ đây. - Anh đưa tay sờ lên ngực.
Bà bước lại gần con, uyển chuyển, lặng lẽ.
Khuôn mặt bà rạng rỡ. Bà đưa bàn tay nhỏ bé sờ sờ cánh tay của con, nắn nắn cái
rắn chắc của cơ bắp anh. Rồi những ngón tay như ngón tay người mù của bà lần
lên trán con.
Tom cắn chặt môi dưới. Đôi mắt của mẹ anh lạ
lùng hướng về chiếc môi bị cắn và bà nom thấy ở kẽ hai hàm răng một tia máu và
trên môi một giọt máu long lanh. Thế là bà hiểu, bà lấy lại bình tĩnh và buông
thõng tay xuống. Bà nói qua hơi thở mạnh.
- Thế đấy, chỉ ít bữa là nhà ta ra đi mà
không có con. Ai cũng tự hỏi làm thế nào mà con có thể tìm thấy lại gia đình
trên thế giới này.
Bà lượm chiếc nĩa lên, gạt gạt trong mỡ và
vớt ra một cuộn thịt ròn. Rồi bà đẩy bình cà phê đang sôi về phía đáy lò bếp.
Già Tom cười khúc khích:
- Hả? Bà bị mắc lừa phải không? Bố con tôi
đùa tếu đánh lừa bà một chút coi, thế là bà bị một vố. Cứ đớ ra như con cừu bị
đập chết. Giá mà ông ở đây thì hay biết mấy. Chẳng khác gì bố con tôi giáng cho
bà một búa vào mắt tóe đom đóm. Ông nội sẽ vỗ đùi đen đét đến vỡ hông... như
cái ngày ông thấy thằng Al bắn một phát vào chiếc máy bay quân sự. Mày biết
không, Tommy, hôm ấy nó bay ầm ầm trên đầu bọn tao. Dài ơi là dài, năm trăm mét
kia! Thế là thằng Al xách súng ra tương cho nó một tràng. Ông bèn gào tướng: “Al,
đừng có bắn vào chim non, đợi cho nó có thì giờ nhớn lên đã”, nói xong ông vỗ
đùi đánh đét một cái, thế là sái mẹ nó cái hông!
Mẹ cười phá lên rồi lấy một chồng đĩa bằng
sắt tây trên giá.
Tom hỏi:
- Ông ở đâu? Con chưa thấy ông cụ ranh ma của
con.
Mẹ xếp chồng đĩa lên bàn nhà bếp và thu dẹp
các tách sang bên. Bà tâm sự:
- Ồ! Các cụ ngủ trong nhà kho, cả Bà nữa.
Đêm các cụ hay thức dậy quá. Cứ vấp ngã hoài vào lũ trẻ con.
- Đúng rồi, đêm nào ông cũng cáu giận. Ông
vấp phải thằng Wilfield, nó bèn gào om sòm, thế là ông tức lồng lên, đái cả ra
quần, ông lại càng nổi giận và chả mấy nỗi cả nhà cứ ầm ĩ đến váng óc. - Tiếng
Bố nói xen giữa những tiếng cười khoái trá. - Ô! Vui đáo để. Có một đêm, lúc mọi
người đang gào, đang chửi thì thằng em mày, thằng Al - giờ thì nó ranh lắm - thằng
Al nổi cáu: “Mẹ kiếp, ông ơi, sao ông không đi mà sống ở đâu đó để làm tướng cướp?”.
Thế là mày xem, ông sôi tiết, vội đi tìm súng. Đêm đó, thằng Al phải ngủ ngoài
trời. Nhưng bây giờ Ông Bà ngủ trong nhà kho.
Mẹ tiếp:
- Như thế, lúc các cụ muốn ra ngoài là ra
được ngay. Bố nó à, ông chạy đi báo cho các cụ biết Tommy đã về. Con nó mến ông
nội nhất.
- Đúng đấy. Lẽ ra tao phải làm thế rồi.
Ông đi ra, vượt qua sân, đôi cánh tay vung
vẩy mạnh.
Tom nhìn ông đi ra, rồi để ý nghe tiếng Mẹ
đang rót cà phê. Mẹ không nhìn anh.
- Tommy ạ, - bà nói, ngập ngừng, rụt rè.
- Dạ! Sao kia, Mẹ?
Cũng bị lây truyền bởi mẹ, anh cảm thấy rụt
rè, bối rối đến lạ lùng. Cả hai đều biết mình rụt rè, họ biết như vậy nên càng
rụt rè hơn.
- Tommy ạ, mẹ phải hỏi con... con không oán
giận đấy chứ?
- Oán giận gì hở Mẹ?
- Ờ, tự con để cho lòng oán giận đầu độc.
Con không căm thù ai đấy chứ? Ở nhà tù kia, họ không làm gì để con hư hỏng đi,
phải nổi điên lên, chứ?
- Kh...ô...ô...ng. Có bị như thế một thời
gian. Nhưng không như nhiều kẻ khác, con không lấy thế làm kiêu hãnh đâu. Con để
cho nó trôi tuột đi, coi đó như chuyện vớ vẩn. Có chuyện gì thế, Mẹ?
Bây giờ bà nhìn con, miệng mở như để nghe
cho rõ hơn, mắt nheo lại để tìm hiểu hơn. Khuôn mặt của bà tìm câu trả lời luôn
luôn ẩn nấp sau từng lời. Bà bối rối:
- Mẹ có biết Pretty Bay Floyd [Một thanh niên sống
ngoài vòng pháp luật]. Mẹ quen mẹ hắn. Họ là những người tử tế. Cũng
sống như mọi thanh niên tốt bụng khác, hắn ngông cuồng như bị quỷ ám. - Bà ngừng
lời, rồi nói vội. - Dĩ nhiên, có những uẩn khúc gì trong đó mà mẹ không biết,
nhưng mẹ biết rõ hắn. Hắn đã phạm phải chút gì đó, rồi họ hành hạ hắn, họ đã bắt
hắn, họ ngược đãi hắn khiến hắn phát khùng, ít lâu sau, hắn phạm phải cái gì đó
nặng hơn. Họ lại càng ngược đãi hắn. Thế là hắn điên lên, đâm ra độc ác. Họ bắn
vào hắn như bắn vào một con vật nhơ bẩn, hắn chống trả, họ săn lùng hắn như săn
chồn còn hắn thì nhe răng nhe lợi bắn trả. Hắn giận phát điên. Đâu phải là một
thằng thanh niên nữa, cũng không phải một con người. Thật sự hắn đã hóa dại.
Nhưng những ai biết hắn thì không làm hại hắn. Hắn chẳng có chuyện gì với họ.
Cuối cùng người ta vây hắn và giết hắn. Báo chí nói về hắn nào là hắn độc, nào
là hắn ác, đủ thứ chuyện. Mặc họ... Chuyện xảy ra là như thế. - Bà ngừng nói,
liếm đôi môi khô ráo, và khuôn mặt của bà căng thẳng nỗi lo âu. - Tommy, mẹ phải
biết, họ có tệ với con lắm không? Họ có làm con điên lên như thế không? Tommy?
Đôi môi dày của Tom mím chặt lại. Anh cúi mặt
nhìn đôi bàn tay to và bẹt.
- Không. Con không như thế đâu. - Anh ngừng
lại, xem xét những cái móng bị dập vỡ, có vân như vỏ sò. - Suốt mấy năm trong
lao, con cố gắng tránh những chuyện như vậy. Con chả nóng giận đến thế đâu.
Bà mẹ thở dài rất khẽ:
- Tạ ơn Chúa!
Anh nhanh chóng ngước mắt lên:
- Mẹ ơi, khi con thấy vì bọn chúng mà nhà
ta đã đi đến tình cảnh này...
Thế là bà bước tới, đứng sát vào người anh
và bằng một giọng sôi nổi, bà nói:
- Tommy, con không được có ý nghĩ một mình
đơn độc chống lại chúng. Họ sẽ săn đuổi con như săn chồn. Tommy ạ, mẹ đã suy
nghĩ, đã mơ, đã tự hỏi nhiều điều. Hình như những kẻ bị chúng xua đuổi có đến
hàng trăm ngàn. Nếu tất cả đều căm giận chúng, Tommy ạ... Chắc chúng không dám
xua đuổi một ai...
Bà ngừng lại. Tommy nhìn mẹ, rồi từ từ hạ
mí mắt xuống và chẳng mấy chốc người ta chỉ thấy một tia sáng lọt qua kẽ lông
mi.
- Có nhiều người nghĩ như vậy không? - Anh
hỏi.
- Mẹ không biết. Họ như bị đánh choáng
váng. Họ đi tới đi lui, như người ngái ngủ.
Từ dưới sân vang lên một tiếng be be run
run.
- Xin chúc tụng Chúa chiến thắng! Xin chúc
tụng Chúa chiến thắng!
Tom quay đầu lại và nhe răng cười:
- Rốt cuộc Bà cũng hay tin con trở về. Mẹ
ơi, - anh nói - mẹ không như xưa nữa.
Nhưng nét mặt của bà mẹ đanh lại, mắt lóe
lên một tia sáng lạnh lùng.
- Trước đây, không bao giờ người ta phá nhà
mẹ, không bao giờ ném gia đình chúng ta ra đường cái, Mẹ không bao giờ bị buộc
phải bán đồ đạc, bán kiệt... Kia, họ kia rồi.
Có bốn người đi ngang qua sân. ông nội đi
trước nhất. Đó là một cụ già hốc hác, rách rưới, còn nhanh nhẹn. Cụ đi cà nhắc
bước một, gượng nhẹ cẳng chân phải. Cụ vừa bước đi, vừa cài sửa quần, đôi bàn
tay già lóng ngóng tìm khuy, cài nhầm cả khuy trên xuống khuy dưới, cho nên cửa
quần bị xộc xệch. Cụ mặc một chiếc quần dài đen rách, một chiếc áo sơ mi rách
tã từ trên xuống dưới, để lộ một chiếc áo lót xám cũng sổ khuy. Qua khe hở chiếc
gilê bằng nỉ, người ta hé thấy bộ ngực gày gò tua tủa lông trắng. Cụ bỏ chỗ cửa
quần, cứ để nó hở hoác ra, rồi tay sờ soạng khuy áo gilê, nhưng cụ lại bỏ đấy
đưa tay xốc lại giây nịt đeo màu nâu. Khuôn mặt cụ gầy quắt, dễ bị kích động, đôi
mắt nhỏ lấp lánh tinh quái của một đứa bé điên rồ. Khuôn mắt cau có vừa van lơn
vừa ranh mãnh, cười cười. Cụ hay đôi co, cà khịa, kể những chuyện tục tĩu, vẫn
cứ có vẻ dâm đãng như bao giờ. Tai ác như mụn ghẻ, độc địa và nôn nóng như một
thằng bé ngỗ ngược, dưới cái vẻ bề ngoài vui nhộn. Mỗi lần có dịp uống là cụ uống
cho lòi rốn, lúc nào có thể ăn thì cụ ăn căng bụng, còn thì thiên hô bát sát suốt
ngày.
Bà Nội đi lon ton sau ông. Bà vẫn còn sống
vì bà cũng dai như đỉa, cũng tàng tàng như ông. Bà giữ vững tư thế của mình với
lòng sùng đạo om sòm và tàn bạo, cũng dâm đãng, cũng man rợ như ông Nội. Một
ngày nọ, sau một cuộc tụ họp, trong khi bà đang lên cơn xuất thần và lúng búng
những tiếng nói khó hiểu, bà nổ vào chồng hai phát súng giật gần mất một nửa phần
mông đít. Do đó, ông hết lời ca ngợi bà và thôi không hành bà như trẻ con hành
lũ côn trùng nữa. Vừa đi bà vừa kéo váy lên tận đầu gối, miệng thì the thé la
khẩu hiệu chiến tranh khủng khiếp.
- Xin chúc tụng thần Chúa Chiến thắng!
Bà Nội và Ông Nội hối hả đi qua sân, bất cứ
lúc nào họ cũng ganh nhau, họ mê thích cãi nhau vì cái đó cần cho họ.
Bố và Noah đi phía sau, chậm rãi nhưng đều
bước tuy không để bị cách quãng. Noah là đứa con đầu lòng, to cao, khuôn mặt
lúc nào cũng có vẻ bình tĩnh. Cả đời, anh chưa hề nóng giận. Lúc thấy người ta
nổi giận, anh liếc nhìn họ một cách lạ lùng, lạ lùng và khó chịu, chẳng khác gì
người bình thường trước kẻ điên. Noah đi thong thả, nói năng ít và chậm rãi khiến
những người không quen biết anh thường tưởng anh đần si. Anh không ngốc, nhưng
lạ lùng. Anh không tự ái và cũng không có chút ham muốn thú nhục dục. Anh làm
việc, anh ngủ theo một nhịp điệu lạ thường mà hình như anh cho là đủ. Anh yêu
người thân, nhưng không bao giờ tỏ ra như vậy. Tuy người ta không thể nói tại sao,
người ra vẫn có ấn tượng rằng anh bị méo mó, đầu, thân người, đôi cẳng hoặc đầu
óc méo mó nhưng cụ thể thế nào thì người ta không thể nhận ra. Bố thì tin rằng
bố biết tại sao Noah lạ thường, nhưng bố xấu hổ và không bao giờ nói ra. Quả vậy,
cái đêm Noah sinh, chỉ có một mình bố trong nhà. Thấy vợ với hai đùi dạng ra
nom như một tàn vật đang gào la ông kinh sợ phát điên. Dốc cả sức lực của đôi
bàn tay, của những ngón tay to khỏe dùng làm phoóc xép ông lôi và vặn đứa trẻ
ra. Lát sau, lúc bà đỡ đẻ tới, bà thấy đầu đứa bé bị trẹo sang bên, cổ nó dài
thượt, mình vặn vẹo, bà bèn xoay đầu đúng khớp và nắn lại thân hình. Bố lúc nào
cũng nhớ tới chuyện đó và ông thấy xấu hổ. Ông dịu dàng với Noah hơn với những
đứa trẻ khác. Qua khuôn mặt của Noah, với đôi mắt quá cách nhau và chiếc quai
hàm mảnh khảnh, ông tưởng như thấy cái đầu méo mó của đứa bé sơ sinh. Ai yêu cầu
làm gì. Noah có thể làm nấy: Anh có thể đọc và viết, tính toán và lao động,
nhưng hình như chẳng có gì khiến anh quan tâm, anh có vẻ dửng dưng với những
ham muốn và nhu cầu của người khác. Anh sống trong một ngôi nhà lạ lùng và lặng
lẽ, và anh nhìn đời với đôi mắt bình thản. Với thế giới bên ngoài anh là kẻ xa
lạ, nhưng anh không thấy lẻ loi.
Cả bốn người đi ngang sân, ông Nội cứ mải hỏi:
- Nó đâu, mẹ kiếp, nó đâu nào?
Ngón tay của cụ sờ soạng khuy quần, rồi lại
quên bẵng, rồi vẩn vơ thọc tay vào trong túi. Chính lúc này cụ thấy Tom ở ngưỡng
cửa. Cụ dừng bước, chặn những người kia lại, mắt cụ lấp lánh sự tinh ma.
- Nhìn nó xem. In như thằng treo cổ chưa!
Đã cực lâu họ nhà Joad chả có ai ở tù. Nó không làm thế thì chắc tao cũng phải
làm. Cái bọn chó đẻ ấy chúng không được quyền? - Trí óc ông cụ nhảy cách. - Còn
cái thằng già Turnbult, cái lão thối thây ấy mà, lão đã dọa sẽ bắn vào mày lúc
nào mày ra tù. Lão nói lão có máu dòng họ Hatficlơ. Đây, tao đã nhắn lão một lời,
thế này: “Đừng có mà đụng đến lông chân của một thằng nhà Joad, nhiều lúc tao
có thể có dòng máu Mc Coy. Bất cứ ở đâu, hãy thử để mắt rình mò thằng Tom mà
xem, tao sẽ móc mắt ra rồi đem nhét vào lỗ đít. Ấy thế mà lão hốt đấy, tịt đấy!”.
Bà Nội không theo dõi câu chuyện và lại lè
nhè:
- Hoan hô Chúa Chiến thắng!
Ông Nội lại gần, đấm vào ngực Tom, và đôi mắt
của người ông nheo lại, yêu thương và kiêu hãnh.
- Cháu thế nào, hả Tom?
- Khỏe, còn Ông, Ông cảm thấy thế nào?
- Vẫn trơ trơ. - Cụ đáp, trí óc cụ nhảy
sang một ý khác. - Như tao đã nói mà, Joad, không ai cầm tù họ được. Tao nói: “Rồi
các ông xem. Thằng Tommy, nó sẽ lao ra ngoài nhà tù, như con bò mộng phá rào”.
Mà mày đã biết làm thế rồi. Để tao vào, tao đang đói.
Cụ lách qua, ngồi xuống, tự lấy một đĩa thịt
lợn và hai chiếc bánh to, rưới nước sốt đặc lên. Những người khác chưa vào thì
cụ đã nhai ngồm ngoàm.
Tom nhăn mặt nhìn cụ, mến thương:
- Dẫu sao, ông Nội vẫn cứ là con quỉ già.
Còn Ông thì mồm đầy căng nên thậm chí không
thể ấp úng nên lời, nhưng đôi mắt ti hí ranh ma mỉm cười và ông gật gật cái đầu
tán thưởng.
Bà Nội kiêu hãnh nói:
- Độc ác và chửi rủa thì chẳng ai bằng. Lão
sẽ cưỡi que cời lửa đi xuống địa ngục cho mà xem. Lão lại muốn lái xe tải nữa đấy,
- bà nói khinh khỉnh. - Không à? Lão vẫn chạy đua được.
Ông nội bị nghẹn, thức ăn trong miệng trào
xuống cả vạt áo, rồi cụ nổi cơn ho thúng thắng.
Bà nhìn Tom, mỉm cười:
- Tởm chưa, cháu thấy không? - Bà nhận xét,
mặt mày rạng rỡ.
Noah đang đứng trên bậc, đăm đăm nhìn Tom,
nhưng đôi mắt cách xa nhau hình như nhìn ra xung quanh. Khuôn mặt của anh trơ
trơ. Tom hỏi:
- Khỏe không anh Noah?
- Khỏe, còn mày?
Chỉ thế thôi, nhưng hởi lòng, hởi dạ.
Mẹ xua ruồi đậu ở liễn nước xốt.
- Không có chỗ để ngồi, - bà nói - mỗi người
tự lấy thức ăn, rồi bưng ra đâu đấy mà ngồi. Ngoài trời, trong sân, hay đâu đó,
tùy.
Tom nói đột ngột:
- Ờ! Ông mục sư đâu rồi? Lúc nãy ông ấy tới
đây mà? Ông ấy đi đâu rồi?
Bố nói:
- Tao thấy ông ta, nhưng ông ta đi rồi.
Bà Nội kêu tướng lên, tiếng the thé:
- Mục sư à? Chúng mày có một mục sư à? Đi
tìm ông ta đi. Ông ta sẽ đọc kinh tạ ơn cho chúng ta. - Bà chỉ ông Nội. - Lão
thì quá muộn rồi. Lão đã ăn xong. Đi tìm mục sư đi nào!
Tom ra trước cửa:
- Ê! Jim! ông Jim Casy. Hê! ông Casy!
Ông mục sư từ dưới bể ló ra và ngồi dậy rồi
đứng lên đi lại gần nhà. Tom hỏi:
- Ông làm gì vậy? Ông trốn à?
- Hèm, không. Không. Những chuyện gia đình
không liên quan đến ai ngoài. Tao ngồi để suy nghĩ.
- Vào ăn thôi, - Tom nói. - Bà nội muốn đọc
kinh tạ ơn.
- Nhưng tao đâu là mục sư nữa.
- Ồ, thôi nào, nói lời tạ ơn cho bà. Chả hại
gì đến ông mà bà lại vui.
Họ cùng nhau vào bếp.
Mẹ điềm tĩnh nói:
- Chào quí ông. Xin ông tự nhiên cho.
- Kinh tạ ơn trước đã! - Bà Nội kêu to. - Kinh
tạ ơn đã.
Ông Nội ngồi chú mục vào mục sư với đôi mắt
dữ tợn, cho tới lúc nhận ra ông ta:
- Ồ! Đúng là ông mục sư ấy rồi, - ông nói.
- Tốt lắm. Từ cái ngày tao thấy ông ta, tao đã thích ông ta rồi.
Ông Nội liếc nhìn một cái hết sức dâm đãng
khiến bà Nội tưởng ông đã nói xong, và bà quát lại:
- Im đi! Đồ dê đực, đồ vô đạo!
Casy lúng túng lùa ngón tay vào tóc.
- Tôi phải nói cho gia đình ta rõ, tôi
không còn là mục sư nữa. Tôi lấy làm tiếc và rất lấy làm sung sướng được ở đây
và biết ơn những người đã có lòng tốt hào hiệp, như thế đã đủ, và đó là những lời
tạ ơn của tôi. Nhưng tôi không là mục sư nữa.
- Cứ nói đi. - Bà nói. - Mà cũng có vài lời
cho chuyến đi California của chúng tôi.
Mục sư cúi đầu và tất cả những người khác
cùng cúi đầu. Mẹ chắp tay trước bụng và cũng cúi đầu. Bà Nội nghiêng đầu rất thấp
đến nỗi mũ của bà gần chạm đĩa bánh và nước xốt. Tựa lưng vào tường, đĩa cầm
tay, Tom đứng cứng đơ và ông Nội thì nghẹo đầu sang bên để có thể vẫn dán một
con mắt ranh mãnh và vui nhộn vào mục sư. Trên khuôn mặt ông mục sư, phảng phất
vẻ trầm tư chứ không phải cầu nguyện, và trong tiếng nói của ông có cái giọng ước
đoán chứ không phải cầu khẩn.
- Tôi đã suy nghĩ, - ông nói. - Tôi đã lui
về trong các ngọn đồi để suy nghĩ, có thể nói là như Jesus khi Người đi vào
trong sa mạc tìm cách thoát khỏi những phiền muội.
- Xin tạ ơn Chúa! - Bà nói.
Còn ông mục sư nhìn bà với vẻ ngạc nhiên.
- Theo như tôi thấy, hình như Jesus có hàng
đống những phiền muội. Người không còn biết đi vào đâu cho thoát, và Người bèn
nghĩ: “Tất cả những cái đó dùng làm quái gì? Tại sao cứ phải bàn luận? Cứ phải
suy nghĩ?”. Người thấy mệt, mệt thật sự và trí tuệ Người kiệt quệ. Đại để đi tới
một kết luận: “Vất tất cả cái đó cho quỷ sứ”. Thế rồi Người lui vào chốn hoang
vu.
- A... men. - Bà lè nhè.
Đã bao năm nay bà đợi những lúc im lặng để
nói xen vào những lời tạ ân. Cũng bao nhiêu năm nay, bà nghe người ta nói nhưng
bà không chú ý vì nó không có nghĩa gì với bà.
- Tôi không có ý nói tôi cũng như Jesus, -
ông mục sư tiếp tục - nhưng tôi cũng như Người, tôi tự mình giày vò mình, tôi
cũng có những khó khăn như Người, rồi tôi cũng lui vào nơi hoang vu như Người,
không có phương tiện lều trại. Ban đêm tôi nằm ngửa nhìn sao, buổi sáng tôi ngồi
và nhìn mặt trời lên, ban trưa từ trên một gò cao, tôi nhìn vùng quê mấp mô và
khô ráo, buổi chiều tôi dõi theo mặt trời lặn. Nhiều lần, tôi cầu nguyện như thời
xưa tôi vẫn mãi mãi từng làm. Có điều tôi không còn biết rõ nữa, tôi cầu nguyện
ai, cầu nguyện cái gì. Có những ngọn đồi đây, và tôi đây, và thế là không bị xa
cách nữa. Người ta chỉ còn là một vật duy nhất mà vật đó là thiêng liêng.
- Hallelujha! - Bà Nội nói, và bà khẽ lắc
lư trước ra sau để cố gắng xuất thần.
- Tôi bắt đầu suy nghĩ, nhưng không phải chỉ
suy nghĩ, còn sâu hơn thế kia. Tôi bắt đầu suy nghĩ rằng người ta chỉ thánh thiện
khi là một bộ phận của một tổng thể, nhân loại thánh thiện khi nó chỉ là một vật
duy nhất và thống nhất. Người ta mất đi tính thánh thiện duy nhất chỉ khi nào một
gã bé nhỏ thảm hại lồng lên rồi bỏ đi tới chỗ nào hắn thích, để rồi đấm đá, co
kéo, vật lộn, chính những gã như thế kia hất tung sự thánh thiện lên mây. Nhưng
khi họ chung lưng đấu cật mà cùng nhau làm việc, không phải một người, nói như
ai nói, được mắc vào cái ách chung... như thế là tốt là thánh thiện! Rồi tôi bắt
đầu suy nghĩ, rằng khi tôi nói cái tiếng “thánh thiện” thì thậm chí tôi không
biết tôi muốn nói gì. - ông ngừng lại một chút, nhưng những cái đầu đang cúi xuống
không ngẩng lên, vì đã được luyện thành thói quen họ chỉ ngẩng lên theo tín hiệu
“amen” - tôi không thể nói được lời tạ ơn như đã làm xưa kia. Tôi sung sướng vì
sự thánh thiện của bữa ăn này. Tôi sung sướng vì tình thương yêu ngự trị tại
đây: Tất cả là thế.
Mấy cái đầu vẫn cúi. Ông mục sư nhìn xung
quanh mình:
- Lỗi tại tôi, bữa ăn của gia đình nguội mất.
- Rồi ông nhớ ra, ông nói: “A men”.
Mọi người ngẩng đầu lên.
- A...men. - Bà nói, và bà lại tiếp tục ăn,
hai hàm lợi rụng hết răng nghiền chiếc bánh ngấm sũng nước xốt.
Tom ăn nhanh, còn Bố thì nhồi nhét. Chuyện
trò để sau, lúc nào bát đĩa đã sạch ngoét, tách cà phê đã cạn. Người ta chỉ
nghe tiếng hàm nhai, tiếng nhấp nháp cà phê trong chặng đường của nó từ môi tới
lưỡi. Mẹ nhìn ông mục sư ăn, mắt bà lộ vẻ sửng sốt, dò xét và thông cảm. Bà
quan sát ông ta tựa hồ như đột nhiên ông là một thần linh không còn là một con
người nữa, tưởng chừng đó chỉ là một tiếng nói vọng ra từ lòng đất.
Đàn ông đã ăn xong, đặt đĩa xuống và uống nốt
chỗ cà phê, sau đó họ ra ngoài, Bố và ông mục sư, Noah với ông Nội, rồi Tom và
tất cả đi lại phía chiếc xe tải, né tránh đống đồ đạc, thành giường, bộ phận
máy thông khí, chiếc cày cũ. Họ đi tận tới chỗ xe tải và dừng lại ở cạnh nó. Họ
sờ mó cái thành xe bằng gỗ thông mới.
Tom mở mui xe và nhìn cái động cơ to nhầy mỡ.
Bố lại gần anh, nói:
- Trước khi mua nó, em Al mày đã xem xét kỹ.
Hắn nói là xe tốt.
- Hắn thì biết gì? Nhóc con mà. - Tom nói.
- Ấy hắn đã làm việc cho một công ty. Năm
ngoái hắn đã lái xe tải. Hắn có biết chút ít. Khéo tay lắm. Hoặc xoay xở được.
Hắn biết chữa động cơ, cái đó thì chả phải bàn.
Tom hỏi:
- Bây giờ hắn đâu rồi?
- Ờ! - Bố nói - còn đang đuổi theo bọn con
gái, như con dê động cỡn ấy. Nhưng vì chuyện đó, khéo không nó quị mất. Một thằng
bé ranh ma, mới mười sáu tuổi đầu đã ngứa dái. Hắn chỉ thích có hai chuyện: gái
và máy móc. Đã một tuần nay nó ngủ lang. Một thằng bé thẳng thắn, tinh khôn!
Tay sờ soạng vào ngực, ông Nội đã có thể
cài một khuy áo lót xanh vào một cái khuyết ở chiếc gilê nỉ. Ngón tay của cụ cảm
thấy có cái gì đó không ổn, nhưng cụ để mặc, chẳng muốn tìm biết xem sao. Mấy
ngón tay lần mó xuống và cố gỡ những rắc rối ở cửa quần.
- Xưa kia tao đốn lắm - cụ nói, vẻ sung sướng.
- Đốn mạt cực kỳ. Nói như ai nói, chọc trời khuấy nước. Có lần, có một cuộc gặp
gỡ ngoài trời, ở Sallisaw. Hồi ấy là hồi tao còn trẻ, lớn hơn tuổi thằng Al một
ít. Thằng Al chỉ là đồ nhãi nhép, non choẹt. Nhưng tao nhiều tuổi hơn. Bọn tao
cũng đi họp. Có năm trăm người với một ít bò cái tơ khá ra phết.
- Cháu xem ra thì ông còn ma mãnh lắm, ông
Nội ạ, - Tom nói.
- Ấy, đúng thế, một mặt nào thôi. Nhưng thấm
gì, so với xưa. Nhưng có điều, cứ cho tao tới California để lúc nào hứng tao có
thể hái một quả cam hoặc chùm nho. Được thế là khoái nhất, chả bao giờ chán.
Tao sẽ hái một chùm nho to mọng, tao đắp lên mặt ép nát cho nước nhỏ giọt xuống
tận cằm.
Tom hỏi:
- Chú John đâu? Mà cũng chả ai nhắc đến
Rosashan, Ruthie và Winfield nữa? Chúng đâu rồi?
Bố nói:
- Chả ai biết thế nào. Chú John đi Sallisaw
tải đủ thứ đem bán: máy bơm, dụng cụ, gà và mọi thứ mà dạo nọ chúng ta đã mang
tới đây, chú đưa Ruthie và Winfield đi cùng. Chú cháu ra đi trước trời sáng.
- Kỳ thật, thế mà con không gặp.
- Vì mày đi theo con đường cái tới. Chú thì
đi vòng phía sau, qua Conlington. Còn Rosashan, nó làm ổ ở nhà Connie. Lạy
Chúa, chuyện này mà mày cũng chưa hay, Rosashan đã lấy Connie Rivers. Thằng
Connie, mày nhớ chứ, hả? Một thằng bé tử tế. Con Rosashan có chửa đã được bốn,
năm tháng. Bắt đầu bụng to rồi. Xem ra nó cũng khỏe.
- Trời, - Tom nói - Hồi ấy Rosashan còn
nhóc con, thế mà bây giờ đã sắp có tí nhau. Bốn năm con vắng, nhà có bao nhiêu
chuyện. Khi nào nhà ta định đi về miền Tây, hả bố?
- Thế này, ta phải mang tất cả những thứ
này đem đi bán đã. Thằng Al mà rứt được bọn con gái ra, thì bố thiết nghĩ, hắn
có thể chất đồ lên xe đem đi tất, như thế, có lẽ ngày mai hoặc ngày kia là đi
được. Chúng ta không có nhiều tiền, có một thằng cha nói là từ đây tới
California phải mất hai ngàn dặm. Đi càng sớm càng tốt, càng chắc tới nơi. Tiền
nó cứ luồn qua kẽ tay mà rơi rụng. Con, con có tiền không?
- Chỉ hai ba đô thôi. Làm thế nào Bố có tiền
được?
- Thì đấy, nhà ta có gì đem bán ráo. Rồi cả
nhà ra sức bóc vỏ bông, cả ông Nội nữa.
- Càng hay chứ sao. - ông Nội nói.
- Gom tất cả thảy, được hai trăm đôla. Trả
mất bảy mươi lăm đôla cho cái xe kia, thằng Al phải chỉnh lại nồi hơi, nhưng hắn
cứ chạy như chó dái. Ra đi, có khoảng trăm năm mươi đô la. Mấy cái lốp chết toi
kia sẽ chẳng chịu được lâu. Có hai chiếc để thay nhưng chả ăn thua. Dọc đường,
sẽ kiếm chác được gì đó.
Mặt trời phóng xuống những tia nắng nóng bỏng.
Bóng chiếc xe tải mang hình những vạch đen trên đất, từ xe bốc ra mùi dầu nóng,
mùi vải láng dầu và sơn. Mấy con gà con đã rời sân vào nấp ở kho dụng cụ để
tránh nắng. Trong chuồng, đàn lợn dán mình vào hàng rào tìm chút bóng râm trên
nền, thở hồng hộc và thỉnh thoảng lại kêu ủn ỉn. Hai con chó nằm dài trong đám
bụi đỏ phía dưới chiếc xe, thở hổn hển, cái lưỡi thè lè lấm bụi bê bết. Bố xập
mũ xuống mắt và ngồi xổm xuống. Bình thường, thì Bố ngồi như vậy để suy nghĩ và
quan sát, ông xem xét Tom, chiếc mũ mới đã có vẻ như cũ của anh, quần áo và đôi
giày mới của anh.
- Những thứ này mày bỏ tiền ra sắm đấy à? -
Ông hỏi. - chỉ tổ vướng cho mày thôi.
- Họ cho con đấy chứ, - Tom nói, - Cho con
khi con được tha.
Anh cất chiếc mũ cát két, ngắm nhìn nó một
cách thích thú rồi đưa nó thấm thấm lên trán, rồi một cách ngang tàng, anh đội
nó lên rồi kéo sụp lưỡi trai xuống.
Bố nhận xét:
- Họ cho mày đôi giày đẹp thật.
- Vâng... đẹp thì đẹp thật nhưng giày này
đâu có phải thứ để đi lượn khi trời nóng. - Anh ngồi xổm cạnh bố.
Noah chậm rãi nói:
- Nếu làm xong thành xe thì Tom có thể chất
hết đồ lên được. Như thế thì thằng Al về...
- Nếu nhà muốn, con có thể lái được, ở Mac
- Alester con đã lái xe tải.
- Tốt, - Bố nói, mắt ông chăm chú nhìn lên
đường. - Tao mà không nhầm thì chàng hề bảnh bao đang cúp đuôi về đó kia. Nom
còn phờ phạc ra nữa.
Tom và ông mục sư ngước mắt nhìn ra đường.
Thấy họ nhìn mình, thằng Al - tay chuyên môn cưa gái - bèn chỉnh đôi vai lên
cho thật thẳng rồi khệnh khạng bước vào sân, vênh váo như con gà trống chuẩn bị
gáy. Là đứa tự phụ, hắn chỉ nhận ra Tom lúc đứng sát gần, nét mặt kiêu kỳ của hắn
thay đổi nhưng chỉ có sự ca ngợi, sự sùng kính lấp lánh trong đôi mắt, và hắn
thôi không làm bộ làm tịch nữa. Chiếc quần cứng đờ, gấu bẻ lên để phô đôi ủng
có gót, chiếc thắt lưng rộng ba đốt khảm những khuy đồng, ngay cả những dây
thun đỏ thắt lấy những tay áo của chiếc sơ mi xanh và cái góc ngạo nghễ của chiếc
mũ phớt - tất thảy những thứ đó không nâng hắn lên ngang tầm anh hắn được. Chả
là anh hắn đã giết người, mà gì chứ cái đó thì chả ai quên. Al cũng biết là nó
cũng đã khiến bạn bè cùng lứa tuổi hắn phải thán phục phần nào, bởi vì anh hắn
đã giết chết một con người. Ở Sallisaw, hắn nghe người ta chỉ chỉ trỏ trỏ hắn: “Thằng
Al Joad đấy. Thằng anh hắn đã giết một thằng cha bằng một nhát xẻng đấy”.
Al nhún nhường bước lại gần anh, và hắn thấy
rằng anh hắn không còn là một gã nghênh ngang như hắn tưởng. Al nom thấy đôi mắt
sầm tối và đăm chiêu của anh, cái điềm tĩnh của nhà tù, khuôn mặt đanh và lỳ đã
quen tập dượt không để lộ cho bọn gác ngục thấy bất cứ gì tỏ ra là chống đối hoặc
quị lụy. Ngay tức thì, Al đổi khác; một cách cố tình hắn cũng trở thành như anh
hắn, khuôn mặt duyên dáng của hắn trở nên suy tư, đôi vai giãn xuống. Hắn không
nhớ ra cái dáng điệu bề ngoài của Tom trước kia.
Tom nói:
- Chào Al. Mẹ kiếp, mày nhớn tướng rồi! Dễ
chừng tao không nhận ra mày nữa.
Al mỉm cười, tay sẵn sàng chìa ra để bắt
tay Tom. Tom chìa bàn tay và bằng một cử chỉ đột ngột, Al nắm lấy tay anh. Giữa
hai gã đàn ông tình thương đã bền chặt.
- Bố nói với tao là mày sành sỏi về xe tải,
- Tom nói.
Cảm thấy rằng anh mình chả ưa một thằng
khoác lác, Al nói:
- Em chẳng biết mấy nỗi đâu, sơ sơ thôi,
anh ạ.
Bố nói:
- Mày ăn diện vào đi lòe khắp xứ. Nom phờ
ra rồi đấy. Dẫu sao, mày cũng phải chở một chuyến đồ đem bán ở Sallisaw.
Al nhìn anh:
- Anh có thích đi cùng không? - Hắn nói, cố
làm ra vẻ bâng quơ.
- Không, không thể được. Tao phải ở lại để
giúp việc nhà. Khi nào ra đi, chúng ta sẽ họp mặt.
Al cố kìm một câu hỏi:
- Có phải... có phải... Anh vượt ngục?
- Không, tao đã hứa nên họ tha.
- Ra thế! - Al nói, hơi bị hẫng.
-----------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét