Tàn
Ngày Để Lại
Tác giả: Kazuo Ishiguro
Dịch giả: An Lý
NXB Văn Học - 02/2021
Ngày
thứ tư - Chiều
Compton
Nhỏ, Cornwall
Cuối
cùng tôi đã đến Compton Nhỏ, và vào chính lúc này đang ngồi trong nhà ăn khách
sạn Vườn Hồng, vừa kết thúc bữa trưa. Ngoài kia, mưa rơi đều.
Khách
sạn Vườn Hồng, dù khó có thể gọi là sang trọng, lại chắc chắn là một nơi ấm
cúng thoải mái, và người ta khó mà tiếc khoản chi phí phụ trội khi trọ lại đây.
Khách sạn nằm ở nơi rất tiện ngay góc quảng trường làng, là một tòa nhà biệt thự
khá xinh xắn phủ kín dây thường xuân, ước đoán có thể chứa được chừng ba chục
khách nghỉ. Tuy nhiên, cái “nhà ăn” hiện tôi đang ngồi đây lại là một phần phụ
theo kiểu hiện đại xây liền vào nhà chính - một căn phòng dài trần thấp, hai
bên là hai dãy cửa sổ lớn. Từ một bên có thể nhìn thấy quảng trường làng; còn
bên kia nhìn ra vườn hậu, mà có lẽ nhờ đó có tên này. Khu vườn có vẻ được che
chắn kín gió, quanh vườn sắp nhiều bàn, và tôi đoán khi nào trời đẹp hẳn là một
nơi dễ chịu để tiến hành ăn uống hay dùng đồ giải khát. Thực tế là tôi biết mới
vừa lúc trước, đã có vài người khách khởi sự dùng bữa trưa ngoài đó, để rồi bị
gián đoạn bởi mây dông đe dọa kéo tới. Khi tôi được đưa vào phòng này chừng một
giờ trước, nhân viên đang vội vã dọn dẹp hết các bàn ngoài vườn - trong khi thực
khách mới đây ngồi quanh bàn, một vị vẫn còn giắt khăn ăn trên áo, đang đứng có
phần bơ vơ gần đó. Rồi nháy mắt sau, cơn mưa đổ xuống, dữ dội đến mức trong một
lúc dường như mọi khách đều dừng bữa chỉ để nhìn ra ngoài cửa sổ.
Bàn
của tôi thì ở mé nhìn ra quảng trường, và vì thế gần hết tiếng đồng hồ vừa rồi
tôi đã ngắm mưa rơi xuống quảng trường, xuống cỗ Ford cùng một hai cỗ xe khác đậu
ngoài đó. Giờ mưa đã dịu đi, nhưng vẫn còn rất to đủ khiến người ta phải bỏ ý
nghĩ đi ra ngoài dạo bộ quanh làng. Đương nhiên, tôi đã nghĩ tới khả năng có thể
lên đường đi gặp cô Kenton luôn bây giờ; nhưng mặt khác trong lá thư biên cho
cô, tôi đã thông báo sẽ ghé lúc ba giờ chiều, và có lẽ tới đường đột trước giờ
hẹn thì không hay lắm. Vì vậy nếu chốc nữa mưa không tạnh, khả năng rất cao là
tôi sẽ tiếp tục ngồi uống trà ở đây cho tới thời điểm thích hợp để khởi hành.
Tôi đã được thông tin từ cô gái phục vụ bữa trưa rằng địa chỉ cô Kenton hiện
đang cư ngụ ở cách đây chừng mười lăm phút đi bộ, có nghĩa là tôi còn ít nhất bốn
mươi phút chờ đợi nữa.
Tiện
đây xin nói rằng, tôi không ngốc tới mức không sửa soạn tinh thần đón nhận thất
vọng. Tôi ý thức quá rõ rằng mình không hề nhận được thư hồi âm của cô Kenton
cho biết cô hoan nghênh cuộc gặp với tôi. Tuy nhiên, bởi biết rõ cô Kenton từ
trước, tôi thiên về nghĩ rằng không có thư có thể hiểu là chấp thuận; giả sử cuộc
gặp như vậy bất tiện cho cô vì nguyên do nào đó, tôi cầm chắc cô sẽ không ngần
ngại mà báo với tôi ngay. Hơn nữa, tôi đã ghi rõ trong thư rằng mình đặt phòng
lưu trú tại khách sạn này, và nếu có tin gì vào phút cuối có thể nhắn cho tôi ở
đây; việc không có tin nhắn nào đang chờ tôi ở đây, tôi tin có thể coi là thêm
một lý do giả định rằng tất cả đều êm đẹp.
Cơn
mưa như trút hiện thời có khiến tôi ngạc nhiên, vì buổi sáng hôm nay bắt đầu bằng
nắng mai rực rỡ như tôi đã được hưởng mỗi sáng kể từ ngày rời Dinh Darlington.
Thực tế là ngày hôm nay bắt đầu nhìn chung tốt đẹp, với bữa sáng bằng trứng gà
thả vườn và bánh mì nướng, do bà Taylor dọn cho tôi, và bởi bác sĩ Carlisle ghé
đúng bảy rưỡi sáng như đã hẹn, tôi đã có thể cáo từ ông bà Taylor - vẫn một mực
chối từ mọi cố gắng đền đáp - trước khi có dịp nảy sinh thêm cuộc đối thoại xấu
hổ nào khác.
“Tôi
kiếm được can xăng cho bác”, bác
sĩ Carlisle tuyên bố khi hướng dẫn tôi vào ghế phụ cỗ Rover của ông. Tôi cảm ơn
ông đã chu đáo, nhưng khi tôi đặt câu hỏi về số tiền cần gửi lại, thì cả ông
cũng nhất định không chịu.
“Vớ
vẩn nào, bố già. Tôi moi ra được có tí trong xó nhà để xe ấy mà. Nhưng cũng đủ
cho bác đến cổng Crosby rồi tha hồ mà đổ”.
Trung
tâm làng Moscombe hiện ra trong nắng mai gồm vài cửa hiệu nhỏ vây quanh một nhà
thờ, chính là nhà thờ có tháp tôi đã nhìn thấy từ trên đồi tối qua. Tuy nhiên,
tôi không có thời giờ quan sát ngôi làng, bởi bác sĩ Carlisle đã nhanh chóng rẽ
ngoặt vào đường ô tô của trại nhà ai đó.
“Đi
tắt cái”, ông nói trong lúc xe chạy
qua những nhà kho và những máy cày bừa im lìm. Dường như không có một ai hiện
diện quanh đây, và tới một lúc, khi chúng tôi dừng trước một cánh cổng đóng,
ông bác sĩ nói, “Cụ ơi, phiền cụ tí, xin nhường cho cụ cái vinh dự này”.
Tôi
ra khỏi xe, đi lại cổng, và vừa tới nơi thì một tràng tiếng sủa hùng hổ rộ lên
từ một nhà kho gần đó, vì vậy khi trở lại cỗ Rover bên bác sĩ Carlisle tôi có
chút nhẹ người.
Chúng
tôi trao đổi vài lời chuyện phiếm khi xe leo lên một con đường hẹp giữa hai
hàng cây cao, ông hỏi han giấc tôi ngủ đêm qua ở nhà Taylor và những chuyện đại
loại vậy. Rồi chợt thình lình ông nói, “Này, tôi hy vọng bác không nghĩ tôi thô
lậu quá. Nhưng bác không phải là một kiểu gia nhân gì đấy chứ?”.
Tôi
phải thú nhận, tôi nhẹ nhõm hẳn đi khi nghe câu này.
“Quả
thực là như thế, thưa ngài. Thực tế là, tôi là quản gia ở Dinh Darlington, gần
Oxford”.
“Biết
ngay. Mấy cái màn gặp gỡ Winston Churchill này nọ. Tôi đã tự nhủ, chà, bố già
này nói điêu không sợ trời đất hay gì - rồi mới sực nghĩ ra, có một cách giải
thích rất đơn giản”.
Bác
sĩ Carlisle quay sang tôi mỉm cười trong lúc vẫn điều khiển xe chạy trên con đường
dốc quanh co. Tôi nói, “Tôi thực không có ý định dối gạt ai, thưa ngài. Thế
nhưng...”.
“Ôi
không cần phải phân trần đâu, bố già. Tôi thừa sức hình dung chuyện xảy ra như
thế nào. Ý tôi là, bác trông bảnh tỏn khiếp. Mấy người ở đây, tất nhiên họ sẽ
nghĩ bác ít nhất cũng là huân tước hay quận công”. Ông bác sĩ bật cười sảng khoái. “Chốc chốc lại được
nhầm là huân tước hẳn cũng khoái lắm”.
Chúng
tôi đi tiếp một lúc trong im lặng. Rồi bác sĩ Carlisle nói với tôi, “À, tôi hy
vọng bác thấy thoải mái khi nghỉ lại chỗ chúng tôi”.
“Tôi
rất thoải mái, thưa ngài, cảm ơn ngài”.
“Thế
bác thấy các công dân làng Moscombe thế nào? Đội ấy cũng không quá dở, phải
không?”.
“Họ
rất dễ chịu, thưa ngài. Ông bà Taylor tốt bụng với tôi hết sức”.
“Tôi
mong bác đừng có thưa gửi này nọ mãi thế, bác Stevens ạ. Phải, đội này cũng
không quá dở đâu. Cứ theo ý tôi thì tôi sẽ vui lòng mà sống ở đây đến mãn đời”.
Tôi
nghĩ mình có để ý ra điều gì là lạ trong giọng bác sĩ Carlisle nói câu vừa rồi.
Thêm nữa, còn có một lối cố tình khiêu khích bất thường khi ông chất vấn tiếp,
“Vậy là bác thấy đội này dễ chịu, hả?”.
“Thực
vậy, thưa bác sĩ. Hết sức thân thiện”.
“Vậy
tối qua cả đám đó kể lể với bác cái gì? Hy vọng họ không ngồi lê đôi mách toàn
chuyện trong làng khiến bác phát chán”.
“Không
hề, thưa bác sĩ. Thực tế là, cuộc trò chuyện phần đa mang giọng điệu khá nghiêm
túc và tôi được nghe một vài quan điểm khá lý thú”.
“À,
ý bác nói Harry Smith hả”, ông
bác sĩ bật cười. “Bác đừng chấp ông tướng đó. Nghe ông ta một chập thì cũng vui
đấy, nhưng thật tình ông ta rối tung rối mù. Có khi bác vừa tưởng ông ta là cộng
sản ở đâu về, thì bỗng ông ta phun một câu sặc mùi bảo thủ máu xanh. Sự thực
là, ông ta rối tung rối mù cả lên”.
“À,
thực là một thông tin lý thú”.
“Tối
qua ông ấy giảng cho bác mục gì thế? Đế chế Anh à? Hay Y tế quốc gia?”.
“Ông
Smith chỉ tự hạn chế ở những đề tài chung chung”.
“Thế
cơ hả? Ví dụ đề tài gì?”.
Tôi
ho khẽ. “Ông Smith có vài suy nghĩ về thế nào là phẩm cách”.
“Thế
cơ. Nghe có vẻ hơi triết lý trên tầm Harry Smith đấy. Làm thế quái nào mà ông
ta lại đi đến đề tài đấy?”.
“Tôi
tin rằng ông Smith đang nhấn mạnh tầm quan trọng của việc ông ấy vận động bầu cử
trong làng”.
“Vậy
đó hả?”.
“Ông
ấy khẳng định với tôi rằng người dân Moscombe đều mang những chính kiến kiên định
về đủ mọi vấn đề đại sự”.
“À
phải. Nghe đúng kiểu Harry Smith đấy. Mà chắc bác hẳn đoán ra rồi, toàn chuyện
vớ vẩn ấy mà. Harry lúc nào cũng cố xách động mọi người về đủ thứ chuyện này nọ.
Nhưng thực tế là, được để yên thì họ vui hơn nhiều”.
Chúng
tôi lại lặng im thêm một hai phút nữa. Cuối cùng tôi nói, “Xin thứ lỗi tôi hỏi
điều này, thưa ngài. Nhưng tôi có ấn tượng rằng ông Smith bị coi là một nhân vật
hơi khôi hài thì có đúng không?”.
“Hừm.
Nói vậy thì cũng hơi quá, tôi nghĩ thế. Mọi người ở đây quả là có một thứ từa tựa
như lương tâm chính trị thật. Họ cảm thấy mình nên có ý tưởng
kiên định về chuyện này chuyện nọ, đúng y như Harry giục giã họ phải có. Nhưng
thật tình thì, họ cũng chẳng khác gì người những nơi khác. Họ chỉ muốn sống lặng
lẽ thôi. Harry có cả đống ý tưởng đòi thay đổi cái này cái kia, nhưng thực tình
thì dân làng chẳng ai thích đảo lộn lên hết, ngay cả khi có lợi cho họ cũng vậy.
Người ở đây muốn được yên thân mà sống cuộc đời nhỏ xinh lặng lẽ của mình. Họ
chẳng muốn nhức đầu vì vấn đề này chính sách nọ đâu”.
Tôi
bất ngờ trước âm sắc khinh miệt vừa len vào lời ông bác sĩ. Nhưng ông đã nhanh
chóng bình tâm lại, cười khục một tiếng và nhận định, “Ngồi phía bác nhìn thấy
làng đẹp đấy”.
Thực
vậy, ngôi làng đã hiện ra một quãng bên dưới chúng tôi. Dĩ nhiên, ánh sáng ban
mai đã khiến nó mang dáng dấp khác hẳn, nhưng ngoài ra thì khung cảnh gần giống
hệt như tôi thấy trong chiều tối nhập nhoạng, nên tôi đoán thế nghĩa là đã tới
gần vị trí cỗ Ford.
“Ông
Smith dường như mang quan điểm rằng”, tôi
nói, “phẩm cách của mỗi người phụ thuộc vào những điều như vậy. Chính kiến kiên
định vân vân”.
“À
phải, phẩm cách. Tôi quên đi mất. Phải, thế là Harry đang tìm cách lao vào những
định nghĩa triết học. Ôi trời. Tôi đoán là rặt những thứ tán hươu tán vượn”.
“Những
kết luận ông ấy đưa ra không hẳn là có tính thuyết phục cao độ, thưa ngài”.
Bác
sĩ Carlisle gật đầu, nhưng dường như đã chìm đắm vào những ý nghĩ riêng. “Bác
biết sao không, bác Stevens”, rốt
cuộc ông cũng nói, “khi lần đầu ra tới đây, tôi là một người xã hội chủ nghĩa
kiên định. Tin rằng cần dành những điều tốt nhất cho toàn dân và kiểu vậy. Lần
đầu tới đây năm bốn chín. Chủ nghĩa xã hội sẽ cho phép con người ta sống trong
phẩm cách. Tôi đã tin như vậy khi lần đầu ra đây. Xin lỗi, chắc bác không muốn
nghe mấy thứ hươu vượn như vậy”. Ông
tươi tỉnh quay qua tôi. “Còn bác thì sao, bố già?”.
“Xin
phép ngài?”.
“Bác
thì nghĩ phẩm cách là cái thứ gì?”.
Câu
hỏi trực diện này, phải thừa nhận, đã khiến tôi khá bất ngờ. “Đấy là một thứ giải
thích chỉ trong vài lời thì rất khó, thưa ngài”, tôi nói. “Nhưng tôi nghĩ xét đến tận cùng nó nghĩa
là không cởi bỏ lớp áo trên người giữa thiên hạ”.
“Xin
lỗi. Cái gì nghĩa là vậy?”.
“Phẩm
cách, thưa ngài”.
“À”. Ông bác sĩ gật gù, nhưng trông có vẻ hơi băn
khoăn. Rồi ông nói, “Rồi, tới khúc này hẳn bác nhận ra rồi. Chắc là sáng ra
trông khác lắm. Này, có phải nó kia không? Chúa tôi, xe thế mới là xe chứ!”.
Bác
sĩ Carlisle đỗ lại ngay sát sau cỗ Ford, ra khỏi xe và nhắc lại, “Chu choa, xe
thế mới là xe chứ”. Một khắc sau ông đã rút
phễu cùng can xăng và hết sức hào hiệp giúp tôi đổ xăng cho cỗ Ford. Những lo lắng
trong tôi rằng biết đâu có phiền toái nào nghiêm trọng hơn về cỗ Ford đều được
xua tan khi tôi vặn chìa khóa xe và nghe động cơ sống dậy trong tiếng ầm ì khỏe
mạnh. Tới đây, tôi cám ơn bác sĩ Carlisle và đôi bên từ biệt nhau, dù tôi còn
phải bám theo cỗ Rover của ông trên đường đồi quanh co thêm chừng một dặm trước
khi chia hai ngả.
Quãng
chín giờ sáng thì tôi vượt ranh giới vào Cornwall. Lúc đó là ít nhất ba tiếng
trước khi mưa xuống, mây trời hẵng còn trắng lóa. Thực tế là rất nhiều cảnh tượng
đón chào tôi sớm hôm nay là những cảnh diễm lệ nhất tôi từng bắt gặp tới giờ.
Vì thế, thực không may là phần lớn thời gian tôi không thể dành sự chú ý đúng mức
cho chúng; vì có lẽ người ta cũng nên nói ra luôn khi đầu óc người ta còn đang
có phần vướng bận vì ý nghĩ - trừ phi có biến cố nào đó chưa thấy trước - người
ta sẽ gặp lại cô Kenton trước khi ngày hôm nay qua đi. Vì thế mà trong khi
phóng đi vun vút giữa những cánh đồng trải rộng, hàng dặm trời không một bóng
người bóng xe, hay cẩn thận bẻ lái qua những làng nhỏ xinh tuyệt diệu, có làng
chỉ là vài nếp nhà tường đá tụm bên nhau, tôi thấy mình lần nữa giở lại trong đầu
một vài đoạn hồi ức trong quá khứ. Và bây giờ, ngồi ở Compton Nhỏ, trong phòng
ăn của khách sạn dễ chịu này với chút ít thời gian rảnh trước mắt, nhìn mưa táp
xuống vỉa hè quảng trường làng ngoài kia, tôi không sao ngăn nổi đầu óc mình lại
tiếp tục vẩn vơ trên những đường nẻo cũ.
Có
một ký ức đặc biệt dai dẳng trong đầu tôi suốt buổi sáng - nói chính xác hơn là
một mảnh ký ức, một thời khắc mà vì lý do nào đó vẫn còn lại sống động trong
tôi qua bằng ấy năm. Đấy là hồi ức về lức đứng một mình trong hành lang hậu,
trước cánh cửa buồng cô Kenton đóng kín; tôi không hẳn là quay về phía cửa, mà
đứng nửa xoay người về phía nó, tê liệt vì băn khoăn không quyết được nên gõ cửa
hay không; bởi vào thời điểm đó, như tôi nhớ, tôi bỗng chợt tin chắc rằng ngay
đằng sau cánh cửa ấy, cách tôi vài thước thôi, cô Kenton đang khóc. Như tôi đã
nói, khoảnh khắc này đã ăn sâu vào trí tôi, cũng như ký ức về xúc cảm lạ thường
tôi cảm thấy dâng lên trong mình khi tôi đứng yên ở đó. Tuy thế, đến giờ thì
tôi không hoàn toàn chắc về hoàn cảnh thực sự đã dẫn tôi đứng đó nơi hành lang
hậu. Tôi chợt nhận ra khi gắng thu nhặt những hồi ức như vậy lúc trước, rất có
thể tôi đã khẳng định rằng hồi ức này thuộc về mấy phút liền sau khi cô Kenton
nhận được tin người dì mới qua đời; có nghĩa là cái, khi để cô ở lại một mình với
nỗi đau buồn, tôi ra đến hành lang thì nhận ra mình chưa nói lời phân ưu với
cô. Nhưng giờ nghĩ kĩ hơn, tôi thấy có thể mình đã hơi lầm lẫn; và thực sự mảnh
ký ức này xuất phát từ những sự kiện xảy ra vào một tối ít nhất cũng vài tháng
sau khi dì cô qua đời - thực tế là buổi tối mà anh Cardinal trẻ tuổi đột ngột
xuất hiện ở Dinh Darlington.
* * *
Cha
của anh Cardinal, Sir David Cardinal, trong nhiều năm đã là người bằng hữu và đồng
liêu thân cận nhất của huân tước, nhưng ngài đã qua đời bi thảm trong một tai nạn
cưỡi ngựa chừng ba bốn năm trước buổi tối tôi đang hồi tưởng lại đây. Trong khoảng
thời gian đó, anh Cardinal trẻ đã gây dựng được cho mình một danh tiếng tương đối
trong vai trò nhà báo chuyên luận, sở trường những bình luận hài hước về các vấn
đề quốc tế. Hiển nhiên, những bài báo ấy hiếm khi hợp nhãn Huân tước
Darlington, vì tôi còn nhớ vô số lần ngài ngẩng lên khỏi tờ báo nào đó mà nói đại
loại như, “Cậu Reggie lại viết đủ thứ tầm bậy rồi. May thay cha cậu ta không
còn sống mà đọc được”. Nhưng những bài báo ấy
cũng không ngăn trở anh Cardinal vẫn thường xuyên lui tới nhà này; thực vậy,
huân tước không bao giờ quên chàng trai trẻ ấy là con đỡ đầu của mình và luôn đối
đãi với anh như người trong nhà. Dù vậy, anh cũng chưa bao giờ có thói quen tới
ăn tối mà không thông báo trước, vì thế tôi có hơi ngạc nhiên khi ra mở cửa tối
hôm ấy và thấy anh đứng đó, cặp táp ôm trong cả hai tay.
“Ồ
chào chú, Stevens, chú thế nào?”, anh
nói. “Tối nay tình cờ tôi bị kẹt, đang tính không biết Huân tước Darlington có
thể chứa chấp tôi một đêm không nhỉ”.
“Được
gặp lại ngài thực là vui mừng quá, thưa ngài. Tôi sẽ thông báo cho Huân tước biết
ngài vừa đến”.
“Tôi
tính nghỉ lại chỗ ông Roland kia, nhưng hình như có hiểu lầm gì đó và họ đi đâu
mất rồi ấy. Hy vọng đến giờ này không làm phiền mọi người quá. Ý tôi là hôm nay
không phải dịp gì đặc biệt chứ?”.
“Thưa
ngài, tôi nghĩ có lẽ huân tước đang chờ tiếp một vị nào đó sau bữa tối”.
“Ôi
chà, thật là không may. Tôi đúng là chọn phải đêm xúi quẩy rồi. Tốt nhất là tôi
nên đi nhẹ nói khẽ mà vào thôi. Đằng nào tôi cũng có mấy bài tính viết đêm nay”. Anh Cardinal làm hiệu chỉ cái cặp.
“Tôi
sẽ thông báo với huân tước ngài đã đến, thưa ngài. Dù sao thì, ngài đến rất
đúng lúc để dự bữa tối với huân tước”.
“Tốt
quá, tôi đã hy vọng là thế đấy. Nhưng bà Mortimer thì chắc không vui vẻ gì khi
thấy tôi đâu”.
Tôi
để anh Cardinal chờ trong phòng tiếp tân và đi tới thư phòng, ở đó tôi thấy
huân tước đương giở qua vài trang giấy, bộ dạng tập trung nhất mực. Khi tôi
thông báo có anh Cardinal đến, một vẻ ngạc nhiên pha cáu kỉnh thoáng qua mặt
ngài. Rồi ngài ngả người ra ghế như đang tìm cách lý giải câu đố nào đó.
“Bảo
cậu Cardinal tôi xuống ngay”, cuối
cùng ngài nói. “Cậu ta có thể tự giải khuây chốc lát”.
Khi
trở lại xuống nhà, tôi thấy anh Cardinal đương đi đi lại lại có phần bồn chồn
trong phòng tiếp tân, ngắm nghía những món đồ mà hẳn anh đã trở nên thân thuộc
từ lâu. Tôi truyền đạt lại thông điệp của huân tước và hỏi anh muốn tôi đưa những
thức giải khát gì tới.
“À,
cứ cho tôi chút trà là được rồi, Stevens. Tối nay huân tước tiếp ai thế?”.
“Tôi
xin lỗi, thưa ngài, tôi e mình không thể giúp ngài việc này”.
“Chú
không biết tí gì à?”.
“Tôi
xin lỗi, thưa ngài”.
“Chà
lạ thay. Thôi được. Tốt nhất là tối nay tôi cứ đi nhẹ nói khẽ chút”.
Tôi
nhớ không mấy lâu sau đó tôi xuống buồng nội quản. Cô Kenton đang ngồi bên bàn,
dù trước mặt không để gì và hai bàn tay cũng không bận việc; thực vậy, dáng vẻ
cô có gì đó mách bảo cô đã ngồi như vậy hồi lâu trước khi tôi gõ cửa.
“Anh
Cardinal vừa đến, cô Kenton ạ”, tôi
nói. “Đêm nay anh ấy sẽ cần dùng phòng mọi khi”.
“Tốt
lắm, ông Stevens ạ. Tôi sẽ lo liệu việc đó trước khi đi”.
“À.
Tối nay cô ra ngoài à, cô Kenton?”.
“Quả
có thế, ông Stevens ạ”.
Có
lẽ trông tôi hơi ngạc nhiên, vì cô nói tiếp, “Chắc ông nhớ, ông Stevens ạ,
chúng ta đã bàn chuyện này hai tuần trước”.
“Phải,
đương nhiên, cô Kenton ạ. Xin thứ lỗi, trong phút chốc tôi quên khuấy mất việc
đó”.
“Có
vấn đề gì ư, ông Stevens?”.
“Không
có gì hết, cô Kenton ạ. Tối nay có một vài vị khách sẽ ghé đến, nhưng không có
lý do nào cần sự có mặt của cô”.
“Chúng
ta đã đồng ý cho tôi nghỉ tối nay từ hai tuần trước rồi, ông Stevens ạ”.
“Đương
nhiên rồi, cô Kenton ạ. Cô thứ lỗi cho tôi”.
Tôi
quay người định đi, nhưng lại phải dừng ở cửa khi cô Kenton nói, “Ông Stevens ạ,
tôi có điều này cần nói với ông”.
“Vâng,
cô Kenton?”.
“Liên
quan đến người quen của tôi. Người tôi sẽ gặp tối nay”.
“Vâng,
cô Kenton”.
“Anh
ấy đã hỏi lấy tôi. Tôi nghĩ ông có quyền biết điều này”.
“Thực
vậy, cô Kenton ạ. Thực là một thông tin lý thú”.
“Tôi
vẫn còn đang suy nghĩ việc đó”.
“Thực
vậy”.
Cô
liếc nhìn nhanh xuống hai bàn tay, nhưng rồi gần như tức khắc đã lại đưa mắt
lên nhìn tôi. “Người quen của tôi sắp nhận một công việc mới ở miền Tây bắt đầu
từ tháng sau”.
“Thực
vậy”.
“Như
tôi vừa nói đó, ông Stevens ạ, tôi vẫn còn đang suy nghĩ việc đó. Tuy nhiên tôi
cho là ông cần nắm được tình hình”.
“Tôi
rất lấy làm cảm kích, cô Kenton ạ. Tôi thực sự mong cô có một buổi tối dễ chịu.
Giờ xin phép cô”.
Chắc
vào khoảng hai mươi phút sau thì tôi lại bắt gặp cô Kenton, lần này đang lúc
tôi bận rộn chuẩn bị bữa tối. Thực tế là tôi đang đi lên lưng chừng cầu thang hậu,
bưng khay chất đầy đồ ăn, thì nghe tiếng chân giận dữ khua động ván sàn đâu đó
phía dưới. Ngoảnh lại, tôi thấy cô Kenton đang trừng mắt nhìn tôi từ dưới chân
cầu thang.
“Ông
Stevens, tôi có nên hiểu là ông mong muốn tôi ở lại trực tối nay không?”.
“Không
hề, cô Kenton ạ. Như chính cô đã nói, cô có thông báo với tôi từ trước rồi”.
“Nhưng
tôi thấy là ông rất không vui về việc tôi ra ngoài tối nay”.
“Hoàn
toàn ngược lại, cô Kenton ạ”.
“Ông
nghĩ rằng làm ồn trong bếp như vậy và giậm chân sầm sầm qua cửa buồng tôi thế
này là ông sẽ khiến tôi đổi ý ư?”.
“Cô
Kenton ạ, cảnh náo nhiệt nho nhỏ trong bếp chỉ đơn thuần là do anh Cardinal tới
dùng bữa tối vào phút cuối. Thực sự không có lý do gì ngăn cô không ra ngoài tối
hôm nay”.
“Tôi
sẽ đi dù ông có tán thành hay không, ông Stevens ạ, tôi muốn nói rõ như thế.
Tôi đã lên kế hoạch từ nhiều tuần trước rồi”.
“Thực
vậy, cô Kenton ạ. Và lần nữa, tôi chúc cô có một buổi tối thực dễ chịu”.
Trong
bữa tối, một bầu không khí rất kỳ quái dường như lơ lửng chung quanh hai thực
khách. Một hồi lâu họ ăn trong im lặng, đặc biệt là huân tước trông có vẻ thực
xa vắng. Có một lúc, anh Cardinal hỏi, “Tối nay có gì đặc biệt ư, thưa huân tước?”.
“Hở?”.
“Khách
của bác tối nay. Đặc biệt lắm ạ?”.
“E
rằng không nói với con được, con trai ạ. Tuyệt đối cơ mật”.
“Ôi
chao ơi. Như vậy hẳn có nghĩa là con không nên dự vào đấy rồi”.
“Dự
vào gì cơ, hả con?”.
“Thì
cái vụ gì sắp diễn ra tối nay ấy”.
“Ồ,
con sẽ thấy chẳng có gì hấp dẫn đâu. Dù sao thì, dịp này là ở mức độ cơ mật cực
điểm. Không thể để một người như con có mặt được. Ồ không, không có chuyện đó
đâu”.
“Ôi
chao ơi. Nghe có vẻ đặc biệt thật đấy”.
Anh
Cardinal đương nhìn huân tước chằm chặp, nhưng huân tước chỉ tiếp tục ăn mà
không bình phẩm gì thêm.
Hai
vị trở lại phòng hút thuốc dùng rượu port và xì gà. Trong quá trình dọn dẹp
phòng ăn, và cả trong lúc sửa soạn phòng tiếp tân đợi đón mấy vị khách buổi tối,
tôi bắt buộc phải nhiều lần qua lại cửa phòng hút thuốc. Vì thế, thực không thể
tránh được việc tôi để ý thấy hai vị, trái với vẻ lặng lẽ trong bữa tối, đã bắt
đầu lời qua tiếng lại với vẻ nóng nảy nhất định. Mười lăm phút sau, đã nghe những
giọng nói cáu giận. Đương nhiên tôi không đứng lại nghe, nhưng không thể tránh
lọt vào tai tiếng huân tước quát, “Nhưng đấy không phải việc của con, con ạ!
Không phải việc của con!”.
Tôi
đang ở phòng ăn khi rốt cuộc hai vị cũng đi ra. Họ có vẻ đã bình tĩnh lại, và
những lời duy nhất trao đổi giữa hai người khi đi qua sảnh là huân tước nói,
“Giờ thì, nhớ đấy, con ạ. Bác tin ở con”. Và đáp lại, anh Cardinal lầm bầm bực bội, “Vâng,
vâng, con hứa mà”. Rồi tiếng chân rẽ về
hai hướng, huân tước đi về thư phòng, anh Cardinal về thư viện.
Vào
gần như chính xác tám giờ rưỡi, có tiếng động cơ ô tô tấp vào trong sân. Tôi mở
cửa thấy một người tài xế, sau lưng anh ta là một vài viên cảnh sát đương tỏa về
các vị trí khác nhau trong khuôn viên. Nháy mắt sau, tôi đã đưa vào nhà hai vị
hết sức danh giá, họ được huân tước đón ngoài sảnh và nhanh chóng đưa vào phòng
tiếp tân. Khoảng mười phút sau lại có tiếng ô tô và tôi mở cửa thấy Herr
Ribbentrop, vị Đại sứ Đức, tới lúc này đã quen mặt tại Dinh Darlington. Huân tước
ra khỏi phòng đón ông ta, và hai người dường như trao đổi những cái nhìn đồng
lõa trước khi cùng khuất vào phòng tiếp tân. Khi vài phút sau tôi được gọi vào
mang đồ giải khát, bốn vị đó đương bình phẩm cao thấp về đức tính của các loại
xúc xích khác nhau, và không khí ít nhất trên bề mặt cũng có vẻ khá hòa hảo.
Tới
đó tôi vào vị trí của mình ngoài sảnh - là vị trí gần vòm cửa mà tôi thường giữ
trong những cuộc họp quan trọng - và không có việc gì phải dịch chuyển khỏi đó
mãi cho đến chừng hai tiếng sau, khi nghe tiếng chuông cửa hậu. Khi đi xuống,
tôi thấy có một viên cảnh sát đứng đó bên cô Kenton, yêu cầu tôi xác nhận nhân
thân của cô.
“Nguyên
tắc an ninh thôi, thưa cô, tôi không có ý mạo phạm”, ông cảnh sát lẩm nhẩm khi lại biến đi vào màn đêm.
Đang
cài chốt cửa, tôi nhận ra cô Kenton đang chờ tôi, bèn nói, “Tôi đoán là cô đã
có một buổi tối dễ chịu, cô Kenton ạ”.
Cô
không trả lời, vậy nên tôi nhắc lại trong khi hai bên đi qua sàn bếp thênh
thang đã chìm vào bóng tối, “Tôi đoán là cô đã có một buổi tối dễ chịu, cô
Kenton ạ”.
“Quả
có thế, cảm ơn ông, ông Stevens”.
“Tôi
rất mừng”.
Sau
lưng tôi, tiếng chân cô Kenton bỗng dừng phắt lại, và tôi nghe cô nói, “Ông
không có lấy một chút quan tâm nào về những gì đã xảy ra giữa người quen của
tôi với tôi tối nay hay sao, ông Stevens?”.
“Tôi
không có ý khiếm nhã, cô Kenton ạ, nhưng tôi thực sự cần trở lên trên kia không
chậm trễ. Thực tế là, những sự việc có tầm quan trọng toàn cầu đang diễn ra trong
nhà này ngay phút này đây”.
“Có
lúc nào mà không như vậy, hả ông Stevens? Được lắm, nếu ông cứ nhất định chạy
đi luôn, tôi sẽ chỉ nói là tôi đã nhận lời người quen của tôi rồi”.
“Xin
lỗi, thưa cô Kenton?”.
“Nhận
lời cầu hôn của anh ta”.
“À,
vậy sao, cô Kenton? Vậy cho phép tôi nói lời chúc mừng”.
“Cảm
ơn ông, ông Stevens. Đương nhiên, tôi sẽ vui lòng ở lại đây hết thời hạn trước
khi nghỉ. Tuy nhiên, nếu sự tình thành ra là ông có thể giải phóng cho tôi trước
đó, thì chúng tôi rất hàm ơn. Người quen của tôi sẽ bắt đầu công việc mới ở miền
Tây sau hai tuần nữa”.
“Tôi
sẽ làm hết sức để tìm được người thay thế ngay khi có dịp, cô Kenton ạ. Giờ thì
xin bỏ lỗi cho tôi, tôi phải trở lại trên kia”.
Tôi
lại bắt đầu bước đi, nhưng khi đã đi gần sát tới cửa ra hành lang, tôi nghe cô
Kenton nói, “Ông Stevens”, và
vì thế lại quay lại lần nữa. Cô vẫn đứng nguyên đó, và do đó buộc phải hơi cao
giọng để nói với tôi, nên giọng cô âm vang nghe kỳ cục trong căn bếp tối và rỗng
không như lòng hang tối.
“Có
phải tôi nên hiểu là”, cô nói, “sau bao nhiêu
năm tôi phục vụ trong cái nhà này, ông không còn lời nào đáp lại tin tôi có thể
sắp ra đi ngoài những lời vừa rồi ư?”.
“Cô
Kenton, tôi xin gửi những lời chúc mừng chân thành nhất đến cô. Nhưng tôi xin
nhắc lại, đang có những vấn đề có tầm ảnh hưởng toàn cầu diễn ra trên kia và
tôi phải trở về vị trí”.
“Ông
có biết không, ông Stevens, rằng ông đã trở thành một nhân vật cực kỳ quan trọng
với tôi và người quen của tôi?”.
“Thực
ư, cô Kenton?”.
“Thật
vậy, ông Stevens. Chúng tôi thường giết thời gian bằng cách kể chuyện về ông để
mua vui. Chẳng hạn như, người quen cứ đòi tôi làm cho anh ấy xem cách ông bóp
chặt hai cánh mũi khi rắc tiêu lên thức ăn. Lần nào anh ấy cũng cười phá lên”.
“Thực
vậy”.
“Anh
ấy cũng khá ưa những bài “hịch” với nhân viên của ông. Phải nói là tôi đã trở
thành chuyên gia tái hiện những bài cổ động đó. Tôi chỉ cần trích vài câu là cả
hai chúng tôi đã bò ra cười”.
“Thực
vậy, cô Kenton. Giờ tôi xin cáo lỗi”.
Tôi
đi lên sảnh trở về vị trí. Tuy nhiên, chưa đầy năm phút sau, anh Cardinal đã xuất
hiện ở cửa thư phòng, vẫy tôi lại.
“Quấy
quả chú thật ngại quá, Stevens ạ”, anh
nói. “Nhưng tôi có thể phiền chú mang cho tôi thêm chút rượu mạnh nữa được
không vậy? Chai chú mang lên hồi nãy xem ra đã cạn rồi”.
“Chúng
tôi hân hạnh được phục vụ bất cứ thức giải khát nào ngài mong muốn, thưa ngài.
Tuy nhiên, xét thấy ngài còn bài báo cần hoàn thiện, tôi không hiểu dùng thêm nữa
có phải là ý thực hay hay không”.
“Bài
báo của tôi vẫn ngon trớn thôi, Stevens. Chú đi lấy cho tôi thêm ít rượu đi, thế
mới đáng yêu chứ”.
“Được
thôi, thưa ngài”.
Khi
chốc lát sau tôi quay lại thư viện, anh Cardinal đang vơ vẩn giữa các tủ sách,
săm soi từng gáy sách. Tôi thấy có giấy tờ rải rác bừa bộn trên một bàn viết gần
đó. Thấy tôi lại gần, anh Cardinal thốt lên tán thưởng và ngồi sụp vào một ghế
bành da. Tôi lại gần anh, rót chút rượu vào ly đưa cho anh.
“Chú
biết đấy, Stevens ạ”, anh nói, “chúng ta đã
là bạn bè với nhau được ít lâu rồi, phải chứ?”.
“Thực
vậy, thưa ngài”.
“Tôi
lúc nào cũng muốn được trò chuyện đôi chút với chú mỗi lần đến đây”.
“Vậy
đó, thưa ngài”.
“Chú
không chê làm một cốc nhỏ với tôi chứ?”.
“Ngài
thực tử tế, thưa ngài. Nhưng tôi phải xin phép từ chối”.
“Mà
này, Stevens, chú có sao không đấy?”.
“Tôi
hoàn toàn ổn, cảm ơn ngài đã quan tâm”, tôi
nói và khẽ cười.
“Chú
không khó ở đấy chứ?”.
“Có
thể là hơi mệt, nhưng tôi hoàn toàn bình thường, cám ơn ngài”.
“Ồ,
thế thì chú nên ngồi xuống đi. Mà, tôi đang nói đấy. Chúng ta là bạn bè được ít
lâu rồi. Vậy nên tôi nên thành thật với chú thì hơn. Như chú hẳn là đã đoán được
rồi đấy, tối nay tôi không phải tình cờ mà đến đây. Có người phím cho tôi biết
chú hiểu không, về việc đang diễn ra ấy. Ở bên kia hành lang, vào chính phút
này”.
“Vâng,
thưa ngài”.
“Tôi
thật tình mong chú ngồi xuống cho, Stevens ạ. Tôi muốn chúng ta trò chuyện như
bạn bè, còn chú thì lại đứng đấy bưng cái khay khỉ gió cứ như thể chực bỏ đi bất
kỳ lúc nào”.
“Tôi
xin lỗi, thưa ngài”.
Tôi
đặt khay xuống và đặt mình - chọn tư thế thích hợp - vào cái ghế bành anh
Cardinal đương chỉ.
“Đấy
thế có tốt hơn không”, anh Cardinal nói. “Giờ
thì, Stevens này, tôi không nghĩ là Thủ tướng hiện đang có mặt trong phòng tiếp
tân kia, phải chứ?”.
“Thủ
tướng ư, thưa ngài?”.
“Ồ,
được rồi, chú không phải nói cho tôi đâu. Tôi biết là tình thế này hẳn cắc cớ
cho chú lắm”. Anh Cardinal thở dài một
cái, rồi mệt mỏi nhìn mớ giấy tờ vương vãi trên bàn. Rồi anh nói, “Chắc tôi chẳng
cần phải nói cho chú biết, phải không Stevens, rằng tôi có tình cảm thế nào đối
với huân tước. Ý tôi là, bác ấy giống như người cha thứ hai của tôi. Chắc tôi
chẳng cần phải nói cho chú biết, hả Stevens?”.
“Đúng
vậy, thưa ngài”.
“Tôi
lo cho bác ấy lắm”.
“Phải,
thưa ngài”.
“Và
tôi biết chú cũng thế. Lo cho bác ấy hết lòng. Phải không, Stevens?”.
“Quả
là có vậy, thưa ngài”.
“Tốt.
Vậy chúng ta đều biết mình đang ở đâu. Nhưng giờ hãy nhìn thẳng vào sự thực. Huân
tước đang sa lầy nghiêm trọng. Tôi đã quan sát bác ấy càng ngày càng lún sâu,
và xin nói với chú, tôi đang cực kỳ lo lắng. Bác ấy dự vào những điều quá tầm
mình, chú hiểu không, Stevens?”.
“Vậy
ư, thưa ngài?”.
“Stevens,
chú có biết điều gì đang xảy ra ngay chính phút này, giữa lúc chúng ta ngồi đây
nói chuyện không? Điều gì đang xảy ra cách chúng ta chỉ vài thước? Đằng kia
trong cái phòng đó - và tôi không cần chú xác nhận cho tôi - hiện giờ đang tập
hợp ngài Thủ tướng nước Anh, ngài Ngoại trưởng Anh, cùng ngài Đại sứ Đức. Huân
tước đã xoay trời chuyển đất mà thiết kế nên được cuộc gặp này, và bác ấy tin -
thành thực tin - rằng mình đang làm một điều đáng quý, đáng trọng. Chú có biết
vì cớ gì mà huân tước đưa những vị ấy tới đây đêm nay không? Chú có biết điều
gì đang diễn ra ở đây không, Stevens?”.
“Tôi
e là không, thưa ngài”.
“Chú
e là không. Stevens, chú nói xem, chú không quan tâm chút nào ư? Không tò mò ư?
Chúa ơi, ông chú ơi, có một điều vô cùng trọng đại đang diễn ra dưới mái nhà
này. Mà chú không tò mò chút nào cả ư?”.
“Nhiệm
vụ của tôi không phải là tò mò về những vấn đề loại ấy, thưa ngài”.
“Nhưng
chú có lo cho huân tước. Chú lo cho bác ấy hết lòng, chú vừa mới bảo tôi xong.
Nếu chú lo cho huân tước, chẳng lẽ chú không bận tâm sao? Hay ít cũng tò mò một
chút? Thủ tướng Anh và Đại sứ Đức được ông chủ chú đưa đến gặp nhau để bí mật hội
đàm giữa đêm, mà thậm chí chú còn không tò mò?”.
“Tôi
không nói là mình không tò mò, thưa ngài. Tuy nhiên, tôi không ở vị thế được thể
hiện thái độ tò mò về những vấn đề loại ấy”.
“Chú
không ở vị thế ấy à? A, tôi tin chú coi như thế là trung thành đấy. Phải không?
Chú nghĩ làm như thế là có trung thành không? Với huân tước? Hay thậm chí là với
đức vua?”.
“Tôi
xin lỗi, thưa ngài, tôi không hiểu được ngài đang muốn gợi ý điều gì”.
Anh
Cardinal lại thở dài lắc đầu. “Tôi có gợi ý gì đâu, Stevens. Nói thật với chú,
tôi không biết còn có thể làm gì nữa. Nhưng ít nhất chú cũng phải tò mò chứ”.
Anh
lặng thinh một lúc, trong lúc đó dường như anh chỉ đưa đôi mắt trống rỗng nhìn khoảng
thảm dưới chân tôi.
“Vậy
là chú không muốn làm một cốc với tôi à, Stevens?”, cuối cùng anh nói.
“Không,
thưa ngài, cảm ơn ngài”.
“Tôi
nói với chú điều này, Stevens. Người ta đang dắt mũi huân tước đấy. Tôi đã điều
tra rất nhiều, hiện giờ tôi nắm rõ tình hình ở Đức hơn bất kỳ ai trong cái đất
nước này, và tôi nói với chú điều này, chúng nó đang dắt mũi huân tước đấy”.
Tôi
không đáp, còn anh Cardinal tiếp tục đưa mắt trống rỗng nhìn sàn nhà. Một lát
sau, anh tiếp, “Huân tước là một người cực kỳ đáng mến. Nhưng thực tế vẫn là,
bác ấy đang dự vào những điều quá tầm bác ấy. Bác ấy đang bị chúng nó điều khiển.
Đám Quốc xã đang điều khiển bác ấy như một quân cờ. Chú có nhận thấy điều ấy
chưa, Stevens? Chú có nhận thấy đấy là điều đang xảy ra, ít nhất đã ba bốn năm
nay rồi?”.
“Tôi
xin lỗi, thưa ngài, tôi hoàn toàn không nhận thấy diễn biến nào như vậy”.
“Chú
không cả nghi ngờ chút nào ư? Nghi ngờ dù chỉ là nhỏ nhất thôi, rằng Herr
Hitler, thông qua Herr Ribbentrop, ông bạn thân của chúng ta, bấy lâu nay điều khiển
huân tước như một quân cờ, cũng dễ dàng như điều khiển bất cứ quân cờ nào khác
trong tay ông ta ở Berlin?”.
“Tôi
xin lỗi, thưa ngài, tôi e rằng mình hoàn toàn không nhận thấy diễn biến nào như
vậy”.
“Nhưng
hẳn đúng là chú không nhận ra, Stevens ạ, chú không tò mò mà. Chú cứ mặc cho từng
ấy việc diễn ra trước mắt chú mà chú không bao giờ nghĩ rằng nên mở mắt nhìn
xem nó thực chất là cái gì”.
Anh
Cardinal sửa thế ngồi trong ghế cho thẳng lưng hơn, và trong một lát dường như
đương suy tính về bài viết dang dở trên bàn gần đó. Rồi anh nói, “Huân tước là
một bậc quân tử. Cốt lõi vấn đề là thế. Bác là một bậc quân tử, và bác đã đi
qua chiến tranh với đám người Đức, và bản năng xui khiến bác hào hiệp và hữu ái
với địch thủ đã bị đánh bại. Đấy là bản năng của bác. Bởi bác là một bậc quân tử,
một nhà quý tộc Anh kiểu cổ đích thực. Và chú phải nhìn thấy chứ, Stevens. Làm
sao mà chú không nhìn thấy được? Thấy chúng đã lợi dụng nó, lèo lái nó, biến một
điều đẹp đẽ và cao quý thành một thứ khác hẳn - một thứ chúng có thể dùng vào
những mục đích tồi tàn của chúng? Chú phải nhìn thấy chứ, Stevens”.
Anh
Cardinal đã lại dán mắt xuống sàn. Anh cứ thế lặng thinh vài phút, rồi nói,
“Tôi nhớ cái lần mình đến đây nhiều năm trước, và ở đây có cha người Mỹ kia.
Chúng ta đang làm một cái hội đàm lớn, cả cha tôi cũng tham gia tổ chức. Tôi nhớ
cha người Mỹ kia, còn say mèm hơn cả tôi bây giờ, hắn ta đứng dậy giữa bàn tiệc
trước mặt toàn thể quan khách. Và hắn chỉ vào huân tước mà gọi bác ấy là tay
nghiệp dư. Gọi bác ấy là một tay nghiệp dư non dại và bảo bác ấy đang dự vào những
việc quá tầm mình. Thế đấy, Stevens ạ, tôi phải nói là cha người Mỹ ấy đã nói
đúng. Đấy cũng là sự thực ở đời. Thế giới ngày nay quá tồi tệ không thể dung chứa
những bản năng đẹp đẽ và cao quý được. Chính chú đã tận mắt thấy rồi, phải
không, Stevens? Thấy chúng lèo lái một thứ đẹp đẽ và cao quý. Chú đã tận mắt thấy
rồi, phải không?”.
“Tôi
xin lỗi, thưa ngài, nhưng tôi không thể nói mình đã thấy được”.
“Chú
không thể nói mình đã thấy. Chà, tôi không biết chú thì thế nào, nhưng tôi sẽ
phải làm gì đó về việc này. Nếu cha tôi còn sống, cha sẽ làm gì đó để ngăn cản
việc này”.
Anh
Cardinal lại yên lặng và trong một lúc - có lẽ nguyên do là bởi vừa gợi lại những
kỷ niệm về người cha đã khuất - trông anh âu sầu hết sức. “Stevens, chẳng lẽ
chú hài lòng”, cuối cùng anh nói,
“nhìn huân tước lao đầu xuống vực như vậy?”.
“Tôi
xin lỗi, thưa ngài, tôi không hoàn toàn hiểu ý ngài muốn nói gì”.
“Chú
không hiểu à, Stevens. Được rồi, chúng ta là bạn nên tôi sẽ nói thẳng ra với chú.
Trong vài năm vừa qua, một mình huân tước có lẽ đã làm con cờ hữu dụng nhất của
Herr Hitler trong đất nước này nhằm phục vụ những mánh lới tuyên truyền của ông
ta. Càng tiện hơn cho ông ta khi bác ấy chân thành, trọng danh dự và không nhận
ra bản chất thật của những gì bác làm. Chỉ riêng trong ba năm vừa qua thôi,
huân tước đã đóng vai trò cốt tử trong việc thiết lập liên hệ giữa Berlin và
hơn sáu chục công dân nắm giữ tầm ảnh hưởng cao nhất trong nước này. Thật không
khác gì dâng bánh lên tận miệng. Herr Ribbentrop đã có thể gần như qua mặt luôn
Bộ Ngoại giao của ta. Và nếu cái vụ mít tinh khốn khiếp và Thế vận hội khốn nạn
của chúng còn chưa đủ, chú có biết hiện giờ chúng đang khiến huân tước vận động
cái gì không? Chú có hình dung được tí nào những điều đang được bàn thảo lúc
này không?”.
“Tôi
e rằng không, thưa ngài”.
“Huân
tước đã một thời gian tìm cách thuyết phục chính ngài Thủ tướng nhận lời mời
qua thăm Herr Hitler. Bác ấy thực tình tin rằng ngài Thủ tướng có một hiểu lầm
chí tử về chế độ hiện hành ở Đức”.
“Tôi
không thấy có gì đáng phản đối ở đó, thưa ngài. Huân tước vẫn luôn gắng sức
thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc”.
“Mà
đấy còn chưa hết, Stevens ạ. Ngay vào lúc này đây, trừ khi tôi quá đỗi sai lầm,
ngay vào lúc này đây, huân tước đang thảo luận về khả năng đích thân đức vua tới
thăm Herr Hitler. Ai mà chẳng biết chuyện ông vua mới của chúng ta trước giờ vẫn
háo hức với đám Quốc xã. Đấy, xem ra là giờ ông ta rất hào hứng muốn nhận lời mời
của Herr Hitler. Ngay vào lúc này đây, Stevens ạ, huân tước đang làm hết sức để
cất bỏ những phản bác của Bộ Ngoại giao trước ý tưởng gớm ghiếc này”.
“Tôi
xin lỗi, thưa ngài, nhưng tôi không hề thấy những điều huân tước đã làm có thể
là gì khác ngoại trừ những điều cao cả nhất, tôn quý nhất. Suy cho cùng, huân
tước đang làm hết sức mình để đảm bảo hòa bình vẫn được trường tồn ở Âu châu”.
“Stevens,
nói tôi nghe, chú không hề cảm thấy có khả năng dù rất nhỏ rằng tôi nói đúng
sao? Chẳng lẽ chú ít nhất không tò mò về điều tôi đang nói
sao?”.
“Tôi
xin lỗi, thưa ngài, nhưng phải nói rằng tôi đặt trọn vẹn niềm tin vào óc phán
xét của huân tước”.
“Không
một ai có óc phán xét mà lại có thể còn tin bất cứ lời lẽ nào của Hitler sau vụ
tái chiếm vùng sông Rhine, Stevens ạ. Huân tước đã dự vào một việc quá tầm mình.
Ôi chao ơi, giờ thì tôi thực sự làm chú phật ý rồi”.
“Không
hề, thưa ngài”, tôi nói, bởi tôi vừa đứng
dậy khi nghe tiếng chuông từ phòng tiếp tân. “Xem ra các vị có việc cho đòi
tôi. Xin cáo lỗi”.
Trong
phòng tiếp tân, không khí dày đặc khói thuốc lá. Thực vậy, các vị khách danh
giá vẫn tiếp tục rít xì gà, gương mặt nghiêm trọng, không thốt lên lời nào,
trong khi huân tước yêu cầu tôi mang chai port vào loại thượng hạng từ dưới hầm
rượu lên.
Vào
lúc đêm hôm như thế, người ta không thể tránh cho tiếng chân xuống cầu thang hậu
không vang dội và hẳn nhiên chính đấy là nguyên do đánh thức cô Kenton. Bởi
trong lúc tôi đang lần đi trong bóng tối hành lang, cửa buồng nội quản mở ra và
cô xuất hiện bên ngưỡng cửa, một cái bóng đen in trên ánh sáng trong phòng.
“Tôi
ngạc nhiên thấy cô vẫn còn ở đây, cô Kenton ạ”, tôi nói khi lại gần cô.
“Ông
Stevens ạ, hồi nãy tôi thật ngốc nghếch quá”.
“Xin
bỏ lỗi, cô Kenton ạ, nhưng hiện thời tôi đang không có thời gian nói chuyện”.
“Ông
Stevens ạ, ông không được để bụng điều tôi vừa nói lúc nãy đâu. Chỉ là tôi cư xử
ngốc nghếch mà thôi”.
“Cô
Kenton ạ, tôi không để bụng điều gì cô nói đâu. Thực tế là, tôi còn không nhớ
ra cô đang nhắc tới việc gì. Đang có những sự kiện có tầm quan trọng lớn lao diễn
ra trên nhà và tôi không có thời gian dừng chân chuyện vãn với cô. Tôi đề nghị
cô nên lui về nghỉ thì hơn”.
Tới
đó tôi vội vã đi tiếp, và phải tới khi tôi đã gần đến cửa bếp thì bóng tối trở
lại trong hành lang mới cho tôi biết cô Kenton đã đóng cửa buồng nội quản.
Tôi
không mất nhiều thời gian tìm ra vị trí của chai rượu được yêu cầu dưới hầm và
thực hiện các sửa soạn cần thiết để phục vụ các vị khách. Và chính lúc đó, chỉ
vài phút sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với cô Kenton, tôi lại bước đi trên hành
lang theo đường cũ, lần này bưng theo khay. Khi đến gần cửa buồng cô Kenton,
tôi nhận thấy ánh sáng rỉ ra quanh cửa cho biết cô vẫn còn trong buồng. Và đấy,
giờ thì tôi đoan chắc, chính là giây phút đã dai dẳng găm lại trong ký ức tôi -
giây phút tôi dừng chân trong bóng lờ mờ tối hành lang, tay bưng khay, một niềm
tin ngày càng chắc chắn trong lòng rằng chỉ cách vài thước, bên kia cánh cửa,
cô Kenton đang khóc. Như tôi nhớ, không có bằng chứng gì cụ thể để giải thích
niềm tin đó - chắc chắn là tôi không hề nghe tiếng khóc - nhưng tôi vẫn nhớ đã
tin chắc rằng nếu gõ cửa bước vào, sẽ thấy cô giàn giụa nước mắt. Tôi không biết
mình đã đứng đó bao lâu; lúc ấy tôi tưởng như đấy là một quãng thời gian đáng kể,
nhưng trong thực tế, tôi ngờ chỉ độ vài giây. Bởi, đương nhiên, tôi còn phải
nhanh chóng lên nhà để mời rượu những vị thuộc hàng danh giá nhất trong xứ sở,
và hẳn là tôi không thể rề rà quá được.
Khi
trở lại phòng tiếp tân, tôi thấy các vị khách vẫn còn trong tâm trạng khá
nghiêm nghị. Nhưng ngoại trừ điều đó, tôi hầu như không có mấy thời giờ cảm nhận
được chút nào bầu không khí, bởi tôi vừa bước vào thì huân tước đã đỡ lấy khay
từ tay tôi và nói, “Cảm ơn anh, Stevens, tôi sẽ lo nốt phần còn lại. Anh lui được
rồi”.
Lại
đi qua sảnh lần nữa, tôi vào vị trí quen thuộc dưới vòm cửa, và trong khoảng một
tiếng đồng hồ tiếp theo, nghĩa là tới khi các vị khách cuối cùng cũng cáo từ,
không xảy ra sự việc gì buộc tôi phải di chuyển khỏi vị trí nữa. Tuy vậy, một
giờ đồng hồ đứng đó đã lưu lại vô cùng sống động trong trí óc tôi suốt những
năm qua. Ban đầu, tâm trạng của tôi - tôi không ngại thừa nhận việc này - có
chút nặng nề. Nhưng rồi trong lúc tôi đứng đó, dần dà có một điều kỳ lạ xảy ra;
nói thế có nghĩa là, một cảm giác đắc thắng sâu xa bắt đầu dâng lên trong tôi.
Tôi không nhớ nổi vào thời điểm đó mình có phân tích kĩ cảm giác này không,
nhưng ngày nay nhìn lại, có vẻ giải thích cũng không quá khó. Suy cho cùng, tôi
vừa mới đi qua một buổi tối đặc biệt cam go, nhưng trong suốt thời gian đó đã
duy trì được một “phẩm cách xứng hợp với chức vị tôi” - và hơn nữa, đã làm vậy
theo một phương cách mà ngay cả cha tôi biết đâu cũng có thể tự hào. Và ở đó
bên kia sảnh, chính ngay sau cánh cửa mà mắt tôi đang đặt vào đây, chính ngay
trong căn phòng tôi vừa thực thi bổn phận của mình, những vị quyền lực nhất Âu
châu đang bàn thảo về số phận của cả lục địa. Vào thời điểm ấy ai còn có thể
nghi ngờ rằng tôi quả thực đã tới sát cái trục lớn của vạn sự như bất kỳ quản
gia nào có thể mơ ước? Vì cớ đó, tôi đồ rằng trong lúc tôi đứng đó suy tư về những
sự việc trong buổi tối vừa qua - những sự việc đã diễn ra và những sự việc hẵng
còn đang tiếp diễn - buổi tối hiện ra trước mắt tôi như một bản tổng lược tất cả
những thành tựu tôi đạt được đến thời điểm này trong cuộc đời. Tôi không thấy
nhiều cách giải thích nào khác cho cảm giác đắc thắng đã nâng đỡ lòng tôi đêm
đó.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét