Thứ Bảy, 23 tháng 12, 2023

Tàn Ngày Để Lại - Ch 6

Tàn Ngày Để Lại

Tác giả: Kazuo Ishiguro
Dịch giả: An Lý
NXB Văn Học - 02/2021

Ngày thứ ba - Tối
Moscombe, gần Tavistock, Devon

Tôi thấy mình có lẽ nên trở lại đôi chút vấn đề thái độ của huân tước với người Do Thái, bởi toàn bộ cái sự vụ bài Do Thái này đã trở thành khá nhạy cảm gần đây, như tôi đã nhận ra. Đặc biệt, tôi xin làm rõ cho dứt điểm cái lệnh cấm tuyển nhân viên người Do Thái vào Dinh Darlington mà người ta đồn đại. Bởi cáo buộc này nằm trực tiếp trong lĩnh vực tôi quản lý, nên tôi có thẩm quyền tuyệt đối đưa ra lời phản bác. Có rất nhiều người Do Thái trong đội ngũ nhân viên của tôi trong suốt những năm tôi làm việc cho huân tước, và tôi cũng xin nói thêm họ không bao giờ bị đối xử khác với mọi người vì nguyên do chủng tộc. Thực sự người ta không thể hiểu nổi nguyên do nào dẫn đến những cáo buộc phi lý như vậy - trừ khi, thực ngớ ngẩn lắm thay, chúng bắt nguồn từ khoảng thời gian vài tuần thực ngắn ngủi và cực kỳ vô nghĩa hồi đầu thập niên ba mươi, khi bà Carolyn Barnet có một sức ảnh hưởng kỳ dị tới huân tước.
Bà Bamet, góa phụ của ông Charles Barnet, khi ấy đương vào độ tứ tuần - rất bảnh bao, nhiều người có thể gọi là sang cả. Bà nổi danh là có trí thông tuệ sắc sảo đáng gờm, và độ ấy người ta thường nghe lan truyền chuyện bà đã đánh bại quý ông mẫn tiệp này hoặc nhân vật sắc sảo kia trong bữa tối vì một vấn đề đương thời nổi cộm nào đó. Gần suốt mùa hè năm 1932 bà là vị khách thường xuyên tại Dinh Darlington, thường cùng huân tước chìm đắm trong những cuộc trò chuyện kéo dài hàng giờ, chủ yếu là về tình hình xã hội chính trị. Và theo như tôi nhớ, chính bà Barnet đã đưa huân tước theo trong những chuyến “khảo sát có hướng dẫn” tới những vùng nghèo nhất khu Đông London, để huân tước được thực sự tới tận nhà thăm rất nhiều gia đình cực khổ trong những năm thê thảm ấy. Nói vậy có nghĩa là, nhiều phần chắc chắn bà Barnet đã góp phần nào đấy vào mối ưu tư ngày một lớn của Huân tước Darlington dành cho dân nghèo ở xứ ta, và như vậy không thể nói ảnh hưởng của bà hoàn toàn tiêu cực. Nhưng đương nhiên, bà cũng là thành viên tổ chức “áo đen” của Sir Oswald Mosley, và những giao tiếp ít ỏi của huân tước với Sir Oswald chính là diễn ra vào vài tuần ấy trong mùa hè năm đó. Và cũng chính trong vài tuần ấy mà những vụ việc hết sức trái ngược với bản chất ngài kia đã xảy ra tại Dinh Darlington, mà người ta buộc phải nghĩ đó chính là cái cơ sở nông cạn cho những cáo buộc phi lý nọ.
Tôi nói “vụ việc”, nhưng một số trong đó quả thực rất vặt vãnh. Tỷ dụ như tôi có nghe lọt tai một tối, trong bữa ăn, khi nghe nhắc đến một tờ báo nọ, huân tước nhận xét, “À, cái loa tuyên truyền của bọn Do Thái đấy hả”. Và một dịp khác cũng vào quãng đó, tôi nhớ ngài chỉ thị cho tôi hãy dừng đóng góp cho một hội thiện nguyện địa phương hay ghé đến quyên, với lý do ủy ban điều hành “gần như rặt Do Thái”. Rồi có nhớ rõ mấy nhận xét ấy chính vì lúc ấy tôi đã thực sự kinh ngạc, bởi trước đó huân tước chưa bao giờ tỏ ý có chút nào bài bác chủng tộc Do Thái.
Rồi thì, đương nhiên, còn có cái buổi chiều ấy, huân tước gọi tôi vào thư phòng. Ban đầu ngài chỉ trao đổi chung chung, hỏi han tình hình trong nhà có được ổn hết không vân vân. Rồi ngài nói, “Tôi đã suy nghĩ rất nhiều, Stevens ạ. Suy nghĩ rất nhiều. Và tôi đã đi đến kết luận. Chúng ta không thể có người làm Do Thái ở Dinh Darlington”.
“Thưa ngài?”.
“Chỉ là vì muốn tốt cho nhà này thôi, Stevens ạ. Vì lợi ích của các vị khách thường đến nghỉ lại nhà này. Tôi đã nghiên cứu việc này rất kĩ, Stevens ạ, và giờ tôi cho anh biết kết luận của mình”.
“Vậy đấy, thưa ngài”.
“Stevens ạ, cho tôi biết, hiện tại chúng ta có vài người như vậy trong số người làm, phải không? Nghĩa là, vài người Do Thái”.
“Tôi nghĩ là có hai người trong đội ngũ nhân viên hiện tại có thể xếp vào loại đó, thưa ngài”.
“À”. Huân tước ngưng một lát, nhìn ra ngoài cửa sổ. “Dĩ nhiên là anh sẽ phải cho họ thôi”.
“Xin thứ lỗi, thưa ngài?”.
“Đây là một điều đáng tiếc, Stevens ạ, nhưng chúng ta không còn cách nào khác. Bổn phận của ta là phải lo cho khách được an toàn và thoải mái. Xin cam đoan với anh là tôi đã nghiên cứu rất kĩ và cân nhắc rất tường tận. Làm thế là tốt nhất cho chúng ta”.
Hai người trong đội ngũ nhân viên tôi nhắc đến, thực tế đều là hai cô tớ gái. Vì vậy, sẽ là rất không đúng mực nếu thực hiện bất cứ hành động nào mà không thông báo tình hình tới cô Kenton trước, và tôi quyết tâm sẽ làm việc đó ngay chiều tối hôm ấy khi gặp cô dùng ca cao trong buồng nội quản. Tới đây có lẽ tôi cần nói vài lời về những cuộc gặp trong buồng nội quản khi kết thúc mỗi ngày này. Xin được nói rằng những cuộc gặp như vậy mang sắc thái áp đảo là vì công việc - dù đương nhiên là lúc này lúc khác chúng tôi cũng nhắc qua những đề tài có tính ngày thường hơn. Nguyên do triển khai chuỗi cuộc gặp này rất đơn giản: chúng tôi đã nhận ra rằng cuộc sống riêng của mỗi người đều quá bận rộn, tới nỗi có khi vài ngày trôi qua mà không có dịp trao đổi dù là những thông tin cơ bản nhất. Chúng tôi nhận ra tình trạng như vậy đã gây tổn hại nghiêm trọng tới yêu cầu điều hành công việc trong nhà sao cho êm thấm, vì thế ngồi lại riêng với nhau quãng mười lăm phút cuối mỗi ngày trong buồng nội quản của cô Kenton là cách đơn giản nhất để khắc phục thiếu sót ấy. Tôi cần phải nhấn mạnh lại, những cuộc gặp ấy về bản chất chủ yếu là mang tính công việc; nói vậy có nghĩa là, tỷ dụ như, chúng tôi bàn kế hoạch cho một sự kiện sắp tới, hoặc trao đổi xem một nhân viên mới đã quen việc hay chưa.
Dù sao thì, quay lại câu chuyện đang dở, quý vị hẳn sẽ hiểu rằng tôi không hoàn toàn thoải mái khi nghĩ đến việc phải nói với cô Kenton rằng tôi sắp sa thải hai cô tớ gái dưới quyền cô. Thực vậy, cả hai người đều là những nhân viên mẫn cán và - tôi cũng nên nói luôn, vì vấn đề Do Thái gần đây đã trở thành hết sức nhạy cảm - từ tận đáy lòng tôi chống lại ý tưởng sa thải họ. Tuy vậy trong trường hợp này, bổn phận của tôi đã quá rõ ràng, và cứ như tôi thấy, phơi bày những nghi hoặc cá nhân một cách vô trách nhiệm sẽ chẳng đem lại gì cả. Đấy là một nhiệm vụ khó khăn, nhưng vì vậy lại càng cần được thực hiện có phẩm cách. Và vì thế khi cuối cùng cũng đề cập đến vấn đề này vào quãng cuối cuộc nói chuyện tối hôm ấy, tôi đã nói thực ngắn gọn và thực tế, kết lại như thế này, “Tôi sẽ nói chuyện với hai nhân viên này trong phòng quản gia lúc mười rưỡi sáng ngày mai. Vì thế, cô Kenton, tôi rất cảm ơn nếu cô có thể cho họ đến vào giờ đó. Tôi để cô toàn quyền quyết định có báo trước cho họ về nội dung những gì tôi sắp nói với họ hay không”.
Cho tới đây, cô Kenton vẫn có vẻ không định đáp lại lời nào cả. Vậy nên tôi nói tiếp, “Vậy đấy, cô Kenton, cám ơn cô đã thết đãi món ca cao. Đã đến lúc tôi phải về phòng rồi. Mai lại là một ngày bận rộn”.
Tới lúc này cô Kenton nói, “Ông Stevens này, tôi thật không tin nổi vào tai mình nữa. Ruth và Sarah đã làm việc dưới quyền tôi hơn sáu năm trời. Tôi tuyệt đối tin cậy hai cô bé ấy, và quả thật chúng nó cũng tin cậy tôi. Hai đứa nó đã phục vụ cho nhà này đắc lực hết sức”.
“Tôi tin chắc là như vậy, cô Kenton. Tuy nhiên, chúng ta không được để cảm tính làm nhiễu loạn phán đoán của mình. Giờ thì tôi phải cáo từ thực rồi....
“Ông Stevens, tôi thấy thực sự phẫn nộ vì ông lại có thể ngồi đấy nói những lời này như thể đấy chỉ là việc mua bổ sung cho hầm chứa thịt. Tôi thật không thể tin được. Ông muốn nói rằng cần phải cho Ruth và Sarah nghỉ việc chỉ dựa trên nguyên cớ họ là người Do Thái?”.
“Cô Kenton, tôi vừa giải thích cặn kẽ tình hình cho cô tức thì. Ngài huân tước đã quyết định và tôi với cô không còn gì để bàn cãi cả”.
“Ông không nhận ra sao, ông Stevens, rằng đuổi Ruth và Sarah vì cớ đó thì rành rành là... sai trái? Tôi sẽ không ủng hộ chuyện này. Tôi sẽ không làm việc trong một cái nhà để những chuyện như vậy xảy ra”.
“Cô Kenton, tôi xin yêu cầu cô đừng kích động và cư xử một cách phù hợp với địa vị mình. Đây là một vấn đề rất đơn giản. Nếu đức ngài cho rằng cần chấm dứt hợp đồng của nhân viên nào đó, thì không còn gì để nói thêm nữa”.
“Tôi cảnh cáo ông, ông Stevens, tôi sẽ không tiếp tục làm việc ở một cái nhà như thế. Nếu mấy đứa của tôi bị đuổi, tôi sẽ đi”.
“Cô Kenton, tôi ngạc nhiên vì cô lại phản ứng như thế này. Đương nhiên tôi không phải nhắc lại với cô rằng bổn phận nghề nghiệp của chúng ta không phải là nghe theo những yếu đuối và cảm tính của ta, mà theo ý nguyện của ông chủ ta”.
“Tôi nói với ông, ông Stevens, nếu ngày mai ông sa thải hai cô bé ấy, thì việc làm đó là sai trái, là một tội lỗi không hơn không kém, và tôi sẽ không tiếp tục làm việc trong một cái nhà như thế”.
“Cô Kenton, tôi xin khuyên cô cân nhắc rằng cô không ở vị trí có thể đưa ra phán xét về những vấn đề cao siêu trọng đại như thế. Thực tế là, thế giới ngày nay là một nơi chốn rất phức tạp khó lường. Có rất nhiều điều mà cô và tôi thực sự không có điều kiện hiểu được liên quan đến bản chất của nòi Do Thái, chẳng hạn. Trong khi đó, tôi mạo muội cho rằng ngài huân tước ở vào vị trí có lẽ thuận lợi hơn một chút để biết điều gì là tốt nhất. Giờ thì, cô Kenton, tôi thực sự phải về nghỉ rồi. Lần nữa cảm ơn cô đã đãi ca cao. Mười rưỡi sáng ngày mai. Xin cô đừng quên thông báo cho hai nhân viên đó”.
Ngay từ giây phút hai cô tớ gái bước vào phòng quản gia sáng hôm sau, có thể thấy rõ cô Kenton đã nói chuyện với họ, bởi cả hai đều khóc lóc. Tôi cố gắng giảng giải tình hình cho họ thực vắn tắt, nhấn mạnh rằng họ đã thực hiện công việc xuất sắc và do đó, họ sẽ được khen ngợi rất mực trong thư giới thiệu để đi tìm việc làm nơi khác. Theo như tôi nhớ, cả hai đều không nói gì đặc biệt suốt thời gian gặp, tức là khoảng ba bốn phút, và lúc đi họ cũng khóc lóc như lúc đến.
Cô Kenton đối xử với tôi vô cùng lạnh lùng suốt mấy ngày sau khi sa thải hai nhân viên. Thực vậy, vài lúc cô còn xẵng giọng với tôi, ngay cả trước mặt những nhân viên khác. Và mặc dù chúng tôi vẫn duy trì thói quen gặp nhau uống ca cao mỗi tối, những buổi gặp đó thường ngắn và lạnh nhạt. Khi sau chừng nửa tháng lối cư xử của cô vẫn không có dấu hiệu cải thiện, tôi nghĩ chắc quý vị cũng hiểu rằng tôi trở nên hơi sốt ruột. Vậy nên trong một bữa ca cao tôi nói với cô, giọng ct giễu, “Cô Kenton, tôi cứ nghĩ rằng đến giờ cô phải nộp đơn rồi chứ”, và đệm thêm một tiếng cười xòa. Có lẽ đúng là tôi có hy vọng rốt cuộc cô sẽ nhượng bộ chút ít, đáp lại bằng một câu hòa giải nào đấy, cho phép chúng tôi bỏ qua chuyện này một lần vĩnh viễn. Tuy nhiên, cô Kenton chỉ nghiêm mặt nhìn tôi mà bảo, “Tôi vẫn giữ nguyên ý định nộp đơn, ông Stevens. Chẳng qua là tôi quá bận chưa có thời gian lo đến việc đó”.
Tôi phải thừa nhận, câu đó đã làm tôi hơi lo lắng trong một thời gian, sợ rằng lời đe dọa của cô là nghiêm túc. Nhưng rồi tuần nối tuần trôi qua, có thể thấy rõ là vấn đề cô rời Dinh Darlington hoàn toàn không đặt ra, và khi băng giá giữa đôi bên dần tan, chắc là thỉnh thoảng tôi cũng ưa nhắc lại lời đe dọa nghỉ việc để ghẹo cô. Tỷ dụ như khi bàn bạc về dự định tổ chức một dịp long trọng nào đó, tôi sẽ chêm vào, “À, đấy là nếu cô vẫn còn ở đây với chúng tôi vào thời điểm đó, cô Kenton ạ”. Cả sau khi sự việc đã trôi qua nhiều tháng, những nhận xét kiểu ấy vẫn còn khiến cô Kenton lặng thinh - dù đến lúc này, tôi đoán là vì xấu hổ hơn là tức giận.
Sau cùng, đương nhiên, chuyện ấy hầu như bị lãng quên. Nhưng tôi có nhớ nó trở lại lần cuối vào hơn một năm sau khi hai cô tớ gái đã bị sa thải.
Chính huân tước là người chủ động nhắc lại vấn đề ấy vào một chiều khi tôi đưa trà vào phòng tiếp tân. Tới lúc đó, thời kỳ ảnh hưởng của bà Carolyn Barnet đã chấm dứt từ lâu - thực tế là bà đã dừng hẳn không còn lui tới Dinh Darlington nữa. Thêm nữa cần phải chỉ ra rằng tới lúc này huân tước đã cắt đứt liên hệ với đám “áo đen”, sau khi chứng kiến bản chất thực xấu xí của tổ chức này.
“Ồ, Stevens này”, ngài nói với tôi như vậy. “Tôi định nói anh chuyện này lâu rồi. Cái việc năm ngoái ấy. Hai cô hầu Do Thái ấy. Anh có nhớ chuyện đó không?”.
“Thực là có nhớ, thưa ngài”.
“Tôi cho là bây giờ không còn cách nào tìm lại họ nữa, phải không? Việc đã xảy ra là sai trái và có lẽ người ta nên đền bù cho họ theo cách nào đó”.
“Chắc chắn tôi sẽ tìm hiểu việc này, thưa ngài. Nhưng tôi không dám cam đoan sẽ xác định được nơi ở của họ vào thời điểm này nữa”.
“Anh cứ xem làm được gì. Đúng là sai trái, cái việc đấy ấy”.
Tôi đoán rằng cuộc đối thoại này với huân tước sẽ gây được chút chú ý cho cô Kenton, và kết luận rằng đem kể lại với cô sẽ là đúng đắn - bất kể nguy cơ sẽ khiến cô nổi giận lần nữa. Sự thể thành ra là, việc tôi làm thế vào cái buổi chiều mù sương gặp cô trong chòi nghỉ mùa hè đã đem lại những hệ quả kỳ khôi.
* * *
Tôi nhớ chiều đó mù đã bắt đầu đổ xuống khi tôi băng qua thảm cỏ. Tôi đang trên đường đi tới chòi nghỉ mùa hè nhằm mục đích dọn dẹp những gì sót lại sau bữa trà của huân tước với vài vị khách trong chòi trước đó một hồi. Tôi còn nhớ mình đã thấy cách một quãng - rất xa trước khi đến chỗ bậc thang nơi cha tôi ngã - dáng hình cô Kenton đi đi lại lại trong chòi nghỉ. Khi tôi vào chòi, cô đã ngồi xuống một trong mấy chiếc ghế mây rải rác trong chòi, vẻ như đương mải mê với công việc khâu vá nào đó. Quan sát kĩ hơn, tôi nhận ra cô đang thực hiện việc sửa chữa một chiếc gối ngồi. Tôi đi quanh nhà nhặt lại các món đồ trà giữa số cây cối và bàn ghế mây, và trong lúc làm như vậy, chắc là tôi và cô đã trao đổi vài lời hỏi han, có thể còn bàn một hai vấn đề công việc nữa. Bởi sự thực là, suốt nhiều ngày liên tục ở trong nhà chính, được ra chòi nghỉ mùa hè khiến tâm trạng phấn chấn hẳn lên và cả tôi với cô đều không có ý vội vàng làm công việc của mình. Thực vậy, dù hôm đó mù đang đặc lại khiến người ta không thể nhìn ra xa lắm, và tới lúc này ánh ngày cũng đang tắt đi rất nhanh, buộc cô Kenton phải giơ món đồ khâu lên đón chút ánh sáng sót lại, tôi nhớ mỗi người cũng thường ngưng tay chỉ để ngóng ra ngoài khung cảnh chung quanh. Thực tế là, chính vào khi nhìn qua thảm cỏ ngắm mù đặc lại dần quanh những cây dương trồng dọc đường xe bò mà tôi cuối cùng cũng nêu lại đề tài vụ sa thải năm trước. Bằng một phương cách có lẽ hơi dễ đoán, tôi nêu lại thế này, “Cô Kenton ạ, tôi vừa mới nghĩ lúc nãy. Giờ nhớ lại thì khá buồn cười, nhưng cô biết đấy, mới chỉ giờ này năm ngoái, cô còn đang nhất quyết sẽ nghỉ việc. Nghĩ lại tôi thấy chuyện quả là ngộ”. Tôi bật cười, nhưng sau lưng tôi cô Kenton vẫn lặng thinh. Khi cuối cùng cũng quay lại nhìn cô, tôi thấy cô đang nhìn qua cửa kính tới biển mù mênh mông bên ngoài.
“Hẳn ông không thể tưởng tượng được đâu, ông Stevens”, cuối cùng cô cất lời, “tôi đã cân nhắc nghiêm túc tới mức nào ý định rời khỏi nhà này. Chuyện xảy ra đã tác động đến tôi rất lớn. Giá tôi là loại người dù chỉ có chút danh dự, tôi dám nói mình đã rời Dinh Darlington từ lâu rồi”. Cô dừng lời một lúc, và tôi lại quay nhìn dãy cây dương đằng xa. Rồi cô nói tiếp, giọng mệt mỏi, “Là do hèn nhát, ông Stevens ạ. Chỉ là hèn nhát thôi. Tôi còn biết đi đâu? Tôi chẳng có người thân nào. Chỉ có bà dì. Tôi yêu bà, nhưng không thể sống với bà dù chỉ một ngày mà không cảm thấy cả cuộc đời mình đang mòn mỏi. Đương nhiên, tôi có tự nhủ rồi mình sẽ sớm tìm được một chỗ làm mới. Nhưng tôi sợ, ông Stevens ạ. Cứ mỗi lần nghĩ chuyện ra đi tôi lại thấy mình bước ra ngoài và chẳng có lấy một ai quen biết hay quan tâm đến mình. Đấy, tất cả mấy nguyên tắc cao đạo của tôi chỉ có đến đấy. Tôi hổ thẹn về mình làm sao. Nhưng tôi không đi được, ông Stevens ạ. Tôi không thể quyết lòng ra đi được”.
Cô Kenton lại ngưng, có vẻ đang chìm vào suy nghĩ. Thế nên tôi nghĩ đây là cơ hội tốt để thuật lại, càng chính xác càng hay, cuộc đối thoại trước đó giữa tôi và Huân tước Darlington. Tôi bèn thuật lại và để kết luận, tôi nói, “Điều đã qua thì khó có thể lấy lại. Nhưng ít nhất cũng là niềm an ủi lớn được nghe đức ngài tuyên bố rành rẽ như vậy, rằng tất cả chỉ là một hiểu lầm kinh khủng. Tôi nghĩ là cô sẽ muốn được nghe chuyện này, cô Kenton ạ, bởi như tôi nhớ cô cũng muộn phiền vì chuyện lần đó giống như tôi vậy”.
“Xin thứ lỗi, ông Stevens,” cô Kenton sau lưng tôi đổi hẳn giọng, như vừa sực tỉnh cơn mơ. “Tôi không hiểu ý ông nói”. Rồi khi tôi quay lại nhìn, cô nói tiếp, “Cứ theo tôi nhớ thì ông nghĩ chuyện Ruth và Sarah bị tống cổ đi là hết sức đúng đắn phải đạo. Ông còn vui mừng vì chuyện đó là khác”.
“Nào, cô Kenton, nói thế thì thực là không đúng và không công bằng. Vụ việc lần đó khiến tôi rất lo buồn, thực sự là rất lo buồn. Đấy hoàn toàn không phải những gì tôi muốn chứng kiến ở ngôi nhà này”.
“Vậy thì, ông Stevens, vì sao lúc ấy ông không nói với tôi như vậy?”.
Tôi bật cười, nhưng nhất thời không biết phải trả lời ra sao. Trước khi tôi soạn được câu trả lời, cô Kenton đã đặt đồ khâu xuống nói, “Ông Stevens, ông có nhận ra không, rằng nếu năm ngoái ông đã có lòng bày tỏ cảm nghĩ thực của ông thì sẽ có ý nghĩa với tôi đến mức nào? Ông biết tôi buồn bực đến thế nào khi hai cô bé bị cho nghỉ việc mà. Ông có hiểu được giá làm thế ông đã giúp tôi đến mức nào không? Vì sao, hả ông Stevens, vì sao cơ chứ, vì sao mà ông lúc nào cũng phải giả bộ?.
Tôi lại bật cười trước diễn tiến mới bất ngờ và ngớ ngẩn của câu chuyện. “Thực tình, cô Kenton ạ”, tôi nói, “tôi không chắc là mình hiểu cô muốn nói gì. Giả bộ à? Thực tình....
“Tôi đã đau khổ biết bao vì Ruth và Sarah phải rời nhà chúng ta. Và còn đau khổ hơn nữa vì tôi nghĩ chỉ có mình tôi cảm thấy như vậy”.
“Thực tình, cô Kenton ạ..., tôi nhặt cái khay trên xếp đủ các món đồ cốc chén đã dùng rồi. “Dĩ nhiên người ta không thể tán đồng việc sa thải ấy rồi. Người ta sẽ nghĩ đấy là điều hiển nhiên chứ”.
Cô không nói gì, và trên đường ra tôi liếc lại sau lưng về phía cô. Cô đã lại nhìn ra ngoài cửa sổ, nhưng tới lúc này trong chòi nghỉ đã tối đến mức tôi chỉ nhìn thấy đường viền khuôn mặt bán diện của cô trên hậu cảnh mờ nhòa trống rỗng. Tôi cáo từ và bước ra ngoài.
* * *
Giờ đã nhớ lại vụ cho thôi việc hai nhân viên Do Thái, tôi lại nhớ thêm tới việc có lẽ có thể gọi là một hệ quả kỳ khôi của toàn bộ câu chuyện kia: tức là việc cô tớ gái tên Lisa xuất hiện trong nhà. Nói thế có nghĩa là, chúng tôi buộc phải tìm người thay thế vào chỗ hai cô tớ Do Thái đã bị thôi việc, và cô Lisa này nằm trong số đó.
Cô gái trẻ này đã xin ứng tuyển với những lời giới thiệu hết sức lập lờ, do vậy mỗi quản gia giàu kinh nghiệm đều thấy rành rành rằng cô đã rời nơi cũ trong trong tình trạng có phần muối mặt. Thêm nữa, khi cô Kenton và tôi hỏi chuyện cô ta, có thể thấy rõ rằng cô chưa hề ở lại nơi nào quá một vài tuần. Nói chung, toàn bộ thái độ của cô gái khiến tôi cảm thấy cô ta hoàn toàn không thích hợp với điều kiện công việc ở Dinh Darlington. Thế nhưng tôi đã rất ngạc nhiên khi, sau buổi phỏng vấn, cô Kenton bắt đầu khăng khăng muốn nhận cô ta. “Tôi thấy cô gái này rất có triển vọng”, cô cứ nhắc đi nhắc lại bất chấp tôi phản đối. “Cô ta sẽ được đích thân tôi giám sát và tôi sẽ lo sao cho cô gái này làm việc tốt”.
Tôi nhớ hai chúng tôi đã bị vướng mắc bất đồng một thời gian, và có lẽ chỉ vì chuyện hai cô tớ gái bị nghỉ việc hẵng còn quá mới trong ký ức mà tôi không cương quyết đúng mức với cô Kenton. Dù sao thì kết quả vẫn là cuối cùng tôi nhượng bộ, dù có nói thêm, “Cô Kenton, tôi hy vọng cô nhận ra rằng trách nhiệm nhận cô gái này hoàn toàn nằm ở cô. Về phần tôi, tôi hoàn toàn tin chắc rằng ở thời điểm hiện tại cô ấy còn xa mới gọi là phù hợp trở thành một nhân viên trong nhà. Tôi cho phép cô ta vào đây chỉ với điều kiện đích thân cô sẽ coi sóc quá trình rèn luyện của cô ta”.
“Cô gái rồi sẽ ổn thôi, ông Stevens ạ. Ông sẽ thấy”.
Và trước sự sửng sốt của tôi, trong mấy tuần tiếp đó, cô gái trẻ quả đã tiến bộ với một tốc độ không ngờ. Thái độ cô ta dường như khá lên từng ngày, ngay cả tư thế đi đứng làm việc của cô ta - ngày đầu tiên trông luộm thuộm đến mức người ta phải nhìn đi chỗ khác - cũng tiến bộ ngoạn mục.
Nhiều tuần trôi qua, cô gái dường như đã đổi lốt kỳ diệu thành một nhân viên đắc lực, và chiến thắng của cô Kenton đã quá hiển nhiên. Dường như cô có một niềm hứng thú đặc biệt với việc phân cho Lisa một nhiệm vụ nào đó đòi hỏi nỗ lực hơn mức bình thường, và nếu tôi đang quan sát, có thể tin rằng cô sẽ cố tìm cách giao mắt với tôi với vẻ mặt có hơi nhạo báng. Và cuộc đối thoại tối đó trong buồng nội quản bên cốc ca cao là khá điển hình cho những gì chúng tôi thường nói về cô Lisa này.
“Hẳn nhiên, ông Stevens ạ”, cô nói với tôi, “ông sẽ vô cùng thất vọng được biết tin Lisa vẫn chưa phạm phải lỗi lầm nào đáng kể”.
“Tôi hoàn toàn không thất vọng, cô Kenton ạ. Tôi rất vui mừng cho cô và cho tất cả chúng ta. Tôi phải thừa nhận là cho đến giờ cô đã có chút thành công khiêm tốn về phần cô gái đó”.
“Thành công khiêm tốn! Mà nhìn cái kiểu mủm mỉm cười của ông kìa, ông Stevens. Lúc nào ông cũng cười kiểu đó khi tôi nói đến Lisa. Bản thân nụ cười đó đã chứa cả một câu chuyện thú vị. Một câu chuyện cực kỳ thú vị, thực vậy”.
“Ồ thế ư, cô Kenton. Và tôi có thể hỏi đích xác là chuyện gì được không?”.
“Cực kỳ thú vị, ông Stevens ạ. Thú vị là ông đã từng bi quan đến mức ấy về cô gái. Bởi Lisa là một cô gái xinh xắn, hẳn nhiên rồi. Và tôi đã nhận thấy ông có lối ngại rất kỳ khôi không muốn nhận các cô gái ưa nhìn làm nhân viên trong nhà”.
“Cô biết rõ là cô đang nói chuyện tầm bậy, cô Kenton ạ”.
“A, nhưng tôi có nhận thấy mà, ông Stevens ạ. Ông không thích có các cô gái xinh xắn làm việc trong nhà. Liệu có thể nào là ông Stevens nhà ta lo lắng sẽ bị phân tâm không? Có phải chăng là ông Stevens nhà ta suy cho cùng cũng là xương là thịt và không dám tin cậy bản thân hoàn toàn?”.
“Thực tình, cô Kenton ạ. Nếu tôi mà nghĩ lời cô có một mẩu nghĩa lý nào thì tôi có thể đã bỏ công tiếp chuyện cô về chủ đề này rồi đấy. Còn giờ thì có lẽ tôi cứ nên nghĩ ngợi chuyện khác trong khi cô luyên thuyên vậy thôi”.
“A, vậy thì làm sao mà cái nụ cười tội lỗi kia vẫn còn trên mặt ông vậy?”.
“Đấy hoàn toàn không phải là nụ cười tội lỗi, cô Kenton. Tôi có thấy hơi ngộ nghĩnh cái khả năng nói chuyện tầm bậy đáng ngạc nhiên của cô mà thôi”.
“Trên mặt ông đúng là một nụ cười tội lỗi hẳn hoi mà, ông Stevens ạ. Và tôi đã nhận ra là ông gần như không dám nhìn vào Lisa. Giờ thì đã dần dà hiểu ra tại sao ông lại phản đối quyết liệt khi nhận cô ấy rồi”.
“Tôi phản đối dựa trên những nguyên cớ hết sức vững chắc, cô Kenton ạ, và cô biết rõ điều đó mà. Khi mới đến gặp chúng ta cô gái ấy hoàn toàn không phù hợp”.
Giờ, đương nhiên, quý vị cần hiểu chúng tôi không bao giờ nói chuyện trên tinh thần đó khi có mặt các nhân viên khác. Nhưng đúng vào khoảng thời gian đó, những bữa ca cao buổi tối của chúng tôi, trong khi về bản chất vẫn duy trì nội dung công việc, thường lại đủ thời gian cho phép có một hai câu chuyện vô hại kiểu này - phải nói là rất có ích khi người ta cần thư giãn sau một ngày vất vả căng thẳng.
Lisa đã ở nhà chúng tôi khoảng tám chín tháng - và tới lúc đó tôi hầu như đã quên bẵng sự tồn tại của cô ta - thì thình lình biến mất cùng người hầu nhì. Đương nhiên, những chuyện này là một phần tất yếu của đời quản gia ở mỗi ngôi nhà lớn. Hết sức phiền toái, nhưng người ta cũng học được cách chấp nhận. Thực tế thì, so với những cuộc “tẩu thoát dưới trăng” kiểu đó, lần này còn thuộc loại văn minh. Ngoại trừ chút ít thức ăn thì đôi tình nhân không lấy đi thứ gì trong nhà, chưa hết, cả hai bên đều để lại thư. Người hầu nhì, mà giờ tôi không còn nhớ tên, viết cho tôi một bức thư ngắn, đại loại là: “Xin đừng trách tội chúng tôi quá nghiệt. Chúng tôi yêu nhau và sẽ lấy nhau”. Lisa thì viết thư dài hơn nhiều đề gửi cho “bà Nội quản”, và chính đây là lá thư cô Kenton mang vào phòng quản gia buổi sáng sau đêm họ bỏ đi. Như tôi nhớ, thư có rất nhiều chữ sai chính tả, nhiều câu cụt quằn kể ra hai người đó yêu nhau đến đâu, anh chàng hầu nhì là người tuyệt vời thế nào, và tương lai chờ đón bọn họ rạng rỡ ra sao. Có một câu, như tôi nhớ, nội dung đại khái là: “Chúng em không có tiền nhưng đã sao chúng em có tình yêu rồi thì cần gì nữa chúng em có nhau thế là đủ cho bất kỳ ai rồi”. Thư dài ba trang, nhưng không có lấy một dòng bày tỏ biết ơn cô Kenton đã chăm sóc hết mực cho cô gái, hay một câu hối tiếc đã gây phiền hà cho tất cả chúng tôi.
Cô Kenton buồn bực thấy rõ. Suốt trong lúc tôi đọc nhanh lá thư của cô gái, cô ngồi bên bàn trước mặt tôi và cụp mắt nhìn hai bàn tay. Thực tế là - và người ta phải thấy điều này khá ngạc nhiên - tôi không thực nhớ có bao giờ trông cô thê lương hơn buổi sáng hôm ấy. Khi tôi đặt lại thư xuống bàn, cô nói, “Vậy đấy, ông Stevens ạ, xem ra là ông đúng còn tôi sai rồi”.
“Cô Kenton, không có gì đáng cho cô phải buồn bực đâu”, tôi nói. “Những chuyện thế này vẫn xảy ra mà. Thực sự là những người như chúng ta chẳng làm được gì nhiều để ngăn những chuyện này đâu”.
“Là lỗi của tôi, ông Stevens ạ. Tôi xin nhận lỗi. Ông đã nghĩ đúng từ đầu, giống như mọi lần khác, còn tôi sai”.
“Cô Kenton, thực sự tôi không thể đồng tình với cô được. Cô đã thay đổi cô gái như một phép mầu. Những gì cô đã làm được với cô ta chứng minh chắc nịch rằng thực tế chính tôi mới là người nghĩ lầm. Thực tình, cô Kenton ạ, chuyện vừa rồi có thể xảy ra với bất cứ nhân viên nào mà. Cô đã thành công tuyệt vời với cô ta. Cô cảm thấy thất vọng về cô ta là rất có lý, nhưng hoàn toàn không có lý chút nào nếu cảm thấy mình có chút trách nhiệm gì về chuyện đó”.
Cô Kenton trông vẫn thực buồn thảm. Cô lặng lẽ nói, “Ông nói vậy thật là tử tế quá, ông Stevens ạ. Tôi biết ơn ông nhiều”. Rồi cô thở dài mệt mỏi, và nói: “Con bé ngốc ghê. Con bé có thể đã có một sự nghiệp thực sự phía trước. Con bé có khả năng mà. Bao nhiêu cô gái trẻ đã vứt bỏ cơ hội của mình như vậy, mà để đổi lấy gì chứ?”.
Cả hai chúng tôi đều nhìn tờ thư trên bàn giữa chúng tôi, và rồi cô Kenton ngoảnh đi, dáng điệu cáu kỉnh.
“Thực vậy”, tôi nói. “Phí phạm quá, đúng như cô nói”.
“Ngốc quá. Và con bé thế nào cũng sẽ thất vọng mà xem. Và con bé đang có một tương lai tươi sáng chờ đợi, chỉ cần nó kiên nhẫn. Chỉ một hai năm nữa thôi tôi đã có thể huấn luyện nó đủ sức nhận vị trí nội quản trong một dinh cơ nhỏ nào đó rồi. Có thể ông nghĩ tôi mong muốn xa vời, ông Stevens ạ, nhưng hãy xem chỉ vài tháng tôi đã dạy dỗ nó được đến thế nào. Mà giờ thì nó vứt bỏ tất cả. Tất cả chẳng vì cái gì”.
“Đúng thật là cô ta ngốc quá”.
Tôi đã bắt đầu gom mấy tờ thư trước mặt, nghĩ có lẽ nên lưu lại trong hồ sơ. Nhưng trong lúc làm thế, tôi lại bắt đầu nghi ngại không biết cô Kenton có định mang tới cho tôi giữ, hay muốn tự mình giữ lá thư, nên tôi lại đặt mấy tờ giấy xuống bàn giữa cả hai. Dù thế nào, ánh mắt cô Kenton cũng có vẻ xa vắng.
“Con bé thế nào cũng sẽ thất vọng thôi”, cô nhắc lại. “Ngốc quá”.
* * *
Nhưng tôi nhận ra mình đã hơi chìm đắm trong những kỷ niệm cũ này. Đấy vốn không phải là ý định từ đầu của tôi, nhưng mặt khác có lẽ cũng không tồi nếu nhờ vậy mà ít nhất tôi cũng tránh không để tâm quá mức vào những sự kiện tối hôm nay - mà tôi tin rằng đến giờ này rốt cuộc đã đi đến hồi kết rồi. Bởi mấy tiếng đồng hồ vừa qua phải nói là một khoảng thời gian khá cam go.
Hiện tại tôi đang ở trong gian phòng áp mái trong căn nhà nhỏ này, thuộc về ông bà Taylor. Nghĩa là, đây là một chốn tư gia; căn phòng này, mà tối nay ông bà Taylor đã rộng lòng mở cửa cho tôi, ngày xưa dành cho người con cả của họ, đã trưởng thành và đến sống tại Exeter từ lâu. Trong phòng sừng sững những rui kèo lớn, và chẳng có lấy một tấm thảm hay vải trải che ván sàn, vậy mà lại ấm cúng đến ngạc nhiên. Và thấy rõ rằng bà Taylor không chỉ trải giường cho tôi, mà còn dọn dẹp lau chùi cả căn phòng; bởi ngoại trừ một vài mạng nhện nhỏ gần xà nhà, có rất ít dấu hiệu cho thấy phòng này đã nhiều năm vô chủ. Còn về phần ông bà Taylor, tôi đã được cho biết họ mở cửa hàng rau củ quả trong làng tại nhà này từ thập niên hai mươi cho tới khi về hưu cách đây ba năm. Cả hai là những con người tốt bụng, và dù cho đêm nay đã hơn một lần tôi đề nghị được đền đáp cho lòng hiếu khách của họ, nhưng họ nhất quyết không đồng ý.
Sự thể rằng giờ tôi đang ở đây, sự thể rằng tôi về cơ bản đã giao phó mình cho lòng quảng đại của ông bà Taylor đêm nay, có nguyên do là bởi một sơ suất ngốc nghếch và xoàng xĩnh đến bực mình: đấy là tôi đã để cỗ Ford bị hết xăng. Từ sự việc này cũng như mối phiền toái ngày hôm qua xuất phát từ việc không đủ nước trong bộ làm mát, hẳn một người quan sát bên ngoài nếu coi rằng sự thiếu quán xuyến kiểu ấy là cố hữu trong bản tính tôi thì cũng không phải không có lý. Đương nhiên, cũng có thể chỉ ra rằng riêng về lĩnh vực chạy xe đường dài, tôi cũng chỉ thuộc loại mới tập tành, và những sơ suất đơn giản kiểu ấy thực sự là quá tất yếu. Thế nhưng, khi nhớ lại rằng khéo quán xuyến và nhìn xa trông rộng là những phẩm chất căn bản trong nghề nghiệp của mình, người ta thực khó mà không cảm thấy cách nào đó, mình đã lại phụ lòng trông đợi của bản thân.
Nhưng quả đúng là tôi đã bị phân tâm đáng kể trong chừng một giờ chạy xe liền trước khi hết xăng. Tôi đã dự định trọ lại đêm nay trong thị trấn Tavistock, và đã tới đó ngay trước tám giờ tối. Tuy nhiên, khi tới nhà trọ chính của thị trấn, tôi được cho biết rằng tất cả các phòng đã có khách, nguyên nhân là do một hội chợ nông nghiệp trong vùng. Tôi được gợi ý một vài cơ sở khác, nhưng sau khi ghé tới từng nơi một, lần nào tôi cũng bị khước từ với cùng cớ đó. Cuối cùng thì, tại một nhà trọ ngay rìa thị trấn, bà chủ gợi ý tôi nên chạy thêm vài dặm nữa tới một nhà có phòng cho thuê ngay bên đường do người bà con của bà quản lý, và cam đoan với tôi thế nào cũng còn phòng trống, bởi nơi đó quá xa Tavistock không thể bị hội chợ làm ảnh hưởng.
Bà chủ đã chỉ dẫn cho tôi rất cặn kẽ, và lúc đó có vẻ thực sáng rõ, thế nên giờ đây thực không thể đoán rằng lỗi tại ai mà rốt cuộc tôi lại chẳng hề tìm thấy cái cơ sở ven đường này. Thay vào đó, sau chừng mười lăm phút chạy xe, tôi thấy mình đang trên khúc đường cái dài uốn vòng qua vùng đất truông rộng vắng ngắt. Ở cả hai bên đường có vẻ là những đồng lầy lớn, và một đám mù đang cuồn cuộn băng qua trước mặt tôi. Phía bên trái tôi thấy hoàng hôn ửng lên cuối ngày. Đường chân trời đây đó đứt quãng vì những hình thù nhà kho, nhà dân cách xa một quãng bên kia đồng, nhưng ngoài ra thì dường như mọi dấu vết dân cư đã ở lại đằng sau tôi.
Tôi nhớ đến quãng này mình đã quành xe và lộn lại một chập để tìm một ngã rẽ vừa đi qua trước đó. Nhưng khi tìm thấy, con đường mới này chỉ càng hoang vắng thê lương hơn con đường lớn vừa bỏ lại. Một hồi lâu, tôi lái xe trong cảnh gần như tối đặc giữa hai hàng giậu cao, rồi đường bất chợt dốc lên rất gắt. Tới lúc này tôi đã bỏ cuộc tìm kiếm quán trọ ven đường kia và định tâm sẽ chạy xe cho tới khi đến được thị trấn hay làng khác, ở đó sẽ tìm nơi nghỉ. Sáng sớm mai trở lại tuyến đường đã định hẳn là chuyện dễ dàng, tôi lý lẽ với mình như thế. Chính đến lúc này, đang ở lưng chừng con đường đồi, thì động cơ kêu lạch bạch và lần đầu tiên tôi nhận ra xăng đã cạn.
Cỗ Ford còn tiếp tục leo lên vài mét nữa, rồi dừng khựng. Khi ra khỏi xe đánh giá tình hình, tôi nhận ra chỉ còn lại vài phút ánh ngày. Tôi đang đứng trên đoạn đường rất dốc, cây cối và giậu cao vây quanh; trên dốc một đoạn rất xa có một quãng hàng giậu đứt ra, một cổng rào thanh ngang rộng in trên nền trời. Tôi khởi sự đi lên đó, đoán rằng đứng nhìn từ cổng này tôi sẽ nắm được đại khái vùng đất chung quanh mình; có lẽ tôi còn hy vọng sẽ gặp được ngôi nhà dân nào gần đó và được giúp đỡ tức thì. Thế nên tôi có hơi chưng hửng trước khung cảnh rốt cuộc mình bắt gặp. Bên kia cổng là một đồng cỏ dốc xuống gắt đến mức chỉ sau vài chục mét tôi đã không còn nhìn thấy gì phía trước. Nhìn qua đỉnh đồi, cách xa xa - ước chừng đến cả dặm theo đường chim bay - có một ngôi làng nhỏ. Qua đám mù tôi nhìn thấy tháp nhà thờ trong làng, và chung quanh tháp là những cụm mái ngói đen chụm bên nhau; đây đó trên các ống khói bốc những sợi khói trắng. Vào giây phút ấy, người ta không thể không thú nhận mình đã chìm trong một cảm giác nản lòng nhất định. Đương nhiên, tình hình không có gì đáng gọi là vô vọng; cỗ Ford không bị hỏng, chỉ đơn thuần là hết xăng. Chặng đi bộ xuống làng có thể hoàn tất chỉ trong vòng chừng nửa tiếng, và tới làng chắc chắn tôi sẽ tìm được nơi lưu trú và mua được xăng. Thế nhưng, thực sự không thể vui vẻ gì khi đứng đó trên ngọn đồi cô độc, nhìn qua cổng gỗ thấy nơi làng xóm xa xa đương lúc lên đèn, giữa ánh ngày gần như đã lịm, sương mù ngày một đặc hơn.
Tuy nhiên bi lụy cũng chẳng được lợi gì. Dù thế nào đi nữa, lãng phí nốt mấy phút ánh sáng cuối cùng là một hành động ngớ ngẩn. Tôi đi trở lại xe, xếp vào cặp táp mấy món đồ thiết yếu. Rồi trang bị cho mình chiếc đèn xe đạp, nó phát ra một luồng sáng mạnh đến ngạc nhiên, tôi đi tìm một lối mòn có thể đưa mình xuống làng kia. Nhưng không một lối đi nào như vậy hiện ra, dù tôi đã đi một quãng kha khá lên đồi, cách cánh cổng một chặng khá xa. Rồi khi cảm thấy con đường thôi không dâng lên nữa, mà dốc xuống chầm chậm theo một vòng cung xa khỏi ngôi làng - bởi tôi vẫn thường xuyên thấy ánh đèn qua tán lá - lần nữa tôi lại chìm trong cảm giác nản lòng. Thực tế, trong một lúc tôi đã nghĩ phải chăng phương án tốt nhất lại là ngược đường về cỗ Ford và cứ ngồi yên trong đó tới khi một xe khác chạy qua. Tuy nhiên, tới lúc đó, trời đã gần như tối hẳn, và tôi nhận thấy nếu có tìm cách vẫy một cỗ xe chạy ngang trong trường hợp đó, người ta sẽ thực dễ bị lầm là phường thảo khấu. Thêm vào đó, kể từ khi tôi rời cỗ Ford tới giờ vẫn chưa hề có lấy một chiếc xe chạy qua; thực tế là tôi còn không nhớ mình có thấy một chiếc xe nào kể từ lúc rời Tavistock. Vậy là tôi quyết định trở lại đằng cổng, và từ đó đi xuống đồng, gắng đi càng thẳng đường càng tốt về phía ánh đèn làng nọ, bất kể có đường hẳn hoi hay không.
Rốt cuộc, đấy chẳng phải một chuyến leo xuống quá khó nhọc. Một loạt những cánh đồng chăn thả tiếp liền nhau dẫn xuống làng, và bằng cách đi thực sát mép mỗi khoảnh đồng trên đường leo xuống, người ta có thể đảm bảo cuốc đi bộ của mình không quá khó khăn. Chỉ duy nhất một lần, khi làng đã khá gần, là tôi không nhìn rõ có đường nào qua cánh đồng ngay dưới, phải chiếu cây đèn xe đạp tới lui theo bờ giậu chắn trước mặt. Cuối cùng, tôi cũng phát hiện ra một kẽ hở nhỏ, bèn lách mình qua đó, nhưng phải trả giá đôi chút bằng vai áo khoác và gấu lật mép quần. Thêm nữa, mấy cánh đồng dưới cùng càng lúc càng bùn lầy và tôi phải chủ tâm tránh soi đèn xuống giày cùng gấu quần kẻo càng thêm nản chí.
Dần dà tôi thấy mình đã đi theo một con đường lát đá dẫn xuống làng, và chính trên đường này mà tôi gặp ông Taylor, ông chủ nhà tốt bụng đã chứa chấp tôi tối nay. Ông vừa bước ra khỏi một ngách rẽ trước tôi dăm mét, và đã lịch thiệp đợi tôi bắt kịp ông, liền đó ông giơ tay chạm vành mũ và hỏi chẳng hay có giúp được gì cho tôi. Tôi đã trình bày tình cảnh mình ngắn gọn hết sức có thể, và nói thêm rằng tôi sẽ biết ơn tột bực nếu được chỉ đường tới một quán trọ tốt. Nghe tới đây ông Taylor lắc đầu mà nói, “Tôi e rằng trong làng chúng tôi không có một quán chuyên cho trọ nào, thưa ngài. John Humphreys thường nhận khách vãng lai ở quán Hai Chìa Khóa, nhưng hiện thời ông ấy lại đang lợp mái”. Nhưng trước khi tôi kịp ngấm thông tin đáng buồn này, ông Taylor đã bảo, “Nếu ngài không ngại xuề xòa đôi chút, thưa ngài, chúng tôi có thể dành cho ngài một phòng và giường ngủ đêm nay. Không có gì đặc biệt cả, nhưng bà nó nhà tôi sẽ lo sao cho được sạch sẽ êm ấm vừa đủ”.
Chắc là tôi đã thốt ra vài lời, có lẽ cũng không thành thực lắm, đại ý là tôi không thể làm phiền họ tới mức ấy được. Đáp lại, ông Taylor trả lời, “Tôi cam đoan với ngài, thưa ngài, chúng tôi sẽ hân hạnh vô cùng được ngài nghỉ lại nhà. Chẳng mấy khi có những người như ngài đi qua Moscombe này. Và thành thực mà nói, thưa ngài, tôi không biết giấc này ngài còn cách nào khác nữa. Bà nó nhà tôi sẽ không tha thứ nếu tôi để cho ngài cứ thế mà đi giữa đêm hôm thế này”.
Và sự thể dẫn đến việc tôi chấp nhận lòng hiếu khách của ông bà Taylor là như thế. Nhưng khi ban nãy tôi nói rằng các sự kiện tối nay khá “cam go”, tôi không chỉ đơn thuần nói đến những phiền muộn khi xăng hết và phải làm một chuyến đi thô lậu như vậy xuống làng. Bởi những gì xảy ra sau đó - những diễn tiến một khi tôi ngồi vào bàn ăn tối với ông bà Taylor cùng láng giềng của họ - theo cách riêng còn thử thách người ta ghê gớm hơn cả những bất ưng chỉ thuần về thể xác tôi phải giáp mặt trước đó. Và xin cam đoan với quý vị, quả là nhẹ nhõm khi cuối cùng cũng được đi lên phòng này, dành chút thời gian lật lại những ký ức về Dinh Darlington bằng ấy năm về trước.
Thực tế là, gần đây càng lúc tôi càng có thói quen tự cho phép mình chìm đắm vào những hồi tưởng kiểu ấy. Và kể từ khi, vài tuần trước, triển vọng gặp lại cô Kenton lại trỗi lên, tôi ngờ rằng mình đã thường dành khá nhiều thời gian ngẫm lại xem mối quan hệ giữa chúng tôi trải qua một thay đổi như thế ấy là vì sao. Bởi vì rõ ràng là đã có thay đổi, vào quãng năm 1935 hay 1936, sau rất nhiều năm chúng tôi dần dà đi tới một sự đồng cảm nghề nghiệp rất đáng vừa lòng. Thực tế là, vào hồi cuối, chúng tôi còn bỏ cả thói quen gặp nhau bên cốc ca cao vào lúc hết ngày. Nhưng điều gì thực sự đã gây nên những thay đổi ấy, chuỗi sự việc cụ thể nào là nguyên do, tôi vẫn chưa bao giờ xác định rõ ràng cho được.
Sau khi nghĩ về việc ấy dạo gần đây, rất có khả năng sự kiện kỳ dị vào buổi tối cô Kenton không mời mà tới phòng quản gia của tôi đã đánh dấu một bước ngoặt cốt tử. Vì sao mà cô tới phòng quản gia, giờ tôi không còn nhớ rõ ràng nữa. Tôi có cảm giác chắc cô đã mang một bình hoa đến “cho trông tươi sáng hơn”, nhưng cũng có thể tôi đang lầm với cái lần cô gắng thử làm điều đó từ trước đấy vài năm, khi chúng tôi mới bắt đầu quen biết nhau. Tôi biết rõ là cô đã cố tìm cách đem hoa vào phòng quản gia trong ít nhất ba dịp khác nhau những năm đó, nhưng có thể tôi đã lầm mà cho rằng đây là nguyên do cô tới vào buổi tối đang nói đến ở đây. Tôi cần phải nhấn mạnh thêm rằng, dù thế nào đi chăng nữa, thì bất kể mối quan hệ công việc tốt đẹp nhiều năm giữa chúng tôi, tôi cũng không bao giờ cho phép tình thế đi đến nước người nội quản cứ suốt ngày lui lui tới tới phòng tôi. Phòng của người quản gia, cứ theo tôi thấy, là một văn phòng hết sức quan yếu, là trái tim mọi hoạt động trong nhà, không khác tổng hành dinh của vị tướng trong trận chiến, và điều nhất thiết là mọi thứ trong đó phải có trật tự - và ở yên trong trật tự đó - chính xác như ý tôi mong muốn. Tôi không bao giờ thuộc số quản gia cho phép đủ hạng người lui tới hỏi han phàn nàn này nọ. Nếu muốn các hoạt động trong nhà diễn ra trơn tru và phối hợp tốt hết mức, thì điều đương nhiên là phòng của người quản gia phải là nơi duy nhất trong nhà được bảo đảm có sự riêng tư và cô độc.
Sự thể là, khi cô vào đến phòng quản gia tối hôm đó, thực tế lúc đó tôi cũng không bận rộn với các nhiệm vụ quản gia. Nói vậy có nghĩa là, lúc đó đã sắp hết ngày giữa một tuần thong thả, nên tôi đang hưởng chừng một tiếng đồng hồ ngoài giờ hiếm hoi. Như đã nói, tôi không nhớ rõ cô Kenton có mang bình hoa vào hay không, nhưng tôi nhớ rất rõ cô có nói, “Ông Stevens, phòng ông buổi tối trông còn kém dễ chịu hơn cả ban ngày nữa. Cái bóng điện kia rõ ràng là quá tối, làm sao ông đọc sách được”.
“Bóng đèn này đủ cho tôi lắm rồi, cảm ơn cô đã lo lắng, cô Kenton ạ”.
“Thật tình, ông Stevens ạ, cái phòng này giống như nhà tù. Chỉ cần thêm cái giường nhỏ trong góc thôi là có thể hình dung những tù nhân thụ án đợi lên đoạn đầu đài ở đây”.
Có thể tôi đã đáp lại gì đó, giờ tôi không biết nữa. Dù thế nào thì tôi cũng không rời mắt khỏi trang giấy đang đọc, và vài giây trôi qua tôi vẫn đợi cô Kenton cáo từ và lui đi. Nhưng rồi tôi nghe cô nói, “Tôi đang nghĩ không biết ông đọc gì đằng đó, ông Stevens ạ”.
“Đọc sách thôi, cô Kenton ạ”.
“Sách thì tôi thấy rồi, ông Stevens ạ. Nhưng sách gì ấy chứ - tôi băn khoăn cái đó”.
Tôi ngẩng lên, thấy cô Kenton đang tiến về phía mình. Tôi gấp quyển sách, ôm sát nó vào người, đứng lên.
“Cô Kenton ạ, thực tình”. Tôi nói, “Tôi phải yêu cầu cô hãy tôn trọng sự riêng tư của tôi”.
“Nhưng cuốn sách có gì mà ông phải ngượng ngùng vậy, ông Stevens? Tôi khá nghi đấy là một cuốn sách mặn lắm đây”.
“Trên đời không thể có chuyện, cô Kenton ạ, trên tủ sách của đức ngài lại có thứ gì mặn, như cách nói của cô”.
“Tôi từng nghe nói rằng rất nhiều cuốn sách uyên bác lại chứa những đoạn viết mặn khủng khiếp, nhưng chưa bao giờ có gan xem. Nào, ông Stevens, làm ơn cho tôi xem ông đang đọc thứ gì đi”.
“Cô Kenton ạ, tôi phải đề nghị cô để cho tôi yên. Thực không thể nào cô cứ một mực truy đuổi tôi như vậy trong những giờ phút hiếm hoi rảnh rỗi mà tôi có riêng cho mình”.
Nhưng cô Kenton vẫn tiến tới, và tôi phải nói rằng tôi gặp chút khó khăn khi suy tính xem phương án cư xử tốt nhất là gì. Tôi có ý xô cuốn sách vào ngăn bàn rồi khóa lại, nhưng làm thế thì có vẻ thái quá đến thành lố bịch. Tôi bước lùi vài bước, vẫn ôm sát cuốn sách trước ngực.
“Xin ông hãy cho tôi xem cuốn sách ông đang cầm, ông Stevens”, cô Kenton nói trong khi vẫn tiến tới, “và tôi sẽ để cho ông tiếp tục hưởng cái thú đọc sách. Sách đó có gì mà ông lại phải lo lắng giấu giếm như vậy chứ?”.
“Cô Kenton, cô có được biết nhan đề của cuốn sách này hay không tự nó không là vấn đề gì với tôi. Nhưng về nguyên tắc, tôi phản đối cô xuất hiện và xâm phạm vào thời gian riêng tư của tôi như thế này”.
“Tôi nghĩ không biết đấy có phải là một cuốn sách đứng đắn khả kính hay không, ông Stevens ạ, hay là thực ra ông đang tìm cách bảo vệ tôi khỏi những ảnh hưởng tai hại của nó?”.
Cô đã tới đứng trước mặt tôi, và đột nhiên không khí thay đổi một cách quái lạ - gần như là hai người chúng tôi đã thình lình bị đẩy hẳn sang một chiều không gian khác. E rằng rất khó mô tả cho rõ ràng ý tôi muốn nói là gì. Tôi chỉ có thể nói rằng chung quanh chúng tôi chợt lặng hẳn đi; và tôi có cảm giác thái độ của cô Kenton cũng thình lình đổi khác; mặt cô mang một vẻ nghiêm nghị lạ kỳ, và tôi chợt nhận ra trông cô gần như khiếp hãi.
“Xin ông, ông Stevens, hãy cho tôi xem cuốn sách”.
Cô đưa tay tới và nhẹ nhàng lấy cuốn sách khỏi bàn tay tôi. Tôi nghĩ tốt hơn hết là ngoảnh đi trong lúc cô với tới, nhưng vì cô đặt mình ở vị trí quá gần tôi như vậy, tôi chỉ có thể đạt được mục đích bằng cách vặn đầu đi một góc khá gượng gạo. Cô Kenton tiếp tục rất nhẹ tay gỡ cuốn sách, gần như bẻ từng ngón tay tôi ra. Quá trình này dường như mất rất lâu - từ đầu đến cuối tôi vẫn duy trì tư thế ấy - cho tới khi cuối cùng tôi nghe cô nói, “Ôi trời, ông Stevens, đó có phải thứ gì quá quắt lắm đâu. Chỉ là một chuyện tình ướt át thôi mà”.
Tôi nhớ có lẽ tới khoảng này tôi quyết định không cần phải nhượng bộ thêm nữa. Tôi không nhớ đích xác mình đã nói gì, nhưng tôi nhớ đã tiễn cô Kenton khỏi phòng quản gia với thái độ khá quyết liệt và khép lại sự việc này ở đó.
Tới đây có lẽ tôi nên nói thêm vài câu về bản thân quyển sách đã là nguyên do cho sự việc này. Đúng là có thể miêu tả đó là một “chuyện tình ướt át” - có một số lượng nhất định loại sách ấy được lưu giữ trong thư viện, cả trong vài buồng ngủ cho khách nữa, để giải khuây cho những vị khách nữ ghé thăm. Tôi bắt tay vào tham khảo những tác phẩm như vậy vì một nguyên do rất đơn giản; đấy là một phương cách vô cùng hiệu quả để gìn giữ và phát triển trình độ ngôn ngữ của mình. Quan điểm của tôi - tôi không biết quý vị có đồng ý hay không - là ở vào thế hệ chúng tôi, người ta đã nhấn mạnh quá nhiều về tầm quan trọng của ngữ điệu hay và lời ăn tiếng nói văn hoa trong công việc; nói vậy có nghĩa là, những yếu tố này đôi lúc đã bị nhấn mạnh đến mức lấn át cả những phẩm chất nghề nghiệp quan trọng hơn. Dù cho vậy, tôi chưa bao giờ giữ lập trường là ngữ điệu hay và lời ăn tiếng nói văn hoa không có gì đáng quý, và tôi vẫn luôn coi bổn phận của mình là phải phát triển đến mức càng tốt càng hay những khả năng này. Một phương cách rất giản dị để làm việc này là chỉ cần đọc vài trang trong một cuốn sách văn từ đẹp đẽ trong những lúc rỗi rãi hiếm hoi người ta có. Đây đã trở thành chủ trương của cá nhân tôi vài năm nay, và thường tôi chọn loại sách mà cô Kenton đã bắt gặp tôi đọc tối hôm ấy đơn giản vì những tác phẩm kiểu đó thường biên bằng một thứ tiếng Anh hay, với rất nhiều đối thoại ưu nhã rất có ích đối với tôi trong thực tế. Một cuốn sách nặng cân hơn - một cuốn nghiên cứu học thuật chẳng hạn - dù có thể có ích hơn với tôi xét về toàn diện, lại thường lát đầy những thuật ngữ hẳn là có tính ứng dụng hạn chế trong giao thiệp ngày thường với các vị khách nam lẫn nữ.
Tôi hiếm khi có thời gian hay nguyện vọng đọc từ đầu đến hết một cuốn tình cảm nào như vậy, nhưng cứ như tôi thấy, cốt truyện trong đó trước sau như một đều ngớ ngẩn - đều ướt át, thực vậy - và tôi sẽ không phí một giây nào cho chúng nếu không vì những ích lợi đã nêu trên. Tuy nhiên, dù như vậy, ngày hôm nay tôi không ngại thú nhận rằng - và tôi thấy việc đó không có gì đáng xấu hổ - đôi lúc tôi cũng có được một niềm vui tình cờ từ những câu chuyện loại đó. Có thể vào lúc ấy tôi không thừa nhận với mình như vậy, nhưng như tôi vừa nói, cái đó thì có gì đáng xấu hổ? Vì sao người ta không nên có niềm vui đơn giản nhẹ nhàng từ những câu chuyện về các giai nhân mặc khách có tình cảm với nhau và diễn đạt tình cảm đó thường là bằng những ngôn từ hết sức ưu nhã?
Nhưng khi nói vậy, tôi không hàm ý rằng thái độ của tôi trong sự việc cuốn sách tối hôm ấy là không đúng lý theo một nhẽ nào đó. Vì quý vị cần hiểu rằng việc ấy liên quan đến một nguyên tắc quan trọng. Sự thể là, tôi đang ở “ngoài giờ” vào thời điểm cô Kenton xộc vào phòng quản gia của tôi. Và đương nhiên, bất kể quản gia nào hãnh diện về công việc của mình, bất kể quản gia nào có chút tâm nguyện đạt được “phẩm cách xứng hợp với chức vị của mình”, như Hội Hayes đã nói, sẽ không bao giờ cho phép mình ở “ngoài giờ” khi có mặt người khác. Người đi vào phòng trong thời điểm ấy có là cô Kenton hay một kẻ hoàn toàn xa lạ thì cũng không quan trọng. Một quản gia có chút phẩm chất phải hoàn toàn đồng nhất với vai trò của mình trước mắt mọi người, tuyệt đối và trọn vẹn; không thể để người khác thấy mình cởi bỏ nó ra phút trước rồi lại khoác vào phút sau như thể đó chỉ là một bộ cánh kịch hát. Có một và chỉ một tình thế cho phép người quản gia coi trọng phẩm cách của mình có thể thoải mái đặt xuống vai trò của ông ta: đấy là khi ông ta hoàn toàn chỉ có một mình. Như vậy quý vị sẽ hiểu rằng trong tình huống cô Kenton lao vào phòng, vào một thời điểm tôi đã đinh ninh, không phải là vô cớ, mình sẽ được ở một mình, thì vấn đề có tính nguyên tắc cốt tử, thực vậy, vấn đề về phẩm cách, là tôi không được xuất hiện trong dáng vẻ gì khác ngoài vai trò trọn vẹn, đích đáng của mình.
Tuy nhiên, ý định của tôi ở đây không phải là phân tích lại những khía cạnh khác nhau của sự việc nhỏ nhặt đã nhiều năm về trước. Điều chính yếu là nó báo động cho tôi rằng tình thế giữa cô Kenton và tôi đã lên đến - hẳn nhiên là sau một quá trình chậm chạp kéo dài nhiều tháng - một tình trạng thiếu đúng mực. Nội việc cô có thể cư xử như tối hôm đó đã khá đáng ngại, và sau khi tiễn cô khỏi phòng quản gia, có đủ thời gian sắp xếp suy nghĩ trong đầu một chút, tôi nhớ mình đã quyết tâm thiết lập lại mối quan hệ nghề nghiệp giữa chúng tôi trên cơ sở nghiêm chỉnh hơn. Nhưng còn sự kiện ấy góp phần đến đâu vào những thay đổi lớn trong mối quan hệ của hai chúng tôi về sau đó, thì giờ đây thực khó mà đoán định. Rất có thể muốn lý giải những sự việc đã có sẽ phải nhìn vào những biến chuyển căn bản hơn. Tỷ dụ như vấn đề ngày nghỉ của cô Kenton.
* * *
Kể từ hồi cô lần đầu đặt chân tới Dinh Darlington mãi cho tới chừng một tháng trước vụ việc trong phòng quản gia của tôi, những ngày nghỉ của cô Kenton luôn tuân theo một chu trình dễ đoán. Cứ sáu tuần một lần, cô lại nghỉ hai ngày đi thăm người dì ở Southampton; còn lại, theo gương chính tôi, cô không hẳn là có ngày phép trừ khi chúng tôi đang ở vào giai đoạn đặc biệt rảnh rang, trong trường hợp đó có thể cô sẽ dành một ngày dạo chơi trong khuôn viên dinh và đọc sách đôi chút trong buồng nội quản. Nhưng rồi, như tôi nói, chu trình ấy thay đổi. Bất chợt cô bắt đầu tận dụng hết thời gian nghỉ được quy định trong hợp đồng, thường xuyên vắng mặt khỏi nhà từ sáng sớm, không để lại thông tin nào khác ngoài thời điểm cô sẽ quay về vào buổi tối. Đương nhiên, cô không bao giờ nghỉ nhiều hơn quyền lợi chính đáng của cô, do đó tôi thấy sẽ là vô lễ nếu hỏi han sâu hơn về những chuyến chơi xa này. Nhưng tôi đoán là thay đổi ấy cũng đã làm tôi rối lòng sao đó, bởi tôi nhớ có nhắc chuyện này với ông Graham, tùy tùng kiêm quản gia của Sir James Chambers - một đồng nghiệp đáng kính mà tiện đây xin nói, dường như giờ tôi đã mất hẳn liên lạc - trong lúc cùng ngồi trò chuyện bên lò sưởi vào một tối trong những chuyến thăm thường xuyên của ông tới Dinh Darlington.
Thực tế là tôi chỉ nói một câu đại ý rằng người nội quản “dạo gần đây có hơi ủ ê”, và đã khá ngạc nhiên khi ông Graham gật gù, ghé về phía tôi nói giọng hiểu biết, “Lâu nay tôi vẫn nghĩ xem còn được bao lâu nữa”.
Khi tôi hỏi cho rõ ý ông là sao, ông Graham tiếp lời, “Cái nhà chị Kenton của ông ấy. Cứ tôi nhớ thì bây giờ chị ta đã, bao nhiêu nhỉ? Ba mươi ba à? Ba mươi tư? Thời gian làm mẹ thích hợp nhất đã qua rồi, nhưng vẫn chưa phải là quá muộn”.
“Cô Kenton”, tôi cam đoan với ông, “một lòng chuyên tâm với công việc. Tôi tình cờ được biết chắc là cô hoàn toàn không có ý muốn lập gia đình”.
Nhưng ông Graham lại cười và lắc đầu nói, “Đừng bao giờ tin mấy cô nội quản bảo là không muốn lập gia đình. Thực tình, ông Stevens này, tôi nghĩ ông với tôi ngồi tính thử ngay đây là kể ra được cả tá cô từng phát biểu như thế rồi lại theo chồng bỏ cuộc chơi ấy chứ”.
Theo tôi nhớ, tối hôm ấy tôi đã khá tự tin phản bác giả thiết của ông Graham, nhưng từ đó trở đi, phải thừa nhận tôi khó mà xua khởi đầu óc mình cái khả năng rằng những chuyến chơi xa kỳ bí của cô Kenton là nhằm gặp gỡ một kẻ cầu thân nào đó. Đây quả là một ý nghĩ đáng phiền muộn, bởi chẳng khó thấy rằng cô Kenton ra đi sẽ là thiệt hại đáng kể về mặt công việc, một thiệt hại sẽ khiến Dinh Darlington phải rất khó khăn mới hồi lại được. Thêm nữa, tôi buộc phải nhận thấy một số dấu hiệu nho nhỏ khác dường như càng củng cố giả thiết của ông Graham. Tỷ dụ như, bởi một trong những bổn phận của tôi là tiếp nhận bưu phẩm, tôi không thể không để ý thấy rằng thư gửi đến cô Kenton bắt đầu xuất hiện tương đối đều đặn - tuần một lần gì đó - từ cùng một người viết, và rằng những thư ấy mang dấu bưu điện vùng này. Có lẽ tới đây tôi nên giải thích thêm rằng muốn tránh nhận ra những điều ấy với tôi cũng gần như bất khả, xét thấy suốt trong những năm ở nhà này trước đó, cô chỉ nhận được rất ít thư từ.
Rồi còn có những dấu hiệu khác, mơ hồ hơn, ủng hộ giả thiết của ông Graham. Tỷ dụ như, dù vẫn tiếp tục thi hành những bổn phận trong công việc với sự chuyên cần thường lệ, nhưng tâm trạng của cô giờ đây thường trải qua những thăng trầm theo một kiểu tôi chưa hề chứng kiến. Thực tế là, những dịp cô bỗng trở nên vui tươi thái quá suốt nhiều ngày dài - mà không vì một lý do gì rõ ràng - đối với tôi cũng đáng lo ngại ngang với những đợt ủ rũ thình lình và thường kéo dài. Như tôi đã nói, từ đầu đến cuối cô vẫn cực kỳ mẫn cán, nhưng mặt khác, bổn phận của tôi là phải nghĩ về lợi ích lâu dài của nhà này, và nếu đúng là những dấu hiệu ấy ủng hộ cho giả thiết của ông Graham rằng cô Kenton đang suy tính rời khỏi đây vì những nguyên do tình cảm, thì hiển nhiên tôi có trách nhiệm cần dò hỏi sâu hơn. Thế nên tôi đã đánh bạo hỏi cô vào một tối, trong bữa ca cao thường lệ, “Vậy còn thứ Năm này cô có đi nữa không, cô Kenton? Ý tôi là ngày nghỉ của cô ấy”.
Tôi đã lờ mờ trông đợi cô sẽ nổi nóng khi bị chất vấn như thế, nhưng ngược lại, có vẻ cô đã từ lâu gần như chờ dịp đề cập đến chính chủ đề này. Bởi cô nói bằng giọng vẻ như có phần nhẹ nhõm, “Ôi, ông Stevens ạ, chỉ là có một người quen hồi tôi làm ở Quán Granchester. Thực tế là hồi ấy anh ta làm quản gia ở đó, nhưng giờ anh ta đã rời nghề phục vụ hẳn rồi và đang làm cho một hãng gần đây. Thế nào đó mà anh ta biết được tôi ở đây nên bắt đầu viết thư cho tôi, đề nghị nối lại mối quen biết cũ. Thế đấy, ông Stevens ạ, đầu đuôi chỉ có thế thôi”.
“Tôi hiểu rồi, cô Kenton ạ. Hẳn nhiên, thỉnh thoảng được rời khỏi nhà thì cũng dễ chịu”.
“Đúng là như vậy, ông Stevens ạ”.
Im lặng một lúc. Rồi dường như vừa quyết định điều gì đó, cô Kenton tiếp, “Anh người quen này của tôi. Tôi còn nhớ hồi anh làm quản gia ở Quán Granchester, anh ta ôm ấp những hoài bão cao xa lắm. Thực tế là tôi hình dung ước mơ lớn nhất của anh ta là được trở thành quản gia ở một nhà nào đó tương tự như nhà này. Ôi, nhưng mà nghĩ lại thì các phương pháp của anh ta thật là! Ông Stevens ạ, thật tình tôi có thể hình dung được vẻ mặt ông nếu phải chứng kiến cách làm của anh ta. Thật sự không có gì ngạc nhiên là anh ta lại không đạt được hoài bão của mình”.
Tôi cười khẽ. “Theo kinh nghiệm của tôi”, tôi nói, “quá nhiều người tự tin mình có khả năng làm việc ở đẳng cấp như thế này, mà không biết mảy may gì về những đòi hỏi khắc nghiệt khi lên tới đây. Rõ ràng là không phải ai cũng phù hợp với điều kiện đó”.
“Đúng quá rồi. Ông Stevens ạ, thật tình, nếu thấy anh ta vào cái thời đó chẳng biết ông sẽ nói sao nữa!”.
“Ở đẳng cấp cao như ở đây, cô Kenton ạ, nghề này không phải dành cho bất cứ ai đâu. Có hoài bão lớn lao thì rất dễ, nhưng nếu không có một vài phẩm chất nào đó, thì đơn giản là người ấy sẽ không thể đi xa hơn một giới hạn nhất định trong nghề quản gia”.
Cô Kenton tuồng như ngẫm nghĩ câu này một lát, rồi nói, “Tôi chợt nhận ra hẳn ông là một người mãn nguyện lắm, ông Stevens. Suy cho cùng, ông đã đạt đến đây rồi, đến vị trí cao nhất trong nghề nghiệp của mình, tất cả ngôi nhà dưới quyền ông đều được kiểm soát nghiêm ngặt. Thật sự tôi không tưởng tượng ra nổi ông có còn nguyện vọng gì trong đời nữa không”.
Tôi không thể nghĩ ngay ra câu trả lời. Trong khoảng im lặng có phần lúng túng tiếp sau đó, cô Kenton lại cúi mắt nhìn vào tận đáy cốc ca cao, như đương mải mê với thứ gì cô phát hiện ra ở đó. Rốt cuộc, sau hồi lâu suy nghĩ, tôi đáp, “Cứ theo tôi thấy, cô Kenton ạ, ước nguyện của tôi sẽ không thể coi là hoàn tất chừng nào tôi chưa làm hết sức mình để phò tá đức ngài vượt qua những nhiệm vụ lớn lao mà ngài tự đặt ra cho bản thân. Ngày nào phần việc của đức ngài trọn vẹn, ngày nào đức ngài có thể lui về nghỉ trên vinh quang của mình, yên tâm biết rằng mình đã làm tất cả những gì người khác có thể hợp tình hợp lý mà yêu cầu ở ngài, cô Kenton ạ, chỉ đến ngày đó tôi mới có thể tự nhận mình, như cô nói, là một người mãn nguyện”.
Có thể cô đã hơi bối rối trước những lời tôi nói; hoặc cũng có thể vì nguyên do nào đó lời tôi khiến cô phật lòng. Dù sao đi nữa, tới đó cô có vẻ đổi hẳn tâm trạng, và cuộc đối thoại nhanh chóng mất đi giọng điệu khá tâm tình chúng tôi vừa bắt đầu sa vào.
Không mấy lâu sau đó, những buổi gặp uống ca cao trong buồng nội quản của cô ngừng hẳn. Thực tế là, tôi còn nhớ khá rõ lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau trong hoàn cảnh ấy: tôi đang có ý muốn bàn với cô Kenton về một sự kiện sắp tới, một buổi tụ họp cuối tuần sẽ có mặt những nhân vật hết sức danh giá từ Scotland. Quả đúng là còn phải chừng một tháng nữa, nhưng mặt khác thói quen của chúng tôi vẫn luôn là bàn bạc từ rất sớm những sự kiện như vậy. Trong buổi tối này, tôi đã điểm qua nhiều khía cạnh tổ chức khác nhau được một lúc thì phát hiện ra cô Kenton chỉ góp lời rất ít; quả thực, một lát sau, có thể thấy rành rành đầu óc cô đang để vào một nơi khác hẳn. Tôi đã thỉnh thoảng phải nói vài câu như, “Cô nghe tôi nói không, cô Kenton?”, đặc biệt sau những khi vừa trình bày rất dài về điểm gì đó, và dù mỗi lần cô sẽ chăm chú lên một chút, thì vài giây sau tôi thấy cô đã lại mông lung rồi. Sau vài phút tôi nói còn cô chỉ ậm ừ, “Phải rồi, ông Stevens ạ”, hay là, “Tôi hoàn toàn tán thành, ông Stevens ạ”, cuối cùng tôi cũng bảo cô, “Xin cô thứ lỗi, cô Kenton ạ, nhưng tôi thấy không có ích gì mấy khi tiếp tục như thế này. Đơn giản là cô dường như không hình dung hết mức độ quan trọng của sự kiện này”.
“Tôi xin lỗi, ông Stevens ạ”, cô nói và hơi ngồi thẳng người dậy. “Chỉ là tối nay tôi hơi mệt”.
“Hiện giờ cô càng ngày càng mệt, cô Kenton ạ. Xưa kia cô thường không thấy cần thiết phải viện tới cớ đó”.
Tôi sửng sốt thấy cô Kenton đáp lại bằng cách thình lình bùng ra, “Ông Stevens ạ, tôi vừa trải qua một tuần bận tối mắt tối mũi. Tôi rất mệt. Thực ra là tôi đã mong được nằm xuống nghỉ suốt ba bốn tiếng đồng hồ nay rồi. Tôi rất mệt, mệt lắm, ông Stevens ạ, có thế mà ông cũng không hiểu được ư?”.
Không hẳn là tôi mong đợi sẽ được nghe cô xin lỗi, nhưng phản ứng gay gắt của cô phải nói đã làm tôi có hơi chưng hửng. Tuy nhiên, tôi quyết tâm không bị kéo vào một cuộc cãi cọ khó coi với cô, và chủ ý ngưng một hai giây nhiều hàm ý trước khi mở lời thực điềm đạm, “Nếu thực sự là cô cảm thấy như vậy, cô Kenton ạ, thì chúng ta hoàn toàn không cần tiếp tục những cuộc gặp này mà làm gì. Xin thứ lỗi cho tôi vì qua bằng ấy thời gian không nhận ra chúng bất tiện cho cô đến mức nào”. “Ông Stevens, tôi chỉ nói là tối nay tôi mệt.... “Không, không, cô Kenton, điều đó hoàn toàn có thể hiểu được. Cuộc sống của cô bận rộn, những cuộc gặp này thực là chất thêm một cách không đáng vào những gánh nặng sẵn có của cô. Có rất nhiều phương án khác để đạt được mức độ trao đổi thông tin nghề nghiệp cần thiết mà không cần chúng ta phải gặp gỡ nhau theo cách này”.
“Ông Stevens, như thế này thì thật hơi quá. Tôi chỉ nói là....
“Tôi nói thực đấy, cô Kenton ạ. Thực tình là tôi đã suy tính một thời gian rằng có lẽ nên ngưng lại những cuộc gặp này, xét thấy ngày làm việc của chúng ta vốn đã rất bận rộn còn bị kéo dài thêm. Dù chúng ta đã gặp nhau như thế này suốt nhiều năm, nhưng đó không phải là lý do chúng ta không thể tìm xem có cách nào thuận tiện hơn từ đây về sau”.
“Ông Stevens, xin ông, tôi tin rằng những cuộc gặp này hết sức hữu ích....
“Nhưng chúng lại thực bất tiện cho cô, cô Kenton. Chúng làm cô mệt mỏi. Tôi xin mạn phép đề xuất rằng từ nay trở đi, chúng ta chỉ đặc biệt cố truyền đạt những thông tin quan trọng trong phạm vi ngày làm việc bình thường. Trong trường hợp không dễ dàng gặp được nhau, tôi đề nghị chúng ta có thể để lại những mảnh giấy nhắn tin trên cửa phòng nhau. Đối với tôi đó có vẻ là một giải pháp hoàn toàn thích đáng. Giờ thì, cô Kenton ạ, tôi phải xin tạ lỗi đã làm mất thì giờ của cô đến thế. Hết lòng cảm ơn cô đã đãi tôi ca cao”.
* * *
Đương nhiên - và có gì mà không nên thừa nhận điều này nhỉ - tôi có đôi khi tự hỏi về lâu về dài sự thể có lẽ đã dẫn đến kết quả nào nếu tôi không quyết liệt như vậy về vấn đề những buổi gặp ban tối ấy; nói vậy có nghĩa là, nếu tôi đã nhượng bộ vào những tuần kế tiếp trong vài dịp cô Kenton đề nghị lập lại thói quen này. Sở dĩ lúc này tôi đưa ra phỏng đoán là vì, xét trên những sự kiện tiếp sau đó, rất có thể cho rằng khi quyết định chấm dứt vĩnh viễn những cuộc gặp buổi tối như vậy, có lẽ tôi không thực sự ý thức được toàn bộ ý nghĩa của quyết định này. Thực vậy, còn có thể nói rằng quyết định nhỏ ấy đã đóng vai trò một bước ngoặt cốt yếu, đẩy sự việc lao theo một tiến trình khó cưỡng về kết cuộc như đã xảy ra.
Tuy nhiên, tôi đoán rằng khi quay cái nhìn hồi cố tìm kiếm trong quá khứ những “bước ngoặt” như vậy, người ta dễ nhìn thấy chúng ở khắp nơi. Không chỉ quyết định của tôi về những cuộc gặp buổi tối, mà cả sự việc trong phòng quản gia của tôi, nếu muốn, cũng có thể được nhìn nhận là một “bước ngoặt” như vậy. Người ta có thể đặt câu hỏi rằng liệu điều gì sẽ xảy ra, nếu mình đã phản ứng khác đi đôi chút trong buổi tối cô mang bình hoa vào? Và có lẽ - bởi việc này cũng xảy ra vào khoảng có những sự việc kia - cái buổi chiều tôi bắt gặp cô Kenton trong phòng ăn sau khi cô nhận tin dì mình vừa mất, cũng có thể được coi là một “bước ngoặt” theo kiểu nào đó.
Cô biết tin trước đó vài tiếng; thực vậy, chính tôi là người gõ cửa buồng nội quản sáng hôm đó để đưa cô lá thư. Tôi có bước vào buồng một lát để bàn một vấn đề công việc nào đó, và như tôi nhớ chúng tôi đang ngồi bên bàn cô chuyện trò dở chừng thì cô bóc thư. Cô lặng hẳn đi, nhưng cần ghi nhận là cô vẫn trấn tĩnh, và đọc lá thư ít nhất hai lượt. Rồi cô cẩn thận bỏ lại lá thư vào phong bì và đưa mắt nhìn tôi ngồi bên kia bàn.
“Thư của bà Johnson, một người bạn của dì tôi. Bà nói dì tôi đã qua đời hôm kia”. Cô ngưng lại một lát, rồi nói, “Lễ tang cử hành ngày mai. Tôi không biết liệu mình có thể xin nghỉ một ngày không”.
“Tôi tin là có thể sắp xếp được việc này, cô Kenton ạ”.
“Cảm ơn ông, ông Stevens. Thứ lỗi cho tôi, có lẽ giờ tôi xin phép ở một mình một lát”.
“Đương nhiên rồi, cô Kenton ạ”.
Tôi lui ra, và mãi tới khi đã ra ngoài tôi mới nhận ra mình chưa thực sự nói lời phân ưu với cô. Tôi có thể hình dung rõ tin ấy là một cú sốc với cô đến thế nào, bởi dì cô giống như một người mẹ thực sự trong đời cô, và tôi dừng chân ngoài hành lang, nghĩ không biết có nên quay lại, gõ cửa và khắc phục thiếu sót vừa rồi. Nhưng rồi tôi chợt nhận ra rằng nếu làm như vậy, rất có thể tôi sẽ xâm phạm đến thời khắc riêng tư cô cần trải qua nỗi đau buồn. Thực vậy, không phải không có khả năng cô Kenton, ngay vào phút ấy, cách tôi chỉ vài bước chân, có lẽ còn đang khóc. Ý nghĩ ấy khiến dâng lên trong tôi một cảm giác lạ lùng, khiến tôi cứ loanh quanh đứng trong hành lang mất một thôi. Nhưng rồi tôi kết luận tốt nhất là chờ tới dịp khác bày tỏ lòng thương cảm, và rời chân.
Sự thể hóa ra là, tôi không gặp lại cô mãi đến chiều hôm ấy, khi như đã nói, tôi bắt gặp cô trong phòng ăn, đương cất chén đĩa vào tủ chạn. Tới lúc này tôi đã băn khoăn mất vài giờ nghĩ về nỗi buồn của cô Kenton, và đặc biệt suy nghĩ xem nên nói hoặc làm gì là tốt nhất để giúp cô vơi bớt phần nào gánh nặng trong lòng. Và khi nghe tiếng chân cô vào phòng ăn - khi đó tôi đang dở tay làm việc gì đó ngoài sảnh - tôi đã chờ chừng một phút, rồi hoãn việc đang làm và bước vào theo cô.
“À, cô Kenton”, tôi nói. “Thế chiều nay cô thế nào?”.
“Cũng khá, cảm ơn ông, ông Stevens”.
“Mọi việc vẫn suôn sẻ cả chứ?”.
“Mọi việc đều suôn sẻ, cảm ơn ông”.
“Tôi đang định hỏi cô có gặp vấn đề gì đặc biệt với người mới không”. Tôi cười khẽ. “Có rất nhiều rắc rối nhỏ có thể xảy ra khi có chừng ấy người mới cùng vào một lúc. Tôi dám nói rằng cả những người giỏi giang nhất trong chúng ta cũng sẽ được lợi từ một cuộc trao đổi nghề nghiệp vào những lúc như vậy”.
“Cám ơn ông, ông Stevens ạ, nhưng tôi thấy các cô gái mới đều rất thạo việc”.
“Cô không thấy cần thiết phải thay đổi cơ cấu nhân viên hiện tại cho phù hợp với điều kiện có người mới đến chứ?”.
“Tôi không nghĩ có cần thiết thay đổi gì như vậy, ông Stevens ạ. Tuy nhiên, nếu sau này nhận định khác đi, tôi sẽ thông báo cho ông ngay lập tức”.
Cô quay lại với cái tủ chạn, và trong một khắc, tôi đã suy tính đến việc rời khỏi phòng. Thực tế là tôi nghĩ mình đã bước vài bước về phía cửa, nhưng rồi tôi lại quay về phía cô mà nói, “Vậy, cô Kenton ạ, cô muốn nói là mấy người mới đều đang thích nghi tốt”.
“Cả hai bọn họ đều đang làm việc rất tốt, tôi cam đoan với ông”.
“À, nghe vậy tôi thực mừng”. Tôi lại cười khục một tiếng. “Tôi chỉ băn khoăn đôi chút, vì chúng ta đã xác nhận rằng cả hai cô gái đều chưa bao giờ nhận việc ở một nhà có quy mô như ở đây”.
“Quả có thế, ông Stevens”.
Tôi nhìn cô xếp bát vào tủ và chờ xem cô có nói gì thêm nữa không. Sau vài phút thấy rõ rằng không, tôi nói tiếp, “Thực tình là, cô Kenton ạ, tôi phải nói điều này. Tôi có nhận ra một hai thiếu sót dạo gần đây. Tôi quả có cảm thấy rằng cô nên bớt chủ quan một chút về phần các người mới ấy”.
“Ông nói vậy là có ý gì, ông Stevens?”.
“Thí dụ như tôi, cô Kenton ạ, mỗi khi có người mới vào nhà, tôi muốn đảm bảo gấp đôi rằng mọi thứ đều ổn. Tôi rà soát hết mọi mặt công việc của họ và cố lường xem họ đang cư xử thế nào với các nhân viên khác trong nhà. Suy cho cùng, quan trọng là phải hình dung được rõ ràng về họ, cả về khía cạnh kỹ thuật lẫn tác động của họ lên tinh thần chung của đội ngũ. Tôi rất tiếc phải nói điều này, nhưng cô Kenton ạ, tôi cho rằng cô đã hơi lơ là về mặt này”.
Mất một giây, cô Kenton thoáng vẻ không hiểu. Rồi cô quay sang tôi và một nét căng thẳng thế nào đó hằn rõ trên mặt cô.
“Tôi không hiểu, ông Stevens?”.
“Tỷ dụ, cô Kenton ạ, dù chén đĩa vẫn được rửa kĩ càng theo đúng tiêu chuẩn trước nay, tôi đã để ý thấy đồ được xếp lại lên tủ bếp theo một cách mà, dù nhìn qua không thấy rõ độ nguy hiểm, nhưng dần dà sẽ gây ra đổ vỡ nhiều hơn cần thiết”.
“Vậy cơ à, ông Stevens?”.
“Phải, cô Kenton ạ. Hơn nữa, hốc tường nhỏ bên ngoài phòng ăn sáng đã một thời gian không được lau sạch rồi. Cô bỏ quá cho tôi, nhưng tôi còn có thể nêu thêm một hai chi tiết khác nữa”.
“Ông không cần đay lại vậy đâu, ông Stevens. Tôi sẽ soát lại kết quả làm việc của hai cô hầu mới, như ông khuyên”.
“Bỏ qua những việc hiển nhiên như vậy thực không giống cô ngày thường, cô Kenton ạ”.
Cô Kenton ngoảnh đi khỏi tôi, và lần nữa mặt cô lại thoáng vẻ như đang cố giải cho ra một điều gì khiến cô bối rối. Trông cô không hẳn phiền muộn mà là cực kỳ mệt mỏi. Rồi cô khép cửa tủ, nói, “Xin phép ông, ông Stevens”, và rời khỏi phòng.
Nhưng có nghĩa lý gì mà mãi hoài phỏng đoán xem điều gì có thể xảy ra giả như chuyện đã khác đi lúc này hay lúc khác? Cứ làm vậy rồi chỉ đẩy người ta đến chỗ rối ruột rối gan. Dù sao đi nữa, nói về những “bước ngoặt” kia thì dễ lắm, nhưng hẳn người ta chỉ có thể nhận ra những khoảnh khắc ấy khi đã đi qua ngoái lại. Dĩ nhiên, ngày nay nhìn lại, những sự việc kiểu ấy quả có thể khoác lấy dáng vẻ những phút giây căn cốt và quý báu trong đời; nhưng dĩ nhiên vào lúc ấy ấn tượng của người ta không phải là như thế. Đúng hơn, người ta tưởng mình có trong tay một lượng vô tận những ngày, những tháng, những năm để tháo gỡ cho ra những ngoắt ngoéo trong quan hệ của người ta với cô Kenton; một lượng vô biên những cơ hội sau này để hoán cải những tổn thất từ điều hiểu lầm này khác. Hẳn nhiên vào lúc ấy chẳng có gì cho biết những sự việc nhìn ngoài nhỏ nhoi như thế sẽ khiến những giấc mơ mãi mãi vô phương cứu chuộc.
Nhưng tôi nhận ra mình đang rơi vào tự vấn không phải lẽ, mà lại theo một cách khá u sầu. Đương nhiên đây là do cớ đêm hôm khuya khoắt, cùng những sự kiện cam go mà tôi phải chống đỡ buổi tối vừa qua. Và cũng đương nhiên, tâm trạng hiện thời của tôi không phải là không chịu ảnh hưởng từ ý nghĩ rằng ngày mai - đấy là nếu tôi kiếm được xăng ở xưởng sửa xe trong vùng, như ông bà Taylor cam đoan với tôi - tôi sẽ tới được Compton Nhỏ vào tầm trưa, và hẳn là sẽ gặp lại cô Kenton sau chừng ấy năm. Đương nhiên, không có lý gì mà cho rằng cuộc gặp gỡ của chúng tôi sẽ có vẻ gì khác ngoài thân thiện. Thực tế, tôi trông đợi cuộc đàm đạo giữa chúng tôi - ngoại trừ một vài lời trao đổi thân tình hết sức phải lẽ phù hợp với hoàn cảnh đôi bên - sẽ chủ yếu mang tính công việc. Nói thế có nghĩa là, trách nhiệm của tôi là phải xác định xem khi giờ đây cuộc hôn nhân của cô Kenton, đáng buồn thay, dường như đã đổ vỡ và cô không có một mái nhà nương thân, liệu cô có nghĩ gì đến việc trở về Dinh Darlington như trước hay không. Tới đây, có lẽ tôi cần nói thêm rằng sau khi đọc lại thư cô tối nay, tôi thiên về ý nghĩ rất có thể tôi đã suy diễn từ câu chữ của cô nhiều hơn là thực tế. Nhưng tôi vẫn quả quyết rằng không chỉ có một sự bóng gió về hoài nhớ trong một vài đoạn lá thư cô, đặc biệt khi cô viết những câu như “Tôi đã yêu biết mấy cái khung cảnh từ các buồng ngủ lầu hai trông xuống thảm cỏ, xa xa là những nếp đồi”.
Tuy nhiên mặt khác, sao cứ phải không ngừng phỏng đoán về ước nguyện hiện thời của cô Kenton khi mà ngay ngày mai thôi tôi có thể được đích thân cô cho biết? Và dù sao đi nữa, tôi đã đi lạc khá nhiều khỏi câu chuyện đang thuật lại về những sự kiện diễn ra hồi tối rồi. Mấy tiếng đồng hồ vừa trải qua, tôi xin nói, là khoảng thời gian gay go quá đỗi. Người ta hẳn cho rằng phải bỏ lại cỗ Ford trên sườn đồi hoang vắng, phải lội bộ xuống làng này trong đêm tối gần đen như mực bằng tuyến đường khác người kia, đã là đủ bất tiện trút xuống đầu mình cho một buổi tối rồi. Và chủ nhà tốt bụng của tôi, tức ông bà Taylor, tôi đoan chắc sẽ không bao giờ chủ tâm bắt tôi trải qua những gì vừa chịu đựng. Nhưng thực tế vẫn là, một khi tôi đã ngồi vào bàn ăn tối với họ, một khi vài người láng giềng đã ghé chơi, thì tôi đã bị cuốn vào một chuỗi sự kiện phiền toái cực kỳ.
* * *
Căn phòng tầng trệt ngoài cùng căn nhà này xem ra vừa là phòng ăn, vừa làm phòng sinh hoạt chung cho ông bà Taylor. Căn phòng khá ấm cúng, choán gần hết phòng là một cái bàn lớn đẽo vội đúng như người ta thường hình dung về phòng bếp nhà làm nông, mặt bàn không đánh bóng mang nhiều dấu dao nhỏ, dao chặt và dao cắt bánh mì. Những vết dao cắt bánh mì tôi thấy rất rõ, bất kể chúng tôi đang ngồi trong quầng sáng vàng yếu ớt từ cây đèn dầu đặt trong góc trên kệ.
“Không phải là ngoài đây chúng tôi không có điện đâu, thưa ngài,” có một lúc ông Taylor nhận xét và hất đầu về phía cây đèn. “Nhưng mạch điện bị chập sao đó, thế là chúng tôi không có điện đã hai tháng nay rồi. Nói thật với ngài chứ, điện với đóm mà làm gì. Trong làng có mấy nhà còn chưa bao giờ sờ đến điện. Đèn dầu ánh sáng ấm hơn nhiều.”
Bà Taylor vừa bưng ra nồi nước dùng thơm ngon mà chúng tôi vừa ăn cùng những phần bánh mì vỏ cứng, và vào thời điểm đó chẳng có dấu hiệu gì cho thấy đêm nay sẽ có gì đáng thối chí chờ đợi tôi ngoài một tiếng đồng hồ dễ chịu trò chuyện trước khi lui về phòng. Tuy thế, chúng tôi vừa kết thúc bữa ăn và ông Taylor đang rót cho tôi cốc bia do người hàng xóm cất, thì bên ngoài có tiếng bước chân giẫm trên mặt sỏi tiến lại gần. Tôi nghe ra có chút hắc ám trong tiếng chân bước mỗi lúc một gần trong bóng tối tới căn nhà nhỏ giữa nơi hoang vắng, nhưng cả ông chủ lẫn bà chủ đều không tỏ ra cảnh giác trước mối nguy nào. Bởi nghe giọng ông Taylor cất lên chỉ thấy tò mò chứ không gì khác, “Ô kìa, giờ thì là ai đây?”.
Ông nói câu này ít nhiều tự nhủ, nhưng tới đó chúng tôi nghe thấy, dường như đáp lại, giọng người gọi lớn bên ngoài, “George Andrews đây. Tôi tiện đường đi ngang qua”.
Một giây sau bà Taylor đã mời vào nhà một người vạm vỡ, có lẽ chừng năm chục tuổi, mà xét theo trang phục có vẻ vừa dành một ngày bận rộn làm nông. Tỏ vẻ thân quen cho thấy vẫn thường xuyên lui tới đây, ông ta ngồi xuống cái đôn nhỏ bên cửa và có phần vất vả tháo đôi ủng nhựa, vừa làm vừa nói mấy lời chuyện phiếm với bà Taylor. Rồi ông ta đi lại bàn và dừng lại, đứng nghiêm trước mặt tôi như tới trình diện sĩ quan trong quân đội.
“Tôi tên Andrews, thưa ngài”, ông ta nói. “Cực lực chúc ngài một tối tốt lành. Tôi xin bày tỏ thông cảm với vận rủi của ngài, nhưng cũng mong ngài không ngán phải nghỉ lại đêm nay Ở Moscombe đây”.
Tôi có hơi hoang mang nghĩ làm sao ông Andrews đây lại nghe được về “vận rủi” của tôi, như ông ta gọi. Dù sao đi nữa, tôi cũng mỉm cười đáp lại rằng tôi hoàn toàn không “ngán”, trái lại tôi cảm thấy cực kỳ biết ơn đã được đón tiếp nồng hậu đến thế này. Câu này đương nhiên tôi có ý nói đến cử chỉ tốt bụng của ông bà Taylor, nhưng ông Andrews tuồng như nghĩ mình cũng được kể vào trong lời cảm tạ đó, vì ông ta lập tức đáp lời và giơ đôi bàn tay to như chống chế, “Ồ có gì đâu, thưa ngài, rất hân hạnh. Được đón tiếp ngài chúng tôi vui mừng hết sức. Không mấy khi có những người như ngài đây ghé qua nơi này. Chúng tôi đều rất vui mừng ngài đã dừng chân lại đây”.
Cách nói của ông ta dường như ám chỉ cả làng đã biết về “vận rủi” của tôi cũng như việc tôi nghỉ lại nhà này. Thực tế, như tôi sẽ được biết chóng thôi, sự thực gần như đúng là như vậy; tôi chỉ có thể đoán rằng trong vài phút sau khi tôi được dẫn lên phòng này lúc trước - trong lúc tôi đang rửa tay và cố làm những gì có thể để cứu vãn cho áo khoác và gấu quần mình - thì ông bà Taylor đã truyền đạt cái tin về tôi cho xóm giềng đi ngang. Dù sao đi nữa thì sau vài phút lại có thêm một người khách nữa, bộ dạng nhìn chung giống ông Andrews - có nghĩa là hơi bè bè kiểu nhà nông, đi đôi ủng cao su dính bùn, rồi tháo ra với tư thế hết sức giống ông Andrews vừa làm lúc trước. Thực vậy, trông họ tương đồng tới mức tôi đồ rằng họ là hai anh em, mãi cho tới khi người mới tới tự giới thiệu với tôi, “Morgan, thưa ngài, Trevor Morgan”.
Ông Morgan tỏ ý lấy làm tiếc cho cú “lỡ bước” của tôi, và cam đoan với tôi rằng sáng ra mọi việc sẽ êm đẹp hết, tiếp đó nói cả làng rất hân hạnh được đón tiếp tôi. Dĩ nhiên, chỉ mới vài phút trước tôi vừa được nghe những tâm tình tương tự, nhưng ông Morgan còn thực sự nói rằng, “Có một người quý phái như ngài đây ở Moscombe này thật là vinh dự tuyệt trần cho chúng tôi, thưa ngài”.
Trước khi tôi kịp nghĩ ra câu gì đáp lại phát ngôn ấy, lại có thêm tiếng chân người vang lên trên đường sỏi bên ngoài. Chẳng mấy chốc một cặp vợ chồng luống tuổi được dẫn vào, rồi được giới thiệu cho tôi là ông bà Harry Smith. Hai người này không hề có dáng dấp nhà nông chút nào; bà lớn con và bệ vệ, thực tế là khiến tôi nghĩ đến bà Mortimer, đầu bếp ở Dinh Darlington gần hết thập niên hai mươi và ba mươi. Trái ngược lại, ông Harry Smith lại nhỏ con với vẻ mặt khá đăm chiêu khiến trán ông nhăn lại. Sau khi hai người ngồi xuống bên bàn, ông hỏi tôi, “Xe của ngài chắc là chiếc Ford cổ trên Đồi Bụi Thornley đằng kia, thưa ngài?”.
“Nếu đấy là con đường đồi trông xuống làng này, thì đúng”, tôi đáp. “Nhưng tôi rất ngạc nhiên được biết ông đã nhìn thấy nó”.
“Tôi thì chưa nhìn thấy nó, thưa ngài. Nhưng Dave Thornton có lái máy kéo chạy qua nó vừa nãy trên đường về nhà. Anh ta ngạc nhiên khi thấy nó nằm đó tới nỗi còn dừng cả máy đi ra xem”. Đến khúc này, ông Harry Smith quay sang nói với mấy người còn lại quanh bàn, “Một cỗ xe đẹp mê hồn. Anh ta nói chưa từng thấy thứ gì như vậy. Cái xe nhà ông Lindsay hồi xưa có mà xách dép!”.
Cả bàn cười rộ lên, còn ông Taylor ngồi cạnh tôi giải thích, “Một vị từng sống trong cái nhà to không xa đây lắm, thưa ngài. Vị đó có làm một hai việc kỳ quặc nên ở đây không ưa mấy”.
Tiếng rì rầm tán đồng lại nổi lên quanh bàn. Rồi ai đó nói, “Thưa ngài, mừng sức khỏe ngài”, và nhấc một vại bia trong số ông Taylor vừa phân phát quanh bàn, và phút chốc tôi đã được cả bàn uống mừng sức khỏe.
Tôi mỉm cười đáp, “Cam đoan với các ông, chính tôi mới là người cảm thấy thực hân hạnh”.
“Ngài tử tế quá, thưa ngài”, bà Smith nói. “Đấy, một người quý phái đúng điệu là phải thế chứ. Quý phái gì nhà ông Lindsay đó. Ông ta có thể lắm tiền thật đấy, nhưng còn khướt mới là quý phái”.
Cả lần này nữa mọi người quanh bàn cũng ồ à tán thành. Rồi bà Taylor thì thầm vào tai bà Smith, còn bà khách đáp, “Ông ấy bảo sẽ cố thu xếp đến càng nhanh càng hay”. Cả hai người ngượng ngập quay nhìn tôi, rồi bà Smith nói, “Chúng tôi có nói bác sĩ Carlisle ngài đang ở đây, thưa ngài. Bác sĩ sẽ rất mừng được làm quen với ngài”.
“Tôi đoán là ông ấy còn phải đi thăm bệnh”, bà Taylor nói vẻ tạ lỗi. “Tôi e rằng không thể nói chắc bác sĩ có đến kịp trước khi ngài muốn về phòng không, thưa ngài”.
Tới đó thì ông Harry Smith, người nhỏ con trán nhăn, lại chồm tới mà nói, “Cái nhà ông Lindsay đó, ông ta sai toét cả, hiểu không? Cư xử cái lối như thế. Ông ta tưởng mình trên chúng tôi mấy bậc, nghĩ dắt mũi được chúng tôi cả. Chà, thưa ngài, xin nói cho ngài biết, ông ta được biết mình lầm ngay rồi. Ở nơi này dân người ta nói và nghĩ ra trò lắm đấy. Có kha khá chính kiến kiên định và người ở đây không ngại gì mà không nói ra đâu. Cái ông Lindsay nhà các người đã sớm học được điều đó rồi”.
“Ông ta thì quý tộc gì”, ông Taylor lặng lẽ nói. “Quý tộc gì cái nhà ông Lindsay ấy”.
“Đúng thế, thưa ngài”, ông Harry Smith nói. “Nhìn cái là biết ông ta chẳng phải quý tộc gì sất rồi. Ừ thì đúng là ông ta có nhà to áo đẹp, nhưng không hiểu sao ta vẫn đoán ra ngay. Và chả mấy chốc té ra là như vậy thật”.
Chung quanh lại rì rầm hưởng ứng, và trong một lúc toàn cử tọa dường như đang cân nhắc xem tiết lộ với tôi sự tích về nhân vật địa phương này có phải là điều đúng đắn hay không. Rồi ông Taylor phá vỡ sự im lặng, “Harry nói vậy là đúng đấy. Ta rất dễ phân biệt một nhà quý tộc thực sự với một nhà quý tộc giả đò chỉ giỏi chưng diện. Đơn cử như ngài đây, thưa ngài. Không chỉ do kiểu cắt may bộ đồ ngài mang, thậm chí còn không phải do cách nói chuyện rất lịch thiệp của ngài đâu. Có một điều gì khác khiến ngài nổi bật hẳn ra là một nhà quý tộc. Rất khó chỉ ra thứ đó là gì, nhưng nó sờ sờ ra ấy, có mắt là thấy được”.
Cả bàn lại xôn xao đồng ý thêm chập nữa.
“Bác sĩ Carlisle hẳn là không còn lâu nữa đâu, thưa ngài”, bà Taylor chen vào. “Trò chuyện với bác sĩ hẳn ngài sẽ thích lắm”.
“Cái đó bác sĩ Carlisle cũng có”, ông Taylor nói. “Ông ấy có. Một người quý phái thực sự, thế đấy”.
Ông Morgan, từ lúc bước vào chưa nói gì mấy, lúc này nhoài tới phía tôi, “Thưa ngài, theo ngài thì đó là gì? Có lẽ chính người có nó sẽ nói về nó rõ hơn chăng. Chúng tôi đây cứ nói hoài nào là ai có ai không, mà chúng tôi vẫn chẳng biết thêm tí tỉnh gì về điều mình đang nói cả. Có lẽ ngài có thể mở mang đầu óc cho chúng tôi chút ít, thưa ngài”.
Im lặng phủ xuống quanh bàn, tôi cảm thấy từng khuôn mặt đều quay lại phía mình. Tôi ho khẽ, nói, “Tôi khó có tư cách phát biểu về những phẩm chất mà tôi còn chưa biết mình có sở hữu hoặc không. Tuy nhiên, xét riêng về câu hỏi cụ thể này, người ta có thể ngờ rằng điều đang được bàn tới ở đây sẽ được gọi tên hợp lẽ nhất là phẩm cách”.
Tôi không thấy ích gì mà cố gắng giải thích kĩ hơn phát biểu này. Thực vậy, tôi chỉ đang thốt thành lời những ý nghĩ lướt qua đầu khi lắng nghe cuộc đối thoại mới đây, và nhiều khả năng tôi sẽ không nói một điều như vậy nếu không phải diễn biến câu chuyện bất thần bắt tôi làm việc đó. Tuy nhiên, lời đáp của tôi xem ra đã làm vui lòng cử tọa.
“Điều ngài nói thật là chí lý, thưa ngài”, ông Andrews gật gù nói, và vài người khác phụ họa theo.
“Cái nhà ông Lindsay đó có thêm một chút phẩm cách thì cũng không thừa đâu”, bà Taylor nói. “Vấn đề của cái hạng người ấy là họ cứ tưởng vác mặt lên trời nghĩa là phẩm cách”.
“Cần lưu ý thêm rằng”, ông Harry Smith chêm lời, “và tôi hoàn toàn đồng ý những gì ngài vừa nói, thưa ngài, ấy là tôi phải nói vậy. Phẩm cách không phải là thứ mà chỉ mấy nhà quý tộc có trong mình. Phẩm cách là một thứ mà mỗi người đàn ông hay đàn bà ở cái nước này có thể phấn đấu đạt được. Xin ngài bỏ quá cho, thưa ngài, nhưng tôi đã nói rồi đấy, ở đây khi muốn nêu ý kiến thì chúng tôi không cần rào đón gì cả. Và đúng hay sai thì ý kiến của tôi cũng là thế đấy. Phẩm cách không phải là thứ gì dành riêng cho quý tộc”.
Tôi nhận thức được, đương nhiên, rằng mình và ông Harry Smith tư duy khá ngược nhau về vấn đề này, và rằng giảng rõ ý mình cho những người này ở đây sẽ là một nhiệm vụ quá sức phức tạp. Vì vậy tôi phán đoán cách tốt nhất là chỉ mỉm cười đáp, “Đương nhiên, ông nói rất đúng”.
Tức thì lời đáp của tôi đã xua tan sự căng thẳng phảng phất đã tích tụ trong phòng trong quá trình ông Harry Smith phát biểu. Còn chính bản thân ông Harry Smith thì có vẻ đã bỏ hết mọi sự dè dặt, vì tới lúc này ông ta chồm tới nói tiếp, “Suy cho cùng, chả phải chúng ta đánh Hitler vì thế sao. Thằng Hitler mà muốn làm gì thì làm, thì giờ chúng ta thành nô lệ ráo cả rồi. Cả thế giới sẽ thành dăm ông chủ đè đầu cưỡi cổ triệu triệu nô lệ. Và tôi chắc không cần phải nhắc ai ở đây biết nữa, rằng làm nô lệ thì không có phẩm cách gì ráo cả. Chúng ta đã chiến đấu vì thế đấy, và chúng ta đã giành được chính điều đó đấy. Chúng ta đã giành được quyền làm công dân tự do. Và đấy chính là một trong những đặc ân khi sinh ra là người Anh, dù anh là ai, dù anh nghèo hay anh giàu, thì anh cũng sinh ra là người tự do và anh sinh ra để được nói lên ý kiến một cách tự do, và bỏ phiếu đặt ông dân biểu của anh ngồi vào ghế hoặc bỏ phiếu hất ông ta ra khỏi ghế. Phẩm cách suy cho cùng chính là thế đấy, nói ngài bỏ quá cho, thưa ngài”.
“Ôi chà, Harry”, ông Taylor nói. “Tôi thấy là anh lại đang khởi động cho một bài văn tế chính trị mới rồi”.
Cả bàn cười ầm. Ông Harry Smith cũng mỉm cười hơi bẽn lẽn, nhưng vẫn tiếp:
“Nào có chính trị gì ở đây. Tôi nghĩ gì thì nói nấy thôi. Anh làm nô lệ thì anh lấy đâu ra phẩm cách được. Nhưng đã là người Anh, chỉ cần muốn là có thể nắm lấy nó. Bởi chúng ta đã chiến đấu để có được cái quyền đó”.
“Chỗ chúng tôi đây có vẻ là một chốn khỉ ho cò gáy lắm, thưa ngài”, bà vợ nói. “Nhưng chúng tôi đã cống hiến vượt cả phần mình trong cuộc chiến. Vượt cả phần mình”.
Tới đây một vẻ trầm lắng bao phủ bầu không khí, cho tới khi rốt cuộc ông Taylor nói với tôi, “Anh Harry đây đã bỏ rất nhiều công tổ chức vận động cho dân biểu vùng này. Ngài chỉ cần tỏ ý muốn nghe thôi là anh ta sẽ thuyết giảng về ở trên kia điều hành đất nước này sai trái đến thế nào cho mà xem”.
“Này, lần này tôi chỉ toàn nói những điều đúng ở đất nước này thôi chứ”.
“Vậy ngài thì có tham gia nhiều vào chính trị không, thưa ngài?”, ông Andrews hỏi.
“Không hẳn là trực tiếp”, tôi đáp. “Và dạo gần đây thì lại càng không. Có lẽ trước thời chiến thì có”.
“Chỉ là tôi mang máng nhớ có một ông Stevens làm dân biểu năm ngoái hay năm kia thì phải. Có nghe ông ấy nói trên đài một hai phen. Nói chuyện nhà ở nhiều điều khôn ngoan lắm. Nhưng đấy thì hẳn không phải là ngài, thưa ngài?”.
“Ồ không đâu”, tôi bật cười nói. Tới đây, phải nói tôi hoàn toàn không hiểu điều gì đã khiến tôi thốt ra câu tiếp theo đây; tôi chỉ biết là lúc ấy câu đó dường như cần thiết trong hoàn cảnh đó. Bởi tiếp đó tôi đã nói, “Thực tế là tôi thường liên quan tới công chuyện quốc tế hơn là sự vụ trong nước. Nghĩa là chính sách đối ngoại”.
Tôi có hơi sửng sốt bởi tác động của câu nói này tới cử tọa. Nói vậy có nghĩa là, dường như tất cả họ đều chìm vào cảm giác kính sợ. Tôi vội nói thêm, “Xin nói lại với các vị, tôi không bao giờ nắm giữ chức vụ cao cấp gì đâu. Bất cứ ảnh hưởng nào tôi có hoàn toàn là với tư cách không chính thức”, nhưng sự im lặng nín thở còn kéo dài thêm vài giây nữa.
“Xin phép ngài”, cuối cùng bà Taylor nói, “nhưng ngài có từng gặp ông Churchill bao giờ chưa ạ?”.
“Ông Churchill à? Ông có tới nhà một vài dịp thực đấy. Nhưng nói đúng ra thì, bà Taylor ạ, trong khoảng thời gian tôi dính líu nhiều nhất với việc quốc gia đại sự thì ông Churchill còn chưa phải nhân vật cốt cán như sau này, và cũng không ai thực tình nghĩ ông ấy sẽ đóng vai trò gì lớn. Thời gian ấy những người như ông Eden hay Tử tước Halifax thường xuyên lui tới hơn nhiều”.
“Nhưng ngài đã thực tình gặp mặt ông Churchill rồi ư, thưa ngài? Có thể nói ra điều này thật là vinh hạnh biết mấy”.
“Tôi không đồng tình với nhiều điều ông Churchill nói”, ông Harry Smith lên tiếng, “nhưng không nghi ngờ gì nữa, ông ấy là một người vĩ đại. Được bàn bạc mọi vấn đề với những người như ông ấy thật là một điều đáng kể, thưa ngài”.
“À, tôi phải nhắc lại lần nữa”, tôi nói, “tôi không có nhiều sự vụ phải liên quan tới ông Churchill. Nhưng như ông đã nói rất đúng, quả là một điều hay khi được giao thiệp với ông ấy. Thực tế là, xét trên tất cả, tôi đoán mình đã thực sự rất may mắn, tôi sẵn sàng thừa nhận điều này. Suy cho cùng thì tôi đã có cơ duyên không chỉ gặp gỡ ông Churchill, mà cả rất nhiều nhà lãnh đạo tài ba cùng những người có tầm ảnh hưởng to lớn - từ Hoa Kỳ cũng như Âu châu. Và khi nghĩ rằng vận may ấy đã cho phép tôi tỏ bày với họ về rất nhiều vấn đề lớn của thời đại, vâng, khi nghĩ lại về chuyện đó, tôi quả có cảm thấy biết ơn mức nào đó. Suy cho cùng, đúng thực là vinh hạnh lớn khi đã được trao cho một vai diễn, dù nhỏ đến đâu, trên sân khấu thế giới”.
“Thứ lỗi cho tôi hỏi một điều, thưa ngài”, ông Andrews nói, “nhưng ông Eden là loại người thế nào vậy? Tôi muốn nói là như một con người ấy. Tôi vẫn luôn có cảm tưởng ông đó là người đàng hoàng kinh khủng khiếp. Là kiểu người có thể nói chuyện với bất kỳ ai dù cao hay thấp, dù giàu hay nghèo ấy. Tôi nghĩ thế có đúng không, thưa ngài?”.
“Tôi cho rằng về đại thể đó là một hình dung chính xác. Nhưng đương nhiên những năm này tôi không gặp ông Eden nữa, và có thể ông đã thay đổi nhiều dưới những áp lực gần đây. Một điều tôi đã được chứng kiến là, trở thành nổi tiếng có thể khiến người ta thay đổi không nhận ra được chỉ trong mấy năm ngắn ngủi”.
“Điều đó thì không phải nghi ngờ gì nữa, thưa ngài”, ông Andrews nói. “Đến ngay cả Harry đây. Anh ta dính vào chính trị mấy năm trước rồi từ đó không bao giờ như xưa nữa”.
Tất cả lại cười rộ, còn ông Harry Smith nhún vai và cũng tự cho phép mình thoáng một nụ cười. Rồi ông nói, “Quả đúng là công sức tôi bỏ vào vận động bầu cử cũng phải nói là ra trò đấy. Dù là vận động cấp cơ sở thôi, mà tôi cũng chẳng bao giờ được gặp ai cao sang bằng nửa những người giao du với ngài, thưa ngài, nhưng tôi tin mình cũng đang đóng góp phần nhỏ bé của mình. Cứ tôi thấy thì, Anh quốc là một xứ theo chế độ dân chủ, và người làng này chúng tôi cũng đã chịu gian khổ như bất kỳ ai khác khi chiến đấu để nó tiếp tục được là một xứ dân chủ. Giờ thì thực hiện quyền của mình là trách nhiệm của chúng ta, từng người trong số chúng ta. Có những cậu rất khá trong làng này đã hiến cả mạng mình để chúng ta có được cái đặc quyền ấy, và cứ tôi thấy thì từng người trong số chúng tôi giờ đây đều mang nợ họ và có trách nhiệm phải thực hiện đặc quyền ấy. Ở đây ai cũng có chính kiến kiên định, và chúng tôi có trách nhiệm làm cho ý kiến ấy được nghe thấy, ừ thì chúng tôi ở nơi hẻo lánh thật đấy, một cái làng bé bằng lỗ mũi, đầu mỗi ngày một bạc thêm, làng mỗi ngày một neo người thêm. Nhưng cứ tôi thấy thì chúng tôi nợ họ điều đó, những cậu trai đã mất của làng. Chính vì thế, thưa ngài, giờ đây tôi bỏ chừng ấy thời gian để làm sao cho tiếng nói của chúng tôi vang lên tận những chỗ cao trên kia. Và nếu vì thế mà tôi đổi khác đi, hay xuống mồ sớm hơn dự định, thì tôi cũng không hiềm gì hết”.
“Tôi đã báo trước rồi mà, thưa ngài”, ông Taylor mỉm cười nói. “Không thể nào có chuyện Harry để cho một nhân vật ảnh hưởng như ngài đây đi qua làng này mà thoát được bài ca bất tận của anh ta đâu”.
Chung quanh lại cười lớn, nhưng tôi đáp gần như tức thì, “Tôi nghĩ là tôi rất hiểu lập trường của ông, ông Smith ạ. Tôi hiểu rõ rằng ông muốn thế giới này tốt đẹp hơn, và muốn ông cùng những bạn dân làng ở đây có cơ hội đóng góp xây dựng thế giới tốt đẹp hơn. Tình cảm ấy rất đáng ca ngợi. Tôi dám nói rằng cũng chính một thôi thúc tương tự vậy đã khiến tôi góp phần mình vào những việc đại sự hồi trước chiến tranh. Thời đó, cũng như thời nay, hòa bình thế giới có vẻ là một thứ mong manh chực vuột khỏi tay ta, và tôi muốn thực hiện phần mình”.
“Xin bỏ quá cho, thưa ngài”, ông Harry Smith nói, “nhưng ý tôi có hơi khác ý ngài. Với những người như ngài đây thì trước nay gây ảnh hưởng là chuyện dễ như trở bàn tay. Mấy ông to bà lớn của đất nước chẳng qua là bạn bè ngài. Nhưng bầy chúng tôi ở đây, ngài ạ, chúng tôi có khi sống ròng rã hàng năm giời cũng chả bao giờ thấy lọt vào mắt một ông quý tộc thực sự - có lẽ trừ ra có bác sĩ Carlisle. Ông là một bác sĩ thượng hạng thật đấy, nhưng nói không phải chê bai gì, ông không có quan hệ tốt. Ở đây chúng tôi dễ dàng quên đi trách nhiệm công dân của mình. Chính vì thế tôi mới phải bỏ công bỏ sức đi vận động như vậy. Người khác có đồng ý hay phản đối - và tôi biết chắc ở trong phòng này bây giờ không có lấy một ai đồng ý với mọi điều tôi nói cả - thì ít nhất tôi cũng sẽ bắt họ phải nghĩ. Ít nhất tôi sẽ bắt họ nhớ rằng họ có cái bổn phận ấy. Chúng ta đang sống trong một nước dân chủ cơ mà. Chúng ta đã chiến đấu để có nó. Chúng ta đều phải thực hiện phần của mình”.
“Không biết ông bác sĩ sao rồi”, bà Smith nói. “Tôi nghĩ là giờ ông khách đã tới lúc cần được nghe chút lời lẽ học thức rồi đấy”.
Chung quanh lại cười ầm hơn nữa.
“Thực tế là”, tôi nói, “dù được gặp tất cả quý vị đây thực là vui mừng quá đỗi, nhưng tôi phải thú nhận mình đã bắt đầu thấm mệt rồi....
“Dĩ nhiên rồi, thưa ngài”, bà Taylor đáp, “ngài hẳn là rất mệt. Hay là để tôi đi kiếm cái chăn nữa cho ngài nhé. Giờ đêm buốt hơn trước nhiều rồi”.
“Thực sự không cần, bà Taylor ạ, tôi như vậy là thoải mái rồi”.
Nhưng tôi chưa kịp đứng dậy khỏi bàn thì ông Morgan đã nói, “Tôi vừa chợt nghĩ, thưa ngài, có một ông này chúng tôi thích nghe trên máy thu thanh, tên Leslie Mandrake. Tôi vừa chợt nghĩ không biết ngài có dịp nào gặp ông ấy chưa”.
Tôi đáp rằng chưa, và lại chuẩn bị tìm cách cáo lui lần nữa thì lại tiếp tục bị giữ chân bởi những lời gặng hỏi về nhân vật này nọ biết đâu tôi đã gặp. Vậy là tôi vẫn còn ngồi ở bàn khi bà Smith lên tiếng, “A, có người đến kìa. Tôi đoán rốt cuộc thì ông bác sĩ cũng tới rồi”.
“Tôi thực sự cần lui về phòng”, tôi nói. “Tôi đã mệt lả rồi”.
“Nhưng tôi đoan chắc lần này là ông bác sĩ mà, thưa ngài”, bà Smith nói. “làm ơn đợi thêm dăm phút nữa thôi”.
Bà vừa nói đến đó thì nghe tiếng gõ cửa và tiếng người nói, “Là tôi thôi, bà Taylor”.
Vị khách được dẫn vào vẫn còn khá trẻ - có lẽ trạc độ tứ tuần - cao, gầy; thực tế là cao đến mức ông buộc phải cúi khom người mới đi qua được cửa nhà. Ông vừa cất lời chào buổi tối xong một lượt thì bà Taylor đã nói, “Vị mà chúng tôi nói đến đây này, thưa bác sĩ. Xe của ông ấy bị kẹt ngoài kia, trên Bụi Thornley, và hậu quả là ông phải chịu trận bài diễn từ của Harry”.
Viên bác sĩ đi lại bàn, chìa tay cho tôi.
“Richard Carlisle”, ông nói với nụ cười tươi rói khi tôi đứng dậy bắt tay. “Vụ xe cộ của bác thật rủi quá nhỉ. Tuy vậy, tôi tin bác đang được chăm sóc tốt ở đây. Mà xem ra có vẻ quá tốt nữa là khác”.
“Cám ơn ông”, tôi đáp lại. “Mọi người đều rất tử tế”.
“À, rất vui được gặp bác ở đây”. Bác sĩ Carlisle ngồi xuống bàn gần như ngay đối diện tôi. “Bác từ đâu đến?”.
“Oxfordshire”, tôi đáp, và quả thực không dễ mà trấn áp cái bản năng cứ muốn thêm vào “thưa ngài”.
“Một vùng rất đẹp. Tôi có ông cậu sống ngay ngoại ô Oxford. Một vùng rất đẹp”.
“Bác sĩ ạ, vị đây vừa kể với chúng tôi”, bà Smith nói, “ông ấy quen ông Churchill đấy”.
“Thế à? Tôi từng quen một người cháu của ngài, nhưng giờ nói chung là ít qua lại. Tuy nhiên con người vĩ đại ấy thì tôi chưa có hân hạnh gặp”.
“Không chỉ ông Churchill đâu”, bà Smith nói tiếp. “Ông ấy quen cả ông Eden. Cả Tử tước Halifax nữa”.
“Thật hả?”.
Tôi cảm thấy ánh mắt người bác sĩ đương dò xét mình. Tôi toan cất lời đáp thích hợp, nhưng chưa kịp làm vậy thì ông Andrews đã nói với ông bác sĩ, “Vị đây vừa cho chúng tôi biết mình có liên quan rất nhiều với công tác đối ngoại thời kỳ trước”.
“Thật vậy cơ hả?”.
Tôi cảm giác bác sĩ Carlisle tiếp tục nhìn mình một khoảng thời gian dài bất thường. Rồi ông lấy lại vẻ tươi tỉnh và hỏi, “Bác đi chơi quanh đây hẳn?”.
“Chủ yếu là vậy”, tôi đáp và cười khẽ.
“Quanh đây đồng đất xinh đẹp lắm. À mà này, ông Andrews ạ, tôi xin lỗi vẫn chưa trả lại cái cưa được”.
“Vội gì đâu, bác sĩ”.
Trong một lúc, chung quanh thôi tập trung vào tôi và tôi có thể im lặng được chốc lát. Rồi nhân một thời điểm có vẻ thích hợp, tôi đứng lên và bảo, “Xin phép các vị. Thực là một buổi tối vui vẻ hết sức, nhưng giờ thì tôi thực sự phải về nghỉ rồi”.
“Ngài phải đi nghỉ sớm thế thật là tiếc quá, thưa ngài”, bà Smith nói. “Bác sĩ vừa mới tới thôi mà”.
Ông Harry Smith cúi người qua người vợ, nói với bác sĩ Carlisle, “Tôi đang mong vị đây sẽ muốn nói vài lời về các ý tưởng của ông về Đế chế Anh, thưa bác sĩ”. Rồi ông quay qua tôi nói tiếp, “Bác sĩ của chúng tôi đây ủng hộ mấy cái nước nhỏ tí ấy độc lập hết cả đi. Tôi không có đủ kiến thức để chứng tỏ ông sai, dù tôi thừa biết thế. Nhưng tôi từ lâu đã mong được biết những người như ngài đây sẽ nói gì với bác sĩ về chủ đề ấy, thưa ngài”.
Lần nữa, bác sĩ Carlisle dường như lại nhìn xoáy vào tôi. Rồi ông nói: “Tiếc thật, nhưng chúng ta phải trả khách về giường thôi. Nhìn bác như vừa trải qua một ngày rất mệt”.
“Thực vậy”, tôi nói và lại khẽ cười, bắt đầu đi vòng qua bàn. Nhưng thực xấu hổ làm sao, cả phòng đứng dậy, không trừ cả bác sĩ Carlisle.
“Cám ơn quý vị rất nhiều”, tôi mỉm cười đáp. “Bà Taylor, bữa tối hôm nay thực là tuyệt vời quá. Chúc tất cả các vị ngủ ngon”.
Đáp lời tôi là một tràng đồng thanh, “Chúc ngài ngủ ngon”. Tôi đã gần ra khỏi phòng thì giọng người bác sĩ khiến tôi sững lại bên cửa.
“Này bác ơi”, ông nói, và khi quay lại, tôi thấy ông vẫn còn đứng. “Sáng sớm mai tôi có việc phải tới Stanbury. Tôi sẽ rất vui được chở bác tới chỗ xe đậu. Đỡ công bác cuốc bộ. Và trên đường ta có thể ghé mua can xăng ở chỗ Ted Hardacre”.
“Ông thực tử tế quá”, tôi đáp. “Nhưng tôi không muốn gây phiền cho ông”.
“Phiền hà gì đâu. Bảy giờ ba mươi được chứ?”.
“Như thế thì thực cảm ơn ông quá”.
“Được rồi, vậy bảy giờ ba mươi. Bà Taylor nhớ lo cho vị khách quý trở dậy ăn sáng sẵn sàng lúc bảy giờ ba mươi nhé”. Rồi ông quay lại tôi, nói thêm, “Như vậy rốt cuộc chúng ta cũng được trò chuyện với nhau. Dù Harry đây sẽ không có được cái khoái cảm thấy tôi bị bẽ mặt”.
Tiếng cười lại rộ lên, cùng một tràng “chúc ngủ ngon” nữa trước khi rốt cuộc tôi cũng được rời về chốn ẩn náu trong căn phòng này.
* * *
Hẳn là tôi chẳng thể quá lời về cảm giác gượng gạo trong tôi suốt tối nay bởi sự lầm lẫn đáng tiếc về nhân thân mình. Tôi chỉ có thể ghi lại ở đây rằng, hết sức thành thực mà nói, tôi không nhìn ra có phương cách hợp lẽ nào giúp tôi ngăn chặn sự tình diễn biến theo cách đó; bởi tới thời điểm tôi nhận thức được điều gì đang xảy ra, thì tình hình đã đi quá xa và tôi không thể cải chính những người ở đó mà không khiến tất cả đều sượng mặt. Dù thế nào thì, tuy sự tình tối nay thực đáng tiếc, nhưng tôi không cho rằng có điều gì thực sự phương hại đã xảy ra. Suy cho cùng, tới sáng mai, tôi sẽ cáo biệt những người này và hẳn sẽ không bao giờ tái ngộ họ. Ôm chuyện này trong bụng xem ra cũng không ích gì.
Tuy nhiên, trừ lầm lẫn đáng tiếc ấy ra, có lẽ những sự kiện tối nay còn có một hai khía cạnh đáng cho người ta suy nghĩ đôi chút - dù chỉ vì lẽ nếu không làm thế, chúng có thể quay lại quấy quả suốt những ngày sau. Tỷ dụ như là những gì ông Harry Smith đã phát biểu về bản chất của “phẩm cách”. Hẳn nhiên trong những ý kiến của ông ta, chẳng có mấy điều xứng được đánh giá nghiêm túc. Đương nhiên, người ta phải nhận rằng ông Harry Smith đã dùng chữ “phẩm cách” theo một nghĩa rất khác so với cách hiểu của chính tôi. Dù thế đi nữa, xét riêng trên bình diện của ông thôi, thì những nhận định đó chắc chắn cũng là quá lý tưởng chủ nghĩa, quá lý thuyết không thể nhìn nhận nghiêm túc được. Hẳn nhiên, những điều ông nói chứa một phần sự thực đến độ nào đó: trong một đất nước như nước ta, có thể con người quả có bổn phận tới mức nào đó phải suy nghĩ về những việc đại sự, và hình thành chủ kiến của mình. Nhưng trong cuộc sống này, làm sao có thể thực sự trông đợi những người bình thường lại có “chính kiến kiên định” về đủ chuyện trên đời - như ông Harry Smith đã, khá viển vông, tuyên bố rằng mọi dân làng mình đều vậy? Mà không chỉ là thiếu thực tiễn, tôi còn không biết điều đó có đáng mong ước không. Xét cho cùng, có một giới hạn thực sự cho khả năng học hỏi của những người bình thường; đòi hỏi từng người trong số họ có “chính kiến kiên định” để tham gia luận bàn những câu hỏi lớn của dân tộc, hiển nhiên không thể là điều khôn ngoan được. Và dù sao đi nữa, thực ngớ ngẩn nếu có ai lại tự tiện đi định nghĩa “phẩm cách” của mỗi người theo thước đo ấy.
Tình cờ là, có một sự kiện mà tôi nhớ đến và tin là mình họa khá rõ ràng những điểm hạn chế thực sự của chút chân lý nào khả dĩ có trong lời ông Harry Smith. Việc đó tình cờ là một kinh nghiệm của chính tôi, một sự việc xảy ra từ thời tiền chiến, quãng năm 1935.
Như tôi nhớ, một đêm nọ tôi được triệu đến lúc khuya - khi ấy đã qua nửa đêm - tới phòng tiếp tân nơi huân tước tiếp ba vị khách từ sau bữa tối. Đương nhiên, tối hôm đó tôi đã được gọi lên vài lượt để tiếp thêm đồ giải khát, và trong những lượt ấy đã chứng kiến các vị mải mê bàn luận những vấn đề cao siêu. Tuy nhiên, lần cuối cùng này, khi tôi bước vào phòng, tất cả các vị đều dừng lời nhìn tôi. Rồi huân tước nói, “Anh lại đây một chút được không, Stevens? Ông Spencer đây muốn có lời với anh”.
Vị khách được nêu tên cứ đăm đăm nhìn tôi một hồi mà không đổi tư thế có phần lười lĩnh trong ghế bành. Rồi ông ta nói, “Anh bạn, tôi có câu hỏi này dành cho anh. Chúng tôi cần anh giúp đỡ một vấn đề mà chúng tôi bàn luận nãy giờ. Anh nói xem anh có nghĩ món nợ với nước Mỹ hiện thời là một nhân tố quan trọng gây nên tình hình thương mại ngán ngẩm hiện tại của chúng ta không? Hay anh thấy cái đó chỉ tổ đánh lạc hướng, và chính việc từ bỏ bản vị vàng mới là gốc rễ của vấn đề?”.
Đương nhiên, tôi có chút ngạc nhiên trước câu hỏi đó, nhưng rồi nhanh chóng nhận rõ chân tướng tình hình: có nghĩa là, các vị đây rõ ràng trông đợi tôi sẽ ngơ ngác không hiểu câu hỏi. Thực vậy, trong vòng chừng một khắc tôi vỡ lẽ ra điều đó cũng như sửa soạn lời đáp cho phù hợp, trông tôi có lẽ còn toát ra vẻ đang vất vả suy nghĩ, bởi tôi có thấy các vị trong phòng khoái trá mỉm cười với nhau.
“Tôi rất xin lỗi, thưa ngài”, tôi nói, “nhưng tôi không thể hỗ trợ ngài về vấn đề này”.
Cho tới lúc này thì tôi hoàn toàn kiểm soát tình hình, nhưng các vị kia vẫn cười thầm. Rồi ông Spencer nói, “Vậy có lẽ anh có thể giúp được chúng tôi về vấn đề khác. Anh nghĩ khủng hoảng tiền tệ ở Âu châu hiện thời sẽ khá hơn hay xấu đi nếu người Pháp và phe Bolshevik đạt được thỏa ước quân sự với nhau?”.
“Tôi rất xin lỗi, thưa ngài, nhưng tôi không thể hỗ trợ ngài về vấn đề này”.
“Ôi chao ơi”, ông Spencer nói. “Vậy là cả việc này anh cũng chẳng giúp chúng tôi được hả”.
Quanh phòng lại bật lên những tiếng cười cố nén trước khi huân tước bảo, “Tốt lắm, Stevens ạ. Anh ra được rồi”.
“Nào nào, Darlington, tôi vẫn còn một câu muốn hỏi anh bạn đây”, ông Spencer nói. “Tôi hết sức mong được anh ta trợ giúp về câu hỏi hiện đang làm nát óc nhiều người trong số chúng ta, câu hỏi mà chúng ta đều nhận thấy là chủ chốt để quyết xem nên xây dựng chính sách ngoại giao theo hướng nào. Anh bạn, làm ơn hỗ trợ chúng tôi. Ông Laval thực sự nhằm tới điều gì trong bài diễn văn mới đây về tình hình ở Bắc Phi? Anh có đồng quan điểm rằng đấy chỉ đơn thuần là mánh khóe nhằm đánh đắm cánh dân tộc chủ nghĩa bên lề trong nội bộ đảng nhà của ông ta không?”.
“Tôi xin lỗi, thưa ngài, nhưng tôi không thể hỗ trợ ngài về vấn đề này”.
“Các vị thấy chưa”, ông Spencer quay qua những người kia nói, “anh bạn chúng ta đây không thể hỗ trợ chúng ta về những vấn đề này”.
Chung quanh lại cười rộ lên, hầu như không buồn nén lại nữa.
“Thế mà”, ông Spencer nói tiếp, “chúng ta vẫn một mực ôm lấy cái quan điểm rằng những quyết định của dân tộc này phải được trao vào tay anh bạn chúng ta đây cùng vài triệu người khác giống như anh ta. Thử hỏi, bị trói buộc vào hệ thống nghị viện đương thời như vậy, phỏng có lạ gì là chúng ta không tìm được cách giải quyết nào cho trăm ngàn khó khăn ta đang đối mặt? Chẳng khác gì đòi một ủy ban từ liên đoàn các mẹ lên kế hoạch cho một chiến dịch thực địa, vậy đấy”.
Tới câu này thì chung quanh cười lớn sảng khoái và ồn ĩ, lúc đó huân tước lầm rầm, “Cám ơn anh, Stevens”, khiến tôi có cơ hội cáo từ.
Dù đây đương nhiên là một tình huống có chút khó chịu, nhưng đấy chẳng phải là việc khó khăn nhất, thậm chí cũng chẳng phải một sự vụ bất thường nảy sinh trong quá trình người ta thực hiện bổn phận của mình, và hẳn quý vị sẽ đồng ý rằng một người làm nghề đàng hoàng cần phải tiếp nhận những sự việc loại ấy một cách điềm tĩnh. Do đó tôi đã hầu như quên mất sự việc này, thì đến sáng hôm sau, Huân tước Darlington tới phòng bi-a trong lúc tôi đang đứng trên thang gấp lau số tranh chân dung, nói, “Stevens này, thực là tệ quá đi. Cái việc chúng tôi bắt anh chịu đựng tối qua ấy”.
Tôi dừng tay đang làm, đáp, “Đâu có gì, thưa ngài. Được giúp đỡ chút nào tôi rất lấy làm vui sướng”.
“Thực là tệ quá. Tôi đoán là bữa tối chúng tôi đã hơi vui quá đà. Xin anh hãy nhận lời tạ lỗi của tôi”.
“Tôi xin cám ơn, thưa ngài. Nhưng xin được cam đoan tôi hoàn toàn không thấy phiền hà gì đáng kể”.
Huân tước vẻ khá mệt mỏi bước tới một chiếc ghế bành da, ngồi xuống thở dài. Từ vị trí trên đỉnh thang nhìn xuống, tôi gần như thấy trọn vẹn thân mình dài của ngài lọt trong vệt ánh nắng đông đổ vào khung cửa sổ đôi lớn mà vắt qua gần hết gian phòng. Cái thời điểm ấy, như tôi nhớ, thuộc vào số những khoảnh khắc đủ làm người ta sực nhận ra những áp lực cuộc đời đã đè nặng xuống huân tước đến mức nào, trong một khoảng thời gian vài năm tương đối ngắn. Thân hình vốn mảnh dẻ của ngài giờ đã gầy võ vàng và còn hơi xộc xệch, tóc bạc sớm, gương mặt hốc hác căng thẳng. Trong một lúc, ngài ngồi nhìn những nếp đồi ngoài cửa sổ, rồi nhắc lại, “Quả thực là tệ. Nhưng Stevens ạ, anh thấy đó, ông Spencer cần chứng tỏ một điều với Sir Leonard. Thực tế là, nếu nhờ thế mà nguôi ngoai được phần nào, anh quả đã giúp chứng minh một điểm hết sức quan trọng. Sir Leonard vừa mới rao giảng quá nhiều mấy tư duy tầm bậy cũ kĩ ấy. Rằng ý nguyện của nhân dân là tài phán khôn ngoan nhất, vân vân. Anh có tin nổi không chứ, Stevens?”.
“Thực vậy, thưa ngài”.
“Ở cái đất nước này chúng ta thực chậm chạp khi cần nhận ra thứ gì đã tới lúc lỗi thời. Những dân tộc lớn khác hiểu rõ rằng muốn đương đầu với những thử thách của mỗi thời kỳ mới, cần phải vứt bỏ những phương pháp cũ, dù là những phương pháp được yêu mến. Ở Anh quốc này thì không, vẫn còn hàng bao nhiêu người nói năng như Sir Leonard đêm qua đó. Chính vì thế mà ông Spencer thấy cần phải chứng minh luận điểm của mình. Và tôi xin nói với anh, Stevens ạ, nếu những người như Sir Leonard mà có thể thức tỉnh và suy xét lại đôi chút, thì anh cứ tin lời tôi rằng việc anh chịu đựng tối qua không phải là phí hoài đâu”.
“Thực vậy, thưa ngài”.
Huân tước Darlington lại thở dài. “Chúng ta lúc nào cũng là người cuối, Stevens ạ. Bao giờ cũng là người cuối cùng bám víu lấy những hệ thống đã lỗi thời. Nhưng sớm muộn gì ta cũng phải đối mặt với sự thực thôi. Chế độ dân chủ thuộc về một thời đại đã qua rồi. Giờ thế giới đã trở nên một nơi quá sức phức tạp, không có chỗ cho phổ thông đầu phiếu cùng những thứ loại đó. Cho những nghị viên tiếp nối nghị viên bàn ra tán vào đến mức giậm chân tại chỗ. Vài năm trước thì có thể hay đẹp đấy, nhưng trong cái thế giới hiện nay? Tối qua ông Spencer đã nói gì nhỉ? Ông ta có cách diễn đạt hay lắm”.
“Thưa ngài, tôi tin rằng ông ấy đã so sánh chế độ nghị viện đương thời với một ủy ban từ liên đoàn các mẹ tìm cách lên kế hoạch cho một chiến dịch thực địa”.
“Chính xác, Stevens ạ. Nói thẳng ra là chúng ta đã đi sau thời đại ở đất nước này. Và điều cốt tử là mọi con người có tầm nhìn xa phải nạp được ý nghĩ này vào đầu những người như Sir Leonard”.
“Thực vậy, thưa ngài”.
“Stevens, tôi hỏi anh. Chúng ta đang ở giữa một cuộc khủng hoảng triền miên. Tôi đã tận mắt mình trông thấy khi đi lên Bắc cùng với ông Whittaker. Dân chúng đang chịu khổ. Những người lao động bình thường, đàng hoàng đang chịu khổ sở hết sức. Đức, Ý đã ra tay chấn chỉnh yên ổn, họ đã hành động. Cả cái cánh Bolshevik kia, theo cách riêng của họ, cũng có thể cho là đã hành động. Ngay đến cả Tổng thống Roosevelt, nhìn xem, ông ấy đâu có ngại đi vài bước táo bạo để lợi cho nhân dân mình. Rồi thì nhìn chúng ta đây, Stevens. Năm lại năm qua, chẳng có gì khá lên cả. Chúng ta chỉ làm mỗi việc là tranh luận bàn cãi rồi trì hoãn. Mỗi ý tưởng đàng hoàng bắt buộc phải diễu qua ngàn vạn ủy ban đều bị sửa đổi tới thành vô hiệu khi mới được nửa đường. Vài ba người có trình độ phân biệt được thứ gì với thứ gì thì lại bị đủ những người dốt nát vây quanh bàn thảo đến mức giậm chân tại chỗ. Anh thấy thế nào, Stevens?”.
“Quả thực đất nước dường như đang ở vào tình trạng đáng buồn, thưa ngài”.
“Tôi dám nói thế đấy. Anh nhìn Đức với Ý xem, Stevens. Xem lãnh đạo cương quyết nếu được phép hành động thì có thể làm được những gì. Ở đó làm gì có cái lối đầu phiếu phổ thông tầm bậy này. Khi nhà bị cháy thì không ai gọi cả nhà vào phòng tiếp tân mà bàn cãi các phương án thoát nạn mất một giờ liền, hả? Có thể trước kia thì rất hay đấy, nhưng giờ đây thế giới là một nơi chốn phức tạp. Làm sao trông đợi một người dân bất kỳ lại có đủ tri thức về chính trị, kinh tế, thương mại toàn cầu với vô số thứ khác được. Mà anh ta cần biết làm gì? Thực tế là đêm qua anh đã trả lời rất hay, Stevens ạ. Anh diễn đạt thế nào nhỉ? Đại loại là việc đó không nằm trong phạm vi của anh? Ừ, tại sao lại phải nằm trong phạm vi của anh chứ?”.
Khi nhớ lại những lời đó tôi nhận ra rằng, đương nhiên, rất nhiều ý tưởng của Huân tước Darlington ngày nay sẽ có vẻ khá kỳ khôi - thậm chí nhiều khi còn xấu xí. Nhưng dĩ nhiên, không thể phủ nhận rằng có một phần sự thực quan trọng trong những điều ngài nói với tôi sáng ấy trong phòng bi a. Đương nhiên, phải ngớ ngẩn lắm mới nghĩ rằng một quản gia bất kỳ lại ở vào vị thế giải đáp được một cách có thẩm quyền những câu hỏi như ông Spencer đã đặt cho tôi tối đó, và tuyên bố của những người như ông Harry Smith rằng “phẩm cách” tùy thuộc vào việc người ta trả lời được những câu hỏi ấy là một điều tầm bậy rành rành. Chúng ta hãy xác nhận cho thực rõ điều này: bổn phận của người quản gia là thực hiện tốt công việc phục vụ. Chứ không phải là nhúng tay vào những việc quốc gia đại sự. Thực tế là, những việc đại sự như thế sẽ luôn luôn ở ngoài tầm hiểu biết của những người như quý vị hay tôi, và trong chúng ta những ai mong muốn lập nên công trạng nào đó phải nhận ra rằng cách tốt nhất để được như vậy là tập trung vào những gì nằm trong phạm vi của chúng ta; nói cách khác, nghĩa là dồn hết tâm sức phục vụ cho tốt những vị đại nhân thực sự nắm trong tay số phận của nền văn minh. Điều này có vẻ quá hiển nhiên, nhưng mặt khác người ta có thể dẫn ngay ra quá nhiều trường hợp quản gia nghĩ khác hẳn, ít nhất trong một giai đoạn. Thực vậy, phát ngôn của ông Harry Smith tối nay rất giống với thái độ lý tưởng chủ nghĩa đã ăn sâu vào một bộ phận không nhỏ thế hệ chúng tôi suốt những năm hai mươi và ba mươi. Tôi đang muốn nói đến trường phái có ý kiến rằng mỗi quản gia thực sự có tâm nguyện cao vời phải coi mình có trách nhiệm vĩnh viễn đánh giá người chủ của mình - cân đo đong đếm những động cơ của họ, phân tích hệ quả những quan điểm của họ. Lập luận của các quản gia ấy là, chỉ có như vậy người ta mới có thể tin rằng những năng lực của mình đang được sử dụng vào một mục đích đáng quý. Dù người ta có đồng cảm tới một mức nhất định với tình cảm lý tưởng trong lập luận kiểu ấy, nhưng không thể nghi ngờ rằng điều đó, cũng như tình cảm mà ông Smith tỏ bày tối nay, xuất phát từ một kiểu tư duy lầm lạc. Chỉ cần nhìn những quản gia đã cố hiện thực hóa lối tiếp cận này, người ta sẽ thấy hậu quả trực tiếp là sự nghiệp của họ - và là những sự nghiệp rất nhiều triển vọng trong nhiều trường hợp - đã đi tới chỗ tiêu vong. Tôi có quen trực tiếp ít nhất hai người đồng liêu, cả hai đều có trình độ, cứ đi từ người chủ này đến gia đình kia, luôn luôn bất thỏa, không bao giờ trụ lại, cho tới khi cuối cùng họ mất tăm luôn. Xảy ra việc như vậy cũng là một điều chẳng hề đáng ngạc nhiên. Bởi về thực tiễn, không thể có khả năng dùng con mắt phán xét như vậy nhìn nhận chủ mình mà vẫn phục vụ người đó tử tế được. Không chỉ vì người ta khó đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của nghề phục vụ ở đẳng cấp cao nếu để mình phân tâm vì những sự việc loại đó, mà căn cốt hơn, một quản gia mãi mãi bỏ công lập nên những “chính kiến kiên định” về công việc của chủ mình chắc chắn sẽ đánh mất phẩm chất cốt yếu duy nhất của mỗi người quản gia đáng giá: đấy là lòng trung thành. Xin đừng hiểu lầm ý tôi; tôi không nói đến thứ “lòng trung thành” mù quáng mà những chủ nhân tầm thường hay viện dẫn và than thở khi thấy mình không thể giữ chân những người phục vụ trình độ cao. Thực vậy, tôi chắc chắn không thuộc loại người cổ động đem hiến lòng trung thành bừa bãi cho quý ông quý bà nào tình cờ dùng đến mình trong một thời gian. Tuy nhiên, nếu người quản gia muốn có chút giá trị nào đối với việc gì hay ai trong cuộc đời mình, hẳn nhiên sẽ phải đến lúc anh ta dừng cuộc tìm kiếm; phải đến lúc anh ta tự nhủ, “Người chủ này là hiện thân của tất cả những gì mình cho là đáng ngưỡng mộ và cao quý. Vậy nên từ giờ trở đi mình sẽ tận tụy phục vụ ông ta.” Đây là lòng trung thành được trao đi một cách thông minh. Việc này thì có gì “thiếu phẩm cách”? Chỉ là người ta chấp nhận một sự thực không cách nào tránh khỏi: rằng những kẻ như quý vị hay tôi sẽ không bao giờ ở vào vị thế có thể hiểu được những đại sự của thế giới ngày nay, và phương hướng hành động tốt nhất cho chúng ta luôn là đặt niềm tin vào một người chủ mà ta thấy là thông thái và trọng danh dự, và dành trọn sức lực mình phục vụ ông bằng hết khả năng mình. Hãy nhìn những người như ông Marshall chẳng hạn, hay ông Lane - chắc chắn là hai nhân vật mẫu mực nhất trong nghề này. Ta có thể nào tưởng tượng ông Marshall tranh biện với Huân tước Camberley về lá thư mới nhất của ngài gửi Bộ Ngoại giao không? Ta có kém phần khâm phục ông Lane nếu biết ông không có thói quen chất vấn Sir Leonard Grey trước mỗi lần ngài phát biểu ở Viện Thứ dân? Dĩ nhiên là không. Như vậy có gì là “thiếu phẩm cách”, như vậy có gì là đáng quở? Làm sao người ta có thể bị kết tội theo bất cứ nghĩa nào chỉ vì, chẳng hạn, thời gian trôi qua đã chứng minh rằng những nỗ lực của Huân tước Darlington là lầm lạc, thậm chí xuẩn ngốc? Qua suốt những năm tôi phục vụ ngài, chỉ có ngài và một mình ngài cân nhắc các dữ kiện và kết luận tốt nhất là hành động như ngài đã chọn, còn tôi chỉ đơn giản hạn chế mình, một cách đúng mực, trong những việc thuộc phạm vi nghề nghiệp của mình. Và cứ như tôi thấy, tôi đã thực hiện bổn phận của mình bằng trọn vẹn khả năng mình có, thực vậy, lên tới tiêu chuẩn mà rất nhiều người có lẽ sẽ coi là “ngoại hạng”. Thực không phải là lỗi của tôi nếu ngày nay nhìn lại, cuộc đời và sự nghiệp của huân tước lại thành ra khá nhất cũng là một sự hoài phí đáng buồn - và cũng thực không hợp lẽ nếu mong chờ tôi về phần mình cảm thấy hối tiếc hay hổ thẹn.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét