Thứ Bảy, 23 tháng 12, 2023

Tàn Ngày Để Lại - Ch 5

Tàn Ngày Để Lại

Tác giả: Kazuo Ishiguro
Dịch giả: An Lý
NXB Văn Học - 02/2021

Ngày thứ ba - Sáng
Taunton, Somerset

Đêm qua tôi nghỉ lại một quán trọ tên Xe & Ngựa, một quãng ngắn gần thị trấn Taunton, Somerset. Ngôi nhà mái tranh ven đường cái ấy, nhìn từ xa đã hiện ra nổi bật và quyến rũ khi tôi điều cỗ Ford lại gần trong ánh sáng cuối ngày. Ông chủ quán dẫn tôi theo cầu thang gỗ lên một căn phòng nhỏ, bài trí sơ sài, nhưng tuyệt đối đàng hoàng. Khi ông hỏi tôi đã dùng bữa tối hay chưa, tôi nhờ ông đưa lên phòng một cặp xăng uých, và bữa tối này đã tuyệt đối thỏa mãn những nhu cầu của tôi. Nhưng khi buổi tối đằng đẵng trôi qua, ngồi trong phòng tôi cảm thấy có phần tù túng, và cuối cùng quyết định viếng thăm quầy bar dưới nhà để nếm thử chút ít món rượu táo trong vùng.
Có chừng năm sáu người khách, hợp thành một nhóm quanh quầy bar - người ta có thể nhìn bộ dạng mà đoán họ đều làm nghề nông gì đó - nhưng trừ họ ra thì phòng không có ai khác. Sau khi nhận vại rượu táo từ ông chủ quán, tôi chọn chỗ cho mình ở bàn cách quầy hơi xa, định tâm thư giãn chút ít và xếp sắp lại những suy nghĩ về một ngày vừa qua. Tuy nhiên chỉ lát sau đã có thể nhận thấy rằng sự có mặt của tôi làm nhóm người địa phương bối rối, cảm thấy có lẽ cần làm gì đó tỏ lòng mến khách. Mỗi khi câu chuyện lặng đi, lại có ai đó trong số họ đánh trộm mắt về phía tôi, vẻ như đang cố cổ võ chính mình tiếp cận tôi. Rốt cuộc một người trỗi giọng nói với tôi, “Xem ra là ngài đã quyết định ngủ lại trên lầu đêm nay”.
Khi tôi xác nhận rằng đúng vậy, người kia lắc đầu nghi ngại và nhận định, “Lên đó ngài chẳng ngủ được mấy tí đâu, thưa ngài. Trừ khi ngài khoái nghe Bob nhà ta” - anh ta chỉ qua ông chủ quán - “khua rầm rầm dưới này đến tận đêm thâu. Rồi thì ngài sẽ tỉnh giấc vì tiếng bà chủ quát tháo ông ta từ lúc mới mờ mắt”.
Bất chấp ông chủ nhà phản đối, chung quanh cười rộ lên hưởng ứng.
“Quả thực vậy ư?” tôi đáp. Và ngay lúc ấy, tôi chợt nảy ra ý nghĩ - cũng là ý nghĩ đã nảy ra trong tôi vô số dịp gần đây khi đối diện cùng ông Farraday - rằng tình thế này đòi hỏi một câu pha trò đáp lại từ phía tôi. Thực vậy, nhóm người địa phương giờ đang giữ im lặng một cách lịch thiệp, chờ nhận xét tiếp theo của tôi. Tôi bèn huy động trí tưởng tượng và cuối cùng phát biểu, “Đây chắc là tiếng gà gáy sáng kiểu riêng của vùng này, hẳn nhiên”.
Ban đầu sự im lặng vẫn tiếp tục, như thể nhóm người địa phương cho rằng tôi còn muốn triển khai thêm nữa. Nhưng rồi nhận thấy vẻ mặt cười đùa của tôi, họ phá lên cười, dù tiếng cười có phần hoang mang. Đến đó, họ quay lại câu chuyện đang dở, còn tôi không trao đổi gì thêm với họ cho tới khi chúc nhau ngủ ngon một lúc sau.
Tôi đã cảm thấy khá hài lòng khi câu pha trò ấy vừa hiện lên trong đầu, và phải thú nhận rằng tôi có đôi chút thất vọng vì nó không được tiếp nhận hào hứng hơn. Tôi đoán còn một nguyên do khiến mình đặc biệt thất vọng, là bởi trong những tháng vừa rồi tôi đã dành kha khá thời gian và tâm sức để rèn luyện trong chính lĩnh vực này. Nói vậy có nghĩa là, tôi đã dốc sức gắng bổ sung kỹ năng ấy vào kho tàng nghiệp vụ của mình để có thể tự tin đáp ứng mọi kỳ vọng của ông Farraday trong lĩnh vực bông lơn.
Tỷ dụ như, gần đây tôi đã có thói quen nghe đài vô tuyến trong phòng mỗi khi có chút thời gian rảnh rỗi - thí dụ trong những dịp ông Farraday rời nhà vào buổi tối. Trong đó có một chương trình tên là Tuần hai lần trở lên, thực tế là phát ba lần mỗi tuần, về cơ bản gồm hai phát thanh viên nói những câu bình luận pha trò về các đề tài đa dạng do thính giả gửi thư đề nghị. Tôi bắt tay nghiên cứu chương trình này bởi những câu pha trò được trình diễn trên đó luôn thuộc loại tao nhã bậc nhất, và theo như tôi thấy, sở hữu một giọng điệu hoàn toàn không lệch với kiểu bông lơn mà ông Farraday có lẽ chờ đợi ở tôi. Lấy cảm hứng từ chương trình này, tôi đã thiết kế một bài tập đơn giản mà tôi cố thực hiện ít nhất ngày một lần; mỗi khi có được một khắc rỗi rãi, tôi cố sức đặt ra ba câu pha trò dựa trên khung cảnh ngay chung quanh mình thời điểm ấy. Hoặc trong một biến thể khác, có khi tôi cố gắng nghĩ ra ba câu pha trò dựa trên những sự kiện diễn ra trong một giờ đồng hồ vừa qua.
Như vậy có lẽ quý vị sẽ hiểu được cảm giác thất vọng nơi tôi về câu pha trò tối qua. Ban đầu, tôi đã cho rằng rất có thể thành công ít ỏi ấy là vì tôi phát âm không được rõ ràng. Nhưng rồi, sau khi lui về phòng, tôi chợt nhận ra khả năng rất có thể tôi đã thực sự làm họ mếch lòng. Suy cho cùng, câu ấy rất dễ bị hiểu thành tôi ngụ ý bà vợ ông chủ quán có bộ dạng giống một con gà trống - tuy ý tưởng ấy hoàn toàn xa lạ với dòng suy nghĩ của tôi lúc bấy giờ. Ý nghĩ ấy cứ dằn vặt mãi trong khi tôi cố ngủ, và tôi mơ hồ có ý muốn tạ lỗi với ông chủ quán sáng nay. Nhưng thái độ ông trong lúc đưa bữa sáng lên cho tôi có vẻ rất mực vui tươi, nên rốt cuộc tôi quyết định bỏ qua chuyện đó.
Nhưng vụ việc nhỏ này cũng là một thí dụ rất tốt cho những nguy hiểm tiềm tàng khi phát biểu những câu pha trò. Về bản chất, những câu pha trò lại càng khiến cho người ta chỉ có rất ít thời gian cân nhắc mọi hệ quả khả dĩ trước khi bị đặt vào tình thế phải phát ngôn, và nguy cơ thốt ra đủ loại phát ngôn không phải lối là rất cao nếu trước đó người ta chưa kịp tích lũy những kinh nghiệm và kỹ năng cần thiết. Không có lý nào mà cho rằng tôi sẽ không thông thạo lĩnh vực này, chỉ cần đủ thời gian và luyện tập, nhưng xét những nguy hiểm ấy, tôi đã quyết định tốt hơn hết, ít nhất là trước mắt, tôi sẽ không tìm cách thực hiện bổn phận này với ông Farraday cho tới khi đã thành thạo hơn.
Dù sao thì tôi phải ghi nhận một điều đáng buồn là những gì nhóm người địa phương đã đưa ra như một câu pha trò tối hôm qua - cái dự báo rằng tôi sẽ không có một đêm ngon giấc do những xáo động dưới nhà - lại thành ra rất đúng. Bà vợ ông chủ quán không hẳn là quát tháo, nhưng người ta nghe thấy bà nói không ngừng nghỉ, cả vào tối khuya khi bà cùng ông chồng lo việc trong quán, lẫn từ sáng sớm ngày hôm nay. Tuy nhiên, tôi sẵn lòng tha thứ cho hai vợ chồng, bởi có thể thấy rõ họ sở hữu một tinh thần làm việc hết sức chuyên cần, và tôi tin chắc tiếng ồn kia là bởi nguyên cớ ấy mà ra. Thêm nữa, đương nhiên, lại còn vấn đề là câu nhận định hết sức không hay của tôi. Do đó tôi không hề tỏ ý mình đã có một đêm bất an khi cảm ơn ông chủ quán và cáo từ để ra đường khám phá thị trấn chợ Taunton.
* * *
Có lẽ tôi đã có một đêm yên ả hơn nếu trú lại cơ sở này, nơi tôi đang ngồi thưởng thức tách trà dễ chịu giữa giờ sáng đây. Bởi thực vậy, tấm bảng ngoài cửa hứa hẹn không chỉ “trà, bánh, thức dùng nhẹ” mà cả “phòng nghỉ sạch sẽ, yên tĩnh, thoải mái”. Nơi này nằm ở phố chính của Taunton, rất gần quảng trường chợ, một tòa nhà hơi lún xuống, mặt tiền nổi bật nhờ những thanh rầm gỗ nặng tối màu. Tôi hiện đang ngồi trong phòng trà rất rộng rãi, tường ốp gỗ sồi, lượng bàn có lẽ đủ để nhận hai tá khách mà không gây cảm giác chật chội. Có hai cô bé tươi tắn đứng sau quầy bày bánh ngọt và bánh nướng đa dạng ngon mắt. Xét về tổng thể, đây là một địa điểm hết sức tuyệt vời cho việc dùng bữa trà sáng, nhưng lạ thay, dân Taunton dường như rất ít người muốn tận dụng chốn này. Hiện thời, bạn đồng phòng với tôi chỉ có hai bà cụ ngồi sánh vai nhau bên bàn kê sát tường đối diện, cùng một ông - có lẽ là một nông gia về hưu - ở bàn kê bên một trong mấy cửa sổ lồi lớn. Tôi không nhận rõ được ông ta, bởi ánh nắng chói chang buổi sáng trong phút này khiến ông ta chỉ là một mảng bóng đen. Nhưng tôi có thấy ông ta săm soi tờ báo, đều đặn ngưng để nhìn lên những người qua lại trên vệ đường bên ngoài. Xét theo cách ông ta làm vậy, ban đầu tôi ngỡ ông chờ một người có hẹn, nhưng xem ra ông ta đơn giản chỉ muốn ngỏ lời chào những người quen đi qua.
Bản thân tôi thì an tọa gần như sát tường trong cùng, nhưng cách một chiều dài căn phòng tôi vẫn thấy rõ con phố ngập nắng bên ngoài, và nhìn được trên vệ đường đối diện một cột chỉ đường cho biết vài thắng cảnh lân cận. Một trong mấy điểm ấy là làng Mursden. Có lẽ cái tên “Mursden” sẽ đánh thức ký ức trong quý vị, như đã đánh thức trong tôi khi tôi đọc thấy trên tập bản đồ đường đi ngày hôm qua. Thực vậy, phải nói là thậm chí tôi còn có ý đi chệch khỏi tuyến đường dự định chỉ để tới thăm ngôi làng ấy. Mursden, Somerset là nơi một thời từng có trụ sở hãng Giffen & Co., và chính Mursden là nơi người ta phải gửi đơn đặt hàng khi cần bổ sung xi nến đen hiệu Giffen, “cần gọt ra, trộn chung với sáp rồi quết bằng tay”. Có một thời gian hàng Giffen, không hồ nghi gì nữa, là loại xi đánh đồ bạc tốt nhất có thể tìm được, và chỉ vì sự xuất hiện của những hóa chất mới trên thị trường ngay trước khi chiến tranh nổ ra mà nhu cầu với mặt hàng đáng khâm phục này mới suy giảm.
Cứ theo tôi nhớ, hãng Giffen đã xuất hiện hồi đầu thập niên hai mươi, và hẳn không chỉ mình tôi đã gắn liền sự ra mắt của nhãn hiệu này với sự thay đổi về thái độ trong nghề mình - sự thay đổi đã khiến cho việc đánh bóng đồ bạc trở thành trọng tâm hàng đầu và đến ngày nay hầu như vẫn còn như vậy. Tôi tin rằng giống như rất nhiều chuyển dịch lớn khác xảy ra chung quanh giai đoạn này, ấy là một sự chuyển dịch có tính thế hệ; chính vào những năm đó mà thế hệ quản gia chúng tôi đã “thành niên”, và những nhân vật thí dụ như và đặc biệt là ông Marshall đã đóng vai trò cốt yếu trong việc biến đánh bóng đồ bạc thành trọng tâm của nghề quản gia. Đương nhiên, nói vậy không có ý chối rằng việc đánh bóng đồ bạc - nhất là những món sẽ dọn lên bàn tiệc - vẫn luôn được coi là một công việc quan yếu. Nhưng hẳn cũng không sai nếu nhận định rằng rất nhiều quản gia thuộc thế hệ cha tôi, chẳng hạn, không coi đó là điều thực quan hệ, và bằng chứng là thời đó, vị quản gia trong nhà rất ít khi đích thân coi sóc việc đánh bóng đồ bạc mà bằng lòng chừa lại cho sự hứng chí của người phó quản gia, chẳng hạn, chỉ thi thoảng mới thẩm tra kết quả. Hầu hết đều đồng tình rằng chính ông Marshall là người đầu tiên nhận thức hết tầm quan trọng của đồ bạc - nghĩa là, không một món đồ nào khác trong nhà có nhiều khả năng bị người ngoài soi xét kĩ lưỡng đến cho bằng đồ bạc dọn lên trên mâm, và vì thế đồ bạc là thước đo trước công chúng về tiêu chuẩn khắt khe ở mỗi nhà. Và cũng chính ông Marshall là người đầu tiên đã khiến tất thảy các vị khách cùng phu nhân tới thăm Nhà Charleville phải sững sờ khi trưng bày những món đồ bạc được đánh bóng tới những tiêu chuẩn chưa có ai từng tưởng tượng ra nổi. Điều tự nhiên là chẳng mấy chốc, các quản gia khắp từ Nam chí Bắc, dưới sức ép của chủ nhân, đều dồn hết tâm sức vào vấn đề đánh bóng đồ bạc. Như tôi nhớ, chẳng mấy chốc đã nảy ra một loạt quản gia, mỗi người đều tự nhận đã tìm ra những phương pháp có thể vượt qua ông Marshall - những phương pháp mà họ làm rùm beng lên với thiên hạ là được giữ gìn bảo mật, sánh ngang với những công thức nấu ăn của các đầu bếp Pháp. Nhưng tôi tin tưởng - ngày nay cũng như lúc đó - rằng những quy trình cầu kỳ bí hiểm của những người như ông Jack Neighbours chẳng hạn, chỉ có tác động rất ít hoặc không đáng kể đối với sản phẩm của quy trình. Cứ như tôi thấy, vấn đề rất đơn giản: người ta dùng xi tốt, người ta giám sát kĩ. Xi Giffen là loại xi chọn dùng của mọi quản gia khôn ngoan thời bấy giờ, và nếu sử dụng đúng cách thì người ta không việc gì phải lo đồ bạc của mình thua kém ai cả.
Tôi vui lòng nhớ lại rất nhiều dịp đồ bạc ở Dinh Darlington đã gây ấn tượng đẹp cho những người xem xét. Tỷ dụ, Phu nhân Astor có lần nhận xét, không phải không có đôi chút cay đắng, rằng đồ bạc nhà này “hẳn là không có đối thủ”. Và tôi nhớ mình từng theo dõi ông George Bernard Shaw, kịch tác gia danh tiếng, một tối dùng bữa ở đây đã săm soi cẩn thận chiếc thìa ăn đồ ngọt trước mặt mình, giơ lên trước đèn, so bề mặt nó với bề mặt đĩa bày bên cạnh, chẳng màng đến những người cùng bàn. Nhưng ngày hôm nay, có lẽ lần tôi nhớ lại với cảm giác vừa lòng nhất, là buổi tối mà một bậc danh giá nọ - một thành viên nội các mà chỉ ít lâu sau đó sẽ trở thành ngoại trưởng - đã tới nhà trong một chuyến thăm rất “kín”. Thực tế là, bởi bây giờ những thành quả của các chuyến thăm ấy đã để lại nhiều bàn luận trong sách sử, có lẽ chẳng còn cớ gì mà không nên tiết lộ tôi đang nhắc đến Tử tước, nay là Bá tước, Halifax.
Như sau này thấy, chuyến thăm ngày hôm đó chỉ để bắt đầu một chuỗi họp mặt “phi chính thức” tương tự giữa Tử tước Halifax và ngài Đại sứ Đức đương thời, Herr Ribbentrop. Nhưng tối đầu tiên ấy Tử tước Halifax tới nơi trong một tâm trạng đề phòng vô kể; những lời gần như đầu tiên khi ngài được đưa vào là, “Nói thực, Darlington ạ, tôi không biết anh đã đẩy tôi vào việc gì đây nữa. Tôi biết là mình rồi sẽ hối hận mà”.
Herr Ribbentrop phải khoảng một giờ đồng hồ nữa mới tới, vì vậy huân tước đề nghị đưa vị khách đi một vòng thăm Dinh Darlington - chiến thuật ấy đã nhiều lần giúp thư giãn những vị khách đương căng thẳng. Tuy nhiên, trong lúc qua lại làm việc mình, một hồi lâu tôi chỉ nghe thấy duy nhất tiếng Tử tước Halifax, ở phòng này hay phòng khác trong nhà, vẫn không ngừng ngờ vực về buổi tối đương chờ trước mắt, còn Huân tước Darlington hoài công trấn an ông. Nhưng rồi đến một lúc tôi nghe Tử tước Halifax thốt lên, “Chao ơi, Darlington, đồ bạc của nhà anh thực là thú quá”. Đương nhiên vào lúc đó tôi đã rất vui lòng được nghe câu ấy, nhưng với tôi hệ quả thực sự ấm lòng cho buổi ấy phải đợi tới hai ba ngày sau đó, khi Huân tước Darlington nhận xét, “Nhân thể, Stevens này, Tử tước Halifax thực sự rất ấn tượng với đồ bạc nhà mình hôm trước đấy. Khiến ngài chuyển hẳn sang tâm thế khác”. Đây thực sự là những lời thốt ra từ miệng ngài - tôi vẫn nhớ như đinh đóng cột - vậy nên không chỉ là tôi mơ hão, rằng tình trạng các món đồ bạc đã đóng góp phần nhỏ nhưng đáng kể giúp cho mối quan hệ giữa Tử tước Halifax và Herr Ribbentrop tối hôm ấy thêm phần êm thấm.
Đến đây có lẽ đã tới lúc nên nói vài lời về phần Herr Ribbentrop. Đương nhiên, thời nay, ý kiến chung là Herr Ribbentrop là kẻ bịp bợm: rằng kế hoạch của Hitler suốt những năm ấy từ đầu vẫn là che mắt Anh quốc về tâm địa thực của mình càng lâu càng tốt, và sứ mạng duy nhất của Herr Ribbentrop ở nước ta là đạo diễn sự lừa mị này. Như tôi đã nói, đấy là quan điểm phổ biến và hiện thời tôi không có ý định phản đối điều này. Tuy nhiên, thực khá ghê tai khi ngày nay phải nghe mọi người nói năng như thể họ không một phút nào mắc bẫy Herr Ribbentrop - như thể riêng mình Huân tước Darlington tin vào bộ mặt quý tộc trọng danh dự mà Herr Ribbentrop phô ra và hình thành mối giao thiệp công việc với ông ta. Sự thực là suốt trong thập niên ba mươi, Herr Ribbentrop là một nhân vật được trọng vọng trong những nhà danh giá nhất, thậm chí lừng lẫy nữa là khác. Đặc biệt vào quãng 1936, 1937, tôi nhớ tất cả chuyện trò của nhân viên từ xa tới trong phòng gia nhân đều chỉ xoay quanh “ông Đại sứ Đức”, và từ lời họ có thể thấy rõ rằng rất nhiều ông lớn và phu nhân quyền quý nhất trong nước đều mê đắm ông ta. Như tôi đã nói, thực ghê tai khi giờ đây phải nghe chính những người ấy nói năng về thời kỳ đó, và nhất là nghe một số người nói về huân tước. Thói đạo đức giả của mấy người ấy lên tới mức nào thì sẽ nhãn tiền nếu quý vị được thấy dù chỉ vài danh sách khách mời của họ thời kỳ đó; quý vị sẽ được thấy Herr Ribbentrop không chỉ dùng bữa tối bên bàn chính những con người ấy đều đặn ra sao, mà thường xuyên, còn là thượng khách trong buổi tiệc.
Và rồi quý vị sẽ nghe chính những con người ấy nói năng như thể Huân tước Darlington đã hành xử bất thường khi nhận lời mời khoản đãi của mấy người Quốc xã trong vài chuyến ngài viếng thăm Đức thời gian ấy. Tôi cho rằng họ sẽ chẳng nói năng tùy tiện đến như vậy giả như Thời báo chẳng hạn có đăng tải dù chỉ một danh sách khách mời trong những yến tiệc của người Đức mỗi dịp mít tinh Nuremberg hằng năm. Thực tế là, ngay cả những ông lớn và phu nhân cao trọng, tôn kính nhất ở Anh cũng không chê lòng hiếu khách của các lãnh đạo Đức, và tôi có thể khẳng định qua kinh nghiệm trực tiếp rằng đại đa số những con người ấy trở về chỉ thuần là ca tụng và thán phục những người thù tiếp mình. Bất kỳ ai ám chỉ rằng Huân tước Darlington đã lén lút qua lại với kẻ thù chung, kẻ đó chẳng qua đang quên đi không khí thực của thời kỳ ấy một cách thực tiện cho họ.
Cũng cần nói thêm rằng thực tầm bậy và bừa bãi đến chừng nào khi gán cho Huân tước Darlington là bài Do Thái, hoặc là nói ngài có liên hệ sâu đậm với những tổ chức như Liên minh Phát xít Anh. Những lời gán ghép ấy chỉ có thể nảy sinh ở những ai hoàn toàn không biết đến bản tính chính nhân quân tử của huân tước. Huân tước Darlington đã đi đến chỗ căm ghét thói bài Do Thái; tôi đã nghe ngài bày tỏ sự gớm ghét trong vài dịp khác nhau khi phải giáp mặt với thái độ kỳ thị Do Thái. Và cáo buộc rằng huân tước không bao giờ cho phép người Do Thái bước vào nhà, không bao giờ cho nhận một người làm Do Thái, là tuyệt đối vô căn cứ - có lẽ chỉ trừ một vụ việc vô cùng nhỏ vào thập niên ba mươi đã bị thổi phồng lên. Còn về Liên minh Phát xít Anh, tôi chỉ có thể nói là bất cứ đồn đại nào ghép chung huân tước với đám người ấy thì đều rất nực cười. Sir Oswald Mosley, cái vị lãnh đạo đám “áo đen” đó, tới dùng bữa ở Dinh Darlington tính ra được ba lần là cùng, mà tất cả ba lần ấy đều vào hồi tổ chức đó mới thành lập, chưa lộ ra bản chất thực. Một khi bộ mặt xấu xí của phong trào áo đen đã bộc lộ - và hãy biết rằng huân tước còn chóng nhận thấy điều này hơn hầu hết mọi người - Huân tước Darlington đã tuyệt giao với đám người ấy.
Dù sao đi nữa thì những tổ chức kiểu ấy cũng hoàn toàn chỉ đứng bên rìa, rất xa trung tâm đời sống chính trị nước ta. Quý vị cần hiểu rằng Huân tước Darlington chỉ bận tâm với những gì thực sự ở tâm điểm mọi sự, và những nhân vật ngài đã gắng sức đưa về họp mặt trong những năm ấy là một trời một vực với những nhóm bên lề khó ưa như vậy. Họ không chỉ đáng trọng hết mức, mà là những nhân vật nắm giữ ảnh hưởng thực sự trong đời sống ở Anh: những chính khách, nhà ngoại giao, tướng tá hay giáo chức. Thực vậy, nhiều người trong các vị ấy là người Do Thái, và chỉ nội điều này đã đủ chứng tỏ phần lớn những điều từng nói về huân tước nhảm nhí đến mức nào.
Nhưng tôi nói lạc đề rồi. Thực tế là tôi đang bàn về vấn đề đồ bạc, và về Tử tước Halifax đã có ấn tượng thích đáng vào buổi tối ngài gặp Herr Ribbentrop tại Dinh Darlington. Xin nói cho rõ, tôi không hề mảy may có ý rằng buổi tối đã khởi đầu trong nguy cơ đổ vỡ với ông chủ tôi lại biến thành thắng lợi chỉ thuần vì mấy món đồ bạc đó. Nhưng như tôi đã trình bày, chính bản thân Huân tước Darlington cũng tỏ ý rằng số đồ bạc ít nhất chắc cũng đã đóng một vai trò nhỏ góp phần thay đổi đôi chút tâm trạng của vị khách tối hôm ấy, và có lẽ ngẫm lại những lần như vậy với niềm mãn nguyện trong lòng có thể cũng không phải việc làm quá sức viển vông.
Trong số thành viên nghề chúng tôi có những người một mực cho rằng xét cho cùng người ta phục vụ cho vị chủ nào cũng không quan trọng; họ tin rằng tinh thần lý tưởng phổ biến trong thế hệ chúng tôi - nghĩa là ý niệm rằng quản gia chúng tôi nên có tâm nguyện được làm việc cho những nhân vật cao quý phụng sự cho toàn nhân loại - chỉ là những lời văn hoa chải chuốt mà không có cơ sở gì trong hiện thực. Đương nhiên điều dễ nhận thấy là số bày tỏ thói hoài nghi như vậy không trừ một ai đều hóa ra là những kẻ tầm thường nhất trong nghề - họ biết rằng mình không có khả năng đạt đến vị trí nào đáng kể, nên chỉ có tâm nguyện kéo càng nhiều người càng tốt xuống ngang tầm mình - và người ta khó có thể coi trọng những ý kiến kiểu ấy. Nhưng dù nói gì đi chăng nữa, vẫn thực hài lòng khi có thể kể ra trong sự nghiệp của chính mình những trường hợp minh họa rõ ràng những người ấy đã sai lầm. Đương nhiên, ai cũng cố gắng phục vụ chủ mình trước sau như một, giá trị của quá trình như vậy không thể chỉ quy về một vài trường hợp đặc biệt - như việc đã xảy ra với Tử tước Halifax. Nhưng tôi đang muốn nói rằng chính những trường hợp kiểu ấy dần dà đã biểu thị cho một sự thực không thể chối cãi: rằng người ta đã có vinh dự được thực hành nghề nghiệp của mình ở ngay nền móng của những việc đại sự. Và có lẽ người ta có quyền cảm thấy một niềm mãn nguyện mà những ai bằng lòng làm việc cho những chủ nhân tầm thường sẽ không bao giờ được biết - niềm mãn nguyện khi được nói ít nhiều chính đáng rằng công sức của mình, dù là theo một cách khiêm nhường nhất, đã đóng góp chút ít vào tiến trình lịch sử.
Nhưng có lẽ không nên hoài vọng lại quá khứ nhiều như vậy. Suy cho cùng thì tôi hẵng còn rất nhiều năm phục vụ cần cống hiến. Và ông Farraday không chỉ là một chủ nhân rất tuyệt diệu, mà còn là một vị người Mỹ, và đương nhiên bổn phận của người ta là càng phải trình cho ông biết những điều tốt đẹp nhất về cung cách phục vụ ở nước Anh. Vì thế, cốt yếu, người ta cần tập trung chú ý vào hiện tại; cần đề phòng mọi sự tự đắc xâm lấn ngấm ngầm vì những thành tựu nào đó trong quá khứ. Bởi phải thừa nhận rằng, trong mấy tháng vừa qua, tình hình ở Dinh Darlington không đạt được như kỳ vọng. Dạo gần đây một loạt những lỗi lầm nhỏ đã nảy ra, gồm cả vụ việc hồi tháng Tư cũng về đồ bạc ấy. May mắn thay, đấy không phải là dịp ông Farraday đãi khách, nhưng dù thế vẫn là một thời khắc hổ thẹn thực lòng đối với tôi.
Việc xảy ra vào bữa sáng, và về phần mình, ông Farraday - hoặc do lòng nhân từ, hoặc do ông là người Mỹ và không nhìn nhận hết tầm mức nghiêm trọng của thiếu sót ấy - không hề thốt lấy một lời quở trách tôi trong suốt toàn bộ vụ việc. Ông ngồi vào bàn, chỉ cầm cây nĩa lên, nhìn qua một giây, đưa đầu ngón tay chạm vào đầu nĩa, rồi lại quay sang tờ báo sáng. Cử chỉ ấy diễn ra có phần lơ đãng, nhưng dĩ nhiên tôi đã phát hiện ra và đã nhanh chóng tiến lại để dời chỗ món đồ bất như ý. Thực tế có lẽ mối phiền lòng đã khiến tôi thực hiện hơi nhanh chóng quá, bởi ông Farraday có khẽ giật mình và lẩm bẩm, “A, Stevens”.
Tôi đã nhanh chóng bước tiếp ra khỏi phòng, và quay lại không quá chậm trễ với một cây nĩa đạt yêu cầu. Khi tôi lại tiến tới chỗ bàn - nơi ông Farraday có vẻ đã vùi đầu vào tờ báo - tôi chợt nghĩ ra mình có thể lẳng lặng luồn cây nĩa vào trên khăn bàn mà không quấy nhiễu việc đọc của ông chủ. Tuy nhiên, tôi đã kịp nghĩ ra rằng có khả năng ông Farraday chỉ giả bộ thờ ơ để xoa dịu nỗi hổ thẹn của tôi, và việc đưa nĩa lén lút như vậy có thể bị hiểu là trơ tráo trước sơ suất của mình - hoặc xấu hơn nữa, tìm cách che đậy nó. Chính vì thế mà tới đó, tôi quyết định rằng điều đúng đắn là đặt cây nĩa xuống bàn mạnh tay một chút, khiến ông chủ tôi lại giật mình lần nữa, ngẩng lên và lại lầm bầm, “A, Stevens”.
Những sơ suất kiểu như vậy đã xuất hiện trong vài tháng vừa qua, và hiển nhiên gây tổn thương đến lòng tự trọng, nhưng mặt khác người ta cũng không cần phải cho đó là dấu hiệu của điều gì tai ác hơn một khiếm khuyết về nhân sự. Không phải vì khiếm khuyết nhân sự tự nó không có gì nghiêm trọng; nhưng nếu quả là cô Kenton sẽ trở về Dinh Darlington, tôi đoan chắc những sơ sẩy kiểu ấy sẽ chỉ còn là quá khứ. Đương nhiên, người ta cần phải nhớ rằng trong lá thư cô Kenton không nói một lời nào cụ thể - tiện đây xin nói, tôi đã đọc lại thư đêm qua trên phòng trước khi tắt đèn - để thể hiện thật minh xác nguyện vọng được trở lại công việc cũ của mình. Thực tế, người ta cần phải chấp nhận có một khả năng rõ ràng là biết đâu trước đây - có lẽ do lòng mong ước xuất phát từ lý do nghề nghiệp - mình đã thổi phồng những bằng cớ nếu có về một nguyện vọng nào như vậy. Bởi tôi phải nói rằng đêm qua tôi đã hơi ngạc nhiên nhận thấy khó mà chỉ ra một đoạn viết nào trong thư nói rành mạch ý nguyện của cô muốn trở về.
Nhưng ngược lại, cũng thực không cần thiết mà phỏng đoán quá nhiều về những vấn đề như vậy khi người ta biết rằng, hầu như chắc chắn, mình sẽ nói chuyện trực tiếp với cô Kenton chỉ trong bốn mươi tám giờ nữa. Tuy vậy, tôi vẫn phải nói rằng tôi đã dành nhiều phút dài lật đi lật lại những đoạn viết ấy trong đầu khi nằm trong bóng tối, lắng nghe từ dưới nhà tiếng ông chủ quán và bà vợ xếp dọn đồ ban đêm.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét