Những cây cầu ở quận Madison
Tác giả: Robert James Waller
Dịch giả: Thanh Vân
Nhà xuất bản Phụ Nữ - 2012
6. Tro tàn
Đêm đã phủ xuống quận Madison .
Sinh nhật lần thứ 67, năm 1987. Từ hai tiếng đồng hồ, Francesca vẫn nằm dài
trên giường, bà vẫn có thể thấy, sờ hay cảm thấy tất cả những gì bà trải qua
hai mươi hai năm về trước.
Bà còn nhớ, nhớ mãi. Hình ảnh ánh đỏ của đèn sau xe hơi ông
khuất dần về phía Tây dọc đường 92, trong sương mù và trong làn mưa, vẫn theo
bà từ hơn hai mươi năm rồi. Bà sờ nhẹ lên vú và cảm thấy bắp thịt ở ngực mình
chạm vào tay bà. Chúa ơi, bà yêu ông ấy biết chừng nào. Bà yêu ông ấy hơn là bà
có thể tưởng, bà càng yêu ông ấy hơn nữa trong giờ phút này, qua ngần ấy năm.
Bà đã có thể làm bất cứ điều gì cho ông, ngoại trừ hủy hoại gia đình bà và có
lẽ, hủy hoại cả chính ông nữa. Bà bước xuống cầu thang và ngồi xuống bên chiếc
bàn cũ kỹ bằng mi-ca vàng trong nhà bếp. Trước đây Richard đòi mua một chiếc
bàn mới cho bằng được. Bà đành chiều nhưng khăng khăng đòi phải đem chiếc bàn
cũ cất vào trong xưởng và bà chăm chút bọc lại trước khi cất đi.
“Anh thật chẳng hiểu tại sao em lại quá gắn bó với cái bàn
cũ mèm nảy như vậy”. Richard nhận xét khi giúp bà mang bàn vào xưởng. Sau khi
Richard chết, bà bảo Michael mang lại vào trong nhà. Michael không bao giờ hỏi
mẹ tại sao lại muốn thay cái bàn mới bằng cái cũ này. Cậu chỉ đưa mắt nhìn dò
hỏi và Francesca không nói gì cả.
Bây giờ thì bà ngồi vào chính chiếc bàn ấy. Rồi bà lấy từ tủ
ra hai ngọn nến trắng cắm trên giá bằng đồng. Bà châm nến và mở máy thu thanh,
đổi kênh cho đến khi máy phát ra một bản nhạc dịu dàng.
Bà đứng yên trước bồn rửa chén một lúc lâu, nhẹ ngẩng đầu
như nhìn ông, lẩm bẩm: “Em nhớ anh, Robert Kincaid. Có lẽ Đấng Tối cao trong sa
mạc có lý. Có lẽ anh là người cuối cùng. Có lẽ tất cả những chàng cao bồi ngày
nay đều đang biến mất”.
Trước khi Richard chết, bà không bao giờ thử gọi điện hay
viết cho Robert, mặc dù suốt chừng ấy năm, ngày nào bà cũng thôi thúc muốn làm
như vậy, bởi nếu ông còn bảo bà một lần nữa, hẳn bà sẽ ra đi với ông. Nếu bà
viết thư, bà biết chắc chắn ông sẽ bay ngay đến tìm bà. Trong suốt chừng ấy
năm, ông không hề gọi điện hoặc viết thư, sau khi gởi cho bà một bưu phẩm nhỏ
gồm mấy tấm ảnh và một bản thảo. Bà biết rằng ông hiểu điều bà cảm nhận và hiểu
những phức tạp mà ông có thể gây ra cho cuộc đời bà.
Bắt đầu từ năm 1965, bà đặt mua dài hạn tờ National
Geographic. Bài phóng sự về những chiếc cầu có mái che xuất hiện năm sau và
người ta thấy trên tạp chí hình chiếc cầu Roseman trong ánh sáng đầu tiên của
bình minh, cái ngày mà ông nhận mẩu giấy nhắn của bà gắn trên cầu. Bìa cũng
đăng một trong những tấm hình ông chụp: đó là ảnh hai con ngựa kéo chiếc xe về
phía cầu Hogback. Bài viết cũng ký tên ông.
Phía sau tờ tạp chí, người ta thường giới thiệu các phóng
viên và các nhà nhiếp ảnh, đôi khi còn đăng hình họ nữa. Thỉnh thoảng cũng có
đăng hình ông. Vẫn mái tóc xám bạc, chiếc vòng, quần jean hoặc kaki, máy ảnh
đeo vai, đường gân hằn rõ nơi cánh tay. Khi thì ở Kalahari, trước bức tường đền
Jaipar ở Ấn Độ, trong chiếc xuồng ở Guatemala ,
khi ở phía Bắc Canada .
Con đường và chàng lãng tử. Bà cắt ảnh và bài của ông cùng cả số báo có bài về
cây cầu, bản thảo và ảnh bà cùng mẩu giấy nhắn bà viết, cho tất cả vào một
phong bì giấy dày và để vào ngăn tủ quần áo, lẫn lộn với mớ đồ lót, chỗ mà
Richard không bao giờ sờ tới.
Nhìn những bức ảnh chụp Robert Kincaid, theo dấu ông qua bao
nhiêu năm, bà nhận thấy ông già đi nhiều. Vẫn luôn luôn nụ cười đó. Vẫn cái
thân hình dong dỏng, mềm mại và đầy bắp thịt. Nhưng bà có thể nhìn thấy những
nếp nhăn nơi khóe mắt, khuôn mặt hơi trĩu nặng. Bà có thể đọc thấy tất cả điều
đó. Bà đã từng quan sát chăm chú thân thể ông trước đây. Và bây giờ thấy ông
già đi, bà lại thấy ham muốn ông hơn. Bà đoán - không, bà chắc chắn ông đang
sống một mình. Và quả như vậy.
Giờ đây, hai mươi hai năm sau, ngồi bên bàn, bà lặng lẽ ngắm
nghía những tấm hình cắt ra từ tờ tạp chí. Từ những miền xa xôi, ông nhìn lại
bà. Bà lần giở bức ảnh trên số tạp chí năm 1967. Ông đứng gần một dòng sông ở
Tây Phi, cận cảnh, mắt nhìn thẳng vào ống kính, cặp mày hơi nhíu lại, như đang
nhắm vào một điểm nào đó.
Nhiều năm trước đây, khi nhìn bức ảnh này lần đầu, bà đã để
ý thấy nơi sợi dây chuyền bạc ông đeo ở cổ có gắn thêm một hình trái tim nhỏ.
Richard và Carolyn thì đã đi ngủ, bà bèn lấy cái kính lúp mà hồi bé Michael vẫn
dùng để xem bộ sưu tập tem và đưa lại gần tấm ảnh.
“Chúa ơi” - bà kêu lên. Trên hình trái tim có khắc chữ:
“Francesca”. Bà mỉm cười tha thứ cho hành động thiếu kín đáo duy nhất đó của
ông. Trong những bức ảnh chụp sau đó, luôn luôn vẫn có hình trái tim nơi dây
chuyền bạc của ông.
Từ sau năm 1975, ảnh của ông không còn xuất hiện trên tờ tạp
chí nữa. Cả tên cũng không.
Bà kiểm tra từng số nhưng không thấy. Năm đó ông hẳn đã sáu
mươi hai tuổi.
Khi Richard chết vào năm 1979, sau tang lễ và sau khi các
con đã đi, bà mới nghĩ đến việc gọi điện cho Robert Kincaid. Ông lúc đó đã sáu
sáu, còn bà năm chín. Vẫn còn thời gian trước mắt cho hai người, dẫu cho là họ
đã đánh mất đi mười bốn năm trời. Bà suy nghĩ thật lâu về điều này trong cả
tuần lễ, rồi cuối cùng tìm số điện thoại ghi nơi thư ông và gọi ông.
Tim bà ngừng đập khi nghe chuông reo. Bà nghe tiếng trả lời,
một giọng đàn bà:
“Bảo hiểm Mc Gregor đây”. Francesca choáng váng nhưng cố
trấn tĩnh để hỏi lại xem có phải đúng số đó không. Đúng. Bà cám ơn và buông
máy. Sau đó bà cố thử gọi tổng đài ở Bellingham ,
ở bang Washington
để hỏi. Chẳng ai có tên này trong danh mục. Bà thử hỏi ở Seattle . Cũng không. Rồi các phòng thương mại
ở Bellington và Seattle
nữa. Cũng không nốt. Bà cũng yêu cầu người ta kiểm tra lại nơi các cuốn niên
giám của thành phố. Họ kiểm tra lại và không tìm thấy ai có tên này cả.
“Anh ấy có thể ở bất cứ nơi nào” - Bà tự nhủ.
Bà nhớ đến tờ tạp chí, ông có dặn nếu cần thì gọi nơi đó. Bà
liền gọi thử. Cô tiếp khách trả lời nhã nhặn nhưng cho biết hỏi người khác mới
trả lời được, vì cô ta là nhân viên mới. Bà phải gọi qua ba người nữa rồi mới
được nói chuyện với người phó tổng biên tập, là người đã làm ở đây từ hai mươi
năm. Bà hỏi về Robert Kincaid.
Rõ ràng cái ông phó tổng biên tập này còn nhớ Kincaid. “Bà
muốn tìm lão ta hả? Cái lão nhiếp ảnh gia chết tiệt đó, ơ, xin lỗi bà. Lão khó
chịu lắm, rất bướng bỉnh. Lão cứ nhất định nghệ thuật vị nghệ thuật, mà điều đó
thì không “ăn” với độc giả của chúng tôi rồi. Họ muốn có những bức ảnh đẹp,
chụp khéo nhưng không lập dị, vô lý cơ. Chúng tôi luôn luôn biết là Kincaid hơi
khác thường, lão cũng chẳng biết nhìn xa trong công việc. Nhưng đó là một tay
chuyên nghiệp thật sự. Người ta có thể gởi lão đến bất cứ nơi đâu lão cũng làm
việc ra trò, kể cả khi lão không đồng ý với quyết định của ban biên tập. Còn về
địa chỉ của lão, thì tôi đang xem lại để cho bà biết đây. Lão thôi làm ở tạp
chí này từ năm 1975. Tôi có giữ địa chỉ và số điện thoại sau đây...”. Ông ta
cho bà những địa chỉ, số điện thoại mà bà đã biết. Sau lần đó bà thôi không cố
tìm nữa, dường như bà sợ những điều có thể phát hiện.
Bà tiếp tục sống, cho phép mình nghĩ đến Robert Kincaid
thường xuyên hơn. Thường nhiều lần trong năm, bà đến Des Moines để ăn trong cái quán ăn họ đã từng
ăn với nhau. Một trong những dịp đó, bà mua một cuốn sổ bìa da. Và trên những
trang giấy trắng tinh, bằng một nét chữ trau chuốt, bà bắt đầu kể lại đầy đủ chi
tiết về cuộc tình của họ và về những tư tưởng mà ông đã gợi ra cho bà. Bà phải
dùng hết ba cuốn sổ như vậy mới có cảm giác là mình đã hoàn tất xong nhiệm vụ.
Winterset bây giờ đã tân tiến nhiều. Thị xã có một hội đồng nghệ thuật tích
cực, phần lớn do các bà đảm trách. Người ta bàn đến việc sửa chữa, tân trang
các cây cầu cũ kỹ bị bỏ quên nhiều năm. Tâm lý dân chúng cũng thay đổi nhiều,
những mái tóc dài của đàn ông không còn làm cho người ta xì xào bàn tán nữa,
dẫu vẫn có ít người đi xăng-đan và hầu như không có thi sĩ ở đây.
Dẫu sao thì Francesca cũng đã hoàn toàn rút lui ra khỏi cộng
đồng, ngoại trừ mối liên hệ với một ít người bạn thân. Người ta hơi chú ý đến
điểm này và còn kể là thường thấy bà đi đến cây cầu Roseman và đôi khi, đến cầu
Cedar nữa. Khi đã già người ta hay lẩn thẩn lạ lùng vậy đó, họ bình luận như
thế và bằng lòng về cách giải thích này.
Ngày 2 tháng 2 năm 1982, một chiếc xe tải của Công ty giao
hàng rẽ lên ngõ nhà bà. Francesca không nhớ là mình có đặt mua hàng gì không.
Ngạc nhiên, bà ký nhận và nhìn địa chỉ ghi ngoài kiện hàng: “Francesca Johnson
RR2, Winterset , Iowa , 50273 ”.
Gói hàng đó do một hãng luật ở Seattle
gởi.
Gói hàng được bọc cẩn thận và gởi bảo đảm. Bà đặt lên bàn
bếp và cẩn thận mở ra. Phía trong có ba cái hộp, chèn giữa bằng những miếng
xốp, trên một trong ba hộp đó là một phong bì dán kín. Trên một hộp khác là một
phong bì ghi tên bà trong có lá thư của hãng luật.
Bà tháo phong bì đó và run run mở ra.
“25 tháng giêng 1982
Kính gởi bà Francesca
Johnson
RR2 Winterset Iowa 50273
Kính bà Johnson,
Chúng tôi xin thay mặt
cho ông Robert L. Kincaid vừa mới từ trần...
Francesca đặt phong thư lên bàn. Bên ngoài tuyết đang phủ
cánh đồng mùa đông. Bà nhìn tuyết bay phấp phới trên những cuống rạ, và cuốn
theo những vỏ bắp bay tung toé rồi dồn vào trong một góc rào kẽm gai. Bà đọc
lại câu đầu trong lá thư.
Chúng tôi xin thay mặt cho ông Robert L Kincaid vừa mới từ
trần...
“Ôi, Robert... Robert... không...”. Bà thốt lên, đầu gục
xuống ngực.
Mãi một giờ sau bà mới có thể đọc tiếp bức thư. Hình thức
hành chánh, giọng văn vô hồn của nó khiến bà phẫn nộ.
“Chúng tôi xin thay
mặt cho...
Hẳn là một luật sư tận tụy.
Thế còn con báo của vùng hoang vu, còn kẻ đu vào đuôi sao
chổi, còn gã phù thuỷ đi tìm cây cầu Roseman vào một ngày nóng nực tháng Tám,
còn cái con người đứng trên bục chiếc xe Harry, cố quay lại nhìn bà, cái con
người đau đớn trong làn bụi mờ nơi một ngõ hẹp ở Iowa, tất cả những cái đó ở
đâu nơi những dòng chữ lạnh lùng này?
Lá thư đúng ra phải dài nghìn trang. Đúng ra nó phải nói về
điểm tối hậu một dây chuyền tiến hoá, về sự cáo chung của tự do hành động, về
những chàng cao bồi đang vùng vẫy nơi góc rào kẽm gai, như những vỏ bắp mùa
đông kia. Thế mà nó chỉ có vài dòng:
“… Chúc thư duy nhất
của ông Robert L Kincaid ghi ngày 8 tháng 7 năm 1967. Ông đã để lại những chỉ
dẫn rõ ràng rằng những vật kèm theo đây phải được đưa đến tay bà. Trong trường
hợp người ta không thể tìm ra bà, các vật đó phải được thiêu huỷ.
Cũng kèm theo đây là
một hộp có ghi “Thư”, chứa một lời nhắn của bà mà ông gởi đến cho chúng tôi vào
năm 1978, còn thư kia thì ông ta niêm kín và chúng tôi không hề mở ra.
Thi hài ông Kincaid đã
được hoả táng. Theo yêu cầu của ông, không một vật gì được khắc tên ông. Cũng
theo yêu cầu của ông, tro tàn được rắc ở một nơi gần nhà bà, theo chỗ tôi biết,
nơi đó gọi là cầu Roseman.
Nếu bà cần thêm tin
tức gì, xin bà cứ liên lạc với chúng tôi, đừng ngần ngại.
Xin bà nhận cho ở đây
lời chào trân trọng của chúng tôi.
Allen B Quippen, luật
sư”.
Bà lấy lại hơi thở, dụi mắt rồi tiếp tục xem xét bên trong
kiện hàng.
Bà biết cái gì nằm bên trong phong bì nhỏ dày cộm đó. Bà
biết như bà biết mùa xuân sẽ trở lại mỗi năm vậy. Bà thận trọng mở và lấy ra
một sợi dây chuyền đã cũ và có khắc chữ “Francesca”. Phía sau lưng là một dòng
chữ rất nhỏ viết bằng mực: “Trong trường hợp người đeo bị chết, xin đưa lại cho
Francesca John, RR2, Winterset
, Iowa , USA ”.
Chiếc vòng đeo tay bằng bạc thì được gói trong giấy lụa nhét
cuối phong bì. Cùng chiếc vòng là một mảnh giấy. Chính chữ của Francesca.
Chính là tờ thư nhắn của bà gắn trên cầu Roseman. Ông đã giữ
làm kỷ niệm. Tờ giấy nhàu bẩn và đầy lằn gấp, chắc ông đã cất lâu ngày trong
ví.
Bà tự hỏi ông đã đọc đi đọc lại tờ giấy bao nhiêu lần trong
suốt những năm dài đó, từ những nơi rất xa con sông Middle, rất xa quận Madison . Bà hình dung
thấy ông đang nhướng mắt đọc lại dưới ngọn đèn nhỏ trên chiếc máy bay phản lực
đang bay về những xứ sở vô tận. Hoặc đang ngồi bệt trên đất cạnh một túp lều
tre tại một vùng dành riêng cho cọp và đọc dưới ánh sáng cây đèn bấm, hoặc xếp
lại và cất cẩn thận trong ví da trong những đêm mưa tầm tã ở Bellingham, rồi
lại ngắm nhìn bức ảnh chụp một người đàn bà đang dựa lưng vào hàng rào một buổi
sáng mùa hạ, hay đang bước ra khỏi một chiếc cầu có mái che vào lúc mặt trời lặn.
Cả ba cái hộp trong kiện hàng này đều đựng máy ảnh và các
ống kính. Tất cả đều nứt nẻ, hư cũ. Nơi lưng một ống kính, bà thấy khắc chữ
“Nikon” và phía bên trái nhãn hiệu là một chữ “F”. Đó là cái máy bà đã đưa cho
ông nơi cầu Cedar.
Cuối cùng, bà mở lá thư niêm kín của ông. Lá thư viết bằng
tay trên giấy viết thư, ghi ngày 16 tháng Tám năm 1978.
Francesca thân yêu,
Tôi hy vọng rằng lá
thư này đến với em khi em còn khoẻ mạnh. Tôi cũng không biết khi nào thì lá thư
này gởi đến em, sau khi tôi chết. Tôi bây giờ đã 65, và như thế hôm nay là đã
13 năm kể từ khi chúng ta gặp nhau, lúc tôi lái xe lên ngõ hẻm nhà em để hỏi
thăm đường.
Tôi đành liều nếu thư
và những đồ vật này có thể làm xáo trộn đời sống của em theo một cách nào đó.
Đơn giản chỉ là vì tôi không thể chịu nổi cái ý tưởng rằng cuối cùng những đồ
đạc của tôi tình cờ nằm trong một cửa hiệu hay trong tay một kẻ xa lạ nào đó.
Khi em nhận những đồ này thì chắc là chúng đã ở tình trạng cũ nát tồi tệ, nhưng
tôi không còn có ai khác trên đời để giao lại và tôi đành liều gởi đến cho em.
Suốt thời gian từ 1965 đến 1975, tôi đã dùng hầu hết thì giờ để ở trên đường.
Để cưỡng lại cái ý định gọi điện hoặc đến tìm em, cái ý định đã theo đuổi tôi
hầu như suốt cuộc đời còn lại của tôi, tôi chấp nhận đi làm tất cả những phóng
sự bên kia Đại Tây Dương mà người ta đề nghị với tôi. Đôi khi rất thường khi,
tôi tự nhủ: Kệ xác. Mình sẽ đến Winterset. Iowa , giá nào đi nữa mình cũng phải dẫn
Francesca theo mình. Nhưng rồi tôi nhớ điều mà em nói với tôi và tôi tôn trọng
những tình cảm của em. Có lẽ em có lý. Tôi cũng không biết nữa. Tôi biết rằng
việc tôi rời bỏ con hẻm trước nhà em vào buổi sáng Thứ sáu nóng nực đó là hành
động khó khăn nhất mà tôi đã làm trong đời. Và thật tôi cho là không có một ai
trong đời lại phải làm một việc khó khăn hơn thế.
Tôi đã thôi việc ở tạp
chí National Geographic từ năm 1975 và tôi dùng những năm tháng sau đó để chụp
những gì tôi thích, bằng cách nhận làm những việc lặt vặt như làm phóng sự địa
phương, những công việc chỉ chiếm mất vài ba ngày. Như thế tất nhiên là có khó
khăn về mặt tài chính, nhưng tôi đã quyết rút lui. Thì tôi luôn rút lui mà.
Công việc lớn nhất của
tôi liên hệ đến Puget Sound . Việc này làm tôi
vui. Tôi có cảm giác là càng về già, người ta hay quay về với nước.
À, hiện giờ tôi có nuôi
một con chó, một loại lông xù màu vàng. Tôi gọi nó là “Con Đường” và nó đi theo
tôi khắp mọi nơi, mũi luôn luôn dán vào cửa xe, chắc để đánh hơi những phong
cảnh đẹp.
Năm 1972, tôi bị té
nơi một bờ dốc ở Công viên Quốc gia Acadia , Maine, bị bể mắt cá chân. Sợi dây
chuyền và hình trái tim văng ra khi tôi té. May mắn là rơi không xa lắm. Tôi đã
tìm lại được và nhờ một người thợ kim hoàn sửa lại.
Đã có những người đàn
bà đến với tôi trước em, một số người, nhưng không có ai sau em. Tôi đã tự chọn
cuộc sống độc thân, tôi không còn thích thú cuộc sống gia đình. Một ngày nọ, ở
Canada, tôi nhìn thấy một con ngỗng đực mà con ngỗng cái của nó đã bị thợ săn
giết chết. Em biết đó, ngỗng là loài sống với nhau suốt đời. Thế là con ngỗng
đực đó giờ suốt ngày bay trên ao hồ, lần cuối cùng tôi thấy, nó đang rúc vào
những đám lúa dại để tìm kiếm con cái một cách vô vọng. Chắc cái ẩn dụ như thế
này, về mặt văn chương, không được hay lắm. Nhưng đó là những gì mà tôi cảm
thấy.
Trong những buổi sáng
mù sương hay trong những buổi chiều khi ánh sáng mặt trời phản chiếu lên làn
nước của vùng Tây Bắc, tôi cứ nghĩ đến em và cố hình dung ra em đang ở đâu, em
đang làm gì trong cuộc đời này. Chắc cũng chẳng có gì đặc biệt, em đi ra vườn,
ngồi trên chiếc xích đu dưới mái hiên hay em đang đứng nơi bồn rửa chén ở nhà
bếp. Đại loại như vậy.
Tôi nhớ rõ tất cả. Nhớ
mùi hương của em, nhớ cái hương vị của em, giống như hương vị mùa hè. Nhớ cái
cảm giác khi thân thể em chạm thân thể tôi và những lời em thốt ra khi tôi đang
yêu em. Ngày nọ, Robert Penn Warren
có nói về “một thế giới dường như bị Thượng đế bỏ quên”. Tuyệt vời, tất cả
những gì mà tôi cảm thấy. Nhưng tôi không thể cứ mãi sống theo cách ấy. Khi
tình cảm quá mạnh mẽ, tôi phải mở máy chiếc Harry đi đâu đó với “Con Đường” vài
ngày.
Tôi không thích làm ra
vẻ tự thương xót mình. Đó không phải là tính cách của tôi. Thường thì tôi không
như vậy đâu. Ngược lại, tôi ý thức rằng, cuối cùng, tôi cũng sẽ tìm lại được
em. Chúng ta rồi sẽ gặp lại nhau như hai hạt bụi của vũ trụ.
Thượng đế, hay vũ trụ,
hay ta gọi tên gì đi nữa, đã tạo ra cái hệ thống lớn của sự thăng bằng và trật
tự này, không thể nào nhân ra nổi kiếp người. Đối với vũ trụ thì bốn ngày cũng
chẳng kém gì hơn bốn tỷ năm ánh sáng. Tôi luôn luôn nhớ điều đó trong tâm trí.
Thế nhưng, dẫu sao,
tôi cũng chỉ là một con người. Tôi có thể trích dẫn ra đủ lời lẽ duy lý triết
học, nhưng điều đó cũng không ngăn cản nổi tôi thèm muốn em từng ngày, từng
phút, từng giây. Tận cùng nơi tôi là một lời than khóc tàn nhẫn về thời gian,
cái thời gian mà tôi không thể cùng sống với em.
Tôi yêu em đến tận
cùng và toàn diện. Và tôi yêu em mãi mãi.
Người cao bồi cuối
cùng.
Robert
TB. Hè vừa rồi tôi đã
thay động cơ của chiếc Harry và giờ nó chạy rất tốt.
Kiện hàng này đã đến sớm năm năm. Và việc bà ngồi mân mê,
ngắm nghía những vật bên trong gói hàng đã là một phần của nghi thức trong ngày
sinh nhật hàng năm của bà. Bà để những máy ảnh, sợi dây chuyền với hình trái
tim, chiếc vòng vào trong một hộp nhỏ đặt vào tủ áo quần. Bà đã đặt và chỉ dẫn
cho bác thợ mộc ở Madison
đóng chiếc hộp này, với đủ ngăn, ô cầu kỳ. Khi giao chiếc hộp, bác nói: “Hộp
đóng chi li rối rắm quá”, nhưng Francesca hài lòng và mỉm cười.
Đọc bản thảo của Kincaid là phần cuối cùng của nghi thức. Bà
luôn luôn đọc dưới ngọn nến cuối ngày. Bà thận trọng đặt bản thảo lên chiếc bàn
mi ca vàng cạnh ngọn nến, đốt điếu thuốc duy nhất trong năm, một điếu Camel,
nhấp một ngụm brandy và bắt đầu đọc:
“Rơi từ chiều vô tận
Robert Kincaid
Có những ngọn gió hằng
trăm năm mà tôi chưa hề biết đến bao giờ, nhưng ngay cả vậy, luôn luôn tôi vẫn
có cảm giác như là mình đã cỡi trên lưng chúng bay đi. Tôi đang chuyển vào
chiều vô tận, là cái thế giới hiện hữu bên kia, nơi cái phần kia của sự vật,
song song với cái thế giới của tôi. Như thế này, tay đút vào túi, hơi khom
người, tôi nhìn thế giới đó xuyên qua khung kính của một cửa hiệu lớn. Ở trong
chiều vô tận, có những khoảnh khắc lạ thường. Như khi tôi đang lái xe đi dưới
cơn mưa từ New Mexico đến phía Tây của Magdalena, xa lộ bỗng biến thành đường
rừng và đường rừng biến thành lối mòn. Rồi chiếc cần gạt nước gạt qua, lối mòn
bỗng biến thành một góc rừng chưa ai đặt chân đến. Rồi một cái gạt nữa, thì là
một khoảng không lùi xa. Lần này đầy sương móc. Tôi bước trên cỏ mịn, mặc áo
lông thú, tóc bù xù, tay cầm cây giáo ngắn, mảnh khảnh và rắn rỏi như một tảng
băng, người đầy bắp thịt và lòng đầy quỷ kế. Đằng sau tảng băng, xa hơn tầm
hiện hữu của sự vật, nước biển sâu thẳm trong đó tôi bơi lội tung tăng, người
đầy vảy, thở bằng mang. Tôi không thể nhìn xa hơn nữa, nhưng sau cái giống
phiêu sinh ấy thì là độ không, là vô tận.
Euclide không phải bao
giờ cũng đúng. Ông giả định rằng có đường song song vĩnh viễn, cho đến tận cùng
sự vật, nhưng người ta vẫn có thể hình dung một viễn cảnh phi Euclide, nơi đó
các đường gặp nhau ở tít phía xa. Một điểm khuất. Một ảo ảnh của sự hội tụ. Dẫu
sao, tôi biết đó không gì khác hơn là một ảo ảnh. Đôi khi có một sự gặp gỡ tự
sinh, khi đó hai thực thể hoà tan làm một. Một mối ràng buộc êm đềm. Không hề
có một chỗ giao ngang được vạch nên bởi một thế giới của lý tính chính xác.
Không một tiếng động của sự vãng lai. Chỉ là một hơi thở. Vâng, đúng, đó là
cách thế và có lẽ cả cảm xúc của nó nữa.
Và tôi chậm rãi đi về
cái thực tại khác đó, đi mấp mé bên nó, lướt qua nó, luôn luôn với tất cả sức
mạnh, nhưng luôn luôn với tấm lòng thành. Và cái con người kia biết điều đó, nó
tiến lại gần bằng cái sức mạnh của nó và đến lượt nó, biến thành chính tôi.
Đâu đó, trong luồng
hơi thở này, hiện lên một điệu nhạc và một vũ điệu kỳ lạ bắt đầu theo một nhịp
bước kỳ ảo làm dịu lòng con người của băng giá với ngọn lao và bộ tóc bù xù. Và
chầm chậm - luôn luôn quay chậm, quay chậm - con người của băng giá ngã
xuống... rơi ra ngoài chiều vô tận... rơi đến nơi nàng”.
Và thế là chấm dứt ngày sinh nhật thứ sáu mươi bảy,
Francesca sắp xếp lại phong bì vào nơi ngăn trên của tủ. Sau cái chết của
Richard, bà quyết định cất các di vật đó vào két sắt nhà băng, nhưng cứ vào
giai đoạn này trong năm, bà lại đem về để ở nhà vài ngày, đặt trong tủ áo trong
phòng bà.
Hồi chiều, bà đã đến cầu Roseman. Còn bây giờ bà bước ra
hiên, lấy khăn lau chiếc xích đu rồi ngồi xuống đó. Trời lạnh nhưng bà luôn
luôn ngồi lại đó vài phút, sau đó đi về phía hàng rào nơi cánh đồng, đứng yên
một lúc, rồi đi đến lối vào ngõ nhà. Hai mươi hai năm sau, bà vẫn còn thấy hình
ảnh ông bước xuống khỏi chiếc xe tải để hỏi đường, bà vẫn còn thấy hình ảnh
chiếc Harry nhấp nhô trên đường quê và thấy Robert Kincaid đứng trên bục xe,
ngước mắt nhìn lên phía ngõ.
---------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét