Bố của Simon
Dịch giả: Lê Hồng Sâm dịch
Nhà xuất bản Giáo Dục - năm 1987
(Tuyển tập truyên ngắn Pháp thế kỷ 19 - tập 2)
Chuông báo trưa vừa dứt. Cửa trường mở, và bọn trẻ con chen
lấn nhau ùa ra cho nhanh. Nhưng chúng không mau chóng tản mát về nhà ăn cơm
trưa như mọi ngày, mà còn đứng lại, cách đó vài bước, tụ tập thành từng nhóm,
thì thào to nhỏ.
Ở nhà, chúng đều đã từng nghe nói đến chị Blăngsôt; và mặc
dù ngoài chốn công chúng, người ta vẫn niềm nở với chị nhưng riêng giữa các bà
mẹ với nhau thì cách các bà đối đãi với chị có cái vẻ ái ngại hơi khinh miệt,
điều này lan sang cả những đứa trẻ tuy chẳng hiểu vì sao.
Còn về Ximon thì chúng không quen biết nó, vì nó không đi
chơi bao giờ, không lêu lổng với chúng ngoài đường làng hoặc trên bờ sông. Bởi
vậy chúng chẳng ưa nó lắm; và chúng vừa thinh thích vừa hết sức ngạc nhiên đón
nghe và truyền lại cho nhau câu nói của một thằng khoảng mười bốn, mười lăm
tuổi, thằng này xem chừng am hiểu nhiều điều vì nó cứ nháy mắt một cách tinh
ranh:
- Chúng mày biết chứ… thằng Ximon… này, nó không có bố đâu
nhé.
Đến lượt thằng bé con chị
Blăngsôt xuất hiện trên thềm nhà trường.
Nó độ bảy, tám tuổi. Nó hơi xanh xao, rất sạch sẽ, vẻ nhút
nhát, gần như vụng dại.
Nó định về nhà, thì các tốp bạn học của nó, vẫn cứ vừa thì
thào vừa nhìn nó với cặp mắt ranh mãnh và tai ác của những đứa trẻ đang nghiền
ngẫm một vố gì xấu, xúm quanh nó dần dần và cuối cùng thì vây hẳn lấy nó. Nó
đứng ngây ra giữa bọn chúng, ngạc nhiên và lúng túng, không hiểu người ta sắp
làm gì mình. Nhưng cái thằng vừa đưa tin ra, hãnh diện vì đã được hoan nghênh,
hỏi nó:
- Mày tên gì?
Nó trả lời:
- Ximon
- Ximon gì? – Thằng kia hỏi tiếp.
Chú bé nhắc lại, hết sức bối rối:
- Ximon.
Thằng kia hét lên với chú:
- Người ta tên là Ximon gì kia… Ximon… thế cóc phải là tên…
Và chú, sắp phát khóc, trả lời lần thứ ba:
- Tớ tên là Ximon.
Tụi trẻ cười. Thằng kia đắc thắng cất cao giọng:
- Chúng mày thấy rõ là nó không có bố nhé.
Tất cả lặng ngắt. Những đứa trẻ kinh ngạc vì cái điều kỳ dị,
quái đản, không thể có được ấy - một thằng bé không bố - chúng nhìn em như nhìn
một hiện tượng kỳ quái, một sinh vật ngoài lề của tạo hóa, và chúng cảm thấy
lớn lên trong chúng niềm khinh bỉ - cho đến bấy giờ chưa giải thích nổi - của
mẹ chúng đối với chị Blăngsôt.
Còn Ximon, em tựa vào một thân cây cho khỏi ngã; và em rụng
rời vì một tai họa không phương cứu chữa. Em tìm cách bày tỏ. Nhưng em chẳng
kiếm được điều gì để trả lời chúng nó, để cải chính cái điều ghê gớm là em
không có bố. Cuối cùng, người nhợt nhạt, em kêu lên hú họa với chúng:
- Có, tao có bố.
Thằng kia hỏi:
- Bố mày đâu?
Ximon im bặt, em không biết. Bọn trẻ cười, rất kích động, và
những đứa con của ruộng đồng này, chúng gần gũi với súc vật hơn, chúng cảm thấy
cái nhu cầu tàn ác thúc đẩy những con gà trong sân chăn nuôi kết liễu hẳn một
con trong bầy khi con này vừa bị thương. Bỗng Ximon chợt thấy thằng bé hàng
xóm, con một bà góa, em vẫn thấy thằng này, y như em, lúc nào cũng thui thủi
một mình với mẹ. Em nói:
- Thế cả mày nữa, mày cũng không có bố.
Thằng kia đáp:
- Có chứ, tao có bố.
Ximon vặn:
- Bố mày đâu?
- Bố tao chết rồi.- Thằng bé tuyên bố hết sức tự hào.- Bố
tao ở ngoài nghĩa địa ấy.
Một tiếng rì rào tán thưởng nổi lên giữa đám trẻ, dường như
cái sự kiện có bố chết ở nghĩa địa đã làm cho bạn chúng lớn cao lên để đè bẹp
cái thằng kia chẳng có bố gì hết. Và bọn lau nhau này, mà những người bố phần
lớn đều hung ác, rượu chè, trộm cắp và nghiệt ngã với vợ, chúng cứ chen chúc
xích gần nhau thêm mãi, dường như chúng, những kẻ hợp pháp, muốn bóp ngẹt cái
đứa ở ngoài luật lệ.
Bất thình lình, một đứa ở sát Ximon, bỗng thè lưỡi ra một
cách tinh quái và hét lên với em:
- Không có bố! Không có bố!
Ximon túm lấy tóc nó bằng cả hai tay và đá liên hồi vào chân
nó, trong khi nó cắn nghiến vào má chú. Có một sự vật lộn kinh khủng. Hai đấu
sĩ được lôi rời nhau ra, và Ximon bị đánh, tơi tả, ê ẩm, lăn lóc dưới đất, ở
giữa tụi trẻ đứng quây tròn, reo hò hoan hô.
Thấy em vừa dậy vừa lấy tay phủi phủi một cách máy móc chiếc
áo khoác nhỏ lấm bụi bê bết, một đứa nào đó hét lên bảo em:
- Về mách với bố mày ấy.
Thế là em cảm thấy trong lòng em có một sự sụp đổ ghê gớm.
Chúng nó khỏe hơn em, chúng đã đánh đập em, và em không thể nào đáp lại chúng
được vì em cảm thấy rất rõ là quả thật em không có bố. Đầy kiêu hãnh, em cố
tranh đấu vài giây với những giọt nước mắt làm em nghẹn thở. Em ứ lên một cái,
rồi không gào thét, em khóc nấc từng hồi dài khiến người rung lên nức nở.
Thế là một niềm thích thú dữ tợn bùng lên trong các địch thủ
của em, và tự nhiên, cũng như những người man rợ trong các cơn vui kinh khủng
của họ, chúng nắm lấy tay nhau, vừa nhảy nhót vòng quanh em, vừa lặp đi lặp lại
như một điệp khúc: “Không có bố! Không có bố!”.
Nhưng bất thình lình Ximon nín khóc. Một cơn điên khùng
khiến em cuồng dại. Dưới chân em có đá, em nhặt lên và lấy hết sức mình ném vào
những kẻ hành hạ em. Hai ba đứa gì đó bị ném trúng, vừa kêu vừa bỏ chạy, và
trông em dữ dội đến mức những đứa khác phát hoảng. Hèn nhát, hệt như đám đông
bao giờ cũng hèn nhát trước một con người phẫn nộ, chúng bỏ trốn tán loạn.
Còn lại một mình, em bé không bố chạy về phía cánh đồng, vì
em chợt nhớ lại một kỷ niệm, khiến trong óc em nảy ra một quyết định lớn. Em
muốn gieo mình xuống sông cho chết đuối.
Quả thực em nhớ lại rằng cách đây tám ngày, một người khốn
khó vẫn đi ăn xin, đã trẫm mình ở sông vì không còn tiền. Ximon có mặt ở đấy
lúc họ vớt bác ta lên và cái nhà bác tội nghiệp thường ngày em thấy thiểu não,
bẩn thỉu và xấu xí, lúc đó đã khiến em sửng sốt vì cái vẻ an tĩnh của bác với
bộ mặt xanh tái, với chòm râu dài, ướt, và cặp mắt mở, rất bình thản. Xung
quanh họ bảo:
- Hắn chết rồi.
Một người nào đó nói thêm:
- Bây giờ thì hắn thật sung sướng.
Và Ximon cũng muốn trẫm mình, vì em không có bố, cũng như
cái bác khốn khổ kia, bác ta không có tiền.
Em đến sát bên mặt nước và nhìn nước chảy. Vài con cá lội
loăng quăng, thoăn thoắt, giữa dòng nước trong, và lúc lúc lại khẽ nhảy lên đớp
những con ruồi lượn trên mặt sông. Em nín khóc để xem cá, vì em rất thích cái
trò của chúng. Nhưng thỉnh thoảng, cũng như giữa lúc bão lặng, bỗng dội lên
từng cơn gió mạnh rung chuyển cấy cối rồi tan đi mãi chốn chân trời, cái ý nghĩ
này lại trở về với em, đau nhói: “mình sẽ xuống sông cho chết đuối vì mình
không có bố”.
Trời rất ấm, rất dễ chịu. Ánh nắng êm đềm sưởi nóng cỏ. Nước
lấp lánh như gương. Và Ximon có những giây phút khoan khoái, có cái cảm giác uể
oải thường theo sau khi khóc lóc, em rất thèm được nằm ngủ ở đây, trên mặt cỏ,
dưới nắng ấm.
Một chú nhái con màu xanh lục nhảy dưới chân em. Em định bắt
nó. Nó thoát được. Em đuổi theo nó và vồ hụt ba lần liền. Cuối cùng em tóm lấy
hai đầu chân sau của nó và em bật cười nhìn con vật cố giẫy giụa thoát thân. Nó
thu mình lại trên đôi cẳng lớn, rồi bật phắt lên, đột ngột duỗi cẳng, ngay đơ
như hai thanh gỗ, trong lúc ấy, nó giương tròn con mắt có vành vàng và dùng hai
chân trước đập vào khoảng không, huơ lên như hai bàn tay. Điều này khiến em nhớ
đến một thứ đồ chơi làm bằng những mảnh gỗ hẹp đóng đinh chữ chi chồng lên
nhau, và với động tác cũng giống thế này, điều khiển những chú lính nhỏ cài bên
trên tập tành. Thế là em nghĩ đến nhà, rồi nghĩ đến mẹ, và thấy buồn hết sức,
em lại khóc. Người em rung lên, em quỳ xuống và đọc kinh cầu nguyện như trước
khi đi ngủ. Nhưng em không đọc được hết bài kinh, vì những cơn nức nở lại trở
lại, dồn dập, xốn xang, choán ngợp lấy em. Em chẳng nghĩ nữa, em chẳng nhìn
thấy gì quanh em nữa và em chỉ khóc mà thôi.
Bỗng nhiên, một bàn tay chắc nịch đặt lên vai em và một
giọng to ồm ồm hỏi em:
- Có điều gì làm chú buồn phiền nhiều đến thế, chú bé?
Ximon quay lại. Một bác thợ cao lớn, râu tóc đen, quăn, đang
nhìn chú với vẻ nhân hậu. Chú trả lời, mắt đẫm lệ, giọng đầy nước mắt:
- Chúng nó đánh cháu... vì... cháu... cháu... không có...
bố... không có bố.
- Sao thế cháu, - người đàn ông mỉm cười bảo, - ai mà chẳng có
bố.
Em bé nói tiếp một cách khó khăn, giữa những cơn nấc giật
buồn tủi:
- Cháu... cháu không có bố.
Bác thợ bỗng nghiêm lại, bác nhận ra thằng bé con chị Blăngsôt, và mặc dù mới đến vùng này, bác
cũng đã mong manh biết chuyện chị. Bác nói:
- Thôi nào, nguôi đi nào, cháu bé, rồi đi với chú về nhà mẹ.
Người ta sẽ cho cháu... một ông bố.
Họ lên đường, người lớn dắt tay người bé, và bác đàn ông lại
mỉm cười, vì bác chẳng hề phật ý đến gặp chị
Blăngsôt, nghe đồn chị là một trong những cô gái đẹp nhất vùng; và trong
thâm tâm bác cũng tự nhủ thầm rằng một tuổi xuân đã lầm lỡ rất có thể lỡ lầm
lần nữa.
Họ đến trước ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ.
Đứa trẻ nói:
- Đây rồi.
Và em gọi to:
- Mẹ ơi!
Một thiếu phụ xuất hiện, và người thợ bỗng tắt nụ cười, vì
bác hiểu ra ngay là không bỡn cợt được nữa với cô gái cao lớn, xanh xao, đứng
nghiêm nghị trước cửa nhà mình, như muốn cấm đàn ông bước lên thềm ngôi nhà nơi
cô đã bị một kẻ khác lừa dối. E dè, bỏ mũ cầm tay, bác ấp úng:
- Đây, thưa bà, tôi dắt về trả bà cháu bé bị lạc ở gần sông.
Nhưng Ximon nhảy lên ôm lấy cổ mẹ và vừa nói với mẹ vừa khóc
trở lại:
- Không, mẹ ạ, con muốn xuống sông cho chết đuối, vì chúng
nó đánh con... đánh con... tại con không có bố.
Hai má thiếu phụ đỏ ửng, và, tê tái đến tận xương tủy, chị
ôm con hôn lấy hôn để, trong khi nước mắt lã chã tuôn rơi. Người đàn ông xúc
động, vẫn đứng đó, không biết bỏ đi thế nào cho phải. Nhưng Ximon bỗng chạy đến
bên bác, nói với bác:
- Chú có muốn làm bố cháu không?
Im bặt như tờ, chị
Blăngsôt, lặng ngắt và quằn quại vì hổ thẹn, dựa người vào tường, hai
tay ôm ngực. Thấy người ta không trả lời mình, em bé nói tiếp:
- Nếu chú không muốn, cháu quay trở lại sông cho chết đuối.
Bác thợ coi như chuyện đùa, và cười đáp:
- Có chứ, chú có muốn.
Em bé bèn hỏi:
- Thế chú tên là gì, để cháu trả lời chúng nó khi chúng nó
muốn biết tên chú.
- Philip.- Người đàn ông đáp.
Ximon im lặng một giây, để ghi nhớ cái tên ấy trong óc, rồi,
hoàn toàn khuây khỏa, em chìa hai tay nói:
- Thế nhé! Chú Philip, chú là bố cháu đấy.
Bác thợ nhấc bổng em lên, đột ngột hôn vào hai má em, rồi
sải từng bước dài, rút lui rất nhanh.
Ngày hôm sau, khi em bé đến trường, một tràng cười ác ý đón
em; và lúc tan học, khi thằng kia muốn lặp lại chuyện cũ, Ximon ném vào mặt nó
những lời này, như ném một hòn đá:
- Bố tao ấy, bố tao tên là Philip.
Tứ phía bật lên những tiếng la hét thích thú:
- Philip gì?... Philip nào?... Philip là cái gì hả?... Mày
lấy ở đâu ra Philip của mày thế?
Ximon không trả lời gì hết, và một mực tin tưởng sắt đá, em
đưa mắt thách thức chúng, sẵn sàng chịu hành hạ, còn hơn là trốn chạy chúng.
Thầy giáo giải thoát cho em, và em trở về nhà mẹ.
Suốt ba tháng ròng, bác thợ Philip cao lớn thường tạt qua
gần nhà chị Blăngsôt, và đôi khi, bác
đánh bạo nói chuyện với chị, khi thấy chị ngồi khâu bên cửa sổ. Chị trả lời bác
nhã nhặn, lúc nào cũng nghiêm trang, chẳng bao giờ cười với bác, và không để
cho bác vào nhà. Tuy nhiên, cũng hợm mình đôi chút như mọi người đàn ông, bác
cứ tưởng tượng rằng chị hay đỏ mặt hơn thường lệ, mỗi khi trò chuyện với bác.
Nhưng một thanh danh đã bị mai một thật khó mà gây dựng lại,
và cũng rất đỗi mong manh, đến mức, mặc dù chị
Blăngsôt ngại ngùng gìn giữ, trong vùng đã thấy đồn đại.
Còn về Ximon thì em rất yêu ông bố mới của em và hầu như
chiều nào, xong việc, em cũng đi chơi với bố. Em đến trường đều đặn và đi qua
giữa các bạn học, hết sức đàng hoàng, không bao giờ đáp lại chúng.
Thế mà, một hôm, cái thằng đã tấn công em đầu tiên, bảo với
em:
- Mày nói dối, mày chẳng có bố tên là Philip.
- Sao lại thế? - Ximon rất xúc động, hỏi.
Thằng kia xoa hai tay vào nhau. Nó tiếp:
- Bởi vì nếu mày có bố, thì ông ấy phải là chồng của mẹ mày.
Ximon mất bình tĩnh trước tính chính xác của lập luận ấy,
tuy vậy em vẫn trả lời:
- Nhưng cứ là bố của tớ.
Thằng kia cười khẩy mà bảo:
- Có thể lắm, nhưng không phải là bố của mày hẳn hoi.
Chú bé con chị
Blăngsôt cúi đầu xuống, và vừa mơ màng vừa đi về phía lò rèn của cụ
Loadông, nơi bác Philip làm việc.
Cái lò rèn này như ẩn dưới bóng cây. Bên trong rất tối, chỉ
có ánh lửa đỏ của một cái lò cực lớn bập bùng chiếu sáng năm bác thợ rèn để cánh
tay trần đang nện xuống đe ầm ầm dữ dội. Họ đứng, hứng ánh sáng đỏ như quỷ
thần, mắt nhìn chăm chăm vào thanh sắt nóng bỏng mình đang khảo đả, và niềm suy
tưởng nặng nề của họ lên xuống theo nhịp búa.
Ximon vào, không ai trông thấy, và em rón rén đến kéo áo bác
Philip. Bác quay lại. Công việc bỗng dừng, cả mấy người đàn ông cùng nhìn, hết
sức chăm chú. Thế là, giữa sự yên lặng bất thường đó, cất lên giọng nói nhỏ nhẻ
của Ximon:
- Bố Philip này, lúc nãy thằng con bác Misot bảo con rằng bố
không phải là bố của con hẳn hoi.
Bác thợ hỏi:
- Sao lại thế?
Chú bé trả lời với tất cả sự ngây thơ của chú:
- Vì bố không là chồng của mẹ.
Không ai cười hết. Philip vẫn đứng, trán úp vào mu những bàn
tay to lớn tì ở cán búa dựng trên đe. Bác mơ màng. Bốn người bạn nhìn bác, và
bé tí xíu giữa những vị khổng lồ này, Ximon lo lắng chờ đợi. Đột nhiên một bác
thợ rèn, đáp ứng ý nghĩ của mọi người, nói với Philip:
- Dù thế nào,
Blăngsôt vẫn là một cô gái tốt bụng, trung hậu, và mặc dù gặp chuyện
không hay vẫn can đảm và nền nếp, cô ấy sẽ là một người vợ xứng đáng với một
người đàn ông tử tế.
- Đúng như vậy. - Ba người kia nói.
Bác thợ tiếp:
- Cái cô gái ấy, nếu có lỡ lầm, thì lỗi ở cô chăng? Họ hứa
sẽ cưới cô, và tôi biết khối bà khác giờ đây rất được trọng vọng, cũng đã từng
làm như thế.
- Đúng như vậy. - Ba người đàn ông đồng thanh đáp.
Bác lại tiếp:
- Tội nghiệp, cô ta đã vất vả biết bao nhiêu để một mình
nuôi dạy con, và đã khóc biết bao nhiêu từ cái ngày chỉ bước ra khỏi nhà để đến
nhà thờ, những điều ấy riêng có Chúa biết mà thôi.
- Cũng lại đúng như vậy. - Những người khác nói.
Thế là người ta chỉ còn nghe thấy tiếng bễ thổi lửa trong
lò. Philip bỗng đột ngột cúi xuống với Ximon:
- Về bảo mẹ là tối nay bố sẽ đến nói chuyện với mẹ.
Rồi bác nắm vai em ẩy ra ngoài.
Bác trở lại công việc, và năm lưỡi búa nện xuống đe cùng một
nhát đập. Họ cứ rèn sắt như vậy cho đến tối, mạnh mẽ, tươi vui, cũng như những
lưỡi búa hài lòng, thỏa mãn. Và, giống quả chuông lớn tiếng trầm của một ngôi
nhà thờ, trong các ngày lễ, vang dội lên trên tiếng reo của những quả chuông
khác, lưỡi búa của Philip cũng vậy, nó át tiếng ầm ầm của những lưỡi búa khác,
và cứ từng giây từng giây lại giáng xuống rộn ràng inh ỏi. Và bác, mắt sáng
rực, đứng giữa các tia lửa, rèn rất say sưa.
Trời đầy sao khi bác đến gõ cửa nhà chị Blăngsôt. Bác mặc áo khoác ngày chủ nhật, sơ
mi mới, và râu tóc đã sửa sang. Thiếu phụ bước ra thềm và bảo bác, vẻ phiền
muộn:
- Ông Philip, ông đến lúc đêm hôm như thế này thật là không
phải.
Bác muốn trả lời, bác ấp úng, và bối rối đứng trước chị. Chị
tiếp:
- Mà ông cũng đã biết rằng không nên để người ta bàn tán về
tôi nữa.
Thế là bác nói, hết sức đột ngột:
- Thì có làm sao đâu, nếu em ưng làm vợ tôi!
Không ai trả lời bác, nhưng bác tưởng như trong bóng tối căn
phòng, có tiếng người gục xuống. Bác bước vào thật nhanh, và Ximon nằm trong
giường, nghe thấy tiếng hôn và mấy lời mẹ em thì thầm rất khẽ. Rồi, đột nhiên,
em thấy mình được bế bổng lên trong tay bác và bác giơ thẳng em trên hai cánh
tay hộ pháp, hét bảo em:
- Con sẽ nói với các bạn học của con rằng bố con là Philip
Remy, bác thợ rèn, và bố sẽ kéo tai tất cả những đứa nào bắt nạt con.
Ngày hôm sau, thấy trường đã đông chật và giờ học sắp bắt
đầu, bé Ximon đứng dậy, mặt tái nhợt, môi run run:
- Bố tớ ấy. - Em nói rành rọt. - Bố tớ là Philip Remy, bác thợ
rèn, và bố tớ hứa sẽ kéo tai tất cả những đứa nào bắt nạt tớ!
Lần này, chẳng người nào cười nữa, vì cái nhà bác Philip
Remy, thợ rèn, thì biết rõ lắm rồi, và đấy thật là một ông bố mà ai có được
cũng phải lấy làm tự hào.
Hết
Lê Hồng Sâm dịch - Tuyển tập truyên ngắn Pháp thế kỷ 19. T2
- nxb Giáo Dục năm 1987.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét