Những cây cầu ở quận Madison
Tác giả: Robert James Waller
Dịch giả: Thanh Vân
Nhà xuất bản Phụ Nữ - 2012
4. Một không gian nơi đó người ta lại nhảy múa
Tối thứ ba, tháng Tám 1965, Robert Kincaid đăm đăm nhìn
Francesca Johnson. Bà nhìn trả lại ông. Cách nhau ba mét qua chiếc bàn mi-ca
trong nhà bếp, họ đã ràng buộc với nhau một cách thâm sâu toàn vẹn và mãi mãi.
Điện thoại reo. Francesca vẫn nhìn ông và không hề cử động khi nghe tiếng
chuông thứ nhất rồi thứ hai. Cả một khoảng im lặng dài rồi trước khi tiếng
chuông thứ ba reo, mắt ông rời bà nhìn về phía mấy chiếc ba lô đựng máy ảnh.
Điều đó cho phép Francesca đi ngang qua nhà bếp đến máy điện thoại đặt gần
tường ở lối ra vào, ngay đằng sau ghế ông ngồi.
- Alô chào Marge. ừ mình khoẻ. Tối thứ năm hả?- Bà tính
nhanh,- “Ông có nói ông định ở lại một tuần, ông đến ngày hôm qua và hôm nay là
Thứ ba”. Bà quyết định nói dối không do dự.
Đến gần cửa ra hiên, điện thoại nơi tay, bà thấy đằng sau
lưng ông ngồi rất sát mình. Bà nhẹ nhàng đặt bà tay không cầm điện thoại lên
vai ông một cách tự nhiên như những người đàn bà khác vẫn làm với những người
đàn ông thuộc về mình, chỉ sau 24 giờ quen biết.
- Ồ, Marge, chắc
không được đâu. Mình có việc phải đi Des
Moines . Bởi Richard và bọn nhỏ vắng nhà, mình lợi
dụng thời gian rảnh để làm vài việc mà ngày thường bận quá không làm được.
- Ờ, Richard có gọi về cách đây vài phút... Không, Thứ tư,
ngày mai ấy giải thưởng mới trao. Richard có bảo mình đến tối Thứ sáu ba cha
con mới về nhà được. Ngày thứ năm họ còn khối việc để xem. Đường thì xa mà
chiếc xe tải chở gia súc ấy thì... ơ không, việc huấn luyện chỉ bắt đầu vào
tuần sau. Ấy là mình nghe Michael nói vậy.
Qua lần áo sơ mi, bà cảm thấy sức nóng toát ra từ người ông.
Sức nóng ấy lần theo bàn tay bà đi dọc cánh tay và nhẹ nhàng toả ra khắp người
bà. Robert Kincaid vẫn ngồi bất động, cố không gây một tiếng động gì gợi ra sự
nghi ngờ của Marge. Francesca đoán vậy. - À có, đó là một người ghé hỏi thăm
đường ấy mà.- Đúng như bà đoán, Floyd Clark, hôm qua về nhà đã kể ngay cho bà
vợ nghe là anh ta có thấy một chiếc xe tải nhỏ màu xanh nước biển trong sân nhà
Johnson.
- Một tay phó nhòm à? Chúa ơi mình cũng không biết nữa. Mình
cũng không chú ý kỹ. Chắc vậy.- Bà nói dối càng lúc càng dễ dàng.
- Ông ta tìm cây cầu Roseman hả? Chụp ảnh mấy cây cầu cũ à?
Ờ thế thì cũng chẳng hại gì.
- Một chàng hip-pi hả?
Francesca phá lên cười và đưa mắt nhìn Robert Kincaid đang
chậm rãi lắc đầu.
- Này, mà thật ra mình cũng không hề biết một gã hip-pi như
thế nào. Còn cái ông này thì lễ phép lắm. Ông ta chỉ dừng lại hỏi thăm đường
một hai phút rồi đi... mình cũng chả biết ở Ý có bọn hip-pi không, Marge ạ. Từ
tám năm rồi mình có đặt chân về bên ấy đâu. Và như mình đã nói với bạn đó, mình
không chắc là mình còn nhận được ai bên ấy không nếu mình có gặp đi nữa.
Marge kể cho Francesca nghe điều bà ta đã đọc đâu đó trên
báo về tình yêu tự do, về đời sống cộng đồng và ma tuý.
- Marge, mình đang sửa soạn tắm thì bạn gọi. Mình phải vội
không thì nước nguội mất... được rồi mình sẽ gọi lại sớm.
Bà không muốn rời tay khỏi vai ông nhưng vì chẳng còn có lý
do gì để làm như vậy. Bà bước qua bếp và vặn radio. Vẫn còn mục trồng trọt. Bà
vặn qua đài khác cho đến khi máy vang lên một bản hoà tấu.
- Tangerine. - ông nói.
- Sao?
- Bài hát ấy mà. Bài Tangerine. Câu chuyện về một người phụ
nữ Achentina.
Một lần nữa, ông lại nói chuyện chung chung, vô thưởng vô
phạt. Nói bất cứ điều gì cho có và để tìm lại cái lý do - dường như để nghe từ
cái phần nào đó trong tâm hồn ông tiếng động không thể nhận ra nơi cánh cửa
đang khép lại trên hai con người, trong một ăn phòng bếp ở Iowa .
Bà mỉm cười dịu dàng nhìn ông.
- Ông đói chưa? Bữa ăn đã sẵn rồi đó.
- Hôm nay là cả một ngày dài tốt đẹp. Tôi muốn uống một chai
bia trước khi ăn. Bà có muốn uống với tôi không?
Bà đồng ý. Ông đứng dậy, lấy thăng bằng rồi mở hai chai bia,
đặt một chai trên bàn.
Francesca hài lòng vì dáng vẻ của mình và hài lòng về điều
bà cảm thấy. Bà thấy mình đầy nữ tính. Dịu dàng, say đắm và nữ tính. Bà ngồi
xuống ghế, chéo chân và vuốt làn váy.
Kincaid đứng dựa vào tủ lạnh, khoanh tay, cầm chai
Budweiser. Francesca hài lòng vì đứng như thế, ông có thể thấy đôi chân đẹp của
bà, và quả thật ông đang ngắm nhìn đôi chân ấy.
Ông thấy tất cả. Lẽ ra ông nên đi thì hơn, vẫn còn thì giờ
để ra đi. Lý trí ông gào lên. “Bỏ đi Kincaid, lên đường của mày đi. Hãy đi chụp
những chiếc cầu của mày, hãy đi Ấn Độ đi. Rồi mày dừng lại trên đường ở Bangkok và gặp một cô gái
bán tơ lụa rất rành những phương pháp ái ân của tổ tiên truyền lại để làm mày
lên đến đỉnh điểm của khoái lạc. Rồi lúc bình minh, mày có thể trần truồng bơi
lội với cô ta trong những con sông chảy qua các cánh rừng nhiệt đới, và rồi khi
mày đi vào cô ta, nghe tiếng cô ta kêu thét vang động cả hoàng hôn. Hãy bỏ đi -
tiếng nói trở nên thúc bách - sự tình đã vượt xa khỏi mày rồi đó?!”
Nhưng từ xa, đâu đó, đã vọng lên một bản tango chậm, buồn.
Ông nghe tiếng một cây đàn phong cầm cũ kỹ. Từ xa hay ngay trước nhà, ông cũng
không biết rõ nữa. Dẫu sao thì tiếng nhạc đã đến gần ông, dứt khoát. Tiếng nhạc
làm ông bối rối và dần dần đưa ông trở về với một tình cảm đồng nhất rõ rệt.
Một cách nghiêm khắc, tiếng nhạc khiến ông không còn một nơi nào để đến, ngoại
trừ về phía Francesca Johnson.
- Nếu bà muốn, chúng ta có thể nhảy. Bản nhạc này rất thích
hợp để khiêu vũ.- Ông nói giọng nghiêm trang và bẽn lẽn.- Tôi cũng chẳng phải
nhảy giỏi gì đâu, nhưng cũng có thể xoay xở trong phòng bếp này được.
Jack cào cào cửa tỏ ý muốn vào. Không được, lúc này thì chú
mày phải đứng ngoài thôi.
Francesca thoáng đỏ mặt.
- Đồng ý. Nhưng chính tôi cũng rất ít nhảy... sau này. Vâng,
hồi trước ở Ý, lúc tôi còn trẻ, còn ở đây tôi chỉ có dịp khiêu vũ vào ngày Tết
thôi, mà cũng không nhảy lâu.
Ông mỉm cười và đặt ly bia xuống bàn bếp bên cạnh. Francesca
đứng và bước lại bên cạnh ông. “Bạn đang trải qua buổi dạ tiệc khiêu vũ ở Chicago - một giọng trầm
cất lên. Chúng tôi ngưng một lát rồi sẽ trở lại ngay sau phần quảng cáo”.
Họ phá lên cười. Điện thoại, quảng cáo. Những thứ như cứ
ngoan cố chen vào giữa hai người. Họ biết mà không hề nói ra.
Nhưng ông đã đưa tay ra nắm lấy bàn tay Francesca. Ông vẫn
còn đứng dựa lưng hờ hững vào bàn bếp, tréo chân. Francesa thì đứng cạnh ông,
tựa vào bồn rửa chén, nhìn ra cửa sổ bên ngoài, cảm thấy những ngón tay thon
dài của ông xiết chặt tay mình.
Bên ngoài không một làn gió nhẹ. Cánh đồng bắp đứng im sững.
- Ồ khoan, một tý đã.- Bà miễn cưỡng rút tay khỏi ông, mở
ngăn kéo tủ, lấy ra hai cây nến trắng mua hồi sáng ở Des Moines cùng với hai
giá nến bằng đồng. Bà đặt lên bàn. Ông tiến lại, chỉnh cây nến rồi thắp lửa
trong khi bà tắt ngọn đèn trần. Căn phòng bây giờ chìm trong bóng tối, ngoại
trừ ánh lửa của hai cây bạch lạp toả thẳng, không hề dao động trong một đêm hè
lặng gió. Căn phòng bếp tầm thường như sang trọng hẳn lên.
Nhạc lại trỗi. Rất may, lần này là bản Lá úa, chơi chậm.
Francesca hơi lúng túng. Ông cũng vậy. Nhưng ông đã cầm lấy
tay bà, tay kia ôm qua người, bà bước tới sát một bước và sự lúng túng mất đi.
Mọi thứ tự nhiên đâu vào đấy. Ông ôm bà chặt hơn vào người mình.
Francesca cảm nhận mùi nơi ông, mùi của áo sạch, mùi xà
phòng và sức nóng. Mùi thơm đơn giản của một người văn minh, đồng thời một phần
nơi con người đó vẫn có một cái gì của một con người nguyên thuỷ.
- Tôi thích mùi thơm của bà.- Ông nói, tay đặt nhẹ lên ngực
bà, chỗ gần vai.
- Cám ơn.
Họ nhảy thật chậm, gần như bất động. Bà cảm thấy chân mình
chạm chân ông và bụng họ thỉnh thoảng sát vào nhau.
Bài hát đã chấm dứt, nhưng ông vẫn giữ lấy người bà, vẫn lẩm
nhẩm điệu buồn của bài hát mà ông vừa nghe và họ vẫn giữ nguyên cho đến khi bắt
đầu bài hát tiếp.
Ông bước một cách máy móc và cuộc khiêu vũ tiếp tục trong
khi bên ngoài, tiếng dế kêu vang báo hiệu cho tháng Chín sắp tới.
Bà cảm thấy rõ bắp thịt ở vai ông qua làn vải áo sơ mi. Ông
có thật, có thật hơn hết thảy những gì bà từng biết. Ông hơi chồm người tới
trước để áp má bà vào má mình.
Sau này, trong một lần hai người cùng đi dạo chơi, ông từng
nói rằng ông là một trong những người cao bồi cuối cùng. Khi đó họ đang ngồi
trên bãi cỏ, gần chiếc máy bơm phía sau nhà. Bà không hiểu và hỏi ông muốn gì.
“Có một loài nào đó trong nhân loại không còn lý do để tồn
tại. Hay gần như không còn - Ông trả lời - Thế giới đã có tổ chức và tổ chức
quá chặt chẽ đối với những người như tôi. Mọi thứ đều có chỗ của nó. Được, tôi
cũng thích thế. Em thấy đấy, đồ đạc của tôi sắp đặt ngăn nắp. Nhưng điều đó đã
đi quá xa. Các quy tắc, luật lệ và những quy ước xã hội... Hệ thống thứ bậc, sự
điều khiển, sự tiên đoán, ngân sách. Quyền lực của các xí nghiệp, vị thượng đế
trong kinh doanh. Một thế giới của y phục đồng loạt và của những tên tuổi có
nhãn hiệu rõ ràng.
Con người ta không giống nhau. Một số cố gắng để thích nghi
với cái thế giới sắp đến, một số khác, có thể ngay trong số chúng ta thì không
thể. Người ta quan tâm đến máy tính, rôbôt và ý nghĩa của chúng. Trong các nền
văn minh trước đây, chúng ta có những nhiệm vụ phải làm tròn, những nhiệm vụ
cần thiết mà không ai dùng máy móc để thay thế được. Chúng ta chạy nhanh, chúng
ta có sức mạnh, hung hãn và bền lâu. Can đảm. Chúng ta ném lao và chiến đấu
bằng đôi chân tay trần.
Cùng với thời gian, máy tính và rô-bốt chiếm lấy quyền hành.
Con người quan tâm đến máy móc của mình, nhưng điều đó không đòi hỏi một sự can
đảm, một sức mạnh, một tính chất nào cả. Thực ra, con người tồn tại bằng tính
đồng nhất. Các ngân hàng tinh trùng giúp bảo đảm sự tồn tại của giống nòi, hiện
giờ đã bắt đầu phát triển. Phần lớn người ta đều là những tình nhân tồi, phụ nữ
nói như vậy, cho nên người ta không mất mát nhiều lắm khi thay thế dục tính
bằng khoa học.
Chúng ta đã khước từ tự do hành động, chúng ta được tổ chức,
chúng ta đã dìm chết cảm xúc của chúng ta. Thế giới đầy sự sản xuất, sự hữu
hiệu và những khái niệm nhân tạo khác. Và anh cao bồi cuối cùng cũng như sự tự
do hành động đã biến mất, cùng lúc với sự biến mất của loài báo núi và sói xám.
Bởi đâu còn nhiều chỗ để di chuyển nữa.
Tôi là một trong những gã cao bồi cuối cùng đó. Công việc
của tôi cho tôi một ít tự do. Trong giới hạn mà xã hội cho phép. Tôi không phàn
nàn gì. Tôi chỉ là điều cần thiết, đó là cách duy nhất để bảo vệ chúng ta khỏi
sự hủy hoại. Theo tôi, chính những hoóc-môn nam là nguyên nhân chính của những
nhiễu loạn của hành tinh chúng ta. Đó chính là cái khiến người ta đi chinh phục
một bộ lạc khác, một xứ khác. Đó là cái khiến người ta chế tạo tên lửa, hay hủy
hoại thiên nhiên như người ta đã làm. Rachel Carson có lý. John Muir và Aldo
Leopold cũng thế.
Lời nguyền rủa lên nền văn minh hiện đại của chúng ta, chính
là cái ưu thế của hóc-môn nam khiến nó có thể tạo ra những tàn phá vô phương
cứu chữa. Chưa nói đến chiến tranh giữa các quốc gia hay sự phá hoại thiên
nhiên, luôn luôn có sự xâm lược làm chia rẽ con người, gây nên những xung đột
phải giải quyết. Chúng ta phải tìm cách thế nào để làm cao cả cái chất kích
thích tố nam ấy, hoặc là, trong mọi trường hợp, chế ngự nó.
Có lẽ đến lúc chúng ta phải khước từ những ảo tưởng trẻ con
để lớn lên. Thì tôi biết thế, tôi chấp nhận: tôi chỉ chụp những bức ảnh đẹp của
cuộc sống trước khi nó mất lý do tồn tại hoặc bị tàn phá nghiêm trọng vô phương
cứu chữa!”.
Cùng với năm tháng sau này, bà thường suy nghĩ về điều ông
nói. Một mặt nào đó, rõ ràng ông nói đúng. Tuy rằng quan niệm của ông mâu thuẫn
với con người ông. Nơi ông tiềm tàng một sức mạnh xâm lược, có điều ông có vẻ
như điều khiển được nó, sử dụng hoặc vất bỏ nó theo ý muốn. Và đó là lý do tại
sao nơi ông luôn luôn có một cái khiến người ta bối rối hoặc bị thu hút - chính
là cái sức mạnh không ngờ, nhưng là một sức mạnh được chế ngự, đo lường và căng
thẳng như một mũi tên, tuy nồng nhiệt nhưng không hề dữ tợn.
Tối hôm đó, một cách dần dần và không ý thức, họ đã tiến lại
gần nhau khi khiêu vũ trong nhà bếp. Francesca áp sát vào người ông, tự hỏi ông
có cảm thấy đôi vú mình qua làn áo mỏng không, và bà chắc là có.
Bà thích áp sát người ông như thế này. Bà muốn cái giây phút
này không bao giờ ngừng lại, muốn nghe những bài hát cũ, muốn nhảy, muốn cảm
thấy thân thể mình chạm thân thể ông, muốn nữa và muốn mãi mãi. Bà lại trở
thành người phụ nữ đích thực. Vẫn còn không gian để người ta khiêu vũ một lần
nữa. Chậm rãi, vĩnh viễn, bà đã trở lại nơi chốn đích thực của bà, nơi mà bà
chưa bao giờ rời bỏ. Trời vẫn nóng. Hơi ẩm ướt bốc lên và có tiếng sấm xa xa về
phía Tây Nam
. Loài bướm đêm bị ánh nến thu hút, lao vào đốm lửa.
Ông đã trở thành một với bà. Và bà thành một với ông. Bà
xích má mình khỏi má ông và nhìn ông bằng cặp mắt đen láy. Ông hôn bà. Bà hôn
trả lại, một cái hôn dài, dịu dàng, như một dòng sông vô tận.
Họ như không còn khiêu vũ nữa và cánh tay Francesca quàng
chặt qua cổ ông. Bàn tay trái của Kincaid ôm lấy hông bà, tay kia ông ve vuốt
cổ, gò má, làn tóc đen của bà. Thomas Wolfe đã gọi đó là “bóng ma cổ xưa của
dục vọng”. Cái bóng ma đó đã thức dậy nơi Francesca Johnson, nơi cả hai người.
Ngồi cạnh cửa sổ vào ngày sinh nhật lần thứ 67 trong đời,
Francesca ngắm nhìn cơn mưa và nhớ lại. Bà đã mang theo chai brandy từ nhà bếp
lên và dừng lại một lúc để ngắm nhìn đúng cái nơi ngày xưa họ đã yêu nhau. Như
bao giờ, một cảm giác tràn ngập khắp người bà, không cưỡng lại được. Qua bao
năm tháng, cái cảm giác ấy vẫn mạnh mẽ đến nỗi bà không thể gợi ra được. Qua
bao năm tháng, cái cảm giác ấy vẫn mạnh mẽ đến nỗi bà không thể gợi ra được
từng chi tiết một lần bởi thần trí của bà bị chế ngự dưới sức mạnh của một xúc
cảm tinh thuần.
Làm sống lại những kỷ niệm là một cách của bà để tồn tại.
Những năm sau này, các chi tiết càng trỗi dậy trong tâm trí bà thường xuyên
hơn. Bà không còn cố xua đuổi hình ảnh Robert Kincaid trở lại với bà nữa. Hình
ảnh càng lúc càng chính xác, càng lúc càng thật trong hiện tại, nhưng những
hình ảnh đó lại đến từ một nơi thật xa vời. Đã 22 năm rồi nhưng dần dần chúng
trở thành thực tại của bà, cái thực tại duy nhất mà bà sống.
Bà biết rằng bà đã 67 tuổi và chấp nhận điều đó, nhưng bà
không thể hình dung được rằng lúc này Robert Kincaid hẳn cũng xấp xỉ 75. Bà
không thể nghĩ tới hoặc tưởng tượng ra điều đó. Ông ấy vẫn ở đây thật sát gần
bà trong chiếc sơ mi trắng, mớ tóc xám dài, cái quần kaki, đôi dép màu nâu
thẫm, chiếc vòng đeo tay và sợi dây chuyền bạc quanh cổ. Ông vẫn ở nơi đây, ôm
bà trong vòng tay. Cuối cùng bà lách khỏi ông, khỏi nơi họ đang đứng trong
phòng bếp và cầm tay ông dẫn về phía cầu thang, bước lên những bậc thang, xuyên
qua phòng Carolyn rồi phòng Michael trước khi đến phòng bà. Bà bật ngọn đèn nhỏ
nơi đầu giường.
Ngày hôm nay, sau ngần ấy năm trời, Francesca cầm ly brandy
ở tay, vẫn chậm rãi bước lên cầu thang, đưa tay phải ra phía sau như để hướng
dẫn cái kỷ niệm mà bà có được với ông khi bước lên bậc thang, bước dọc hành
lang và bước vào phòng.
Những hình ảnh đó in trong ký ức bà rõ rệt đến nỗi chúng như
là những bức ảnh chụp sắc nét của Robert Kincaid. Bà nhớ lại cái lúc như trong
một giấc mơ, họ cởi bỏ áo xống và nằm dài trên giường. Bà nhớ lại ông nằm trên
người bà và chậm rãi vuốt nhẹ trên ngực, trên bụng bà. Ông vuốt đi vuốt lại
mãi, như thể thực hiện một nghi thức gợi tình mà con đực dành cho con cái tự
ngàn xưa. Đè chặt lên bà, ông đưa miệng hôn lên môi, lên tai hay dùng lưỡi lướt
dọc cổ Francesca, liếm bà như một con báo đực thường làm như thế trong đồng cỏ
Phi Châu.
Thì ông cũng là một con thú. Một con thú đực khoẻ mạnh và
uyển chuyển không làm gì rõ rệt để chế ngự bà, thế mà đã chế ngự bà hoàn toàn,
đúng như lúc đó bà muốn.
Điều đó như vượt ra khỏi mối dây thể xác, mặc dầu chính cái
khả năng làm tình kéo dài và không mệt mỏi của ông là một phần quan trọng. Việc
làm tình đối với bà hiện nay chỉ có nghĩa như một cái gì tầm thường, khi mà
những năm sau này người ta nói rất nhiều về chuyện đó, nhưng làm tình với ông
là cả một hành động tinh thần. Đó là một hành vi tâm linh, chẳng tầm thường
chút nào cả.
Ngay khi mới gặp ông, bà đã chờ đợi một cảm giác dễ chịu,
phá bỏ sự tầm thường, đơn điệu trong đời sống của bà. Bà không ngờ rằng nó có
một sức mạnh kỳ lạ đến như vậy.
Bởi gần như ông chiếm đoạt mọi hướng, mọi phần của đời sống
bà. Điều đó làm bà sợ hãi. Bà vẫn luôn luôn tưởng rằng yêu ông, một phần nơi
con người bà vẫn còn giữ lại. Đó là phần thuộc về gia đình bà, về cuộc sống của
bà ở cái quận Madison
này.
Áp mặt vào cổ ông, da chạm vào da ông, Francesca mơ thấy
những dòng sông, những bếp than hồng, nghe thấy tiếng đầu máy xe lửa rời nhà ga
từ mùa đông của những đêm khao khát, bà thấy những người lữ hành trang phục đen
vội vã đi dọc những bờ sông mượt cỏ hay băng ngang qua cánh đồng mùa hạ, theo
đuổi con đường mình để đi đến nơi tận cùng thế giới.
Đêm trôi đi, và cuộc khiêu vũ lớn lao vẫn tiếp tục. Robert
Kincaid thường từ khước những suy tư duy lý và ông thường chìm đắm vào hình
thể, âm thanh và bóng tối. Ông theo những lối đi quanh co trong vương quốc của
tiềm thức xa xưa để tự dẫn mình lần về phía sáng của làn sương phản chiếu ánh
mặt trời, nơi lớp cỏ mùa hạ hay nơi những chiếc lá úa đỏ rực của mùa thu.
Và ông nghe thấy tiếng nói của Francesca rót vào tai ông, lạ
như giọng của một ai khác. Những lời trong một bài thơ của Rilke. “Dọc theo
tầng tháp xưa... Tôi đã lạc lối nghìn năm”. Lời một bài thơ ca tụng mặt trời ở
Navaho. Và ông thì thào thốt ra hình ảnh mà Francesca lúc này gợi lên - những
làn cát xoáy, những ngọn gió nguyên sơ, những con chim bồ nông cỡi trên mình cá
heo lướt sóng về phương Bắc dọc bờ biển Phi châu. Và như một người thợ săn lớn,
sau nhiều năm dài băng qua những con đường xa tắp, đột nhiên thấy ánh lửa trại
nơi ngôi làng quê mình, niềm cô đơn bao lâu chợt rời bỏ ông. Cuối cùng, cuối
cùng ông đã đến nơi. Đã đến từ một nơi xa, rất xa. Thế là ông nằm nghỉ bên cạnh
Francesca, trong một sự độc nhất vô nhị của tình yêu ông dành cho bà.
Sáng sớm, ông sửa soạn y phục và nhìn vào mắt Francesca,
nói: “Đó chính là lý do tại sao anh ở trên hành tinh này, Francesca. Không phải
để đi du lịch hay đi thực hiện các bức ảnh, mà để yêu em. Ngày hôm nay anh đã
biết rõ, anh rơi xuống từ một nơi chốn rất cao, rất lớn rộng từ rất lâu rồi,
rất nhiều năm trước khi sống cuộc sống này. Và trong suốt những năm dài đó, là
anh rơi về phía em”.
Họ bước xuống nhà, hoá ra máy phát thanh vẫn còn mở, từ hồi
đêm. Bình minh đã hiện nhưng mặt trời vẫn còn ẩn mình sau những lớp mây dày.
- Francesca, anh muốn xin em một đặc ân, - ông nói khi bà
đang pha cà phê.
- Sao? - Bà ngước mắt lên. Rồi bà nghĩ: “Ôi, trời ơi, sao em
yêu anh thế không biết”, bà run rẩy, muốn ông nhiều hơn nữa, muốn rằng không
bao giờ ngừng lại.
- Em mặc chiếc quần jean và chiếc áo sơ mi trắng hôm qua
vào, mang đôi xăng-đan. Không có gì khác. Anh muốn chụp em một bức ảnh. Một bức
ảnh cho chỉ hai chúng ta.
Francesca bước lên thang lầu. Bà mặc áo quần và đi ra
đồng với ông.
Chính lúc đó ông chụp bà bức ảnh mà bà vẫn ngắm nhìn hàng
năm sau này.
----------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét