Thứ Sáu, 20 tháng 12, 2013

Lại thằng nhóc Emil - Astrid Lindgren - P2

Emil đưa thế giới vào quy củ

Thứ Bảy, ngày 12 tháng Sáu, ngày Emil có vài vụ làm ăn may mắn tại phiên đấu giá ở Backhorva.
Chủ nhật ngày 13 tháng Sáu, ngày Emil ba lần can đảm thử nhổ răng hàm cho cô Lina, và sau đó bôi xanh lè cả mặt bé Ida.
Thứ Ba, ngày mồng 10 tháng Tám, ngày Emil bỏ con ếch vào giỏ đồ ăn và sau đó gây chuyện kinh khủng đến nỗi hầu như không ai muốn nhắc chuyện đó nữa.
Một số ngày trong cuộc đời Emil, những ngày mà nó vừa bày đủ trò nghịch ngợm, vừa làm được nhiều việc tốt.
Chủ nhật, ngày 14 tháng Mười một, ngày diễn ra cuộc vấn đáp về tín ngưỡng ở trang trại Katthult và Emil nhốt bố nó trong buồng Trisse.
Chủ nhật, 18 tháng Mười hai, ngày Emil có một hành động anh hùng, khiến cả làng Lönneberga hoan hô và tha thứ cũng như quên hết những trò nghịch ngợm của nó.

Khắp làng Lönneberga, khắp cùng Smăland, khắp đất nước Thụy Điển với - ai mà biết được - có khi khắp cả thế gian này, chưa bao giờ có một thằng bé lai bày ra lắm trò nghịch hơn thằng bé Emil mà cách đây rất lâu đã từng sống ở trang trại Katthult, làng Lönneberga thuộc vùng Smăland. Việc thằng bé này lớn lên trở thành chủ tịch hội đồng xã là một trong những điều kỳ diệu của thế giới. Nhưng đúng là nó đã trở thành chủ tịch hội đồng xã, thành người đàn ông tốt nhất làng Lönneberga. Qua đó ta thấy rằng ngay những đứa trẻ tồi tệ nhất cũng sẽ đến lúc trưởng thành, và cùng với thời gian chúng sẽ thực sự nên người. Tôi thấy thật tuyệt khi nghĩ đến điều đó. Bạn cũng thấy vậy, đúng không? Đúng, bởi chính bạn cũng hẳn cũng từng bày ra khối trò nghịch ngợm, tôi hình dung được mà. Không phải vậy sao? Chẳng lẽ tôi có thể nhầm đến thế?
Alama Svensson ở trang trại Katthult - mẹ của Emil - ghi tất cả những trò nghịch ngợm của con và những cuốn vở màu xanh mà bà giấu trong ngăn kéo của mình. Cuối cùng cái ngăn kéo đó nhét đầy vở đến nỗi hầu như không kéo nổi ra nữa. Lúc nào cũng có một cuốn vở bị kẹt nhầu nhĩ và xoay ngang ra. Nhưng đến tận bây giờ những cuốn vở màu xanh vẫn được cất giữ ở đấy, trong chính cái tủ cũ kỹ ấy. Trừ ba cuốn vở mà Emil từng muốn bán cho cô giáo ở trường mẫu giáo khi nó cần tiền. Nhưng vì cô giáo không muốn mua, nên Emil đã xé chúng gấp thuyền giấy đem ra thả trên dòng suối ở Katthult, và sau đó thì không còn ai trông thấy ba cuốn vở đó nữa.
Cô giáo trường mẫu giáo không hiểu tại sao cô cần phải mua những cuốn vở đó của Emil.
- Cô biết làm gì với chúng đây? - Cô ngạc nhiên hỏi.
- Để dạy bọn trẻ con khỏi trở nên kinh khủng như cháu ạ, - Emil đáp.
Phải, phải, Emil tự biết nó là một trái ổi ương tới mức nào, và nếu giả sử có lúc nó quên, thì luôn luôn còn có cô Lina - cô hầu gái ở trang trại Katthult - nhắc cho nó nhớ.
- Gửi cậu đến trường mẫu giáo cũng vô ích thôi, - cô Lina nói, - dạy dỗ cậu còn quá là nước đổ đầu vịt. Ngữ cậu thì chẳng đời nào được lên Thiên đàng…. trừ phi - ừ có thể lắm - trừ khi trên ấy các ngài cần cậu giúp một tay để giáng sấm sét!
Cô Lina nhận thấy Emil đến đâu, là y như rằng ở đó có giông bão.
- Chưa từng thấy một thằng quỷ sứ nhà giời nào như nó, - cô nói, rồi dắt bé Ida, em gái của Emil, cùng đi ra bãi chăn thả, nơi bé Ida được phép hái quả dâu dại trong khi cô Lina vắt sữa bò. Bé Ida bứt hẳn cả cành dâu dại và đem về nhà năm cành trĩu trịt quả. Emil chỉ chén mất của em mỗi hai cành - dù sao nó cũng biết điều đấy chứ.
Nhưng bạn chớ tưởng rằng hình như Emil thích cùng ra chỗ vắt sữa bò với cô Lina và bé Ida. Không, nó muốn tận hưởng nhiều hơn thế, và vì vậy nó vớ lấy “mú” và “sún” của mình, chạy thẳng xuống chuồng ngựa, nhảy lên lưng con Lukas, phi qua bụi dẻ khiến đám cỏ bay tung lên. Emil chơi trò “Husaren Smăland tấn công”. Nó nhìn thấy một bức tranh như thế trên báo và biết phải bắt chước như thế nào.
“Mú”, “sún” và Lukas - đó hẳn là những vật yêu quý nhất mà Emil có trên đời. Lukas là con ngựa của Emil, vâng đúng là con ngựa của nó thật. Nhờ khôn khéo mà Emil nhận được con ngựa ở hội chợ thị trấn Vimmerby. “Mú” là một cái mũ lưỡi trai nhỏ xấu xí màu xanh lam mà bố đã mua cho Emil. Còn “sún” là khẩu súng gỗ mà chú Alfred, đầy tớ trang trại Katthult đã đẽo cho Emil vì nó rất thích. Lẽ ra Emil cũng thừa sức tự đẽo khẩu súng cho mình. Nếu có ai đó khéo tay đẽo gỗ thì đó chính là Emil. Nhưng nó cũng chăm chỉ luyện tập lắm! Chẳng là cứ mỗi lần sau khi Emil bày trò nghịch ngợm thì nó lại bị nhốt vào xưởng mộc, và lần nào nó cũng đẽo một hình nhân nhỏ ngộ nghĩnh. Rốt cuộc nó đã đẽo được cả thảy 369 hình nhân, cho đến nay vẫn giữ được hết - trừ một hình nhân mà mẹ nó đã chôn giấu sau bụi dâu dại, vì trông giống ông mục sư. “Không được phép thể hiện hình ảnh đức cha theo cách này”, mẹ Emil nói.
Phải, giờ bạn đã biết đại khái Emil là người như thế nào. Bạn có biết nó quanh năm gây chuyện, hè cũng như đông, còn tôi, người đã đọc tất cả những cuốn vở màu xanh, sẽ kể cho bạn nghe một số ngày trong cuộc đời của Emil. Bạn cũng sẽ nhận thấy Emil làm được bao nhiêu việc tốt. Phải công bằng và nhắc cả đến những chuyện như vậy, chứ không chỉ kể toàn những trò nghịch ngợm kinh khủng của thằng bé. Hơn nữa không phải tất cả các trò đều kinh khủng. Emil cũng bày kha khá trò nghịch ngợm tương đối vô tội đấy chứ, ví như ngày mồng 3 tháng Mười một, ngày mà thằng bé hoàn toàn trở nên điên rồ… Ồ thôi nào, đừng tìm cách dụ tôi kể xem thằng bé đã làm gì trong cái ngày mồng 3 tháng Mười một ấy, vì tôi sẽ chẳng bao giờ nói ra đâu, tôi đã hứa với mẹ thằng bé rồi. Không, để thay đổi không khí, chúng ta sẽ xem một ngày mà hôm đó - xét về đại cuộc - Emil đã cư xử rất tốt, cho dù bố nó có lẽ có quan điểm khác. Đó là:

Thứ Bảy, ngày 12 tháng Sáu, ngày Emil có vài vụ làm ăn may mắn tại phiên đáu giá ở Backhorva.

Vào một ngày thứ bảy trong tháng Sáu có phiên bán đấu giá ở trang trại Backhorva và tất cả mọi người đều muốn đến đó, vì các phiên bán đấu giá là những thứ vui nhộn nhất mà người dân ở làng Lönneberga và khắp vùng Smăland được biết. Tất nhiên bố của Emil - ông Anton Svensson - phải tới đó, chú Alfred và cô Lina cũng xin đi cùng, rồi đương nhiên cả Emil nữa.
Nếu bạn đã từng có mặt ở một phiên đấu giá, thì bạn biết người ta có thể chứng kiến những gì tại đó. Bạn biết rằng khi ai đó muốn bán đồ đạc của mình, ông ta sẽ mở phiên bán đấu giá, để những người khác muốn mua tìm đến.
Người của trang trại Backhorva muốn bán đi tất cả những gì họ có, vì họ định di cư sang Mỹ giống như bao người khác thời bấy giờ. Mà họ thì không thể tha theo sang Mỹ nào ghế dài trong bếp ăn, nào xoong chảo, rồi bò, lợn, gà qué, vì vậy mà đầu mùa hè có phiên đấu giá ở trang trại Backhorva.
Bố Emil hy vọng mua rẻ được một con bò cái mà có thể thêm một con lợn nái và vài con gà. Vì thế mà bố hăng hái muốn đến Backhorva và cho chú Alfred và cô Lina đi cùng để còn giúp bố chở về nhà đám gia gia súc mà bố định tậu nhân cơ hội này.
- Nhưng tôi không hiểu thằng Emil cần đến đó làm gì,- bố nói.
- Đúng quá, chẳng cần chúng ta mang thêm thằng Emil đến thì ở đó cũng đủ ầm ĩ lắm rồi, - cô Lina phụ họa.
Cô Lina đã biết tại các phiên chợ đấu giá ở làng Lönneberga cũng như ở khắp vùng Smăland lúc nào cũng rất ầm ĩ và đầy những cuộc ẩu đả và thật ra thì cô có lý. Nhưng mẹ Emil nghiêm khắc nhìn cô và bảo:
- Nếu Emil muốn cùng đến phiên đấu giá thì cứ để nó đi. Không mượn cô phải lo. Tốt hơn là cô hãy để ý một chút đến việc cô luôn cư xử chẳng ra sao ở chốn đông người.
Bị mẹ Emil nói trúng cô Lina im thít.
Emil đội “mú” của nó lên đầu và chuẩn bị sẵn sàng - nó muốn lên đường.
- Nhớ mua quà nhé, - bé Ida nói nghiêng đầu sang bên vẻ nũng nịu.
Cô bé không dặn người nào cụ thể, mà chỉ nói bâng quơ thế thôi. Nhưng bố lập tức nhướn lông mày lên:
- Mua, mua, lúc nào cũng mua! Chẳng phải mới đây thôi bố vừa mới mua cho con mười xu kẹo ho hay sao? Nhân ngày sinh nhật của con dạo tháng Giêng ấy, con quên rồi à?
Đúng lúc Emil đang định xin bố tiền, vì ai lại đến một phiên đấu giá mà chẳng có một xu dính túi, nhưng đành thôi. Đây hoàn toàn không phải là lúc thích hợp để nã tiền bố - nó biết rõ như vậy. Không phải lúc này, khi mà mọi người đều vội vã và bố đã ngồi chĩnh chệ trên cỗ xe chở sữa to kềnh càng, sẵn sàng lên đường.
Những thứ mà ta không thể kiếm được bằng cách này, thì ta phải kiếm được bằng cách khác, Emil tự nhủ. Nó suy nghĩ rất lung, đoạn bảo:
- Mọi người cứ đi trước đi! Con cưỡi con Lukas đuổi theo sau!
Nghe vậy, bố Emil không mấy tin tưởng, nhưng vì đang muốn khởi hành càng nhanh càng tốt, nên ông chỉ bảo:
– Được rồi, được rồi! Giá mà con cứ ở nhà luôn thì hay biết mấy!
Đoạn ông quất roi ngựa và cỗ xe lăn bánh. Chú Alfred vẫy chào Emil, còn cô Lina vẫy chào bé Ida, trong khi mẹ gọi với theo bố:
- Liệu mà trở về nhà cho lành lặn, đủ chân đủ tay đấy nhé!
Mẹ dặn thế là vì mẹ biết đôi khi ở các phiên đấu giá có thể xảy ra những cuộc ẩu đả điên cuồng.
Cỗ xe chở sữa khuất sau lối rẽ. Emil đứng trong đám bụi đường nhìn theo. Nhưng rồi nó bắt đầu vội - giờ phải lo kiếm tiền cái đã. Bạn nghĩ sao, Emil sẽ kiếm tiền bằng cách nào đây?
Nếu bạn đã từng là một đứa trẻ ở Smăland vào cái thời mà Emil còn bé, thì bạn sẽ biết thời đó thật là may là đâu đâu trên đường cũng có nhiều rào chắn. Những tấm rào chắn nhằm giữ chân lũ bò cày, bò sữa và cừu ở lại trên những cánh đồng cỏ của chúng, và còn để tất cả bọn con trai ở vùng Smăland đôi khi có thể kiếm được những đồng hai xu, nếu chúng mở giúp rào chắn cho một bác nông dân nào đó đi đến trên cỗ xe ngựa kéo của mình nhưng lười nhác không muốn tự chạy xuống mà mở lấy.
Ở trang trại Katthult cũng có một cổng rào chắn bằng gỗ. Emil không có mấy dịp kiếm tiền ở đấy, vì trang trại Katthult nằm tít cuối làng, ít người qua lại. Chỉ duy nhất một trang trại còn nằm sau Katthult đó là trang trại Backhorva, cũng chính là nơi hôm nay có phiên đấu giá.
Điều đó có nghĩa ai muốn đến đấy đều phải qua cổng rào nhà ta, Emil - cái thằng nhóc láu lỉnh ấy - nghĩ bụng.
Emil canh cổng rào suốt một giờ đồng hồ và kiếm được những năm đồng và bảy mươi tư xu. Không thể tin nổi!
Các cỗ xe ngựa nối đuôi nhau thành dòng kéo đến khiến Emil hầu như không kịp đóng cổng rào khi cỗ xe này đi qua, trước khi lại phải mở cho cỗ xe khác. Còn đám nông dân đánh xe ngang qua ai nấy đều đang vui vẻ vì đang muốn đến phiên đấu giá, và họ sẵn sàng ném những đồng hai xu và năm xu vào chiếc mũ của Emil. Một vài ông lịch sự thậm chí còn cao hứng cho Emil hẳn đồng mười xu, dù rằng ngay sau đấy đương nhiên họ lại ân hận.
Nhưng gã nông dân từ trang trại Krakstorp lại nổi đóa khi Emil đóng sập cánh cổng rào lại trước mũi con ngựa nâu già của lão.
- Sao mày lại đóng cổng rào lại hả? - Gã rít lên.
- Cháu phải đóng nó trước, rồi mới mở lại được chứ ạ. - Emil giải thích.
- Vào một ngày như hôm nay mà sao mày không để ngỏ cổng rào luôn đi? - Gã nông dân tức giận hỏi.
- Cháu có điên đâu, - Emil đáp. - Lại nhè hôm nay, đúng ngày mà lần đầu tiên cái cổng rào cũ kỹ này làm lợi cho cháu chắc!
Nhưng gã nông dân từ trang trại Krakstorp vung roi quất về phía Emil, mà nhất định không thò ra cho nó một xu.
Thấy tất cả những người muốn đến phiên đấu giá đều đã đi qua cổng rào nhà mình và không còn cơ hội kiếm thêm tiền nữa, Emil bèn nhảy lên lưng con Lukas và phi như bay, khiến những đồng xu trong túi nó kêu xủng xoảng.
Phiên đấu giá ở trang trại Backhorva đã vào hồi cao trào. Thiên hạ chen chúc quanh những đồ cũ được bày thành dãy trên sân trang trại. Dưới ánh mặt trời, đống đồ lủng củng trông tựa đám trẻ lạc. Người cầm trịch phiên đấu giá đứng trên một cái thùng ngay giữa đám đông. Ông ta nhận được nhiều lời chào giá hời cho đám xoong, chảo rồi bộ tách cà phê, rồi ghế gỗ, và đủ thứ linh tinh tôi không nhớ hết. Bạn phải biết tại phiên đấu giá người ta phải xướng lên với người cầm trịch là mình muốn trả giá bao nhiêu cho một món đồ. Nhưng nếu ai đó sẵn sàng trả nhiều tiền hơn và chào giá cao hơn, thì anh ta sẽ mua được cái ghế dài kê trong bếp ăn hoặc món đồ gì đó mà người ta đấu giá.
Đám đông bỗng ồ lên khi Emil và con Lukas phi vào sân trang trại. Nhiều người lẩm bẩm:
- Thằng bé nhà Katthult mà đã thò mặt đến đây thì tốt hơn là ta nên chuồn!
Nhưng lúc này Emil đang có hứng làm ăn và trong túi thì nhiều tiền đến nỗi suýt làm nó chóng mặt. Trước khi xuống khỏi lưng ngựa, nó đã kịp trả ba đồng cho khung giường sắt cũ kỹ, thứ là lẽ ra không gì trên thế gian có thể bắt nó nhận. May mà vợ một bác nông dân trả lên tận bốn đồng, nên Emil thoát được cái khung giường. Nhưng Emil vẫn hăng hái tiếp tục và hầu như bạ món gì nó cũng chào giá, và loáng cái nó đã thành chủ sở hữu của ba món đồ. Món thứ nhất là một cái hộp bằng nhung đã bợt màu, trên nắp gắn những vỏ ốc nhỏ màu xanh lơ - cái này có thể làm quà cho bé Ida -, món thứ hai là xẻng nướng bánh mì có cán dài dùng để đưa bánh mì vào lò nướng và món thứ ba là một bơm cứu hỏa đã cũ gỉ mà khắp làng Lönneberga bói không ra ai thèm trả dù chỉ mười xu. Emil trả hẳn hai mươi lăm xu và mua được.
Ôi, cứu với, thực ra mình đâu có muốn mua cái của nợ đó, Emil nghĩ. Nhưng chuyện đã xảy ra rồi, và giờ đây dù muốn hay không nó đã có một bơm cứu hỏa.
Rồi chú Alfred đi tới. Chú nhìn cái bơm và phá lên cười.
- Ông chủ bơm cứu hỏa Emil Svensson, - chú nói. - Mà sao cháu lại mua thứ quái dị này để làm gì?
- Thì đề phòng sét đánh hoặc cháy nhà... - Emil đáp.
Và đúng giây phút đó sét đã đánh xuống - ít ra thì thoạt tiên Emil cũng tưởng thế, nhưng hóa ra chỉ là bố túm lấy cổ áo Emil mà lắc lấy lắc để, khiến mái tóc bông của nó bay tung lên.
- Đồ mất dạy, con tha lôi cái quái quỷ gì vậy! - Bố quát lên.
Bố đang ung dung dạo gót quanh dãy chuồng trại và đã nhắm được con bò cái để mua, thì cô Lina hớt hải chạy đến.
- Ông chủ, ông chủ, thằng Emil đang ở đây, lại còn mua bao nhiêu là bơm cứu hỏa! Nó được phép mua hả ông?
Bố đâu biết Emil có tiền riêng. Bố cứ tưởng chính mình sẽ phải trả tiền những món mà Emil đã trả giá, cho nên chẳng có gì lạ khi mặt bố tái dại, toàn thân run bắn, lúc bố nghe mách về những chiếc bơm cứu hỏa.
- Bỏ con ra! Con tự trả tiền!- Emil gào lên.
Cuối cùng nó cũng giải thích được với bố là mình đã làm giàu như thế nào - đơn giản thôi, vì nó đã đứng mở cổng rào ở Katthult. Bố Emil thừa nhận Emil đã rất khôn ngoan, nhưng ông thấy nó ít khôn ngoan hơn nhiều khi quẳng tiền ra để rước cái bơm cứu hỏa cũ mèm ấy.
- Mặc dù vậy bố không muốn biết tý gì về những vụ làm ăn điên rồ như thế, -ông nghiêm khắc nói. Rồi ông đòi xem tất cả những thứ đã đấu giá mà Emil mua được, và ông đã rất đau lòng khi trông thấy một cái hộp bằng nhung cũ rích không còn có thể dùng vào việc gì, một cái xẻng nướng bánh mì, thứ mà ở trang trại Katthult có sẵn một cái tốt gấp vạn - tóm lại toàn là những vụ làm ăn điên rồ! Cố nhiên tệ hại nhất vẫn là cái bơm cứu hỏa.
- Nhớ điều bố nói này! Chỉ nên mua thứ gì tuyệt đối cần thiết! - Bố Emil bảo.
Chắc chắn bố có lý, nhưng làm sao biết được thứ gì là cần thiết? Ví dụ nước chanh có cần thiết không? Cần thiết chứ, Emil tin chắc vậy. Nó đi lang thang có phần buồn bã, sau khi bị bố cạo cho một trận như thế. Trong tâm trạng ấy, nó nhìn thấy một quầy bán bia và nước chanh giữa những bụi tử đinh hương. Những người ở trang trại Backhorva luôn có chút máu kinh doanh, nên họ đã khuân từ nhà máy bia ở thị trấn Vimmerby về những thùng bia và nước chanh đầy phè để bán cho đám người dự phiên đấu giá giải khát.
Cả đời Emil mới được uống nước chanh có mỗi một lần, và nó sung sướng vì đã phát hiện ra ở đây có nước chanh, hơn nữa chính nó lại đang rủng rỉnh tiền trong túi. Hãy thử tưởng tượng, sao hai điều may mắn lại có thể đến cùng một lúc như thế cơ chứ!
Emil gọi và uống một lèo ba cốc nước chanh liền. Nhưng rồi sầm sét lại giáng xuống. Bố đột nhiên lại xuất hiện. Bố túm lấy cổ áo Emil mà lắc khiến nước chanh ộc cả vào mũi nó.
- Đồ mất dạy, tưởng mới kiếm được tí tiền thì cứ đứng đây mà nốc nước chanh hả!
Nhưng Emil đã nổi điên và cự lại.
- Thôi đi, con cáu tiết rồi đấy! - Nó hét. - Nếu con không có tiền thì con không thể uống nước chanh, còn khi con có tiền thì con không được phép uống nước chanh! Vậy thì - quỷ tha ma bắt - bố nói xem khi nào con mới được uống nước chanh đây?
Bố Emil nghiêm khắc nhìn nó.
- Con lại đáng vào ngồi trong xưởng mộc rồi đấy!
Ông chỉ nói thế, rồi lại mất hút về phía chuồng ngựa. Còn Emil đứng chưng hửng ở đó mà xấu hổ. Nó tự biết mình đã quá đáng như thế nào. Nổi cáu với bố chưa đủ, điều tồi tệ nhất nó lại còn nói “quỷ tha ma bắt”, và đó gần như một lời rủa. Mà ở Katthult không ai được phép rủa cả. Bố Emil là người ngoan đạo bậc nhất, theo như tôi biết. Emil xấu hổ trong nhiều phút, nhưng rồi nó lại mua một cốc nước chanh đem cho chú Alfred. Hai chú cháu cùng ngồi bên tường kho chứa củi của trang trại Backhorva tán chuyện, trong khi chú Alfred uống nước chanh. Suốt đời chú chưa bao giờ được uống thứ gì ngon hơn thế, chú bảo.
- Chú có thấy cô Lina đâu không ạ? - Emil hỏi.
Chú Alfred chỉ ngón tay cái về phía cô Lina. Cô đang ngồi trên cỏ xanh, tựa lưng vào hàng rào, ngồi bên cạnh cô là gã nông dân đến từ trang trại Krakstorp, kẻ từng quất roi về phía Emil. Có thể thấy là cô Lina đã quên tiệt những lời nhắc nhờ mà cô được nghe ở nhà, vì cô cứ ngúng nga ngúng nguẩy và cười khúc kha khúc khích, như cô vẫn làm như thế khi tiếp xúc với mọi người. Nhưng cũng có thể nhận thấy gã nông dân chủ trang trại Krakstorp thích những trò õng ẹo của cô. Thấy vậy, Emil khoái chí lắm.
- Chú Alfred, chú thử tưởng tượng nếu bọn mình gả được cô Lina cho cái ông ở trang trại Krakstorp kia! - Nó cười đầy hy vọng. - Khi ấy biết đâu chú có thể thoát được cô ấy!
Chẳng là cô Lina đã chọn chú Alfred làm chú rể và cô cũng muốn cưới chú, mặc dù chú Alfred luôn luôn ra sức chống đỡ. Từ lâu chú Alfred và Emil vẫn lo tìm cách giải phóng cho chú Alfred khỏi cô Lina, thế nên bây giờ hai chú cháu phấn khởi nghĩ rằng biết đâu họ chẳng xúi được gã chủ trang trại Krakstorp nọ lấy cô Lina! Cố nhiên gã đã già, ngấp nghé tuổi năm mươi rồi, và trên đầu không còn lấy một sợi tóc, nhưng gã lại có một trang trại nhỏ và chắc chắn cô Lina cũng muốn trở thành bà chủ trang trại Krakstorp.
- Tụi mình phải canh không cho ai quấy rầy họ, - Emil nói.
Nó biết là cô Lina còn phải khúc khích cười và ngả ngớn hồi lâu nữa thì gã chủ trang trại Krakstorp mới đánh rơi lý trí và cắn câu thực sự.
Phía sau, chỗ dãy chuồng gia súc, người ta đã bắt đầu đấu giá. Chú Alfred và Emil đi tới đó xem.
Bố Emil đã mua được một con lợn nái sắp đẻ với giá hời, nhưng khi đấu giá bò sữa thì lại gặp chuyện bực mình. Một bác nông dân đến từ trang trại Bastefall muốn mua cả đàn bảy con bò sữa, thế nên bố Alfred buộc phải trả tám mươi đồng cho con mà bố đã chọn. Bố khẽ thở dài khi rút hầu bao trả món tiền kinh khủng đó. Sau đấy thì bố nhẵn túi, chẳng còn tiền tậu thêm vài con gà. Bác nông dân chủ trang trại Bastefall  được mua nốt đàn gà theo giá mà bác đưa ra, riêng một con gà mái là bác ta không muốn mua.
- Tôi biết làm gì với một con gà mái què chứ? - Bác ta cười. - Các người vặn cổ nó bỏ vào nồi được rồi đấy.
Con gà mái mà bác nông dân chủ trang trại Bastefall chỉ muốn quẳng vào nồi từng bị què một cẳng chân, sau đó cẳng đó đã lành lại, nhưng bị vẹo. Một thằng bé người nhà trang trại Bastefall đứng cạnh Emil bỗng nói.
- Ông này quá ngu nếu không mua con Lotta Què. Nó là con gà mắn đẻ nhất nhà tôi, tôi biết rất rõ!
Thế là Emil hét toáng lên:
- Cháu trả con Lotta Què hai mươi lăm xu!
Mọi người cười ồ. Tất cả mọi người, trừ bố Emil, đương nhiên rồi. Bố xồng xộc chạy tới túm cổ áo Emil.
- Đồ mất dạy, trong có một ngày trời mà con định làm bao nhiêu vụ làm ăn điên rồ nữa đây hả? Con sẽ phải trả giá cho cái của nợ này hai ngày liền ngồi dưới xưởng mộc đấy, rõ chưa?
Nhưng việc đã rồi. Emil đã nói hai mươi lăm xu thì nó phải giữ lời. Giờ đây Lotta Què  là con gà của nó, mặc bố nghĩ thế nào thì nghĩ.
- Dù sao bây giờ cháu cũng có hai con vật là của cháu. - Emil bảo chú Alfred. - Một con ngựa và một con gà mái!
- Phải, một con ngựa và một con gá mái què, - chú Alfred nói và bật cười, nhưng vô cùng thân thiện như chú vốn thế.
Người ta bỏ con Lotta vào một cái lồng rồi Emil xếp cái lồng vào đống của cải của nó bên cạnh kho chứa củi: chiếc bình cứu hỏa, cái xẻng nướng bánh mì và chiếc hộp nhung, con Lukas cũng buộc ở đấy. Emil ngắm nghĩa tài sản của mình, nó rất hài lòng.
Nhưng nãy giờ cô Lina và gã chủ trang trại Krakstorp thế nào rồi nhỉ? Emil và chú Alfred đi một vòng để thám thính, và hài lòng khẳng định rằng cô Lina đang rất ổn. Gã chủ trang trại đã ôm lấy cô, còn cô vừa cười vừa ngả ngớn còn tệ hơn bất kỳ lúc nào trước kia. Chốc chốc cô lại dúi vào gã một cái khiến gã bật ngã vào hàng rào.
- Ông ta có vẻ cũng thích đấy, - Emil nói. - Nếu như cô ấy đừng dúi ông ta mạnh như thế!
Tóm lại Emil và chú Alfred vô cùng đắc ý với cung cách làm duyên dáng của cô Lina. Nhưng còn một kẻ khác không hề đắc ý với thái độ của cô, đó là gã Bullte đến từ Bo.
Gã này thích gây lộn và nghiện rượu vào loại tệ hại nhất làng Lönneberga, và tại những phiên đấu giá bao giờ cũng xảy ra những vụ ẩu đả kinh hồn chủ yếu là do tội của gã. Trong phần lớn trường hợp, gã luôn là người gây sự. Bạn phải biết rằng trước kia đầy tớ nhà nông phải quanh năm đầu tắt mặt tối, làm việc quần quật mà hầu như chẳng bao giờ được ló mặt tới chỗ nào vui vẻ. Vì vậy mà đối với anh ta một phiên đấu giá là cả một cuộc vui khổng lồ, và anh ta rất muốn đánh nhau. Nếu không đánh nhau, anh ta còn biết làm gì với bao nhiêu sức lực bỗng cuồn cuộn dâng lên trong cơ thể, khi anh ta hòa mình trong đám đông và nhất là sau khi đã nốc vài ly rượu đầy. Phải, tiếc rằng không phải mọi người đều uống nước chanh. Chí ít thì không phải gã Bullte đến từ Bo.
Lúc này gã trông thấy cô Lina đang ngồi với gã chủ trang trại Krakstorp mà ve vãn nhau. Gã bèn lên tiếng:
- Cô nàng không biết xấu hổ sao, Lina? Cô định làm gì với một lão già hói đầu vô tích sự như thế! Dễ thường cô không hiểu là lão quá già so với cô hả?
Các cuộc ẩu đả thường vẫn bắt đầu như thế.
Emil và chú Alfred đứng đó, trông thấy gã chủ trang trại Krakstorp nổi giận, buông cô Lina ra như thế nào. Lại còn thế nữa, sao cái gã Bullte đến từ Bo lại cứ mò đến đây để phá hỏng tất cả những gì hay ho mà chú Alfred và Emil đã tưởng tượng ra?
- Cứ ngồi yên đấy, vì Chúa, ông hãy cứ ngồi yên đấy đi! - Emil sợ hãi kêu lên với chủ trang trại Krakstorp. - Cứ để gã Bullte cho cháu, cháu xử lý được!
Đoạn nó cầm cái xẻng nướng bánh mỳ phang thật lực vào mông gã Bullte. Nhưng lẽ ra nó chẳng nên làm thế, vì gã Bullte quay phắt người lại và túm lấy Emil. Gã tức đến nỗi lác xệch cả mắt, còn Emil thì lủng lẳng trên hai bàn tay hộ pháp của lão, nghĩ bụng giờ tận số của mình đã điểm. Thế là chú Alfred bỗng gầm lên:
- Để thằng bé yên, nếu không mày sẽ phải bọc nắm xương của mày trong khăn tay mà đem về nhà đấy! Tao sẽ lo việc ấy cho mày!
Chú Alfred cũng rất khỏe và không từ một cuộc ẩu đả nào. Chưa đầy hai giây sau, chú và Bullte đã lăn xả vào nhau đấm đá huỳnh huỵch.
Và dường như tất cả mọi người chỉ đợi có thế.
Tụi mình sắp bắt đầu một trận quần nhau tơi bời chứ hả? Nhiều chú đầy tớ đã hỏi nhau trước đó, và giờ đây họ chạy tới từ khắp ngả và muốn tham chiến.
Nhưng cô Lina đã bắt đầu hét lên.
- Họ đánh nhau vì tôi, - cô hét. - Ôi, đúng là một bi kịch!
- Chừng nào cháu còn cầm cái xẻng này, ở đây sẽ không có bi kịch, - Emil an ủi.
Lúc này đám đầy tớ nằm chồng chất lên nhau thành một đống tướng, chân tay khua loạn lên như cua khua càng: họ giằng xé, gào thét, cấu cắn, đấm đá và chửi rủa nhau loạn xị ngậu. Nằm tận dưới cùng là chú Alfred và gã Bullte, gã chủ trang trại Krakstorp và một vài người nữa.
Emil sợ họ sẽ nghiền chú Alfred của nó nát nhừ ra mất, thế là nó vừa chạy vòng quanh vừa xọc lấy xọc để cái xẻng nướng bánh mì vào đám đầy tớ, hòng tìm cách lôi được chú Alfred ra. Việc Emil làm như giống như một cuộc chơi thử lòng kiên nhẫn. Nhưng nó không thành công, và hễ nó đứng chỗ nào là y như rằng có một bàn tay giận dữ thò ra định túm lấy nó lôi vào cuộc chiến.
Nhưng Emil không muốn thế. Nó bèn nhảy lên lưng con Lukas và đi nước kiệu quanh những kẻ đánh nhau. Trông Emil ngồi trên lưng ngựa, tốc bay trong gió, tay giơ cao chiếc xẻng nướng bánh mì, thật chẳng khác gì một hiệp sĩ dương cao ngọn giáo xông vào trận mạc.
Emil cứ thế chạy vòng quanh đống đầy tớ chất chồng lên nhau và dùng xẻng xọc lấy xọc để vào bất kỳ chỗ nào có thể. Lúc này nó càng hăng hơn, và ít nhất cũng lột bớt được lớp đầy tớ nằm trên cùng, nhưng lập tức lại có những kẻ mới chạy đến và lao mình vào, thành thử Emil có cật lực xọc xẻng đến đâu cũng không giải cứu được chú Alfred.
Tất cả đám phụ nữ có mặt đều gào khóc thảm thiết, còn bố Emil và những bác nông dân biết điều khác, - những người quá tốt, không bao giờ đánh nhau - thì chỉ đứng nhìn và khuyên can với vẻ bất lực:
- Dừng lại đi, các chú! Sẽ còn nhiều phiên đấu giá nữa cơ mà! Phải để dành tí tiết cho những phiên sau nữa chứ!
Nhưng những chú đầy tớ đang trong cơn hăng nên chẳng nghe thấy gì. Họ chỉ muốn đánh nhau, đánh nhau và đánh nhau. Emil bèn quăng cái xẻng đi.
- Cô Lina, giờ cô phải giúp cháu, chứ đừng chỉ biết đứng đấy mà khóc lóc, - nó nói. - Suy cho cùng thì người đang nằm tít bên dưới là chú rể của cô đấy.
Tôi đã nói là Emil rất tinh ranh mà. Đoán xem nó sẽ làm gì! Nó có sẵn một bình cứu hỏa và nước thì đầy dưới giếng. Emil phân công cô Lina bơm, còn nó lo cầm vòi xịt - thế là nước phụt ra, thật là may.
Cả đống đầy tớ rùng lên như nấc cụt khi dòng nước lạnh đầu tiên xịt cực mạnh vào chính giữa họ. Và, bạn muốn tin tôi hay không thì tùy, Emil chỉ cần xịt vài phút là cuộc ẩu đả ngủm dần rồi tắt hẳn. Các chú đầy tớ lần lượt ngóc những gương mặt sửng sốt và sưng vù lên khỏi đống người và lần lượt tất cả đều lồm cồm đứng dậy.
Bạn hãy nhớ lấy, nếu có lúc nào bạn sa vào cuộc đánh lộn và muốn chấm dứt nó, thì nước lạnh hiệu nghiệm hơn là xẻng nướng bánh mì! Đứng quên đấy nhé!
Các chú đầy tớ không hề tức giận với Emil. Bây giờ họ đã trút được khỏi người tất cả những hung hăng và chắc chắn đều cho rằng cuộc ẩu đả lần này chấm dứt ở đây là vừa.
- Hơn nữa tuần sau lại có phiên đấu giá ở trang trại Knashult rồi, - gã Bullte nói và nhét một ít rêu vào hai lỗ mũi để cầm máu.
Thế là Emil tìm đến ông chủ trang trại Krakstorp, người cũng đang có mặt ở đây và đã chứng kiến trận đánh nhau, và bán lại cho ông bơm cứu hỏa với giá năm mươi xu.
- Thế là cháu đã lãi hai mươi lăm xu, - Emil bảo chú Alfred, và vào giây phút ấy chú Alfred hiểu rằng lớn lên Emil sẽ trở thành một doanh nhân giỏi giang.
Lúc này phiên đấu giá đã kết thúc. Tất cả mọi người gom những thứ lỉnh kỉnh mà mình đã mua được lên đường về nhà. Bố Emil cũng muốn ra về với con bò sữa và con lợn nái của ông. Con lợn nái được cho lên cỗ xe chở sữa. Con Lotta Què cũng được đi cùng, mặc dù bố Emil cứ bực bội lườm nó nằm trong lồng. Con bò Rölla sẽ lẽo đẽo đi sau xe, ấy là bố dự tính thế. Nhưng không ai chịu hỏi xem con Rölla xem nó nghĩ sao về chuyện đó!
Chắc bạn đã từng nghe về những con bò mộng bị điên rồi. Nhưng bạn có biết chút gì về những con bò cái điên không? Không ư? Vậy tôi muốn nói với bạn rằng ngay đến những con bò mộng điên khùng nhất cũng run tứ túc và ù té chạy trốn, một khi có con bò cái nào nổi điên thực sự.
Cả đời mình, con bò cái Rölla vốn là một con vật thân thiện nhất, hiền lành nhất mà người ta có thể tưởng tượng ra. Nhưng giờ đây, khi chú Alfred và cô Lina định lùa nó lên đường về trang trại Katthult, thì nó bỗng giằng ra và rống lên một tiếng như vọng từ dưới mồ, khiến tất cả mọi người ở Backhorva giật mình kinh ngạc. Có thể con bò đã chứng kiến đám đầy tớ đánh lộn và nghĩ rằng đã là phiên đấu giá thì cứ làm cho loạn một thể. Chỉ biết lúc này nó nhảy chồm lung tung, điên khùng và hung dữ, nên ai mon men lại gần nó sẽ thiệt hại như bỡn. Chú Alfred thử mon men đầu tiên, rồi đến bố Emil, nhưng con Rölla trừng trừng nhìn họ bằng cặp mắt đỏ ngầu vì điên giận, hai sừng chúi về phía trước với tiếng rống trầm đục khiến cả chú Alfred và bố Emil phải chạy như thỏ để thoát thân. Có những người khác nữa đến giúp, nhưng Rölla không muốn thấy bất kỳ ai trước chuồng của nó - nó muốn được ở một mình.
- Đúng là bi kịch! - Cô Lina nói khi trông thấy các ông chủ trang trại Backhorva, Krakstorp, Bastefall, Knashult và cả gã Bullte bỏ chạy thục mạng, con Rölla rượt theo sau.
Cuối cùng ngay bố Emil cũng phát điên, ông hét lên:
- Tôi đã bỏ ra những tám mươi đồng để mua con bò này! Dẫu vậy, hãy mang một khẩu súng ra đây, nó sẽ bị bắn bỏ!
Bố run rẩy vì tiếc của khi hét lên như thế, nhưng chẳng ai thích thú gì một con bò điên, bố hiểu và những người khác cũng hiểu như vậy. Ông chủ trang trại Backhorva đem ra khẩu súng đã nạp đạn của mình, ấn vào tay bố Emil.
- Tốt hơn là anh hãy tự làm đi! - ông nói.
Nhưng Emil đã kêu lên:
- Đợi tý đã!
Tôi đã nói Emil là một thằng bé tinh khôn mà. Lúc này nó đã đi đến trước mặt ông và nói:
- Nếu bây giờ bố muốn bắn chết nó, thì bố cũng có thể tặng nó cho con lắm chứ!
- Con định làm gì với con bò điên? - Bố Emil hỏi. - Dùng nó để săn sư tử chắc?
Nhưng bố biết em có tay chăm súc vật, vì vậy mà bố bảo: nếu Emil đưa được con Rölla về nhà thì con bò sẽ mãi mãi là của nó, cho dù con bò có điên khùng tới cỡ nào.
Thế là Emil đến chỗ ông chủ trang trại Bastefall, người đã mua sáu con bò kia và bảo ông ta:
- Ông sẽ trả cháu bao nhiêu, nếu cháu lùa giúp ông đàn bò về đến trang trại Katthult ạ?
Trang trại Bastefall nằm ở tít cuối đầu bên kia làng, và lùa sáu con bò về đấy đâu có vui thú gì. Ông chủ trang trại biết thế, nên nhanh chóng thò tay vào túi quần rút ra đồng hai mươi lăm xu.
- Đây cầm lấy, - ông nói.- Bắt đầu đi!
Đoán xem Emil làm gì! Nó chạy ngang qua con bò Rölla, vào chuồng tháo dây thả những con bò kia ra. Khi Emil lùa đàn bò này đi ngang qua con Rölla, con bò đang rống bỗng im bặt, cụp mắt xuống và rõ ràng xấu hổ về những cử chỉ xấu xa của mình trước đó. Nhưng một con bò cái tội nghiệp biết làm gì đây khi nó phải rời xa khu chuồng cũ của mình và đơn côi đứng đó, thiếu vắng những con bò cái khác mà nó đã quen sống cùng? Nó sẽ tức giận và buồn bã! Chỉ có Emil hiểu điều đó.
Giờ đây con Rölla vội vã nhập bọn, cùng đàn bò lên đường. Mọi người cười hể hả bình luận:
- Cái thằng bé của trang trại Katthult này thật ra chả ngốc tý nào!
Chú Alfred cũng cười.
- Ông chủ gia súc Emil Svensson, - chú nói. - Giờ thì cháu đã có một con ngựa, một con gà mái què và một con bò cái điên. Không còn gì mà cháu muốn có nữa chứ?
- Có đấy, từ từ rồi cháu sẽ còn muốn có nữa, - Emil bình thản đáp.
Mẹ Emil đứng bên cửa sổ của trang trại Katthult ngóng trông những người thân yêu của mình trở về từ phiên bán đấu giá. Bà trố mắt ngạc nhiên khi nhìn thấy đoàn lữ hành đông đúc xuất hiện trên đường ngoài kia. Trước hết là cỗ xe chở sữa, trên có bố Emil, chú Alfred, cô Lina, con lợn nái và con Lotta Què đang phấn khởi cục tác trước quả trứng nó mới đẻ, rồi đến bảy con bò sữa nối đuôi nhau thành một hàng dài, cuối cùng là Emil trên lưng con Lukas, tay lăm lăm cầm cái xẻng nướng bánh mì canh chừng để không con bò nào đi chệch hướng.
Mẹ Emil chạy ra đón, bé Ida chạy theo sau.
- Những bảy con bò! - Mẹ kêu lên với bố. - Ai đã hóa điên rồi đây, mình hay em?
- Con bò chứ ai! - Bố làu bàu. Nhưng bố còn phải làu bàu một hồi nữa thì mẹ mới thủng đầu đuôi câu chuyện. Thế là mẹ âu yếm nhìn Emil.
- Chúa phù hộ cho con, Emil! Nhưng làm thế nào mà con biết được cái xẻng nướng bánh mì của nhà ta vừa mới bị hỏng lúc mẹ định đưa bánh cho vào lò nướng?
Đến đây mẹ rú lên khi nhìn thấy mũi của chú Emil sưng to gấp đôi bình thường.
- Trời đất ơi, cậu đã ở đâu với cái mũi của cậu vậy hả? - Mẹ hỏi.
- Ở phiên đấu giá ở Backhorva ạ, - chú Alfred đáp. - Tuần sau cháu sẽ lại vác nó đi Knashult.
Cô Lina ủ rũ và bực dọc xuống xe. Với cô, thế là hết khúc khích cả ngả ngớn.
- Trông cô cau có thế, - mẹ nói. - Cô làm sao vậy?
- Đau răng, - cô Lina đáp gọn lỏn.
Gã chủ trang trại Krakstorp cứ liên tục mời cô ăn kẹo, vì vậy mà cái răng hàm bị sâu của cô bây giờ mới đau tợn, đau vỡ cả đầu ra.
Nhưng đau răng hay không thì cô vẫn phải ra đồng cỏ - nơi chăn thả đàn bò của trang trại Katthult - và vắt sữa bò ngay, kẻo quá giờ vắt sữa từ lâu rồi.
Cũng đã quá giờ vắt sữa đối với con Rölla và đám bạn đến từ phiên đấu giá của nó. Cả lũ đang kêu ầm ĩ để nhắc người ta nhớ đến điều đó.
- Nếu ông chủ trang trại Bastefall không có mặt ở đây để vắt sữa cho mấy con bò già của ông ấy, thì đó chẳng phải lỗi tại con. -Emil tuyên bố và bắt đầu tự tay vắt sữa. Đầu tiên là con Rölla rồi đến sáu con kia. Emil vắt được cả thảy ba chục lít sữa và mẹ nó đem cất xuống tầng hầm, định khi có thời gian sẽ làm pho mát. Quả nhiên sau này qua tay mẹ, chỗ sữa đó trở thành cái bánh pho mát to đùng, ngon tuyệt, dành riêng cho Emil, khiến nó vui sướng một thời gian dài. Nhưng còn quả trứng mà con Lotta Què đẻ trên đường về nhà thì Emil đem luộc ngay và bưng lên trước mặt bố, trong khi bố hơi cáu kỉnh ngồi bên bàn ăn chờ bữa tối.
- Trứng của con Lotta Què đấy bố ạ, - Emil nói. Đoạn nó đặt thêm trước mặt bố một cốc sữa tươi vừa mới vắt. - Còn sữa này là của con Rölla.
Bố im lặng ăn uống, trong khi mẹ đưa tất cả số bánh mì bà đã nặn vào lò nướng.
Còn cô Lina áp một củ khoai tây nóng rực vào chỗ răng đau, thế là cái răng còn đau hơn gấp bảy lần, đúng ý cô Lina.
- Phải, cho mày nếm mùi đau, - cô Lina nói với cái răng. - Mày đã xấu chơi thì tao cũng biết chơi xấu.
Chú Alfred cười.
- Cái nhà ông ở Krakstorp tốt ghê đấy chứ, cho cô em bao nhiêu là kẹo, - chú nói. - Em nên cưới ông ta đi, Lina ạ.
Thế là cô Lina thở phì phì giận dữ.
- Cái lão già đi còn không vững ấy ư! Lão đã năm mươi tuổi, trong khi em mới hai mươi lăm! Anh tưởng em muốn cưới một người gấp đôi tuổi mình chắc?
- Thì có sao đâu, - Emil hăng hái xen vào. - Chẳng làm sao cả!
- Phải, đấy là cậu nghĩ thế, - cô Lina nói. - Bây giờ thì còn tạm được, nhưng cậu thử tưởng tượng xem, khi tôi năm mươi tuổi thì lão ta đã một trăm tuổi. Úi giời, khi đó tha hồ mà hầu lão ta!
- Cô tính toán đúng như trí khôn của cô, cô Lina ạ, -mẹ Emil nói và đóng sập cánh cửa lò sau khi cho chiếc bánh mì cuối cùng vào lò. - Quả là một cái xẻng nướng bánh tuyệt vời, Emil ạ, - sau đó mẹ bình luận.
Khi bố Emil đã ăn hết quả trứng và uống hết cốc sữa, Emil bèn bảo:
- Thôi, bây giờ con xuống xưởng mộc đây!
Bố lẩm bẩm gì đó, đại khái là nói chung hôm nay hầu như Emil có làm gì nên tội đâu mà ngồi trong xưởng mộc. Nhưng Emil nói:
- Không, không, đã nói là làm!
Rồi một mình, lặng lẽ và đầy phẩm giá, nó đi ra khỏi bếp, xuống xưởng mộc, ngồi đẽo hình nhân thứ một trăm hai mươi chín của mình.
Trong khi đó con Lotta Què đã yên vị trên thanh tre trong chuồng gà và con Rölla hài lòng tung tăng cùng đàn bò của trang trại Katthult trên bãi cỏ. Trước đấy ông chủ trang trại Bastefall đã đến đón sáu con bò của mình. Ông và bố Emil còn chuyện trò khá lâu về phiên đấu giá và tất cả những gì đã diễn ra ở đấy. Vì vậy mà phải một lúc lâu nữa bố Emil mới có thể đón nó ra khỏi xưởng mộc.
Ông chủ trang trại Bastefall vừa ra về thì bố Emil đã chạy xuống xưởng mộc. Khi đến gần, ông thấy bé Ida đang ngồi trên một chiếc ghế dài trước cửa sổ xưởng mộc, tay ôm khư khư cái hộp nhung gắn những vỏ ốc, như thể đó là vật đẹp đẽ nhất nó từng nhận được trong đời. Mà cũng đúng thế thật. Nhưng bố Emil lại càu nhàu:
- Mua bán điên rồ! Một cái hộp nhung cũ rích!
Bé Ida không biết bố đang đi đến. Vì vậy nó không lặng im mà tiếp tục ngoan ngoãn và dễ bảo mà nhắc lại những lời mà Emil từ trong xưởng mộc thì thầm mớm ra cho nó. Bố Emil giận tái mặt, khi ông - kẻ ngoan đạo nhất trần đời - nghe con gái nhỏ nói những lời tồi tệ chưa từng được thốt ra ở trang trại Katthult, những lời dù qua giọng trong trẻo, thỏ thẻ của bé Ida cũng không hề êm tai hơn.
- Im ngay, Ida! - Bố Emil quát. Đoạn ông thò tay qua cửa sổ túm lấy cổ áo Emil.
- Đồ mất dạy, con dạy em rủa đấy à?
- Con có làm thế đâu, - Emil đáp. - Con chỉ nói Ida là không bao giờ được nói “quỷ tha ma bắt”, rồi con lại nhét cho nó một lô những từ khác, để nó nhớ và tránh xa nó ra như tránh lửa vậy.
Phải, giờ thì bạn đã biết Emil đã làm gì vào ngày 12 tháng Sáu. Cho dù không phải mọi sự đều đặc biệt tốt đẹp, người ta vẫn cứ phải thừa nhận là hôm đó Emil đã có những vụ làm ăn khôn ngoan. Bạn thử hình dung cùng một lúc Emil đã kiếm được bao nhiêu là thứ: một con bò tốt sữa, một con gà cực mắn đẻ, một cái xẻng nướng banh mì siêu tốt, ngoài ra thêm bao nhiêu là sữa tươi, đủ để làm cái bánh pho mát to ngon tuyệt!
Thứ duy nhất khiến bố có thể càu nhàu là chiếc hộp nhung chẳng có ích gì trên đời, nhưng lại được bé Ida thích mê. Cô bé cất vào đó cái đê khâu tay, cái kéo và một quyển bài hát xinh xinh mà nó được phát ở trường mẫu giáo, một mảnh thủy tinh màu xanh lơ rất đẹp và chiếc nơ đỏ của nó. Lúc bé Ida nhận chiếc hộp này thì thấy bên trong đựng một xấp thư cũ, bèn vứt ngay xuống đất. Nhưng sau đó, vào tối thứ Bảy, khi Emil được tha khỏi xưởng mộc và bước vào bếp thì thấy những lá thư nằm ngổn ngang trong xó bếp, nó liền nhặt lên.
Chú Alfred cầm vỉ ruồi đi loanh quanh, ra sức đập ruồi, vì cô Lina muốn chí ít sẽ không có ruồi vào ngày Chủ nhật. Emil chìa cho chú xem những lá thư.
- Cái gì rồi cũng có ích hết, - Emil nói. - Nếu có lúc nào cháu phải gửi thư đi đâu, thì cháu đã có cả đống thư viết sẵn.
Nằm trên cùng là một lá thư gửi từ Mỹ về, và khi Emil nhìn thấy là thư, nó khẽ huýt sáo.
- Xem này, chú Alfred, đây nhất định là thư của chú Adrian rồi!
Chú Adrian là con trai đầu của ông chủ trang trại Backhorva đã sang Mỹ từ lâu lắm và suốt thời gian ấy chỉ duy nhất một lần viết thư về nhà. Cả làng Lönneberga đều biết thế và ai cũng tức giận với chú Adrian, vì họ thấy thương ông bố bà mẹ tội nghiệp của chú. Nhưng chú Adrian đã viết gì khi gửi thư về thì không ai biết, người ở trang trại Backhorva giữ kín.
- Nhưng bây giờ sẽ biết được, - Emil nói. Cái thằng bé giỏi giang này đã tự học đọc những chữ cái in và chữ cái viết.
Nó giở thư ra và đọc to cho chú Alfred nghe. Đọc nhanh thôi, vì thư ngắn ngủn. Trong thư viết:
“Con đã chông thấy một con ghấu. Gủi địa trỉ cho pố mẹ. Gút bai lần nài”.
- Lá thư này sẽ chẳng có ích lợi gì cho cháu, - Emil nói. Nhưng nó đã lầm to.
Rồi trời tối. Ngày thứ Bảy, 12 tháng Sáu sắp kết thúc. Màn đêm buông xuống trang trại Katthult, đem đến yên tĩnh và thanh bình cho tất cả mọi người và vật sống nơi đây. Tất cả, trừ cô Lina đang đau răng. Cô nằm thức trên chiếc ghế gấp dài trong bếp mà rên rỉ và than thở, trong khi đêm ngắn tháng Sáu đến rồi lại đi, và một ngày mới bắt đầu.
Một ngày mới trong cuộc đời Emil. Đó là:

Chủ nhật ngày 13 tháng Sáu, ngày Emil ba lần can đảm thử nhổ răng hàm cho cô Lina, và sau đó bôi xanh lè cả mặt bé Ida.

Dù là ngày thường hay Chủ nhật thì cũng đều phải vắt sữa bò. Đúng năm giờ sáng chiếc đồng hồ báo thức rung chuông inh ỏi và cô Lina bò ra khỏi giường, hoàn toàn suy sụp vì đau răng. Cô liếc nhìn vào tấm gương treo trên chiếc tủ ngăn rồi kêu lên một tiếng chói tai. Ôi lạy Chúa, trông cô mới khiếp làm sao! Má phải của cô sưng phồng lên chẳng khác gì một chiếc bánh mì nở hết cỡ vì quá tay cho bột nở. Không, thế này thì kinh quá! Cô Lina òa lên khóc.
Giờ đây cô có thể khiến người khác động lòng thương xót, vì đúng hôm nay cả làng sẽ đến trang trại Katthult để dùng cà phê sau lễ nhà thờ.
- Mình không thể chường cái mặt này ra được, nếu như hai bên má mình trông không đều nhau, - cô Lina lẩm bẩm rồi vừa thổn thức vừa rời bếp đi vắt sữa.
Nhưng cô chẳng cần lo nghĩ lâu về hai bên má không cân nhau của cô, vì đúng lúc cô ngồi xuống chiếc ghế vắt sữa thì một con ong vò vẽ bay đến và đốt vào má trái cô. Bây giờ người ta nghĩ hẳn cô sẽ hài lòng, vì má trái cô sưng lên nhanh chóng và phồng tướng y như má phải. Đúng, giờ thì cô đã toại nguyện rồi nhé, hai má đều tròn căng, ấy vậy mà cô lại còn khóc dữ hơn trước.
Lúc cô Lina bước vào bếp thì mọi người đã ngồi quanh bàn điểm tâm. Tôi có thể nói với bạn rằng tất cả đều trố mắt lên khi đột nhiên trông thấy một cái gì đó căng phồng, húp híp và đỏ tấy lù lù xuất hiện trên ngưỡng cửa. Đây mà là cô Lina sao! Trông cô đáng thương đến phát khóc, vì vậy mà Emil thật không tử tế khi nó lại cười. Nó vừa đưa cốc sữa lên miệng chực uống thì cô Lina bước vào, và khi nó ngước mắt qua miệng cốc thủy tinh nhìn cô thì nó phì cười mạnh đến nỗi sữa bắn qua bàn, bay vào chiếc áo gilê diện của bố. Có cả tiếng chú Alfred khe khẽ cười, phải, cô Lina quả thật khiến người ta thương xót!
Mẹ Emil nghiêm khắc nhìn Emil và chú Alfred, nói rằng ở đây thật sự chẳng có gì đáng cười cả. Nhưng trong lúc chùi khô áo cho bố, mẹ ngó cô Lina thêm lần nữa và có thể thấy mẹ đã hiểu tại sao Emil lại cười đến phì cả sữa ra như thế. Nhưng tất nhiên mẹ thương cô Lina.
- Khổ thân, - mẹ nói, - trông cô rất tệ và không thể để dân làng thấy cô trong bộ dạng này được. Emil, con chạy đến chỗ bà Krösa-Maja nhờ bà ấy đến đây giúp chúng ta bưng cà phê ra mời khách!
Dân làng Lönneberga ai cũng thích dự tiệc cà phê sau lễ nhà thờ cả, và chắc chắn ở khắp các trang trại người ta đều phấn khởi khi nhận bức thư của mẹ Emil, trong đó bà viết:

“Thưa các Ông các Bà, nếu các vị muốn đến nhà chúng tôi dùng cà phê sau lễ nhà thờ Chủ nhật này, chúng tôi hân hạnh kính mời.
Alma và Anton Svensson Katthult Lönneberga”.

Đã đến giờ đi lễ nhà thờ. Bố mẹ Emil lên đường, vì tất nhiên trước hết họ phải đến nhà thờ dự lễ đã, sau đó mới có thể nói đến tiệc cà phê.
Còn Emil ngoan ngoãn đến chỗ bà Krösa-Maja với lời nhắn của mẹ. Buổi sáng rất đẹp, và nó vui vẻ huýt sáo khi rẽ vào con đường mòn dẫn đến túp lều của bà Krösa-Maja. Bà ấy sống trong một túp lều cũ trong rừng.
Nếu bạn đã từng có mặt trong một khu rừng tại vùng Smăland vào một sớm Chủ nhật tháng Sáu, thì bạn sẽ lập tức nhớ lại tất cả: bạn nghe tiếng chim cu gáy gọi, tiếng chim sáo hót và cảm thấy những chiếc lá thông nhọn dưới đôi chân trần của bạn sao mà mềm mại và ánh mặt trời ấm áp mơn man trên gáy bạn mới dễ chịu làm sao. Bạn đi đến đó và thích hít mùi nhựa thông tỏa ra từ các loài thông trong rừng, bạn thấy hoa dâu rừng nở trên những khoảnh rừng thưa mới trắng làm sao. Emil cũng có cảm giác y như thế và vậy nên nó chẳng vội vàng gì, nhưng cuối cùng nó cũng tới được túp lều của bà Krösa-Maja, túp lều bé xíu, xám xịt và vẹo vọ gần như ẩn mình sau những thân cây.
Bà Krösa-Maja ngồi trong lều đọc tờ “Nhật báo Smăland”, bà đang vừa hoảng sợ vừa hài lòng về điều gì đó mới đọc được trên báo.
- Dịch thương hàn đã đến Jöenköeping, - bà nói trước khi chào Emil, và dí tờ báo trước mũi Emil để nó tận mắt trông thấy. Rất đúng, báo đăng hai nông dân ở Jöenköeping đã bị mắc bệnh thương hàn nặng, và bà Krösa-Maja gật đầu vẻ hài lòng.
- Thương hàn là một căn bệnh khủng khiếp, - bà nói. - Và nó sắp lan đến làng Lönneberga chúng ta, tin ta đi!
- Sao lại thế ạ? Làm sao nó lan đến tận đây được ạ? - Emil hỏi.
- Trong khi cháu vẫn còn đứng đây thì nó đã như hạt cây bồ công anh bay khắp vùng Smăland rồi, - bà Krösa-Maja nói. - Hàng kí hạt thương hàn ấy chứ. Và cầu Chúa che chở cho những ai ở đúng nơi mà chúng nảy mầm!
- Bệnh ấy như thế nào hả bà? Đại khái giống như dịch hạch phải không ạ? - Emil hỏi.
Bà Krösa-Maja từng kể về dịch hạch. Bà biết tất cả các loại dịch bệnh, và dịch hạch là một thứ gì rất khủng khiếp, bà đã bảo vậy. Ngày xưa dịch hạch đã giết chết gần như tất cả người dân vùng Smăland - nếu thương hàn cũng kinh khủng như thế thì sợ quá!
Bà Krösa-Maja nghĩ ngợi giây lát.
- Ừ, nó cũng tương tự như dịch hạch, - bà hài lòng nói. - Ta không biết đích xác, nhưng ta nghĩ người mắc phải trước hết sẽ xanh lè cả mặt mũi, sau đó thì chết. Phải, thương hàn là một căn bệnh tệ hại, ôi chao, ôi chao!
Nhưng rồi bà cũng nghe chuyện cô Lina đau răng và nỗi khổ vì hai cái má sưng vù của cô, lại nhè đúng vào ngày có tiệc cà phê nữa. Thế là bà hứa sẽ cố gắng đến Katthult thật nhanh.
Emil trở về nhà và thấy cô Lina đang ngồi trên bậc thang dẫn vào bếp mà than vãn chuyện đau răng. Chú Alfred và bé Ida hoàn toàn bất lực đứng cạnh cô.
- Chắc em phải tìm đến lão Pelle-Răng thôi, - chú Alfred khuyên.
Lão Pelle-Răng là thợ rèn ở làng Lönneberga, chuyên nhổ răng đau cho dân làng bằng cái kìm to tướng, kinh khủng của lão.
- Lão đòi bao nhiêu khi nhổ một cái răng? - Cô Lina hỏi trong tiếng nấc nghẹn ngào.
- Năm mươi xu một giờ, - chú Alfred đáp và cô Lina rùng mình khi nghĩ đến việc nhổ răng sẽ có thể kéo dài bao lâu và tốn bao nhiêu tiền.
Nhưng Emil suy nghĩ rất kỹ càng rồi bảo:
- Cháu nghĩ cháu có thể nhổ răng cho cô rẻ hơn và cũng nhanh hơn. Cháu biết phải làm thế nào!
Đoạn nó giải thích cho cô Lina, chú Alfred và bé Ida.
- Cháu chỉ cần hai thứ: con Lukas và một sợi chỉ vừa dài vừa chắc. Cháu sẽ buộc một đầu sợi chỉ vào cái răng của cô, cô Lina ạ, còn đầu kia buộc vào phía sau thắt lưng của cháu. Rồi cháu cưỡi con Lukas phi nước đại, thế là “plupp!” - cái răng của cô văng ra!
- “Plupp,” thôi, xin kiếu! - Cô Lina phẫn nộ nói. - Đừng có nói chuyện phi nước đại với tôi!
Nhưng đúng lúc đó một cơn đau khủng khiếp nổi lên trong cái răng sâu, còn ghê gớm hơn ban nãy nữa, khiến cô Lina thay đổi ý kiến. Cô thở dài đánh sượt.
- Thôi thì cứ thử xem. Chúa sẽ an ủi kẻ khốn khổ nhất đời là tôi đây, - cô nói và đi lấy chỉ.
Rồi Emil bắt tay vào việc như nó đã nói. Nó dắt con Lukas ra trước bậc tam cấp ở cửa bếp, và sau khi đã buộc xong sợi chỉ như kế hoạch, nó trèo lên lưng ngựa. Cô Lina tội nghiệp đã bị buộc răng đứng sau đuôi con ngựa, vừa khóc rống lên vừa than vãn. Bé Ida rùng mình. Nhưng chú Alfred lại hài lòng bảo:
- Bây giờ chúng ta chỉ cần chờ nghe tiếng “Plupp” nữa thôi!
Emil đã thúc ngựa phi nước đại.
- Ôi, sắp rồi đấy! - Bé Ida thốt lên.
Nhưng chẳng thấy tiếng “Plupp” nào cả. Vì nếu ở đây có ai cũng phi nước đại, thì đó là cô Lina. Cô sợ kinh khủng cái tiếng “Plupp” sẽ đến khi sợi chỉ đủ sức căng. Vì vậy mà cô chạy bán sống bán chết, nhanh ngang con Lukas. Mặc Emil ngoái lại gào lên là cô hãy đứng lại, cô Lina cứ chạy và sợi chỉ cứ chùng, nên làm sao có tiếng “Plupp” được.
Nhưng một khi Emil đã định giúp cô Lina thoát khỏi cái răng đau, thì nó quyết làm bằng được. Vì vậy mà nó tăng hết tốc lực phi thẳng ngựa đến hàng rào trước mặt và thúc cho con Lukas nhảy vọt qua rào. Cô Lina chạy đằng sau, sợ cuống cuồng đến phát điên, và nhìn kìa, cô cũng phi qua rào! Bé Ida đứng đó chứng kiến và sẽ không bao giờ quên được cái khoảnh khắc đó. Suốt đời cô bé vẫn sẽ nhớ cô Lina - hai má sưng phồng, ánh mắt hoảng loạn, một sợi chỉ lòng thòng ở miệng - đã bay qua hàng rào như thế nào và đã hét lên ra sao:
- Dừng lại! Dừng lại! Tôi chẳng thiết gì “Plupp” nữa!
Sau đó cô Lina xấu hổ vì đã làm hỏng mọi chuyện, nhưng đã muộn. Giờ đây cô lại ngồi trên bậc tam cấp ở cửa bếp, vẫn với cái răng đau, và ê chề trong thất bại.
Nhưng Emil không đầu hàng.
- Cháu phải nghĩ ra cách nào khác mới được, - nó nói.
- Ừ, nhưng là cách nào đừng nhanh quá nhé, - cô Lina cầu khẩn. - Cái răng khốn khổ này đâu có cần phải “plupp” một phát văng ra luôn. Cậu có thể làm cách nào từ từ vặn nó ra chẳng hạn!
Sau khi nghĩ ngợi một lúc, Emil biết nó phải làm gì.
Cô Lina phải ngồi bệt dưới gốc cây lê to, còn Emil trói chặt cô vào thân cây với một sợi thừng chắc, trong khi bé Ida và chú Alfred tò mò đứng xem.
- Bây giờ thì đố cô chạy nhanh được nữa, - Emil nói. Rồi nó cầm sợi chỉ vẫn thò ra từ miệng cô Lina và kéo đến bàn quay đá mài, nơi chú Alfred vẫn mài lưỡi hái còn bố thì mài lưỡi rìu và dao. Emil buộc chặt sợi chỉ vào tay quay của bàn đá mài, sau đó nó chỉ cần ra tay nữa là ổn.
- Sẽ không phải là tiếng “Plupp” quá nhanh nữa, mà cái răng sẽ chỉ bị vặn ra từ từ với tiếng “Drrr” thôi, đúng ý cô nhé, - Emil nói.
Bé Ida rùng mình, cô Lina than khóc, rồi Emil bắt đầu quay tay quay. Sợi chỉ ban đầu nằm chùng dưới đất dần ngắn lại và mỗi lúc một căng dần. Sợi chỉ càng căng, cô Lina càng sợ. Nhưng cô không thể bỏ chạy.
- Sắp bắt đầu có tiếng “Drrrr” đấy, - bé Ida nói.
Nhưng cô Lina đã hét lên:
- Dừng lại! Tôi không muốn!
Rồi nghĩ sao làm vậy, cô Lina nhanh như chớp móc trong túi tạp dề ra một cái kéo và cắt phăng sợi chỉ.
Sau đấy cô lại xấu hổ và buồn bã. Cô muốn thoát cái răng đau lắm chứ. Toàn bộ câu chuyện thật đáng thất vọng. Emil, chú Alfred và bé Ida nói chung không hài lòng. Emil nói:
- Cô cứ việc giữ lấy cái răng đau của cô! Cháu đã làm tất cả những gì có thể!
Nhưng cô Lina lại bảo nếu Emil muốn thử một lần duy nhất nữa thôi, thì - thề có trời đất chứng giám - nhất định cô sẽ không cho phép mình làm điều ngu ngốc nào khác nữa.
- Vì bây giờ phải nhổ cái răng đi thôi, cho dù tôi có phải chết, - cô nói. - Đưa thêm chỉ cho tôi nào!
Emil đã sẵn sàng cho cuộc thử nghiệm mới. Chú Alfred và bé Ida rạng rỡ mặt mày khi nghe Emil đồng ý.
- Dù sao cháu nghĩ làm thật nhanh vẫn là cách hay nhất, - Emil nói. - Nhưng phải làm cách nào để cô không thể lại bỏ lỡ cơ hội, dù cô có sợ đến đâu.
Và láu lỉnh như Emil vốn thế, nó lại có ngay một kế hoạch mới.
- Chúng ta sẽ đưa cô lên nóc chuồng bò, rồi cô nhảy từ trên đó xuống đống cỏ, khi cô còn đang rơi thì cái răng đã - “Plupp” - văng ra rồi!
- Plupp, - bé Ida nhắc lại và rùng mình.
Mặc dù đã hứa hẹn đủ thứ, giờ cô Lina lại cưỡng lại và không muốn lên mái nhà.
- Chỉ cậu mới nghĩ ra được những trò dã man như thế thôi, Emil ạ, - cô nói và cứ ương bướng ngồi lì trên bậc tam cấp.
Nhưng cái răng đau như điên, nên rốt cuộc cô đành thở dài não nuột đứng lên.
- Nào thì thử vậy, cho dù tôi sẽ phải chết.
Chú Alfred nhanh nhẹn bắc một cái thang lên nóc chuồng bò, rồi Emil leo lên. Tay cầm đầu sợi chỉ, Emil dắt cô Lina như dắt chó, còn cô thì ngoan ngoãn leo sau nó, cho dù cô vẫn tiếp tục rên rẩm.
Emil cầm theo một chiếc búa và một cái đinh sáu phân. Đóng xong cái đinh vào đỉnh nóc, nó buộc thật chắc sợi chỉ của cô Lina vào đấy, thế là tất cả đã sẵn sàng.
- Cô nhảy đi, - Emil giục.
Cô Lina đáng thương ngồi cưỡi trên sống nóc nhà, mắt trân trối ngó xuống dưới và than khóc đến xé lòng. Cô nhìn thấy dưới kia chú Alfred và bé Ida đang ngửa mặt lên, chờ đợi cô như một mẩu thiên thạch từ trên trời rơi xuống đống cỏ. Tiếng than khóc của cô Lina nghe càng tuyệt vọng hơn.
- Tôi không dám... quả là... tôi không dám đâu!
- Được, nếu cô cứ muốn giữ lấy cái răng đau của cô, thì tùy cô... cháu thế nào cũng xong, - Emil nói.
Thế là cô Lina khóc rống lên khiến cả làng Lönneberga đều nghe thấy. Rồi cô run rẩy đứng lên và cứ thế đứng thẳng người, sát mép ngoài đỉnh nóc. Cả người cô cứ đu đưa hết ra phía trước lại về phía sau, trông cứ như một cây tùng trong gió bão. Bé Ida vội bịt mắt lại, không dám nhìn.
- Hu hu, hu hu! - Cô Lina nức nở.
Giả sử trong mồm không có một cái răng nào, thì việc nhảy từ nóc chuồng bò xuống cũng đủ đáng sợ lắm rồi, đằng này cô Lina lại biết rằng trong lúc mình nhảy cái răng sẽ văng ra với một tiếng “Plupp” kinh khủng, điều đó vượt quá sức chịu đựng của một con người.
- Nhảy đi, Lina! - Chú Alfred lớn tiếng giục. - Nhảy đi nào!
Cô Lina rên lên và nhắm mắt lại.
- Cháu sẽ giúp cô, - Emil nói, ân cần như nó vốn thế. Nó chỉ việc chọc nhẹ ngón tay chỏ vào lưng cô Lina một cái là cô lập tức rú lên và rơi khỏi nóc nhà.
Người ta có nghe một tiếng “Plupp” khe khẽ, nhưng đấy là tiếng cái đinh sáu phân bật khỏi đỉnh nóc nhà.
Cô Lina nằm trên đống cỏ, cái răng đau vẫn nguyên trong mồm, còn ở đầu kia sợi chỉ lủng lẳng cái đinh sáu phân. Thế là cô nổi cáu với Emil.
- Cậu chỉ giỏi bày những trò quỷ quái và điên rồ thôi, còn khi cần nhổ răng thì rõ là đồ vô tích sự!
Cô Lina tức giận thế mà lại hay cho cô, vì trong cơn thịnh nộ cô phăm phăm đi thẳng đến chỗ lão Pelle-Răng. Lão thợ rèn dùng chiếc kìm kinh khủng của lão kẹp vào răng cô Lina và - “Plupp” - lão nhổ nó ra. Cô Lina giận dữ ném cái răng vào đống phân nhà lão, rồi quày quả bỏ về nhà.
Giờ không ai được nghĩ rằng trong lúc đó Emil chỉ biết ngồi không. Chú Alfred nằm xuống bãi cỏ dưới cây lê đánh một giấc, nên lúc này Emil không thể chơi đùa với chú được. Vì vậy nó cùng bé Ida đi vào buồng ngủ, nghĩ rằng hai đứa có thể chơi với nhau một lúc trong khi chờ bố mẹ đi lễ nhà thờ về và tiệc cà phê bắt đầu.
- Chúng mình chơi trò giả vờ anh làm ông bác sĩ ở Mariannelund, còn em là đứa bé bị ốm đến chữa bệnh đi! - Emil rủ.
Bé Ida bằng lòng ngay. Cô bé cởi quần áo ngoài, lên giường nằm, còn Emil khám họng, nghe tim phổi, y như ông bác sĩ ở Mariannelund.
- Cháu bị bệnh gì thế ạ? - Bé Ida hỏi.
Emil nghĩ ngợi, rồi chợt chẩn đoán ra bệnh.
- Cháu bị bệnh thương hàn, - nó nói. - Đó là một căn bệnh kinh khủng.
Nhưng nó bỗng sực nhớ bà Krösa-Maja bảo rằng hình như mặt người mắc bệnh thương hàn bị xanh lè ra. Vốn rất quy củ trong những việc như thế này, Emil lập tức tìm kiếm thứ gì có thể giúp nó làm cho bé Ida có đúng sắc mặt của người bệnh. Trên nóc tủ ngăn thấp có lọ mực mà mẹ Emil vẫn cần đến khi bà ghi chép những trò nghịch tinh của Emil hoặc viết những lá thư mời dự tiệc cà phê. Ngoài ra tờ giấy mà mẹ nháp thư mời vẫn còn nằm trên nóc tủ. Emil đánh vần dòng chữ “trân trọng kính mời” mà cứ thán phục sao mẹ viết giỏi và hay thế, lịch sự thế. Khác hẳn cái chú Adrian vừa thoát mù chữ, lại đi viết là “chông thấy một con ghấu”.
Bây giờ mẹ không cần bản nháp này nữa, thế nên Emil vo viên tờ giấy lại và đút vào lọ mực. Khi viên giấy đã hút đầy mực, nó bèn moi ra, kẹp giữa hai đầu ngón tay và tới gần bé Ida.
- Ida, giờ em sẽ biết thương hàn là thế nào, - Emil bảo, còn bé Ida thích thú cười khúc khích.
- Nhắm chặt mắt vào, kẻo mực rây vào mắt, - Emil ra lệnh, rồi bôi xanh lè khắp mặt bé Ida. Nhưng vốn thận trọng, nó không bôi sát vào mắt em, mà giữ nguyên màu da ở chỗ đó, thành thử nơi mắt bé Ida nổi bật hai cái lỗ tròn màu trắng to tướng. Hai cái lỗ trắng đó trên nền xanh khiến bé Ida có vẻ ngoài ốm đau đáng sợ đến nỗi Emil cũng phát hốt - trông cô bé gần giống một con khỉ ma nhỏ mà Emil từng thấy trong một bức ảnh in trong cuốn “Cuộc sống của loài vật” ở chỗ ông mục sư.
- Hú, bà Krösa-Maja nói đúng thật, thương hàn là một căn bệnh khủng khiếp! - Emil nói.
Đúng lúc ấy bà Krösa-Maja hấp tấp từ trong rừng ra và gặp cô Lina vừa đi nhổ răng về ở chỗ hàng rào của trang trại Katthult.
- Cô sao rồi? - Bà Krösa-Maja quan tâm hỏi. - Cái răng vẫn còn đau hở?
- Tôi biết đâu được đấy, - cô Lina nói.
- Cô không biết ư? Ý cô muốn nói gì?
- Tôi không biết, vì cái đồ nỡm ấy đang nằm trong đống phân nhà lão Pelle-Răng. Nhưng tôi mong là nó cứ nằm đấy mà chịu những cơn đau hành hạ đến phát khóc.
Cô Lina hớn hở, nãy giờ má cô đã bớt sưng nhiều. Cô đi đến gốc cây lê để khoe chú Alfred chỗ răng hổng. Còn bà Krösa-Maja tiếp tục đi vào bếp để sửa soạn cho bữa tiệc cà phê. Bà nghe tiếng bọn trẻ trong buồng ngủ và rất muốn ghé vào chào cô bé Ida mà bà yêu quý. Nhưng khi trông thấy đứa bé yêu quý nằm trên giường với bộ mặt xanh lè dễ sợ nổi bật trên chiếc gối trắng tinh thì bà la toáng lên:
- Ối trời đất ơi...
- Thương hàn đấy ạ, - Emil khẽ cười nói.
Đúng lúc đó có tiếng bánh xe lăn lọc cọc ngoài đường. Đó là mọi người từ lễ nhà thờ về: bố Emil, mẹ Emil và cả đám khách mời, dẫn đầu là ông mục sư. Sau khi tháo bỏ yên cương ở chuồng ngựa, họ kéo nhau lên nhà trên trong lòng hoan hỉ vì sắp được uống cà phê. Nhưng bà Krösa-Maja đứng trên bậc tam cấp mà gào với giọng chói tai:
- Đi khỏi đây! Đi khỏi đây ngay! Trang trại này có dịch thương hàn!
Tất cả mọi người giật mình, sửng sốt và sợ hãi dừng lại. Nhưng mẹ Emil hỏi:
- Bà nói gì thế? Ai bị thương hàn ở đây?
Đột nhiên bé Ida xuất hiện sau lưng bà Krösa-Maja trong chiếc áo ngủ, mặt bôi mực xanh lè với hai hốc mắt màu trắng.
- Con ạ, - Ida nói và khúc khích cười thích thú.
Tất cả phá lên cười, tất cả - trừ bố Emil. Ông quát to, đai giọng:
- Thằng Emil đâu rồi?
Nhưng Emil đã biến mất. Suốt tiệc cà phê nó không hề ló mặt ra.
Sau khi tiệc tàn, ông mục sư vào bếp để an ủi bà Krösa-Maja lúc bấy giờ đang ngồi đó, vừa tức giận vừa buồn thỉu buồn thiu vì hóa ra không phải dịch thương hàn thật. Khi ông mục sư đã an ủi xong thì xảy ra một chuyện lạ: ánh mắt ông vô tình bắt gặp chồng thư của Emil nằm vạ vật trên một cái ghế.
Ông mục sư reo lên một tiếng hoan hỉ và cầm vội bức thư chú Adrian
- Không, không lẽ nào chính các con lại đang có con tem mà cha bấy lâu nay đã nhọc công tìm kiếm!
Chẳng là ông mục sư sưu tầm tem nên biết giá trị của những con tem hiếm. Lúc này ông không chút đắn đo trả ngay con tem dán trên bì thư của chú Adrian bốn mươi đồng.
Khi nghe đến con số đó, bố Emil nghẹn cả thở. Thử tưởng tượng có người lại muốn trả cho cái mẩu giấy rách bé tí tẹo ấy những bốn mươi đồng! Bố lắc đầu như thể bất bình. Phải, tất nhiên thằng bé Emil lại gặp may! Giờ đây rõ ràng cái hộp nhung cũ cũng lại là một vụ làm ăn thành công, thậm chí thành công nhất trong các vụ làm ăn mà Emil đã làm ở phiên đấu giá!
- Với bốn mươi đồng thì tôi đã có thể mua được nửa con bò đấy, thưa cha, - bố Emil nói, hơi có ý trách móc ông mục sư.
Đến nước này thì Emil không thể trốn mãi trong cái hòm gỗ được nữa. Nó nhấc nắp hòm lên và tò mò thò đầu ra.
- Nếu bố mua một nửa con bò, - nó lên tiếng, - thì bố sẽ mua nửa trước biết kêu ò ò, hay nửa sau có cái đuôi ve vẩy, hả bố?
- Xuống xưởng mộc ngay, Emil! - Bố đáp.
Thế là Emil đi. Nhưng trước đó nó còn nhận từ tay ông mục sư bốn tờ bạc mười đồng đẹp đẽ. Hôm sau Emil cưỡi ngựa đến trang trại Backhorva để trao lại bức thư của chú Adrian và đưa thêm cho gia đình họ một nửa số tiền. Sau đó nó cưỡi ngựa ra về trong tiếng chúc phúc của chủ nhà và bắt đầu bận rộn với những trò nghịch ngợm mới.
- Con nghĩ là con nên đi thăm thêm vài phiên đấu giá nữa,- Emil nói với bố khi về đến nhà.- Bố cũng nghĩ thế chứ?
Bố nó làu bàu gì đó đáp lại, nhưng không ai hiểu ông nói gì.
Nhưng như đã kể, suốt tối Chủ nhật - sau tiệc cà phê - Emil ngồi trong xưởng mộc đẽo hình nhân thứ một trăm ba mươi của nó và sực nhớ hôm nay là Chủ nhật. Vào ngày này người ta không được dùng dao để cắt, đấy sẽ là một tội lỗi khủng khiếp. Hình như người ta cũng không được nhổ răng hay bôi xanh mặt người khác. Emil đặt con hình nhân lên giá gỗ, cạnh các hình nhân khác.
Nó cứ thế ngồi trên cái thớt gỗ lớn trong khi bên ngoài cửa sổ xưởng mộc màn đêm đang buông xuống, và suy nghĩ về những tội lỗi của mình. Cuối cùng Emil chắp hai tay lại và cầu nguyện:
“Lạy Chúa kính yêu, Chúa hãy phù hộ để cháu thôi nghịch! Hân hạnh kính mời. Emil Svensson - Katthult - Lönneberga”.

Thứ Ba, ngày mồng 10 tháng Tám, ngày Emil bỏ con ếch vào giỏ đồ ăn và sau đó gây chuyện kinh khủng đến nỗi hầu như không ai muốn nhắc chuyện đó nữa.

Thật ra bố Emil có thể khiến người khác hơi thương hại một chút. Trong khi thằng con hết thành công từ vụ làm ăn điên rồ này đến vụ làm ăn điên rồ khác thì ông bố lại phải trở về nhà từ phiên đấu giá với độc một con lợn nái. Và đêm nọ, con vật kinh khủng này đẻ một lèo mười một chú lợn con - điều mà không ai ngờ - rồi cắn chết luôn mười con. Thỉnh thoảng vẫn có những con lợn nái cắn chết con mình như thế. Chú lợn con thứ mười một lẽ ra cũng đã về chầu trời, nếu Emil không ra tay cứu kịp. Chẳng là đang nửa đêm thì Emil bị đau bụng nên phải ra sau nhà. Khi đi ngang chuồng lợn, nó nghe tiếng một con lợn con kêu cứu. Emil mở toang cửa chuồng và xộc vào đúng vào giây cuối cùng, và cũng trong chính giây cuối cùng ấy, nó giật con lợn con từ con lợn mẹ hung ác. Phải, đó đúng là một con lợn nái độc ác, nhưng liền đó con lợn này mắc một căn bệnh lạ và ba ngày sau thì chết. Thế là bố Emil, ông bố tội nghiệp, còn trơ lại một chú lợn con đáng thương duy nhất. Đó là tất cả những gì ông còn giữ lại được từ phiên đấu giá ở Backhorva! Thế nên không có gì lạ khi thấy ông ủ dột.
- Ở trang trại Backhorva mọi con vật đều thảm hại và quặt quẹo, - buổi tối trước khi đi ngủ bố bảo mẹ. - Có một lời nguyền nào đấy ám vào gia súc của họ, có thể thấy rất rõ điều đó.
Emil nằm trên chiếc giường kê ở cuối phòng nghe thấy, lập tức thò đầu ra khỏi mép giường.
- Con có thể nhận nuôi con lợn,- nó nói.- Con không quan tâm đến chuyện nó bị nguyền rủa.
Nhưng bố không muốn nghe.
- Lúc nào con cũng muốn có hết thứ này đến thứ khác, - ông chua chát nói. - Thế còn bố? Bố không bao giờ có một thứ gì à?
Thế là Emil im lặng và khá lâu sau không nhắc chuyện con lợn nữa. Mà con lợn này đúng là quặt quẹo khác thường. Nó gày gò, xanh rớt và chẳng có mấy sức sống. Chắc chắn lời nguyền đã cướp đi sức lực của nó, Emil nghĩ vậy và thấy thật kinh khủng khi có kẻ nỡ đang tâm làm hại một chú lợn con vốn chưa bao giờ làm điều ác cho ai như thế. Mẹ cũng nghĩ như Emil.
- Đứa trẻ đáng thương, - mẹ nói.
Cô Lina quý các con vật, đặc biệt là chú lợn con này.
- Nhóc Lợn đáng thương, - cô nói. - Chắc nó sắp chết đến nơi.
Và lẽ ra nó đã chết chắc, nếu như Emil không bế nó vào bếp và lấy một chiếc chăn mềm lót ổ cho nó trong một cái giỏ. Emil cho con lợn bú sữa bình và chăm sóc nó hệt một người mẹ. Chú Alfred vào bếp, thấy Emil đang cố đút cho con vật nhỏ bé ăn, liền hỏi:
- Con lợn làm sao vậy?
- Nó bị nguyền rủa và chẳng chịu ăn, - Emil đáp.
- Ra vậy, nhưng tại sao nó cau có thế? - Chú Alfred lại hỏi.
Emil bèn giải thích rằng con lợn nhỏ không cau có mà chỉ yếu ơt và khốn khổ, vì một lời nguyền đã ám vào nó.
- Nhưng cháu sẽ chiến thắng lời nguyền đó, - nó khẳng định. - Cháu sẽ giữ con lợn này sống bằng được, cháu quyết thế rồi.
Và đúng là Emil làm được thật! Chẳng bao lâu sau con lợn trở nên tươi tỉnh, dễ thương, tròn trĩnh và hồng hào, đúng như những chú lợn con cần phải thế.
- Tôi thật sự tin rằng Nhóc Lợn nhà ta đã thoát chết, - cô Lina nói.
Cô gọi nó là “Nhóc Lợn”, và chừng nào còn sống con lợn vẫn giữ cái tên đấy.
- Phải, đúng là cu cậu đã thoát chết, - bố Emil nói. - Con đã làm tốt lắm, Emil!
Emil rất vui khi được bố khen. Nó thận trọng nói:
- Con phải cứu sống con lợn mấy lần nữa thì mới có được nó, hả bố?
Nhưng bố chỉ “hừm” một tiếng và sa sầm nét mặt, khiến Emil im bặt và khá lâu sau không dám nhắc chuyện chú lợn con nữa. Bây giờ Nhóc Lợn phải quay về chuồng, nhưng nó không thích ở đó lắm. Nó chỉ thích nhất là được lẽo đẽo theo chân Emil như một con cún và Emil cũng để nó chạy rông hầu như suốt cả ngày.
- Nhất định nó tưởng anh là mẹ nó, - bé Ida nói.
Mà có lẽ nó tưởng thế thật, vì hễ Nhóc Lợn nhìn thấy Emil là nó reo lên eng éc và chạy theo Emil. Nhóc Lợn thích quấn quít bên Emil và khoái nhất là được Emil gãi lưng, gì chứ việc này thì Emil làm không biết mệt.
- Anh rất mát tay gãi lưng cho lợn, - Emil bảo bé Ida. Nó ngồi trên ghế xích đu dưới cây anh đào và gãi lưng cho Nhóc Lợn vừa lâu vừa kỹ, còn Nhóc Lợn vừa đứng lim dim mắt và kêu lên khe khẽ để thể hiện sự khoan khoái của mình.
Những ngày hè đến rồi đi, những trái anh đào dần chín trên đầu. Nhóc Lợn đang đứng cho Emil gãi lưng. Chốc chốc Emil lại hái một vốc cây anh đào và cho Nhóc Lợn ăn, vì Nhóc Lợn rất thích anh đào. Và thích Emil. Phải, mỗi lúc nó càng thấm thía cuộc đời của một con lợn mới tuyệt làm sao, nếu may mắn được số phận run rủi đến một nơi có cậu chủ như Emil.
Emil càng ngày càng quý Nhóc Lợn. Một hôm đang ngồi trên xích đu gãi lưng cho Nhóc Lợn, Emil bỗng nghĩ xem nó yêu quý Nhóc Lợn đến mức nào và ngoài ra nó còn yêu quý những ai nữa.
Đầu tiên là chú Alfred, Emil nghĩ, rồi đến con Lukas, rồi đến bé Ida, liền sau đó là Nhóc Lợn... nhưng, ồ - mình quên mất mẹ! Tất nhiên là mẹ… rồi đến chú Alfred, con Lukas, bé Ida và Nhóc Lợn.
Emil nhướn cao lông mày, suy nghĩ rất lung.
Rồi sau đấy còn có bố và cô Lina, nó nghĩ. Ồ phải, có những ngày mình yêu bố, nhưng có những ngày lại không. Còn cô Lina - mình chẳng biết mình có quý cô ấy không nữa… cô ấy có thể chạy đua với mình như con mèo chẳng hạn.
Tất nhiên dường như không ngày nào là Emil không bày trò nghịch ngợm và nó cũng chăm chỉ giam mình trong xưởng mộc - các cuốn vở màu xanh ghi chép thời ấy cho thấy như vậy. Nhưng lúc này đang giữa vụ gặt nên mẹ Emil quá bận rộn, thi thoảng chỉ ghi vội mấy chữ “Emil trong xưởng mộc” mà không kể rõ lý do.
Bây giờ lần nào phải xuống xưởng mộc Emil cũng mang theo Nhóc Lợn, vì thời gian sẽ trôi nhanh hơn khi có con lợn nhỏ yêu quý ở bên. Emil không thể lúc nào cũng đẽo hình nhân bằng gỗ. Thay vào đó, Emil dạy cho Nhóc Lợn đủ thứ trò mà hẳn có nằm mơ cũng không một ai trong khắp làng Lönneberga này tin nổi một con lợn bình thường ở Smăland lại có thể học được. Emil giữ bí mật tuyệt đối khi làm việc này, còn Nhóc Lợn thì rất dễ dạy và hài lòng với mọi việc, đặc biệt là hễ học xong một trò mới, thế nào nó cũng được Emil thưởng cho một món ăn khoái khẩu. Chẳng là Emil có một kho dự trữ gồm bánh mỳ sấy, bánh quy, anh đào khô và rất nhiều món khác ăn được cất trong một cái hộp sắt bí mật giấu sau bàn bào trong xưởng mộc. Vì Emil không bao giờ biết khi nào mình lại bị nhốt vào đây và không muốn mình phải chịu đói một cách không cần thiết.
- Chỉ một chút tinh khôn và một ít anh đào khô là có thể dạy cho con lợn gần như mọi thứ, - Emil tuyên bố với chú Alfred và bé Ida vào một tối thứ Bảy nọ, khi nó trình diễn cho họ xem những tiết mục bí mật của Nhóc Lợn mà cho tới nay chưa có ai làm được. Việc này diễn ra trong bụi tử đinh hương và đó là một khoảnh khắc vĩ đại đối với cả hai, với Emil và với cả Nhóc Lợn. Chú Alfred và bé Ida ngồi trên chiếc ghế băng và cứ trợn tròn mắt vì ngạc nhiên trước những khả năng không ngờ của Nhóc Lợn. Một con lợn như nó không thể có đến lần thứ hai. Nhóc Lợn có thể ngồi ngoan ngoãn như một con chó khi Emil ra lệnh: “Nằm chết nào!”. Nó còn giơ cả chân trước bên phải lên cảm ơn sau khi được thưởng anh đào khô.
Bé Ida thích chí vỗ tay.
- Nó còn biết trò gì nữa không ạ? - Cô bé háo hức hỏi.
Thế là Emil lệnh: “Phi nước đại!”. Chưa dứt lời. Nhóc Lợn đã cắm cổ chạy theo hình vòng tròn trong bụi tử đinh hương. Và khi Emil cứ chốc chốc lại hô: “Nhảy!” là Nhóc Lợn lập tức co cẳng nhảy tưng lên trong không trung, sau đó lại co cẳng chạy tiếp, xem ra rất hài lòng với bản thân.
- Ôi nó mới đáng yêu làm sao! - Bé Ida thốt lên. Mà quả thật Nhóc Lợn rất đáng yêu khi nó nhảy tưng lên giữa đám cây.
- Suy cho cùng một con lợn làm được như thế là phi tự nhiên, - chú Alfred nói.
Nhưng Emil rất tự hào vào sung sướng. Khắp làng Lönneberga và cả vùng Smăland này làm gì có con lợn nào như nó, chắc chắn là như vậy.
Dần dần Emil còn dạy Nhóc Lợn nhảy dây nữa. Bạn đã thấy một con lợn nhảy dây bao giờ chưa? Chưa, bạn chưa thấy, và bố Emil cũng chưa. Nhưng một ngày nọ, khi đi xuống chuồng lợn, bố Emil bắt gặp Emil và bé Ida đang đứng cầm hai đầu của sợi dây cương ngựa cũ và quay đều. Nhóc Lợn ở giữa nhảy tưng tưng qua dây, mỗi khi sợi dây hạ xuống. Nhóc Lợn nhảy hăng đến nỗi cát tung lên quanh những cái móng của nó.
- Nhảy dây khiến nó rất thú vị, - bé Ida nói, - nhưng bố không cần đâu.
- Lợn không cần vui, - bố nói. - Chúng cần trở thành món đùi lợn muối cho Giáng sinh. Nhưng cứ nhảy như thế này thì nó sẽ gày như một con chó săn và bố không muốn thế.
Lời bố nói như dao cứa vào lòng Emil. Món đùi lợn muối làm từ Nhóc Lợn ư - chưa bao giờ Emil nghĩ đến chuyện đấy! Nhưng bây giờ thì nó nghĩ. Và nó tự hỏi phải chăng đây là những ngày mà nó cảm thấy không yêu bố lắm.
Đó là ngày thứ Ba, mồng 10 tháng Tám, ngày mà Emil không yêu bố lắm. Đó là buổi sáng sớm của một ngày hè nắng ấm, khi Nhóc Lợn con nhảy dây trước chuồng và bố Emil nói đến món đùi lợn muối Giáng sinh. Sau đó bố biến mất, vì hôm nay trang trại Katthult bắt đầu thu hoạch lúa mạch đen, và bố sẽ phải ở ngoài ruộng lúa mạch đến tối mịt.
- Nhóc Lợn ơi, điều tốt nhất mà mày có thể làm là hãy gày gò như một con chó săn, như thế may ra mày sẽ thoát, - Emil nói khi bố nó đã bỏ đi, - nếu không thì… mày không biết bố tao đâu.
Suốt ngày Emil cứ quanh quẩn và lo lắng cho Nhóc Lợn của nó, thành thử nó chỉ bày một vài trò nghịch ngợm nho nhỏ hầu như không ai nhận thấy. Nó đặt bé Ida vào một cái máng cũ vốn đựng nước cho bò và ngựa, chơi trò giả vờ đó là một con thuyền trên biển. Sau đó nó bơm nước đầy máng, giả vờ thuyền bị thủng và đang trong cơn nguy nan vì bị ngập nước. Bé Ida ướt sũng từ đầu đến chân và thấy trò này rất vui. Sau đó Emil dùng cung tên bắn vào liễn kem tươi mà mẹ đặt trên bậu cửa sổ kho thực phẩm để làm mát. Nó chỉ xem xem liệu mình có bắn trúng được không, chứ đâu ngờ cái liễn sẽ bị vỡ, nhưng cái liễn lại vỡ toang. Thế là Emil lấy làm mừng vì bố đang ở tít ngoài ruộng lúa mạch. Mẹ chỉ bắt nó ngồi một lúc trong xưởng mộc, phần vì mẹ thương nó, phần vì mẹ cần nó mang giúp cà phê cho những người đang thu hoạch ngoài đồng. Trước kia dân làng Lönneberga và dân vùng Smăland thích uống cà phê khi đang làm đồng và ở trang trại nào cũng vậy, bao giờ cũng là đám trẻ con mang cà phê ra đồng.
Quả thật chúng là những tiếp phẩm viên xinh đẹp và dễ thương, những đứa trẻ ở Smăland này, khi chúng xách những chiếc giỏ đi xuyên rừng, qua các cánh đồng cỏ, đi trên những con đường mòn ngoằn ngoèo kết thúc ở một thửa ruộng khô cằn sỏi đá chất đống mà mới nhìn đã đủ phát khóc. Tất nhiên lũ trẻ ở Smăland không khóc, vì xen giữa đám sỏi đá mọc lên những trái dâu rừng, mà dâu rừng thì chúng rất thích.
Ngày hôm đó Emil và bé Ida được cử mang cà phê ra đồng. Hai anh em lên đường từ sớm, cùng cẩn thận khiêng cái giỏ và đi khá nhanh. Nhưng Emil có thói không bao giờ thích đi đường thẳng mà cứ tìm những con đường ngoằn ngoèo dẫn đến những nơi mà nó có cái để ngó nghiêng. Mà Emil đã đi đâu thì bé Ida theo đó. Hôm nay Emil chọn con đường dẫn xuống đầm lầy. Ở đó rất sẵn ếch và quả nhiên nó đã bắt được một con. Emil rất muốn quan sát con ếch kỹ hơn, ngoài ra nó nghĩ biết đâu con ếch muốn thay đổi không khí một chút thay vì suốt ngày phải ngồi trong đầm lầy. Thế là nó bỏ con ếch vào trong giỏ cà phê và đóng nắp giỏ lại. Bây giờ con ếch đã được an toàn.
- Anh còn biết bỏ nó vào đâu được nữa? - Emil nói khi bé Ida hỏi liệu bỏ con ếch vào giỏ đồ ăn như thế có tốt hay không. - Hai túi quần anh đều bị thủng. Hơn nữa anh cũng chỉ giữ nó một lúc thôi. Chốc nữa nó lại có thể trở về đầm lầy được rồi.
Emil đúng là một thằng bé biết lẽ phải.
Trên ruộng lúa mạch đen, bố và chú Alfred đang gặt bằng lưỡi hái, cô Lina và bà Krösa-Maja theo sau, lượm lúa bó thành bó. Ngày trước người ta vẫn làm như thế đấy.
Khi Emil và bé Ida cuối cùng cũng xuất hiện, chúng không được bố chào đón như những tiếp phẩm viên xinh đep dễ thương mà chúng còn bị ăn mắng vì đến muộn. Đã đến giờ uống cà phê mà cà phê phải có mặt đúng giờ đến từng phút.
- Vâng, nhưng bây giờ chúng ta làm một ngụm cũng hay, - chú Alfred nói với dụng ý tốt, muốn đánh lạc hướng bố Emil.
Và nếu bạn đã từng có mặt quanh ấm cà phê trên cánh đồng ở vùng Smăland vào một ngày ấm áp tháng Tám, thì bạn biết cái cảm giác sung sướng khi được ngồi quây quần bên một đống sỏi đá chan hòa ánh mặt trời mà trò chuyện, nhâm nhi tách cà phê, ăn bánh mỳ bơ và thư giãn. Nhưng bố Emil vẫn còn đang bực mình và không bớt bực mình khi ông giằng lấy cái giỏ và mở nắp ra. Là vì con ếch nhảy trúng vào người ông, chui tọt vào bên trong lần áo mà ông đã phanh khuy ngực ra vì nóng bức. Những bàn chân nhỏ của con ếch lạnh ngắt khiến bố Emil thấy ghê tởm. Ông khua tay loạn để đẩy nó đi, nhưng không may lại gạt trúng ấm cà phê khiến ấm cà phê lật nhào. Nhưng Emil đã rất nhanh tay dựng cái ấm dậy, thành thử chỉ bị đổ một ít. Không thấy con ếch đâu nữa. Quá sợ hãi, con ếch đã rúc xuống dưới quần bố Emil, và khi nhận thấy thế, bố Emil như hóa dại. Bố nhảy dựng lên, chân đá tứ tung để rũ bỏ con ếch khỏi ống quần, nhưng đáng tiếc ấm cà phê lại một lần nữa vướng cẳng bố. Một cú đá, thế là cái ấm lại lật nhào, nếu không có Emil nhanh tay dựng cái ấm, thì hẳn họ đã có một giờ uống cà phê không có cà phê rồi, mà như thế thì buồn phải biết.
Quả là con ếch không thích cứ ở mãi một chỗ. Nó tụt ra khỏi ông quần bố và Emil bắt lấy nó. Nhưng bố Emil vẫn còn tức giận. Bố cứ nghĩ con ếch là một trong những trò nghịch ngợm thường xuyên của Emil, nhưng thật ra đâu phải thế. Emil nghĩ cô Lina sẽ là người mở nắp giỏ và cô sẽ vui sướng khi trông thấy trong giỏ có một chú ếch nhỏ đáng yêu. Tôi nhắc tất cả điều này là để bạn hiểu rằng cuộc sống với Emil không phải lúc nào cũng dễ dàng, và đôi khi nó phải chịu tội cho những trò nghịch vốn không phải là trò nghịch. Mà bố Emil nghĩ sao chứ, liệu Emil có thể bỏ con ếch vào đâu được đây, khi mà cả hai túi quần của nó đầy những lỗ thủng?
Cô Lina vẫn hay luôn mồm nhận xét về Emil: “Nó lúc nào cũng chỉ bầy trò quậy phá, cái thằng nhóc này! Thật tôi chưa từng thấy thằng quỷ con nào như nó. Mà giả sử không phải chính nó bày trò, thì cũng vẫn có đủ chuyện không hay xảy ra với nó!”
“Vẫn có đủ chuyện không hay xảy ra với nó”, cô Lina đã nói những lời chí lý! Những lời này được chứng thực qua sự việc sẽ còn xảy ra trong ngày hôm ấy.
Người ta hầu như không thể kể về việc đã xảy ra với Emil. Việc này tệ hại tới mức cả làng Lönneberga mãi sau này hễ nhớ lại vẫn còn thở dài và ca thán. Mà tất cả đã xảy ra chỉ vì mẹ Emil là một bà nội trợ quá đảm đang mà đúng năm nay trang trại Katthult lại bội thu anh đào. Thế thì Emil đâu có lỗi về tất cả chuyện đó, không, nó không có lỗi, ấy vậy mà chuyện vẫn cứ xảy ra.
Mẹ Emil vô địch về các khoản muối ô mai, làm nước quả, nấu mứt và sấy khô bảo quản tất cả những gì kiếm được trong rừng hoặc mọc trong vườn nhà. Mẹ hái về nào quả việt quất đỏ, việt quất tím, rồi phúc bồn tử, càng nhiều càng tốt. Mẹ làm món táo nấu nhừ, lê tẩm gừng, rồi thạch phúc bồn tử, mứt dâu, nước anh đào, và lo trữ các loại quả khô cho các món súp rau quả ngon lành mà mẹ sẽ nấu trong suốt mùa đông. Trong lò lớn trong bếp mẹ sấy táo, lê và anh đào, rồi để chúng vào những cái bao bằng vải gai trắng, sau đó sẽ treo những bao quả khô này dưới trần kho trữ thực phẩm. Phải, được thấy kho trữ thực phẩm của mẹ là cả một niềm vui.
Đang giữa mùa thu hoạch anh đào thì bà Petrell sang trọng từ thị trấn Vimmerby đến thăm trang trại Katthult và mẹ Emil có ca cẩm một chút với bà về quá ư nhiều anh đào chín đến nỗi mẹ sắp không biết phải làm gì với chúng.
- Cô nên làm rượu vang anh đào đi, - bà Petrell khuyên.
- Không, Chúa che chở để tôi không làm việc đó, - mẹ Emil nói.
Mẹ không muốn nghe về rượu vang anh đào. Trang trại Katthult là một chốn không rượu chè. Bố Emil không bao giờ nhấp môi những đồ uống nồng hơi men, thậm chí cả bia cũng không. Tuy nhiên, nếu ở các phiên chợ hoặc đâu đó có ai mời thì bố khó lòng từ chối. Bố biết làm sao được nếu có ai mời bố uống bia, một hoặc hai chai gì đó! Bố có thể nhẩm tính rất nhanh là hai chai bia giá những ba mươi xu. Chỉ còn mỗi cách là uống cho dù có thích hay không. Nhưng rượu vang anh đào thì bố sẽ không đời nào đụng đến. Mẹ biết rõ và cũng bảo với bà Petrell như thế. Nhưng bà Petrell cứ cho rằng ở trang trại Katthult không ai uống rượu vang đi nữa, thì vẫn còn những người khác không phản đối một li vang nhỏ. Bản thân bà ta cũng vô cùng muốn có vài chai vang anh đào, vậy tại sao mẹ Emil lại không lặng lẽ ủ anh đào trong một cái vò lớn để lên men và cất cái vò đó tại một góc khuất dưới hầm để khoai tây nhỉ! Qua thời gian ủ men, bà Petrell sẽ đến để lấy rượu vang và trả tiền hậu hĩnh, bà ta nói.
Mẹ Emil luôn khó lòng nói lời từ chối, một khi có ai đề nghị mẹ việc gì. Thêm nữa, như đã nói, mẹ là một phụ nữ rất đảm đang, không nỡ để lãng phí bất cứ thứ gì. Anh đào khô thì mẹ đã trữ thừa mức cần thiết rồi. Đột nhiên, chính mẹ cũng không thật hiểu tại sao, mẹ hứa với bà Petrell là sẽ làm rượu vang cho bà ta. Nhưng mẹ Emil không phải là người thích giữ bí mật, bèn kể lại với bố Emil. Thoạt tiên bố cũng càu nhàu, nhưng cuối cùng lại bảo:
- Thôi nếu thích thì mình cứ làm! Nhưng mà bà ta bảo sao, bà ta định trả mình bao nhiêu tiền.
Bà Petrell không nói rõ là bao nhiêu. Nhưng lúc này, sau khi vò vang anh đào của bà ta đã đứng nhiều tuần dưới hầm khoai tây và lên men, thì đúng vào ngày tháng Tám này mẹ Emil cho rằng rượu vang đã ngấu. Đã đến lúc rót vào chai. Mẹ nghĩ tranh thủ lúc bố đang thu hoạch lúa ngoài đồng mà làm việc này là thích hợp. Như vậy sẽ khuất mắt bố, và bố sẽ không cần phải cảm thấy mình có tội và sa đọa khi để rượu vang trong nhà.
Chẳng mấy chỗc mẹ đã rót được mười hai chai vang, xếp thành dãy ngay ngắn trên bàn bếp. Mẹ định cho chúng vào một cái giỏ rồi đem xuống cất vào góc hầm khoai tây, để không ai phải bực mình khi trông thấy nó, và bà Petrell có thể đến lấy bất kỳ lúc nào bà ta muốn.
Những quả anh đào đã thành bã sau khi lên men tiết ra rượu được bỏ trong một cái xô đặt trước cửa bếp, khi Emil cùng bé Ida xách giỏ từ cánh đồng lúa mạch quay về.
- Emil, con hãy đem cái xô anh đào này vùi vào đống rác hộ mẹ, - mẹ Emil sai.
Vốn nghe lời, Emil ngoan ngoãn đi liền. Đống rác nằm ngay phía sau chuồng lợn, còn Nhóc Lợn thì đang chạy loăng quăng trong chuồng. Thấy Emil, nó lập tức kêu lên eng éc. Emil cần hiểu rằng nó cần ra khỏi đây để quanh quẩn bên Emil.
- Được thôi, nếu mày muốn ra ngoài… - Emil nói và đặt cái xô xuống đất.
Emil vừa mở cánh cửa chuồng ra thi Nhóc Lợn đã ủn ỉn xông ra, sục ngay mõm vào cái xô, vì tưởng Emil đem thức ăn đến cho mình. Mãi tận lúc này Emil mới suy nghĩ lời mẹ dặn là nó cần phải vùi chỗ anh đào này vào đống rác. Lạ thật đấy chứ, bình thường ở trang trại Katthult người ta không bao giờ vùi vào đống rác thứ gì ăn được cả. Trong khi chỗ anh đào này rõ ràng là rất ngon. Nhóc Lợn đã kịp chén một ít rồi. Emil cho rằng sở dĩ mẹ muốn vùi chỗ anh đào này vào đống rác là vì mẹ không muốn bố trông thấy chúng khi bố từ ngoài đồng về.
Nhưng nếu thế thì để Nhóc Lợn chén cũng được chứ sao, Emil nghĩ. Vì Nhóc Lợn rất mê anh đào!
Có vẻ Nhóc Lợn đặc biệt thích những trái anh đào này. Nó vừa sung sướng kêu ụt ịt vừa sục lấy sục để trong cái xô khiến mồm nó đỏ loe cả nước anh đào. Để giúp con lợn ăn dễ dàng hơn, Emil bèn đổ anh đào ra đất. Thế là con gà trống chạy tới tham gia phá cỗ. Nhóc Lợn có giận dữ lườm cho một cái thật ghê, nhưng vẫn để con gà trống thả sức mổ anh đào. Nhưng rồi lũ gà mái cũng kéo đến, dẫn đầu là con Lotta Què, chúng muốn xem gà trống vừa kiếm được miếng mồi gì mà ngon thế. Nhưng chúng chẳng hòng xơ múi gì, vì vừa chúc mỏ xuống chúng đã bị Nhóc Lợn và gà trống xua đuổi không chút xót thương. Có thể nhận thấy là anh đào rất ngon, nên cả con gà trống và Nhóc Lợn chỉ muốn giữ cho riêng mình.
Emil ngồi ngay bên cạnh, trên đít cái xô úp sấp. Nó đang thổi một cọng cỏ và chả nghĩ ngợi gì. Chợt nó sửng sốt thấy con gà trống lăn quay ra đất. Con gà thậm chí nhiều lần thử gượng đứng dậy, nhưng không xong. Hễ cứ gần đứng lên được thì nó lại ngã chúi xuống đất, cuối cùng nằm im thin thít. Lũ gà mãi lúc nãy bị xua đuổi bu thành một đám cạnh đó, nhìn con gà trống đang làm gì lạ quá, rồi kêu lên cùng cục đầy lo lắng. Điều đó chọc tức con gà trống đang nằm dưới đất, khiến nó trợn mắt giận dữ nhìn lại. Chẳng lẽ nó không có quyền nằm và lảo đảo ở mọi nơi nó muốn và theo cách nó thích hay sao?
Emil không hiểu con gà trống bị làm sao, nhưng thấy thương nó, bèn chạy lại đỡ nó đứng dậy. Con gà trống đứng một chốc, cứ đảo người sang hai bên như thể xem xem hai chân nó có đứng vững được không. Nhưng rồi như thể nó đã hóa ngộ, bỗng hăng tiết cất tiếng gáy và vừa đập cánh phành phạch vừa xông thẳng vào đám gà mái. Thế là lũ gà mái cuống cuồng tìm cách chạy thoát thân vì chúng thấy rõ anh gà trống của chúng đã phát điên. Emil trông thấy hết và mải bối rối theo dõi hành vi hung hãn của con gà trống đến nỗi quên biến Nhóc Lợn. Nhân đang nói chuyện phát điên - nếu ở đây có kẻ nào bỗng hóa dại thì đó chính là Nhóc Lợn. Nhóc Lợn cũng muốn góp mặt vào cuộc truy đuổi những con gà mái nên lúc này vừa kêu eng éc đến chói cả tai vừa nhảy chồm chồm theo sau con gà trống. Mỗi lúc Emil lại càng thêm ngạc nhiên, nó chẳng hiểu gì cả. Nhóc Lợn kêu to và dữ tợn trong lúc chạy hùng hục, trông cứ như là thích thú lắm. Có điều chân cẳng nó có điều gì đó không ổn, Emil nhận thấy thế. Chúng cứ xiêu xiêu vẹo vẹo như đứng không vững. Và chắc chắn Nhóc Lợn cũng đã ngã quay lơ, nếu như mỗi lần suýt đổ xuống nó không nhảy cẫng lên như Emil đã dạy nó. Những cú nhảy giúp nó lấy lại thăng bằng.
Những con gà mái thật đáng thương. Chúng chưa từng chứng kiến một con lợn cư xử như vậy bao giờ, thế là chúng co cẳng chạy trối chết. Những tiếng kêu quang quác của chúng nghe sao thảm thiết. Lũ gà mái khốn khổ! Anh chàng gà trống của chúng hóa dại chưa đủ tệ hay sao, mà còn thêm con lợn điên mắt cứ trợn trừng trợn trạo nhảy những bước dài đuổi theo chúng. Thật quá sức chịu đựng.
Phải, đúng là quá sức chịu đựng! Người ta có thể chết vì sợ hãi, Emil biết thế, và nó bỗng nhìn thấy các con gà mái lần lượt ngã lăn ra và nằm im bất động. Trên cỏ la liệt xác gà, chúng nằm đó im lìm và trắng toát - một cảnh tượng rùng rợn. Emil tuyệt vọng và bật khóc. Mẹ sẽ nói gì khi trông thấy đàn gà mái của mẹ ra nông nỗi này? Lotta Què, con mái yêu của Emil cũng nằm đó, một đống lù lù màu trắng chết chóc. Vừa khóc, Emil vừa bế nó lên. Lotta Què tội nghiệp, thế là hết đời nó, cũng hết luôn bao nhiêu quả trứng tròn của nó! Emil chỉ còn mỗi một việc phải làm: ấy là tiến hành càng nhanh càng tốt một đám tang trọng thể cho Lotta Què. Emil hình dung trên bia mộ của con gà sẽ phải có dòng chữ: “Nơi đây yên nghỉ Lotta Què. Đã tạ thế vì quá khiếp sợ Nhóc Lợn”.
Emil thật sự bất bình với Nhóc Lợn và muốn nhốt nó lại vào chuồng, không bao giờ thả ra nữa. Nhưng trong khi đó Lotta Què phải nằm tạm trong kho củi đã. Emil cẩn thận bế xác con gà trên hai tay và đặt nó xuống cái thớt gỗ lớn. Bây giờ nó có thể nghỉ ngơi đợi giờ an táng con Lotta Què đáng thương!
Từ xưởng mộc đi ra Emil nhìn thấy con gà trống và Nhóc Lợn đã kéo nhau quay lại chỗ anh đào. Những gã trai mới quân tử gớm! Đầu tiên là đuổi lũ gà mái đến chết, rồi lại thản nhiên tiếp tục đánh chén, cứ như không có chuyện gì xảy ra! Ít nhất thì con gà trống cũng phải lịch sự tỏ ra đôi chút buồn bã, khi mà chỉ trong thoáng chốc nó đã mất đi tất cả các cô vợ của mình! Nhưng rõ ràng nó bình thản đón nhận chuyện này.
Nhưng bữa tiệc anh đào không được rôm rả lắm nữa. Vì đột nhiên con gà trống lại ngã lăn quay ra, ngay sau đó đến lượt Nhóc Lợn. Emil tức giận cả hai con đến nỗi chẳng thèm quan tâm xem chúng sống hay chết, và hơn nữa nó có thể thấy chúng đâu có chết giống lũ gà mái. Con gà trống thở khò khè yếu ớt, hai cẳng hơi giật giật, còn Nhóc Lợn hẳn đang ngủ gật vì chốc chốc lại cố mở mắt ra và trong bụng nó có tiếng kêu lục sục.
Vẫn còn khá nhiều anh đào nằm lăn lóc trên cỏ nên Emil nếm thử một quả. Vị của nó không hẳn giống một quả anh đào, nhưng thật ra ngon đáo để. Sao mẹ lại có thể nghĩ tới việc đem vùi đi những trái cây thơm ngon thế này nhỉ?
Ồ, phải rồi, nó phải đi tìm mẹ để kể cho mẹ nghe về nỗi bất hạnh của lũ gà mái mới được! Nhưng nó không thấy hứng thú lắm. Không cần kể ngay. Emil tư lự chén thêm vài quả anh đào… lại thêm vài quả nữa… Không, nó không muốn tìm mẹ kể ngay bây giờ!
Trong khi đó mẹ Emil đã vào bếp chuẩn bị xong bữa ăn tối cho đám thợ gặt của mẹ. Lúc này tất cả bọn họ đã về đến nhà: bố Emil, chú Alfred, cô Lina và bà Krösa-Maja. Ai nấy đều mệt mỏi và đói bụng sau một ngày dài vất vả. Cả nhà ngồi vào xung quanh bàn, nhưng ghế của Emil vẫn trống, và mẹ sực nhớ suốt nãy giờ, đã khá lâu, mẹ không còn trông thấy Emil.
- Lina, cô chạy ra xem Emil có ở chỗ Nhóc Lợn không, - mẹ nói.
Cô Lina đi ra và vắng mặt rất lâu. Cuối cùng khi quay vào, cô cố tình dừng lại trên ngưỡng cửa, đợi tất cả hướng ánh mắt vào mình. Cái điều kinh khủng cô sắp kể ra đây phải được tất cả nghe cùng một lúc.
- Cô làm sao vậy? Sao cô cứ đứng đực ra đấy thế? Có chuyện gì xảy ra sao? - Mẹ Emil nói.
Cô Lina mỉm cười bâng quơ.
- Có chuyện gì xảy ra không ấy ư? Phải, cháu không biết nên nói thế nào… Nhưng dù sao đàn gà mái cũng chết sạch rồi! Còn con gà trống thì say rượu! Nhóc Lợn cũng say rượu! Còn cậu Emil thì...
- Emil thì làm sao! - Mẹ Emil lo lắng hỏi dồn.
- Emil! -Cô Lina thở dài đánh sượt. - Emil cũng say rượu.
Thế là ở trang trại Katthult có một buổi tối mà người ta hầu như không biết nên mô tả ra sao nữa!
Bố Emil nhảy đùng đùng gào thét, mẹ khóc, bé Ida khóc, cô Lina cũng khóc cùng cho có bầu có bạn, bà Krösa-Maja thì than trời, hết ối lại á và không còn thời gian để ăn nữa. Bà phải lập tức chạy đi loan báo cho tất cả, từng người, từng người một:
- Ối trời, ối trời! Khốn khổ cho cặp vợ chồng nhà Svensson ở trang trại Katthult! Emil, cái thằng bé tội nợ ấy, đã nốc rượu say bí tỉ và đập chết cả đàn gà mái nhà họ rồi, ối trời ơi là trời!
Chú Alfred là người duy nhất vẫn tỉnh táo. Khi cô Lina quay vào với cái tin khủng khiếp của cô, chú đã cùng mọi người chạy ra ngoài và tìm thấy Emil đang nằm trên cỏ cạnh Nhóc Lợn và con gà trống. Phải, cô Lina nói đúng, quả là Emil đã say quá rồi. Nó nằm tựa vào Nhóc Lợn, hai con mắt đảo tròng. Rõ là nó đang rất xỉn. Mẹ Emil khóc trong tuyệt vọng khi thấy đứa con trai bất hạnh, đáng thương của mình và muốn đưa ngay nó vào buồng ngủ. Nhưng chú Alfred, vốn có kinh nghiệm trong những tình huống như thế này, bèn bảo:
- Để cháu ở lại ngoài này có không khí trong lành sẽ tốt hơn!
Thế là suốt buổi tối chú Alfred cứ ngồi trên bậc tam cấp trước lán đầy tớ, tay ôm Emil. Chú giúp Emil khi nó nôn và vỗ về an ủi khi nó khóc. Vì đôi lúc Emil lại tỉnh dậy và khóc về sự tồi tệ của mình. Nó đã nghe nói mình bị say rượu, có điều không tự lý giải nổi tại sao lại xảy ra chuyện ấy. Emil đâu biết những trái anh đào mà người ta dùng làm rượu phải lên men trong thời gian khá lâu, cuối cùng đã thấm đẫm cái thứ rượu khiến người ta say. Cũng chính bởi vậy mà mẹ đã dặn Emil phải vùi chúng vào đống rác. Nhưng thay vì nghe lời mẹ, nó lại ăn chúng, nó, con gà trống và Nhóc Lợn. Thế nên bây giờ nó mới nằm rũ trong tay chú Alfred như một thứ đồ bỏ đi.
Emil nằm thế khá lâu. Mặt trời lặn, trời tối dần, vầng trăng nhô lên phía trên trang trại Katthult, nhưng chú Alfred vẫn ngồi đó bế Emil trên tay.
- Cháu thấy trong người thế nào, Emil? - chú Alfred hỏi khi thấy Emil hơi động đậy.
- Dạ, cháu vẫn sống,- Emil đáp với giọng yếu ớt, rồi nó thì thào: - Nếu cháu chết thì con Lukas sẽ là của chú, chú Alfred ạ.
- Cháu không chết đâu, - chú Alfred khẳng định.
Không, Emil không chết, cả Nhóc Lợn và con gà trống cũng không chết. Đàn gà mái cũng không chết, đó mới là điều kỳ lạ nhất. Chẳng là mẹ Emil trong lúc mải lo lắng đã bảo bé Ida đi lấy một giỏ củi. Bé Ida vừa đi vừa khóc, vì đây đúng là một tối buồn, nó càng khóc dữ hơn khi bước vào kho củi trông thấy xác con Lotta Què nằm trên cái thớt gỗ.
- Lotta Què tội nghiệp, - bé Ida nói. Nó thò bàn tay bé nhỏ ra vuốt ve con Lotta Què. Và, thử tưởng tượng xem, con Lotta Què bỗng hồi sinh! Con gà mở mắt ra và vừa đập cánh phành phạch nhảy khỏi cái thớt vừa bất bình kêu lên quang quác, đoạn tức giận cà nhắc cà nhót đi ra khỏi cửa. Bé Ida sững sờ đến ngây người, không biết nên hiểu thế nào nữa. Hay đôi bàn tay mình có phép lạ, có thể làm người chết sống lại?
Vì quá lo lắng cho Emil nên không ai hơi sức đâu để ý đến lũ gà mái. Chúng vẫn nằm la liệt trên cỏ. Nhưng giờ đây Ida đi đến, lần lượt vuốt ve từng con. Con nào cũng vùng dậy và tràn đầy sức sống. Phải, thật ra chúng không chết, mà chỉ bất tỉnh vì quá khiếp sợ khi bị Nhóc Lợn đuổi theo - giống gà mái đôi khi vẫn thế.
Nhưng bé Ida tự hào quay vào bếp, nơi bố và mẹ đang ngồi lo lắng khóc lóc. Giờ đây bé Ida cũng có tin sốt dẻo để thông báo.
- Bố mẹ ơi, con đã đánh thức mấy con gà chết sống lại rồi! - Nó tự hào khoe.
Ngay hôm sau, con gà trống. Nhóc Lợn và Emil đã phần nào lại sức. Tuy nhiên suốt ba ngày con gà trống không gáy được. Nó cũng có thử một đôi lần, nhưng từ cổ họng nó không phát ra tiếng “Ò ó o o!” mà là một tiếng khào khào kinh khủng đến nỗi chính nó cũng thấy sượng sùng. Mỗi lần con gà trống gáy không thành, là lũ gà mái lại nhìn nó đầy trách móc, thế là cu cậu xấu hổ lẩn vào một bụi cây.
Nhóc Lợn không xấu hổ, nhưng Emil thì có vẻ ngường ngượng cả ngày, đã thế lại còn bị cô Lina chọc tức.
- Say xỉn rồi nằm lăn ra đó với một con lợn, hay ho gớm! Cả hai người, cậu và Nhóc Lợn, là đồ lợn nát rượu, từ nay tôi sẽ gọi các người như thế đấy.
- Tôi nghĩ cô nên thôi đi! - Chú Alfred nói và quắc mắt nhìn cô Lina, thế là cô im.
Nhưng câu chuyện vẫn chưa chấm dứt ở đó. Chập tối có ba quý ông danh giá đi vào cổng vườn trang trại Katthult, đó là ba vị đến từ hội cầu thiện làng Lönneberga. Phải, hẳn bạn không biết hội cầu thiện là gì, nhưng tôi có thể nói cho bạn rằng thuở đó hội này rất cần thiết cho làng Lönneberga và cả cùng Smăland. Những người cầu thiện nỗ lực kiềm chế nạn nghiện rượu kinh khủng thời đó vốn đã khiến nhiều người trở nên bất bạnh và giờ vẫn tiếp tục làm bao người phải khốn khổ.
Những lời kêu than của bà Krösa-Maja về thói nghiện rượu của Emil đã buộc hội cầu thiện phải can thiệp. Và giờ đây họ tìm đến để thưa chuyện với bố mẹ Emil. Họ nói rằng sẽ rất tốt nếu Emil đến dự buổi sinh hoạt tối ở nhà cầu thiện và tại đó nó sẽ được cải hóa để trở về với cuộc sống không nghiện ngập. Mẹ Emil tức muốn nổ ruột, bèn kể lại câu chuyện Emil đã ăn anh đào ra sao. Nhưng dẫu vậy cả ba ông cầu thiện vẫn tỏ ra hết sức lo lắng và một ông nói:
- Vâng, nhưng người ta đã thấy trước rồi cháu Emil sẽ đi tới đâu. Sẽ không hại gì nếu tối nay chúng ta cho cháu một lời cảnh cáo.
Thế là bố Emil nhất trí. Tuy ông chẳng vui vẻ gì. Có dễ chịu gì đâu khi phải đứng chường mặt ra trước biết bao nhiêu là người và phải xấu hổ về thằng con trai mình. Nhưng có lẽ cũng cần làm thế để đưa Emil về con đường không nghiện ngập.
- Để tôi đi với nó, - bố rầu rĩ lẩm bẩm.
- Không, nếu con phải đến đó, thì em sẽ đi cùng nó, - mẹ Emil nói và trở nên thật kiên quyết. - Em mới là người đã làm ra thứ rượu vang khốn nạn đó, còn mình, Anton, mình không nên hứng chịu hậu quả. Chỉ có em mới cần bài giảng về cai nghiện này. Ngoài ra em có thể dắt Emil theo, nếu mọi người cho đó là cần thiết!
Tối đến Emil phải mặc bộ lễ phục Chủ nhật vào. Nó còn đội cả “mú” nữa. Emil không phản đối chuyện bị đem ra cải hóa. Được ở chỗ đông người biết đâu sẽ lại vui lắm ấy chứ.
Nhóc Lợn cũng nghĩ thế. Khi Emil cùng mẹ lên đường, Nhóc Lợn chạy theo, ý chừng muốn đi cùng. Nhưng Emil bảo: “Nằm chết nào!”, thế là Nhóc Lợn ngoan ngoãn nằm xuống giữa đường và cứ thế nằm im, nhưng nó còn ngó theo Emil mãi.
Tối ấy nhà cầu thiện đông kín người, tôi có thể nói như vậy. Cả làng Lönneberga muốn có mặt để chứng kiến Emil được cải hóa bỏ thói nghiện rượu. Phía trên diễn đàn, dàn đồng ca của hội cầu thiện đã ở tư thế sẵn sàng, Emil vừa bước vào cửa là họ gân cổ lên hát.
“Anh bạn trẻ, anh đã cầm cái cốc
đựng đầy rượu, ấy là chất độc…”
- Thằng bé đã không cầm cái cốc nào hết, - mẹ Emil tức giận nói, nhưng chỉ Emil nghe thấy.
Khi bài hát kết thúc, một người đàn ông đi lên bục, nói rất lâu và nghiêm túc về Emil, cuối cùng ông ta hỏi Emil có muốn thề suốt đời sẽ cai rượu hay không.
- Cháu thề cũng được thôi ạ, - Emil đáp.
Đúng lúc ấy người ta nghe tiếng ụt ịt khe khẽ bên cánh cửa, rồi Nhóc Lợn chạy vào. Nó đã lặng lẽ đi theo Emil và bây giờ đã đến đây. Khi trông thấy Emil ngồi ở hàng ghế trên cùng, nó sung sướng chạy đến với cậu chủ. Phòng họp trở nên nhộn nhạo. Chưa bao giờ có con lợn nào xuất hiện trong nhà cầu thiện cả, và giờ đây những người cầu thiện không muốn có nó. Họ cho rằng việc một con lợn có mặt trong những cuộc họp như thế này thật không thích hợp. Nhưng Emil đã bảo:
- Nhóc Lợn cũng phải thề cai rượu nữa, nó còn ăn nhiều anh đào hơn cả cháu.
Lúc này Nhóc Lợn có phần lăng xăng nên Emil bảo nó: “Ngồi ngoan nào!”. Thế là Nhóc Lợn ngồi lên hai chân sau như một con chó, khiến dân làng Lönneberga ngạc nhiên. Trông nó ngồi rất ư ngoan đạo và dễ thương. Emil móc trong túi quần mấy quả anh đào khô đưa cho Nhóc Lợn. Dân làng Lönneberga không tìn vào mắt mình khi con lợn lập tức giơ chân trước bên phải lên để cảm ơn về mấy quả anh đào.
Tất cả đều quá hứng thú với Nhóc Lợn, đến nỗi họ suýt quên lời thề cai rượu. Chính Emil đã phải nhắc cho họ nhớ.
- Bây giờ thế nào ạ? Cháu có phải thề hay không đây?
Thế là Emil thề rằng nó muốn “sẽ mãi mãi tránh xa đồ uống có hơi men và sẽ bằng mọi cách góp phần để số người cai rượu quanh ta ngày càng tăng”. Những lời lẽ văn hoa này có nghĩa: Emil muốn suốt đời sẽ không uống rượu và sẽ giúp đỡ những người khác cũng luôn tỉnh táo không say rượu.
- Nhóc Lợn, lời thế này có hiệu lực với cả mày nữa đấy, - Emil nói sau khi đã đọc xong lời thề. Sau này tất cả dân làng Lönneberga đều bảo rằng ngoài Emil ra, chưa từng có một ai đọc lời thề cai rượu cùng với một con lợn cả.
- Nhưng cái thằng bé ở trang trại Katthult cũng kỳ lạ thật đấy, - họ bình phẩm.
Khi Emil trở về nhà và đi vào bếp với Nhóc Lợn lẵng nhẵng theo sau, thì bố đang ngồi trơ trơ một mình bên ngọn đèn dầu, và Emil nhận thấy bố đã khóc. Cả đời Emil chưa bao giờ thấy bố khóc, nên chuyện đó khiến nó không vui tí nào. Nhưng rồi bố nói ra một điều khiến Emil rất vui.
- Nghe này Emil, -bố nắm chặt cánh tay Emil và nhìn thẳng vào mắt nó mà bảo, - Emil, nếu con hứa với bố suốt đời con sẽ không uống rượu, thì cái con lợn hư đốn đó sẽ là của con... Ngoài ra bố không thể nghĩ cái lớp thịt bọc xương ấy lại ngon được, nhất là sau khi nó cứ nhảy dông dổng suốt ngày, và lại còn say rượu nữa.
Emil sướng nhảy cẫng lên. Nó thề thêm một lần nữa là suốt đời sẽ không uống rượu. Và nó cũng giữ lời. Cả làng Lönneberga và khắp vùng Smăland xưa nay chưa từng thấy một vị chủ tịch nào tuyệt đối không động tới một giọt rượu nào như Emil, có lẽ vì thế mà việc hồi còn nhỏ, vào một ngày mùa hạ, Emil đã ăn những trái anh đào đã lên men lại là điều hay.
Tối đó Emil còn thức khá lâu trò chuyện với bé Ida.
- Bây giờ anh đã có một con ngựa, một con bò, một con lợn và một con gà, - nó nói.
- Chính em đã đánh thức con gà đang chết sống lại, - bé Ida nhắc cho anh nhớ. Thế là Emil cảm ơn em về việc đó.
Sáng hôm sau Emil thức dậy sớm, nghe tiếng chú Alfred và cô Lina đang uống cà phê và trò chuyện trong bếp. Nó bèn nhảy ngay khỏi giường vì phải khoe chú Alfred là bố đã tặng Nhóc Lợn cho nó.
- Ông chủ gia súc Emil Svensson, - chú Alfred cười nói. Nhưng cô Lina vác mặt lên và cất giọng hát một bài hát chế giễu mà cô vừa nghĩ ra trong khi vắt sữa bò. Cô hát:
“Nhưng mẹ dắt nó đến nhà cầu thiện,
nó trở thành người từ con lợn nghiện.
Giờ nó đã thề sẽ hết say sưa,
và được con lợn - chính nó ngày xưa!”
Không thể tưởng tượng nổi bài hát nào ngu xuẩn như thế. “Giờ nó đã thề sẽ hết say sưa, và được con lợn - chính nó ngày xưa!”. Ngu ngốc tới mức đó thì chỉ có cô Lina mới nghĩ ra nổi. Chính cô cũng chẳng hiểu mình hát gì nữa.
Rồi đã đến giờ chú Alfred và cô Lina phải cùng bố và bà Krösa-Maja ra ruộng lúa mạch đen. Mẹ Emil ở nhà một mình với lũ trẻ.
Mẹ rất hài lòng, vì hôm nay bà Petrell định đến lấy những chai vang anh đào của bà ta và mẹ Emil không muốn bố Emil có mặt lúc đó.
Mong cho những chai rượu mau mau được mang đi khỏi nhà mình, mẹ Emil nghĩ vậy khi đang làm bếp. Bà Petrell có thể đến bất kỳ lúc nào, Chắc là sắp nghe tiếng xe ngựa của bà ta lăn ngoài đường rồi. Nhưng lạ quá, thứ mẹ Emil nghe thấy lúc này là một tiếng động hoàn toàn khác vọng sang từ hầm để khoai tây, nghe như tiếng thủy tinh vỡ.
Mẹ Emil ngó qua cửa sổ và thấy Emil tay lăm lăm thanh sắt chọc lò, trước mặt nó là những chai rượu vang xếp thành dãy. Emil lần lượt quật thanh sắt vào từng chai một, khiến mảnh vỡ văng tứ tung và rượu chảy tràn ra sân. Mẹ Emil mở tung cửa sổ, thét lên:
- Con làm cái quái gì vậy, Emil?
- Con đang giúp người khác cai rượu. Con nghĩ mình sẽ bắt đầu từ bà Petrell!

Một số ngày trong cuộc đời Emil, những ngày mà nó vừa bày đủ trò nghịch ngợm, vừa làm được nhiều việc tốt.

Câu chuyện rượu vang tai tiếng này khá lâu sau dân làng Lönneberga vẫn còn nhớ. Nhưng mẹ Emil thì chỉ muốn quên càng nhanh càng tốt. Trong cuốn vở màu xanh bà không đả động một chữ tới những gì đã xảy ra xung quanh Emil trong cái ngày mồng 10 tháng Tám bất hạnh đó. Hẳn chúng quá khủng khiếp, nên bà chẳng nỡ lòng ghi lại. Nhưng ngày 11 tháng Tám bà có ghi vào sổ một dòng, mà nếu chưa được nghe trước câu chuyện vừa kể ban nãy, thì khi đọc nó người ta không tránh khỏi giật mình.
“Chúa che chở cho con và thằng bé này, nhưng ít nhất hôm nay nó cũng không say rượu”.
 Mẹ Emil viết như thế đấy. Không thêm một từ nào nữa. Vì vậy người ta sẽ nghĩ gì đây? Hẳn người ta sẽ nghĩ ngay rằng Emil rất hiếm khi tỉnh rượu. Tôi thật sự cho rằng lẽ ra mẹ Emil phải kể lại đầu đuôi câu chuyện. Nhưng, như đã nói, bà không nỡ lòng nào làm thế.
Ngày 15 tháng Tám cũng có một đoạn ghi chép. Mẹ Emil viết như sau:
“Đêm qua Emil và Alfred ra ngoài bắt tôm. Hai chú cháu bắt được ba mươi ba tá tôm càng. Nhưng sau đó thì, ôi, khốn khổ chồng tôi...”
Ba mươi ba tá - bạn đã nghe thấy thế bao giờ chưa? Đó là vô số những con tôm. Hãy tự tính đi, bạn sẽ biết có bao nhiêu con tất cả. Emil đã có một đêm vui vẻ, tôi có thể nói với bạn như vậy. Và nếu bạn đã từng bắt tôm dưới một cái hồ nhỏ ở vùng Smăland trong một đêm tháng Tám tối tăm, thì bạn sẽ hiểu vì sao. Thì bạn sẽ biết bắt tôm vui như thế nào, bạn sẽ bị ướt sũng cả người ra sao, và có cảm giác kỳ lạ thế nào. Úi, trời tối om, rừng thì đen sì bao quanh hồ, tất cả im ắng, chỉ nghe tiếng chân bì bõm lội nước ven hồ.
Nếu có một ngọn đuốc như của chú Alfred và Emil, người ta sẽ trông thấy những con tôm càng to màu đen bò lổm ngổm quanh những viên đá dưới lòng hồ. Thế là chỉ cần lấy tay tóm lưng từng con bỏ vào giỏ.
Khi Emil và chú Alfred đi về nhà vào lúc rạng sáng, hai chú cháu đã bắt được nhiều tôm đến mức vác lặc lè tưởng chừng vác không nổi, nhưng Emil vẫn huýt sáo và hát vang đường.
Bố sẽ tha hồ ngạc nhiên đây, nó nghĩ. Emil muốn cho bố thấy mình giỏi thế nào, mặc dù nó hay bị thất bại. Bây giờ nó muốn bố sẽ trông thấy tất cả số tôm càng này khi bố vừa tỉnh giấc. Vì thế mà Emil đã lấy cái chậu đồng to tướng mà bé Ida và nó thường ngồi vào tắm mỗi tối thứ Bảy và trút hết tôm vào đấy. Sau đó nó đặt cái chậu trong buồng ngủ, ngay cạnh bố.
Sẽ có tiếng reo hò to sung sướng khi tất cả mọi người thức dậy và trông thấy những con tôm của mình đây, Emil khấp khởi nghĩ. Rồi mệt mỏi nhưng sung sướng, nó trèo lên giường và ngủ thiếp đi.
Trong buồng ngủ rất im ắng. Chỉ nghe tiếng ngáy khe khẽ của bố Emil. Ngoài ra là tiếng rộp roạp của đám tôm càng đang lổm nhổm bò trên lưng nhau, như vẫn thường thấy ở giống này.
Sáng nào bố Emil cũng dậy rất sớm, hôm nay cũng vậy. Chuông đồng hồ treo trên tường buồng ngủ vừa điểm năm tiếng là ông lập tức tốc chăn ngồi dậy, thả hai chân xuống đất, và ngồi như thế một lúc cho tỉnh hẳn. Ông vươn vai, ngáp dài, thò tay gãi đầu và ngọ nguậy một chút các ngón chân. Ngón chân cái bên phải của ông hơi bị cứng kể từ ngày bị kẹp trong cái bẫy chuột mà Emil cài, nên sáng nào ông cũng phải luyện cho nó mềm. Nhưng đang ngọ ngoạy ngón chân thì bố Emil bỗng rống lên một tiếng, khiến mẹ Emil và bé Ida hoảng hốt giật mình thức dậy. Họ cứ tưởng chí ít bố cũng đã bị sát hại. Nhưng đó chỉ là một con tôm càng đã cắp trúng ngón cái đã từng bị kẹp trong bẫy chuột của bố. Nếu ngón chân cái của bạn đã từng bị tôm càng cắp, thì bạn cũng sẽ biết nó dễ chịu ngang như khi bị kẹp bẫy chuột, mà mới chỉ bị đau ít hơn thế thì khối người đã rú lên rồi. Tôm càng là loài dã thú ương bướng, đã cắp ai thì cứ cố sống cố chết mà cắp, mỗi lúc càng chặt hơn. Cho nên không có gì lạ khi bố rống lên! Ngoài ra ngay mẹ và bé Ida cũng hét toáng lên khi trông thấy hàng trăm con tôm càng bò lổm nhổm trên sàn nhà. Phải, phải, tiếng hò reo sung sướng như thế đã là quá đủ.
- Emil! - Bố hét tưởng đến rách cả phổi. Thứ nhất, bố đang điên tiết, và thứ hai, bố cần một cái kìm để rứt con tôm ra, nên muốn sai Emil chạy đi lấy kìm. Nhưng Emil ngủ say đến nỗi không có tiếng reo hò nào đánh thức được nó. Thế là bố Emil đành tự nhảy lò cò xuống bếp để lấy cái kìm trong thùng đồ nghề ra. Nhìn bố nhảy lò cò với con tôm càng vẫn ngoan cố đeo lủng lẳng trên ngón chân cái, bé Ida đau lòng - nó tiếc cho anh Emil không được chứng kiến cảnh đó.
- Dậy mau, anh Emil! - Bé Ida gọi to. - Dậy đi! Rồi anh sẽ thấy cái này vui cực!
Nhưng nó lập tức im bặt vì bố vừa ném cho nó cái nhìn rầu rĩ, và có thể thấy bố không có cái gì vui ở đây.
Trong khi đó mẹ bò loanh quanh dưới sàn nhà nhặt tôm. Sau hai tiếng đồng hồ mẹ mới bắt được hết. Mãi đến gần trưa Emil mới tỉnh giấc, liền ngửi thấy mùi tôm luộc thơm ngào ngạt từ bếp bay vào, thế là nó vui sướng nhảy ngay dậy.
Trang trại Katthult được ăn tôm liền ba ngày, thật là hạnh phúc! Ngoài ra Emil moi được bao nhiêu thịt đuôi tôm từ trong vỏ cứng, và đem bán cho bà vợ ông mục sư với giá hai mươi lăm xu một cân. Số tiền thu về Emil chia đều cho chú Alfred. Vốn lúc nào cũng cháy túi, chú Alfred cho rằng Emil luôn có những ý tưởng đáng nể.
- Emil, cháu rất nhanh nhạy trong làm ăn đấy, - chú nhận xét, và chú nói chí lý. Emil đã bỏ vào con lợn đất của nó năm mươi đồng, số tiền mà nó kiếm ra bằng nhiều cách khác nhau.
Suốt một thời gian dài Emil suy nghĩ nát óc về một vụ làm ăn lớn thực sự. Nó định bán tất cả các hình nhân bằng gỗ cho bà Petrell, vì bà ta đã tỏ ra vô cùng thích thú khi nhìn thấy chúng. May mà vụ bán chác đó không thành. Thế là các hình nhân gỗ tiếp tục được đứng trên cái giá trong xưởng mộc và đến nay vẫn còn đứng đó. Bà Petrell thực sự muốn mua khẩu súng gỗ của Emil để tặng cho một thằng bé hư đốn mà bà ta quen, nhưng rồi vụ này cũng chẳng thành.
Chắc chắn rồi, tự Emil cũng biết nó quá lớn để tiếp tục chơi với khẩu súng gỗ, nhưng bán khẩu “sún” đi thì nó lại không muốn. Thay vì bán, nó đóng đinh khẩu súng gỗ lên tường xưởng mộc và viết lên đấy dòng chữ bằng chì đỏ:
“KỶ VẬT CỦA CHÚ ALFRED”
Chú Alfred cười khi trông thấy thế, nhưng rõ ràng chú hài lòng.
Cái “mú” thì Emil giữ dùng thường xuyên, nó không thể thiếu “mú” được. Lần đầu tiên cắp sách đến trường nó cũng đội “mú” lên đầu. Phải, đã đến lúc Emil đi học và cả làng Lönneberga nín thở.
Cô Lina không mấy tin tưởng về việc đi học của Emil.
- Chắc chắn nó sẽ đạp đổ cả trường học và đốt cả cô giáo nữa ấy chứ, - cô nói, nhưng mẹ Emil đã nghiêm khắc nhìn cô.
- Emil là một thằng bé tốt bụng, - bà nói. - Mới đây nó đã suýt đốt cháy vợ ông mục sư thật, nhưng vì thế nó đã phải chịu phạt trong xưởng mộc rồi. Có gì đâu mà cô cứ phải đay đi đay lại như thế.
Đó là ngày 17 tháng Tám, ngày Emil vì bà vợ ông mục sư mà phải ngồi trong xưởng mộc. Chẳng là hôm đó bà này đến trang trại Katthult để lấy một mẫu dệt mới của mẹ Emil. Bà được mời dùng cà phê ngoài vườn, giữa những bụi tử đinh hương, cũng là chỗ bà muốn xem mẫu dệt đó. Vì mắt kém, nên bà lấy trong xắc tay một cái kính lúp. Emil chưa bao giờ trông thấy kính lúp cả, nên rất háo hức muốn xem.
- Cháu cứ cầm lấy mà chơi, - bà vợ ông mục sư nói, tính tình bà vốn đơn giản.
Hẳn bà không biết rằng với bất kỳ vật gì Emil cũng có thể bày trò nghịch dại, và với một cái kính lúp thì càng không khó. Chỉ lát sau Emil đã biết có thể dùng kính lúp làm “kính đốt”. Khi mặt trời rọi vào kính lúp, mọi tia nắng tụ vào một điểm và hun nóng lên. Emil nhìn quanh vật gì dễ cháy, vật gì có thể bùng lên thành lửa. Bà vợ ông mục sư đang ngồi yên chỗ và cứ luôn mồm nói chuyện với mẹ Emil. Khi nói, đầu bà vẫn chẳng hề động đậy. Những cái lông đà điểu bông xù cắm trên cái mũ điệu đà của bà trông khá dễ bén lửa. Thế là Emil thử liền - thì phải thử mới biết được chứ, nếu không làm sao học được cái gì trên đời này, nó nghĩ vậy.
Kết quả cuộc thử nghiệm của Emil được mô tả trong cuốn vở màu xanh như sau:

“Bỗng khói bắt đầu mù mịt quẩn quanh bà mục sư, phải, nhưng lửa không bén vào những chiếc lông đà điểu mà chỉ bốc khói. Thế mà mình cứ tưởng giờ Emil sẽ ngoan hơn sau khi nó đã gia nhập hội cầu thiện. Ôi, giá được thế thì tốt biết bao! Vậy là ông hội viên cầu thiện phải ngồi nốt ngày hôm ấy trong xưởng mộc. Phải, phải, chuyện là thế”.

Ngày 25 tháng Tám Emil đến trường. Nếu dân làng Lönneberga tưởng rằng ở trường Emil sẽ còn mỗi nước chui đầu xuống đất mà trốn, thì họ lầm to. Hẳn cô giáo là người đầu tiên đã linh cảm thấy cậu học trò ngồi trên cái ghế ngay sát cửa sổ lớp kia chính là vị chủ tịch hội đồng xã tương lai. Và ngạc nhiên chưa: Emil trở thành trò giỏi nhất lớp! Đọc thì Emil biết sẵn từ khi mới đến trường, viết cũng biết chút ít, còn làm tính thì nó nhanh hơn tất cả những đứa bạn khác. Tất nhiên Emil vẫn bày trò nghịch ngợm, nhưng không quá sức chịu đựng của cô giáo. Ồ phải, có lần nó đã hôn vào đúng môi cô. Về việc này dân làng Lönneberga còn kháo nhau mãi.
Chuyện xảy ra như sau: Emil lên bảng làm một phép tính cộng với những con số thật sự khó. Khi nó ra đáp số, cô giáo bèn bảo:
- Tốt rồi, Emil, em có thể về chỗ ngồi.
Emil làm theo. Khi đi ngang qua cô giáo đang ngồi trên bục giảng, nó liền hôn cô một cái chính giữa môi. Cô giáo chưa bao giờ gặp phải chuyện như thế, bèn đỏ mặt và ấp úng hỏi:
- Emil, tại sao... tại sao... em lại làm thế?
- Chắc em làm thế vì lòng tốt của em ạ, - Emil đáp, và câu trả lời này sau đó đã gần như trở thành một câu thành ngữ ở làng Lönneberga.
- Em làm thế vì lòng tốt của em, cái thằng bé ở trang trại Katthult lại nói thế khi nó hôn cô giáo cơ đấy, - dân làng thời ấy thường kháo nhau, và biết đâu bây giờ họ vẫn nhắc chuyện đó, tôi đoán thế.
Trong giờ giải lao sau đó, có một cậu trong đám trò lớn đi đến và muốn chọc tức Emil.
- Mày đã hôn cô giáo cơ đấy, - hắn nói và cười mỉa mai.
- Vâng, anh muốn em làm lại không? - Emil hỏi.
Nhưng nó nói vậy thôi. Chuyện chỉ xảy ra duy nhất một lần, và không khi nào lặp lại nữa. Và cô giáo cũng không hề giận Emil về cái hôn đó, không giận tý nào.
Emil còn làm nhiều việc khác vì lòng tốt của mình. Trong giờ giải lao nó chạy đến trại tế bần, đọc cho cụ Stolle-Jocke và các cụ nghe tờ “Bưu điện Smăland”. Vậy nên đừng nghĩ rằng Emil không có lòng tốt.
Ít nhất thì các cụ ở trại tế bần cũng cho rằng thời khắc đẹp nhất trong ngày là lúc Emil đến và tất cả bọn họ - cụ Stolle-Jocke, cụ Johann-Một Xu, cụ Kalle-Carô và cụ Ulla-Tiên Đoán Tai Ương cùng cả thảy các cụ khác - đều vui sướng khi Emil xuất hiện. Có thể cụ Stolle-Jocke không nghe rõ tất cả những gì Emil đọc, vì khi Emil đọc tin ngày thứ Bảy tới ở khách sạn thành phố sẽ có một vũ hội lớn, thì cụ Stolle-Jocke lại chắp hai bàn tay vào nhau mà nói đầy ái ngại:
- Amen, amen, phải phải điều, đó ắt sẽ xảy ra!
Nhưng cái chính là cụ Stolle-Jocke và các cụ già nghèo thích được ngồi nghe Emil đọc. Mỗi mụ Maduskan là không thích. Hễ Emil tới là mụ lên ngay căn phòng áp mái và khóa trái cửa buồng lại, ở tịt trong đó, bởi mụ đã từng sa xuống cái bẫy sói mà Emil đào và không sao quên được vụ đó.
Có thể bây giờ bạn sẽ không yên tâm và nghĩ rằng đi học rồi Emil sẽ chẳng còn thời gian mà bày trò nghịch ngợm nữa. Bạn đừng lo! Vào cái thời Emil còn nhỏ, trẻ con cứ cách một ngày mới phải đi học một lần, bạn thấy chúng sướng chưa!
- Dạo này cháu thế nào? - Một ngày nọ cụ Stolle-Jocke hỏi khi nó đến đọc báo cho các cụ nghe.
Emil nghĩ ngợi giây lát, rồi nó trả lời trung thành với sự thật:
- Cháu cứ nghịch một hôm, lại đến trường một hôm ạ.

Chủ nhật, ngày 14 tháng Mười một, ngày diễn ra cuộc vấn đáp về tín ngưỡng ở trang trại Katthult và Emil nhốt bố nó trong buồng Trisse

Ở trang trại Katthult, làng Lönneberga cùng khắp vùng Smăland, ban ngày trời mỗi lúc một xám xịt hơn, tối tăm hơn. Tiết thu ngày càng rõ.
- Úi, mưa lạnh thế chứ! - cô Lina kêu ca khi hàng ngày cứ năm giờ sáng là cô phải mò mẫm trong bóng tối xuống chuồng bò. Tất nhiên cô có xách theo chiếc đèn dầu nhưng ngọn đèn cháy bập bùng trông đến cô độc và nhỏ nhoi giữa những cái màu xám xịt ấy. Suốt mùa thu chỉ một màu xám xịt, tựa một ngày dài duy nhất đằng đẵng và xám xịt. Chỉ thi thoảng một vài bữa tiệc và cuộc vấn đáp về tín ngưỡng mới lại lóe lên như những đốm sáng khiêm tốn và nhỏ nhoi trong bóng tối.
Hẳn như tôi có thể đoán, bạn không biết gì về cuộc vấn đáp về tín ngưỡng. Nhưng thời đó mọi người ít nhiều đều phải viết những gì ghi trong kinh thánh và sách giáo lý đại cương. Vì vậy mà thỉnh thoảng ông mục sư phải tiến hành một cuộc vấn đáp để nắm được mọi người biết đến đâu. Không riêng gì bọn trẻ con, những đứa mà đằng nào người ta cũng quen hành hạ bằng một lô câu hỏi, mà tất cả mọi người trong giáo xứ, già trẻ lớn bé đều có thể bị hỏi.
Những cuộc vấn đáp này lần lượt diễn ra ở tất cả các trang trại của làng Lönneberga, và nếu bản thân cuộc vấn đáp chẳng có gì vui, thì bữa tiệc sau đó lại thật vui. Ai trong giáo xứ cũng có quyền tham dự, kể cả các cụ ở trại tế bần. Những cụ nào còn đủ sức lê chân đến đó, đều góp mặt đủ. Là bởi sau mỗi cuộc vấn đáp, mọi người thỏa sức chè chén đến vỡ bụng thì thôi, và phần đông mọi người cho rằng đây là một phong tục tốt đẹp.
Vào một ngày trong tháng Mười một sẽ diễn ra một cuộc vấn đáp về tín ngưỡng tại trang trại Katthult. Điều này khiến ai nấy đều hân hoan, đặc biệt là cô Lina, vì cô rất khoái các cuộc vấn đáp như thế.
- Vâng, mặc dù cháu không thích tất cả các câu hỏi ấy, - cô nói. - Đôi lúc cháu chẳng biết phải trả lời như thế nào.
Và chắc chắn cô Lina không đặc biệt thuộc kinh thánh rồi. Ông mục sư cũng biết vậy, nên thường đặt cho cô những câu hỏi rất dễ, vì ông vốn là người thân thiện. Sau khi ông mục sư đã kể rất lâu và rất kỹ về Adam và Eva, những người từng sống trên vườn địa đàng và sau đó là hai người đầu tiên có mặt dưới trái đất, thì tất nhiên ông đinh ninh rằng tất cả mọi người, thậm chí cả cô Lina, đã nắm được nội dung cả câu chuyện. Và vì bây giờ đến lượt cô Lina, nên ông rất ân cần hỏi cô:
- Nào, Lina, vậy tổ tiên chúng ta tên là gì?
- Thor và Freya ạ, - cô Lina liền đáp không chút đắn đo, làm mẹ Emil đỏ mặt vì tức giận trước câu trả lời ngu ngốc đó. Thor và Freya là hai vị thánh già mà cách đây trên cả ngàn năm người Thụy Điển - khi còn chưa biết tý gì về kinh thánh - đã từng tin vào.
- Cô vẫn cứ là một kẻ ngoại đạo, - sau này mẹ bảo cô Lina, nhưng cô chống chế:
- Tại họ cứ trộn nháo nhào đủ thứ vào nhau như thế! Sao cháu lại phải là người sắp xếp lại tất cả cơ chứ!
Nhưng bao giờ ông mục sư cũng khoan dung trong các cuộc vấn đáp. Ông lờ đi, coi như cô Lina không trả lời sai, mà tiếp tục kể Đức Chúa đã tạo ra trái đất và tạo ra tất cả những con người sống trên trái đất như thế nào, và sự sáng tạo của Người mời tuyệt vời làm sao.
- Này Lina, con đúng là một tạo vật kỳ diệu của Chúa, - ông mục sư khẳng định và hỏi cô Lina xem liệu cô đã bao giờ suy nghĩ về chuyện đó chưa và liệu cô có tin rằng việc Chúa đã tạo ra cô là một cái gì đặc biệt hay không.
Cô Lina bèn đáp rằng cô có tin như thế, nhưng rồi cô bỗng nghĩ lại.
- Vâng, tất nhiên ạ, nhưng làm ra con chắc chẳng có gì là đặc biệt. Trừ tất cả những đường xoắn ở hai vành tai của con, con nghĩ là gom chúng lại với nhau như thế nhất định là một công việc khó chịu lắm!
Thế là mẹ Emil lại đỏ mặt, vì bà có cảm giác cả trang trại Katthult này bị ô danh vì câu trả lời thậm ngu ngốc đó của cô Lina. Đã thế ở tít góc đằng xa, nơi Emil đang ngồi, lại vang lên tiếng cười lanh lảnh trong thoáng chốc. Bà mẹ đáng thương, bà biết trong các cuộc vấn đáp về tín ngưỡng không ai được phép cười. Mẹ Emil ngồi đó mà vô cùng xấu hổ, bà chỉ cảm thấy nhẹ nhõm trở lại khi cuộc vấn đáp cuối cùng kết thúc và người ta có thể bắt đầu với bữa tiệc.
Mẹ Emil chuẩn bị một bữa tiệc thịnh soạn và ngon lành như xưa nay mẹ vẫn làm mỗi khi đãi khách, mặc dù bố Emil tìm cách ngăn mẹ.
- Ở đây hẳn kinh thánh và sách giáo lý đại cương mới là quan trọng. Thế mà mình lại cứ lan man sang thịt băm viên với cái bánh pho mát!
- Cái gì cũng có thời điểm của nó, - mẹ Emil đáp. - Sách giáo lý đại cương có thời điểm của sách giáo lý đại cương, bánh phô mát có thời điểm của bánh phô mát.
Phải, đã đến giờ của bánh phô mát, và tất cả mọi người đã tham gia cuộc vấn đáp tín ngưỡng ở trang trại Katthult đều ăn thật ngon lành và cảm thấy khoan khoái dễ chịu. Emil cũng ăn một miếng tướng bánh pho mát, phết thêm cả mứt nhừ và kem tươi. Đúng lúc nó vừa ăn hết thì mẹ đến bảo:
- Này Emil, chóng ngoan, chạy xuống đóng cửa chuồng gà cho mẹ đi!
Cả ngày đàn gà được thả rông. Tối đến phải nhốt chúng lại kẻo ban đêm cáo mò vào vồ mất.
Lúc này trời đã sắp tối, lại mưa nữa, nhưng Emil vẫn thấy dễ chịu khi được ra ngoài một lát, thoát khỏi không khí ngột ngạt trong nhà với những tiếng nói cười huyên náo và bánh trái. Gần như cả đàn gà yên vị trong chuồng, còn mỗi con Lotta Què và vài con nữa đã ăn no căng diều đang loăng quăng ngoài trời mưa. Nhưng Emil lùa chúng vào chuồng và cài then cẩn thận. Bây giờ con cáo cứ việc đến nếu muốn. Cạnh chuồng gà là chuồng lợn. Emil ghé qua ngó Nhóc Lợn và hứa tối nay sẽ khao Nhóc Lợn một bữa ra trò.
- Khi nào bọn người tham ăn ấy đã ních no căng bụng, thì vẫn thừa một ít ở đĩa, - Emil nói, và Nhóc Lợn ủn ỉn đầy hy vọng.
- Tao sẽ sớm quay lại, - Emil hứa, đoạn cũng kéo then cài chắc chắn.
Phía sau chuồng lợn là nhà tiêu, như cách người xưa vẫn gọi. Có thể bạn sẽ cho rằng từ này không được lịch sự lắm, nhưng bạn phải biết chú Alfred gọi như thế nào cơ. Chú Alfred gọi thẳng toẹt là chuồng... mà thôi, tôi không cần phải dạy cho bạn từ này. Nhưng nhà tiêu ở trang trại Katthult cũng có cái tên sang trọng hơn. Nó được gọi là “buồng Trisse”, theo tên của bác Trisse, đầy tớ từ thời ông nội Emil còn làm chủ trang trại, chính bác ta đã dựng lên căn nhà nhỏ không thể thiếu được này.
Emil đã cài then chuồng gà, cài then chuồng lợn, và vì đang tiện thể cài then, nó cài luôn then bên ngoài cửa buồng Trisse. Lẽ ra nó phải nghĩ đến chuyện nhỡ đâu có ai đang ngồi trong đó, vì then bên ngoài cửa không cài. Nhưng Emil vốn có bao giờ suy nghĩ chuyện gì cho thấu đáo đâu. Loáng cái nó đã cài chặt then cửa và vừa tưng tưng nhảy chân sáo bỏ đi vừa hát nghêu ngao:
“Mình đã cài then, đã cài then tất tần tật!”
Đang ngồi trong buồng Trisse, bố Emil nghe tiếng hát hoan hỉ của ông con mà giật mình lo sợ, vội cuống cuồng đứng dậy và thử lay cánh cửa.
Biết ngay mà! Cánh cửa không thể được cài then chắc hơn thế nữa. Thế là ông gầm lên:
- Emil!
Nhưng Emil đã nhảy chân sáo rời khỏi đó và gân cổ hát bài “Mình đã cài then” to đến nỗi nó hầu như chẳng nghe thấy gì.
Ông bố tội nghiệp, ông tức giận đến nghẹn thở. Thật là quá quắt! Làm cách nào thoát ra được đây? Ông đập cửa như hóa rồ, vừa đấm vừa xô rầm rầm. Nhưng ích gì? Cuối cùng ông bắt đầu co chân đạp. Ông đạp hăng đến nỗi tưởng dập các ngón chân, thế nhưng cái nhà bác Trisse ngày xưa đã làm cánh cửa quá tốt và chắc chắn nên nó không hề bị suy suyển. Mỗi lúc bố Emil càng điên tiết. Ông bắt đầu thọc tay vào túi tìm con dao nhíp. Ông nghĩ ít nhất ông cũng sẽ khoét được một cái lỗ nho nhỏ, đủ để thò mũi dao nhíp ra và đẩy cái then lên. Nhưng con dao nhíp lại để trong túi quần mặc hàng ngày, mà hôm nay ông lại diện bộ cánh Chủ nhật. Bố Emil đứng đó một lúc, giận sôi người. Không, ông không chửi rủa, vì ông vốn rất mực ngoan đạo, nhưng ông rít lên mắng Emil và mắng cả bác đầy tớ Trisse vì nỗi ngày đó bác ta không chịu lắp trong căn buồng này một cái cửa sổ cho ra hồn, mà chỉ để mỗi một ô thông gió bé tí tẹo ở phía trên cửa ra vào. Bố Emil tức giận ngó lên ô thông gió quá hẹp đó và đạp thêm mấy cú thật mạnh vào cánh cửa. Đoạn ông ngồi xuống chờ đợi.
Trong buồng Trisse không có quá ba chỗ ngồi, ông bèn ngồi phịch xuống một chỗ. Ông cứ ngồi thế mà nghiến răng trèo trẹo, sốt ruột sốt gan chờ xem rốt cuộc sẽ có ai đó mò xuống, do có nhu cầu giải quyết bức xúc trong buồng Trisse.
Khốn nạn cho kẻ nào đó ló mặt đầu tiên, ta sẽ giết chết tươi, ông tự nhủ. Bố Emil nghĩ thế thật không công bằng và không được tử tế cho lắm, nhưng cũng phải thông cảm là ông đang cực kỳ tức giận.
Bóng tối phủ xuống buồng Trisse. Bố Emil cứ thế ngồi đợi, đợi mãi - nhưng chẳng có ai mò xuống. Ông nghe tiếng mưa rào rào trên mái, một tiếng động không hề an ủi mà còn làm ông mỗi lúc càng thêm tức giận. Không thể nào, trong khi ông phải ngồi đơn độc trong bóng tối nơi này, thì tất cả những kẻ khác lại ngồi quây quần vui vẻ dưới ánh đèn trong kia và thả sức đánh chén trên túi tiền của ông. Không, giờ phải chấm dứt chuyện này! Ra khỏi đây, ông phải ra khỏi đây bằng mọi giá! Cho dù phải chui người qua lỗ thông gió!
- Vì mình đang tức điên lên đây, - ông nói to và nhổm dậy khỏi chỗ ngồi.
Trong buồng Trisse có một thùng đựng báo cũ. Bố Emil dựng đứng cái thùng, rồi trèo lên. Phải, cái thùng đủ cao.
Cho tới lúc này tất cả đều ổn, vì ông dễ dàng mở cánh cửa lỗ thông gió và thò đầu ra xem có ai quanh đấy để kêu cứu không.
Chẳng có ai, thay vào đó ông lại bị nước mưa xối xả tuôn thẳng xuống gáy. Bao nhiêu nước mưa cứ thế tràn qua cổ áo xuống người ông. Nhưng giờ đây không gì có thể phanh nổi bố Emil nữa. Dù một trận đại hồng thủy có trút xuống đầu ông lúc này - ông vẫn phải thoát ra khỏi đây cho kỳ được!
Gắng hết sức, ông lách được hai cánh tay và vai ra khỏi lỗ thông hơi, rồi ông cố toài người ra từng tí từng tí một.
Khi người ta thực sự tức giận thì sẽ vượt qua được tất, ông nghĩ. Nhưng đúng lúc đó ông đột nhiên bị mắc kẹt! Thậm chí mắc kẹt hoàn toàn! Ông cố tới mức tím bầm cả mặt mũi, vừa đạp mạnh hai chân ông vừa vung tay loạn xạ, rồi kết quả là cái thùng gỗ đổ bật ra đất, khiến hai chân ông không còn điểm tựa, cứ chới với hết đu ra trước lại đạp ra sau - khốn khổ thân ông!
Một người sùng đạo bậc nhất sẽ làm gì khi nửa thân trước phơi dưới trời mưa và nửa thân sau thì treo trong nhà tiêu? Ông sẽ kêu cứu chăng? Không, ông không kêu cứu! Không đời nào, vì ông quá biết dân làng Lönneberga. Ông biết chính xác nếu chuyện này đến tai dân làng thì họ sẽ cười ông thối mũi, và sẽ không chịu dừng lại, chừng nào còn có dù chỉ một người sống sót ở làng Lönneberga, và nói chung ở cả vùng Smăland. Ông không kêu cứu!
Trong lúc đó, sau khi vui vẻ và hài lòng trở lại bữa tiệc. Emil đã gắng hết sức mua vui cho bé Ida. Cô bé thấy cuộc vấn đáp thật là buồn tẻ, vì vậy Emil kéo em ra hành lang, nơi hai anh em thử sờ chân vào những đôi giày của khách. Những đôi giày to có nhỏ có xếp thành dãy ngay ngắn ở đó, và bé Ida cười khúc khích khi Emil vừa kéo lê đôi giày to tướng của ông mục sư vừa nói năng y như ông mục sư, nào là “cũng vì lẽ đó”, nào là “hơn thế nữa”. Kết quả là những chiếc giày nằm vung vãi trong hành lang. Nhưng vốn là đứa trẻ ngăn nắp. Emil bèn xếp chúng thành một đống thù lù như trái núi ngay chính giữa hành lang.
Rồi Emil sực nhớ ra đã hứa sẽ mang đồ ăn ngon ra cho Nhóc Lợn. Nó lượn một vòng trong bếp, vét một số đồ ăn còn thừa vào trong liễn, đoạn tay bưng liễn, tay xách đèn dầu, nó đội mưa đi ra màn đêm để đem niềm vui đến cho con lợn nhỏ của mình.
Và rồi - ồ, tôi phát run khi nghĩ đến điều này! - rồi Emil trông thấy bố! Bố cũng nhìn thấy Emil! Ôi, ôi, ôi, sao lại có thể xảy ra tất cả những chuyện này được!
- Gọi chú Alfred ngay! - Bố Emil rít lên. - Bảo chú ấy đem ra đây một cân thuốc nổ, ta sẽ cho nổ tung cả cái buồng Trisse này lên trời!
Emil chạy đi và chú Alfred tới. Chú không mang theo thuốc nổ - hẳn bố Emil tức giận quá dọa thế thôi - , nhưng đem ra một cái cưa. Vâng, phải cưa cánh cửa để cứu bố Emil thôi, ngoài ra chẳng còn cách nào khác.
Trong khi chú Alfred cưa thì Emil đứng trên một cái thang nhỏ và chu đáo giương ô che mưa cho ông bố đáng thương của mình. Chắc bạn hiểu rằng Emil chẳng sung sướng gì khi phải đứng trên thang như thế. Suốt thời gian đó bố cứ tức giận đùng đùng dưới cái ô và dọa sẽ xử lý Emil chừng nào thoát được khỏi đây. Bố cũng không hề biết ơn Emil vì nó đã chu đáo che ô cho bố. Che bây giờ phỏng còn ích lợi gì chứ, một khi bố đã ướt sũng từ ngoài vào trong và thế nào cũng bị cảm lạnh, thậm chí hoàn toàn chắc chắn rằng bố sẽ bị viêm phổi!
Nhưng Emil bảo:
- Không, bố cảm lạnh thế nào được. Cái chính là giữ được hai bàn chân khô!
Chú Alfred cũng nghĩ vậy.
- Đúng vậy, cái chính là giữ hai bàn chân khô.
Và tất nhiên hai bàn chân bố vẫn khô, điều mà bố không thể chối cãi, nhưng còn lâu bố mới chịu hài lòng vì thế. Emil run sợ trước giây phút bố được tự do.
Chú Alfred cưa hăng đến nỗi mạt cưa văng tung tóe, còn Emil sẵn sàng ù té quyền. Đúng lúc chú Alfred cưa xong và bố Emil rơi phịch xuống đất, thì Emil quăng chiếc ô đi và co giò chạy thục mạng xuống xưởng mộc. Một tích tắc trước khi bố tóm được Emil, nó kịp lao vụt xuống xưởng mộc và chốt cửa lại. Nhưng cũng có thể bố Emil tiếc công đứng trước cánh cửa đã chốt chặt mà đấm cửa, nên ông chỉ làu nhàu mắng Emil mấy câu rồi biến mất. Việc trước hết ông cần làm lúc này là lại ra mắt khách khứa tại bữa tiệc, nhưng đầu tiên ông phải vào buồng ngủ thay một bộ quần áo khô đã.
- Mình biến đi đâu suốt từ nãy tới giờ? - Mẹ Emil bực mình hỏi.
- Chuyện đó để sau hãy nói, - bố Emil trầm giọng đáp.
Thế rồi cuộc vấn đáp ở trang trại Katthult kết thúc. Ông mục sư bắt đầu ngân nga câu thánh ca quen thuộc và dân làng Lönneberga cùng hòa giọng:
“Một ngày cứ thế trôi đi, chẳng bao giờ trở lại”, họ hát.
Sau đó tất cả mọi người bắt đầu lục tục chuẩn bị băng qua màn đêm tháng Mười một để trở về nhà. Nhưng khi ra tới hành lang để mặc áo khoác, thì thứ đầu tiên đập vào mắt họ trong ánh đèn dầu tù mù là một núi giày dép ngay dưới sàn nhà.
- Trò quỷ quái đến thế thì thôi! Lại thằng nhóc Emil chứ ai vào đây được nữa! - dân làng Lönneberga nói. Thế rồi tất cả bọn họ - kể cả vợ chồng ông mục sư - cùng ngồi xổm xuống và lần tìm giày của mình suốt hai giờ đồng hồ. Cuối cùng họ nói khá là bực bội câu “cảm ơn” và “chào tạm biệt”, rồi biến vào trong màn mưa.
Họ không thể nói lời “chào tạm biệt” Emil, vì nó đang ngồi trong xưởng mộc đẽo hình nhân thứ một trăm tám mươi tư của mình.

Chủ nhật, 18 tháng Mười hai, ngày Emil có một hành động anh hùng, khiến cả làng Lönneberga hoan hô và tha thứ cũng như quên hết những trò nghịch ngợm của nó.

Sắp tới lễ Giáng sinh. Một tối mọi mọi người ở trang trại Katthult ngồi quây quần trong bếp, ai làm việc người nấy. Mẹ Emil quay guồng kéo sợi, bố Emil vá giày, cô Lina chải bông, Emil và chú Emil đẽo những chiếc răng mới cho cái cào bằng gỗ, còn bé Ida chơi trò bò ngón tay đầy thích thú trên lưng cô Lina. Nó cứ lì lợm tiếp tục chơi trò này, mặc dù cô Lina bị quấy rối trong lúc cô đang làm việc.
- Nhưng phải là lưng của ai có máu buồn mới được, - bé Ida nói, thế thì nó chọn cô Lina là đúng rồi.
Bé Ida vừa cho hai ngón tay bé nhỏ từ từ bò lên cao dọc theo lưng cô Lina, vừa đọc mấy câu vè của trò chơi:
“Bố yêu ơi, mẹ yêu ơi
hãy đổ muối và bột cho tôi,
tôi sắp mổ lợn Giáng sinh rồi,
nó sẽ kêu eng éc điếc tai tôi”.
Cứ đến câu “eng éc” là bé Ida lại ngoáy ngoáy ngón tay trỏ vào sườn cô Lina, khiến lần nào cô cũng kêu ầm ĩ và cười với Ida với vẻ hết sức hài lòng.
Bố Emil ngồi đó và nghe câu “tôi sắp mổ lợn Giáng sinh rồi”. Hẳn câu đó gợi cho ông suy nghĩ, nên ông đột nhiên nói ra một điều khủng khiếp.
- Đúng, sắp Giáng sinh rồi. Đã tới lúc mổ thịt con lợn của con rồi đấy, Emil.
Emil buông rơi con dao đẽo gỗ trên tay, trân trối nhìn bố.
- Mổ thịt Nhóc Lợn ấy ạ! Không đời nào! - nó nói. - Đó là con lợn của con, Nhóc Lợn của con, bố quên rồi à?
Tất nhiên bố Emil không quên. Nhưng ông nói rằng khắp vùng Smăland này chưa có ai nghe câu chuyện nuôi lợn như nuôi chó cưng cả, là một nông dân sành sỏi lẽ ra Emil phải biết người ta chăn nuôi và vỗ béo lợn cốt để mổ thịt chứ.
- Con không biết điều đó sao? - bố Emil ngạc nhiên hỏi.
Phải, tất nhiên Emil biết điều đó, nhưng thoạt đầu nó không biết trả lời thế nào. Rồi nó bỗng nảy ra một ý hay.
- Đúng, con là một nông dân sành sỏi tới mức biết rằng một số con lợn giống được phép tiếp tục sống, để còn gây giống. Và chính là con định nuôi Nhóc Lợn thành lợn giống đấy chứ.
Emil biết điều mà có lẽ bạn chưa biết, là lợn giống chính là một con lợn sẽ trở thành bố của rất nhiều lợn con. Đấy là phao cứu sinh cho Nhóc Lợn, Emil nghĩ, vì Emil đâu có ngốc. Rồi nó sẽ kiếm được cho Nhóc Lợn một con lợn nái, và cho dù con lợn nái ấy còn bé, thì nó vẫn giải thích cho bố rằng Nhóc Lợn và vợ Nhóc Lợn rồi đây sẽ sinh được hàng đàn lợn con suốt ngày quấn quít quanh chúng.
- Nghe được đấy, - bố Emil nói. - Nhưng chắc chắn ở trang trại Katthult này sẽ có một kỳ Giáng sinh chỉ toàn rau dưa. Không đùi lợn muối, không dồi tiết, không gì hết!
- “Hãy đưa bột đưa muối cho tôi
Tôi muốn nấu ngay cái món dồi”. - Bé Ida tiếp tục đọc, nhưng Emil đã quát lên:
- Im mồm, dồi diếc gì!
Emil biết món dồi tiết đâu chỉ cần bột và muối, mà còn cần lòng lợn và tiết lợn nữa.  Nhưng nhất định không phải là lòng và tiết của Nhóc Lợn! Không, chừng nào Emil còn sống thì đừng ai hòng động đến Nhóc Lợn!
Trong bếp im lặng hồi lâu, một sự im lặng nặng nề. Bỗng chú Alfred văng một câu chửi thề. Con dao đẽo gỗ sắc lẻm cắt vào ngón tay cái của chú khiến máu chảy ra ròng ròng.
- Chú chửi thề thì có đỡ hơn đâu, - bố Emil nghiêm khắc nói. - Tôi không muốn nghe chửi thề trong ngôi nhà của mình.
Mẹ Emil lấy một miếng vải lanh sạch quấn quanh ngón tay cái của chú Alfred. Rồi chú Emil đẽo tiếp. Đây là một công việc nên làm trong mùa đông, vì mọi cái cào đều cần được thay răng mới cho những răng đã hỏng, và công việc sửa chữa này phải xong trước mùa xuân.
- Như đã nói… Giáng sinh năm nay ở Katthult sẽ chỉ ăn toàn rau dưa thôi, - bố Emil nói, mắt rầu rĩ nhìn đăm đăm ra phía trước.
Tối ấy Emil nằm thao thức mãi, sáng ra nó đập vỡ con lợn đất và lấy từ chỗ tiền tiết kiệm ba mươi lăm đồng. Đoạn nó thắng con Lukas vào một cỗ xe trượt và đi đến trang trại Bastefall. Ở đó họ nuôi nhiều lợn, và Emil chở về một con lợn béo tròn rất đẹp mã, thả vào chuồng với Nhóc Lợn. Xong đâu đấy nó tìm bố và nói:
- Nào, bây giờ trong chuồng nhà mình đã có hai con lợn rồi. Bố giết thịt một con đi! Nhưng bố chớ có thịt nhầm đấy, kẻo lại trách con không đe trước!
Cơn thịnh nộ khủng khiếp đang chế ngự Emil đôi khi khiến nó không cần biết người mà nó đang nói chuyện là bố mình nữa. Ý nghĩ chỉ có thể mua được cuộc sống cho Nhóc Lợn bằng cách giết một con lợn khác, khiến Emil cảm thấy bàng hoàng. Nhưng nó không còn cách lựa chọn nào khác, và cũng biết rõ ràng nó sẽ chẳng yên thân được với bố, người không chịu hiểu rằng trên đời này có một người có thể coi một con lợn như chó cưng.
Hai ngày liền Emil không bén mảng đến chuồng lợn, mà để cô Lina mang thức ăn cho cả hai con lợn. Tinh mơ ngày thứ ba, nó chợt thức giấc, cho dù bên ngoài trời vẫn tối đen như mực. Nó nghe tiếng lợn kêu như bị chọc tiết. Tiếng kêu thống thiết, chói tai, nhưng đột nhiên im bặt.
Emil phà hơi vào ô kính cửa sổ bị đóng băng bên ngoài, để tạo một lỗ con nhòm ra. Nó thấy ánh đèn dầu phía chuồng lợn và những bóng đen đi đi lại lại. Giờ con lợn đã chết, nó biết thế. Giờ cô Lina đang đứng đấy mà quấy chỗ tiết đang ộc ra từ cổ con lợn. Bố và chú Alfred sắp dội nước sôi để cạo lông và xả thịt. Bà Krösa-Maja sẽ đến để cùng cô Lina làm sạch bộ lòng. Và thế là chấm dứt cuộc đời con lợn mà Emil đã mua về từ trang trại Bastefall. “Tôi sắp mổ lợn Giáng sinh rồi, nó sẽ kêu eng éc điếc tai tôi”, Emil lẩm bẩm, đoạn lại chui lên giường nằm khóc hồi lâu.
Nhưng con người là thế: Emil cũng vậy thôi. Chiều ấy nó ngồi trong chuồng một lát với Nhóc Lợn và vừa gãi lưng cho Nhóc Lợn vừa nói đầy suy tư.
- Nhóc Lợn ơi, mày vẫn sống! Cho dù trên thế gian này có chuyện gì xảy ra chăng nữa, thì mày, mày cứ vẫn sống!
Rồi Emil định bụng sẽ cố quên con lợn của trang trại Bastefall. Nhưng hôm sau, khi bà Krösa-Maja và cô Lina chăm chỉ ngồi trong bếp thái mỡ lợn, còn mẹ thì nhào thịt xay nhuyễn làm xúc xích, luộc dồi và ướp đùi lợn vào nước muối và khi cô Lina hát “Gió thổi từ biển vào sao mà lạnh” còn bà Krösa-Maja kể chuyện con ma không đầu ở nhà mục sư, thì Emil lại cảm thấy sao mà khoan khoái. Nó không còn nhớ đến con lợn xấu số của trang trại Bastefall, mà chỉ còn khấp khởi nghĩ đến chuyện lễ Giáng sinh sắp đến rồi và thật tuyệt biết bao khi cuối cùng tuyết cũng đã bắt đầu rơi.
- Tuyết rơi rồi, nhiều tuyết ghê, nhiều tuyết ghê! - Bé Ida reo lên.
Và tuyết rơi mới dữ dội làm sao. Suốt ngày tuyết rơi, mỗi lúc một dày, đã thế lại còn gió mạnh. Tuyết xoáy mù mịt khiến trong nhà nhìn ra hầu như không còn thấy nổi khu chuồng trại.
- Phải, bây giờ gió đang góp thành bão, sẽ có bão tuyết mất thôi, - bà Krösa-Maja nói. - Làm sao tôi về nhà được đây.
- Đêm nay bà cứ ngủ lại, - mẹ Emil bảo. - Bà có thể ngủ chung với cô Lina trên chiếc ghế dài dưới bếp.
- Được, nhưng hãy biết điều mà nằm yên như con lợn chết đấy! Đừng quên là tôi có máu buồn, - cô Lina nói.
Trong bữa ăn tối chú Alfred than phiền về ngón tay cái của chú. Chú kêu đau. Mẹ Emil bèn tháo băng ra xem xem tại sao ngón tay vẫn chưa lành.
Trông không đẹp mắt tí nào. Vết thương tấy đỏ và mưng mủ, từ ngón tay cái có những vệt đỏ chạy dài lên quá cổ tay.
Mắt bà Krösa-Maja bắt đầu sáng lên.
- Nhiễm trùng máu rồi, -- bà nói. - Bệnh này nguy đấy.
Mẹ Emil đi lấy lọ cồn, xoa khắp bàn tay và cánh tay chú Alfred rồi băng lại.
- Nếu đến mai vẫn không đỡ, thì cậu phải đến ông bác sĩ ở Mariannelund thôi, - mẹ nói.
Đêm đó tuyết và gió bão quần khắp vùng Smăland, không ai nhớ nổi đã có khi nào thời tiết tệ hại tới mức đó chưa. Sáng hôm sau, khi những người ở trang trại Katthult ngủ dậy, thì thấy cả trang trại bị phủ kín bởi một lớp tuyết dày trải rộng. Và bão tuyết vẫn lồng lộn, dữ tợn tới mức người ta hầu như không thể ló đầu ra khỏi nhà, còn gió thì hú thành tiếng trong ống khói - ui chao, thật đúng là chưa từng thấy!
- Hôm nay anh Alfred cứ gọi là xúc tuyết suốt ngày nhá, - cô Lina nói. - Mà cứ để mặc như thế cũng được, vì xúc sao cho xuể.
Nhưng ngày hôm đó chú Alfred không xúc xẻng tuyết nào cả. Khi đến bữa ăn sáng, chỗ của chú ở trong bếp trống không, mà cũng chẳng thấy chú dặn ai cái gì. Emil đâm ra lo lắng. Nó chụp cái “mú” lên đầu, khoác chiếc áo vải len dày, vớ lấy cái xẻng xúc tuyết gác cạnh cửa bếp, đoạn xúc tuyết dọn cho mình một con đường đi sang lán đầy tớ nằm sát vách xưởng mộc.
Cô Lina ngó qua cửa sổ bếp dõi theo Emil, rồi gật gù vẻ hài lòng.
- Cái thằng Emil khôn thế chứ, lo dọn sẵn tuyết để có thể chạy cho nhanh xuống xưởng mộc. Ai mà biết được lúc nào nó sẽ bất chợt phải chạy xuống đấy.
Cô Lina ngu ngốc, cô không hiểu rằng Emil đang trên đường đến với chú Alfred.
Trong buồng đầy tớ lạnh ngắt khi Emil bước vào. Chú Alfred đã không đốt sưởi. Chú nằm trên giường và không muốn dậy. Chú cũng chẳng muốn ăn. Chú bảo chú không đói. Thế là Emil càng lo lắng tợn. Chú Alfred mà đã không biết đói thì có nghĩa là bệnh của chú trầm trọng.
Emil chất củi vào lò sưởi và châm lửa, sau đó nó chạy đi gọi mẹ. Mẹ Emil đến, tất cả những người khác cũng đến, bố Emil, cô Lina, bà Krösa-Maja và bé Ida, vì ai cũng lo lắng cho chú Alfred.
Chú Alfred tội nghiệp nằm nhắm mắt ở đó. Người nóng như hòn than, nhưng chú vẫn rét run. Các vết đỏ nơi tay chú đã lan lên đến tận nách, trông rất đáng sợ.
Bà Krösa-Maja hăng hái gật gù.
- Nếu những vết đỏ này chạy vào tim thì coi như xong, cậu ấy sẽ chết.
- Bà im đi, - mẹ Emil bảo.
Nhưng bắt bà Krösa-Maja im miệng đâu có dễ. Riêng ở làng Lönneberga không thôi bà đã biết tới ít nhất là nửa tá người chết vì nhiễm trùng máu và bà bèn liệt kê tên tuổi của họ ra.
- Nhưng không phải vì thế mà chúng ta chịu bó tay với cậu Alfred, - bà nói.
Bà nghĩ có lẽ sẽ cứu được chú Alfred, nếu đúng nửa đêm đem một lọn tóc và một đầu vạt áo của chú ra chôn về phía bắc tòa nhà chính và đọc một câu rủa kiểu như thần chú. Bà biết một câu như thế này:
“Ba cộng ba! Cái gì đến từ quỷ Sa tăng, cút ngay về với quỷ Sa tăng!
Thế là hòa - ba cộng ba!”
Nhưng bố Emil bảo rằng câu rủa mà chú Alfred văng ra khi chú cắt vào ngón tay cái cũng đã đủ lắm rồi. Còn nếu bây giờ phải chôn cái gì ở phía bắc ngôi nhà trong thời tiết như thế này, thì bà Krösa-Maja cứ việc tự đi mà làm.
Bà Krösa-Maja tư lự lắc đầu:
- Phải, phải, đành cứ để sự việc diễn ra như nó phải thế thôi, ôi chao, ôi chao!
Emil nổi điên.
- Chuyện nhảm nhí của đàn bà! Chú Alfred sẽ mau khỏe, bà hiểu không?
Bà Krösa-Maja rụt đầu lại.
- Hiểu chứ, Emil bé bỏng, cậu ấy sẽ khỏe lại, tất nhiên cậu ấy sẽ khỏe lại!
Và để cho chắc chắn, bà vuốt ve chú Alfred và thề thốt rõ to.
- Chắc chắn cậu sẽ khỏe lại, cậu Alfred, tôi hiểu lắm chứ!
Nhưng sau đó bà lại nhìn ra cửa buồng ngủ và khẽ lẩm bẩm:
- Nhưng có điều tôi không hiểu. Họ sẽ làm cách nào mà khiêng quan tài lọt qua ô cửa hẹp kia được nhỉ!
Nghe vậy, Emil liền òa lên khóc. Nó sợ hãi giật gấu áo bố.
- Mình phải đưa chú Alfred đến chỗ bác sĩ ở Mariannelund như mẹ nói, đi bố!
Thế là bố mẹ nhìn nhau rất lạ. Họ biết việc này hoàn toàn không thể. Không, đơn giản là không thể nghĩ đến chuyện tới Mariannelund ngay hôm nay. Nhưng thật khó nói thẳng điều đó với Emil khi thằng bé ủ rũ đứng đó. Tất nhiên bố mẹ Emil cũng muốn giúp chú Alfred. Có điều họ không biết bằng cách nào, và vì vậy cũng không biết phải trả lời Emil ra sao. Bố Emil chẳng nói chẳng rằng rời căn buồng, nhưng Emil không chịu đầu hàng. Nó lẵng nhẵng theo sát gót bố và vừa van nài, vừa khóc lóc, dọa dẫm, như thể mất trí. Nhưng, bạn thử tưởng tượng xem, lần này bố Emil lại không nổi giận, mà chỉ nói rất khẽ:
- Không thể được, Emil ạ, tự con biết là không thể được mà!
Cô Lina ngồi trong bếp vừa khóc nức nở vừa thổn thức:
- Thế cháu cứ nghĩ sang xuân chúng cháu sẽ cưới nhau cơ đấy! Thôi, thế là xong! Bây giờ anh Alfred đã hết đời. Còn cháu, cháu ngồi đây ôm bốn khăn trải giường với cả tá khăn tay! Phải, thật là quá đáng!
Rốt cuộc lúc này Emil mới thực sự hiểu tình cảnh bi đát của mình. Không có sự giúp đỡ nào cả. Thế là nó quay lại lán đầy tớ và ngồi suốt một ngày bên chú Alfred, đó là ngày dài nhất trong đời Emil.
Chú Alfred nằm đó, ngủ li bì. Thi thoảng chú mới mở mắt nhìn lên và lần nào cũng nói:
- Cháu đấy à, Emil!
Emil nhìn tuyết quay cuồng ngoài cửa sổ mà căm hờn trào dâng hừng hực, tới mức tưởng như đủ sức hun tan tất cả tuyết ở làng Lönneberga và khắp vùng Smăland này. Nhưng chắc chắn cả thế gian sẽ chìm trong tuyết mất thôi, nó nghĩ, vì tuyết trút xuống ngày càng dày đặc.
Ngày mùa đông ngắn ngủi, cho dù có vẻ dài đối với một kẻ đang nóng lòng ngồi đây như Emil. Trời đã nhập nhoạng, sắp tối đến nơi.
- Cháu đấy à, Emil! - Chú Alfred lại nói, nhưng lúc này chú nói khó khăn hơn.
Mẹ Emil bưng canh thịt đến và khéo dỗ Emil lắm nó mới chịu ăn. Mẹ cũng thử dỗ chú Alfred, nhưng chú không muốn ăn. Thế là mẹ thở dài và lại đi ra.
Khi đã khuya, cô Lina đến bảo đã đến giờ Emil phải đi ngủ rồi.
Đừng hòng, chớ có ai tưởng sẽ bắt được nó rời nơi này.
- Cháu sẽ ngủ dưới sàn nhà, cạnh chú Alfred, - Emil nói, và không thay đổi quyết định.
Emil lôi ra một tấm nệm cũ và một tấm chăn dùng đắp cho ngựa, với nó thế là đủ. Nhưng nó không sao ngủ được. Nó nằm thao thức, nhìn lửa trong lò sưởi lụi dần và nghe tiếng đồng hồ báo thức của chú Alfred kêu tích tắc, nhưng nó cũng nghe chú Alfred thở gấp như thế nào và thỉnh thoảng chú lại rên lên khe khẽ ra sao. Hẳn thỉnh thoảng Emil có chợp mắt đi một lát, nhưng lần nào nó cũng giật mình choàng tỉnh dậy. Nỗi lo sợ cho chú Alfred bót nghẹt trái tim Emil, và đêm càng trôi đi, nó càng cảm thấy tất cả là sai lầm và sắp trở nên quá muộn, vĩnh viễn quá muộn.
Sau đó quãng bốn giờ sáng, thì Emil biết mình phải làm gì. Bằng mọi giá, nó phải đưa bằng được chú Alfred đến ông bác sĩ ở Mariannelund, cho dù cả hai - nó và chú Alfred - có bỏ mạng dọc đường chăng nữa.
- Chú không được cứ nằm trên giường mà chờ chết như thế, chú Alfred, chú không được phép!
Emil không nói to ra điều đó, mà chỉ nghĩ. Nhưng nó nghĩ rất kiên quyết. Và nó bắt tay vào hành động ngay. Nó phải rời khỏi đây trước khi có ai thức dậy và ngăn cản nó. Cho tới khi cô Lina dậy đi vắt sữa bò, Emil còn một tiếng đồng hồ nữa, và tất cả sẽ phải diễn ra trong một tiếng đồng hồ ấy.
Không ai biết Emil đã làm thế nào và trong tiếng đồng hồ ấy nó đã lao động cật lực ra sao. Phải lôi cỗ xe trượt ra khỏi nhà để xe, phải dắt con Lukas ra khỏi chuồng, thắng con ngựa vào xe, rồi phải đưa được chú Alfred ra khỏi giường và lên xe. Việc sau cùng là khó nhọc nhất. Chú Alfred đáng thương cứ lảo đảo và tựa vào Emil nặng trĩu. Cuối cùng, khi Emil dìu được chú đến bên cỗ xe trượt, thì chú liền ngã chúi đầu vào xe và nằm thượt ra như chết rồi.
Emil đắp kín cho chú Alfred đến nỗi chú chỉ còn thò ra tí đỉnh mũi. Sau đó nó ngồi trên ghế xà ích, kéo dây cương và thúc con Lukas chạy nước kiệu. Nhưng con Lukas ngoảnh đầu lại và nhìn Emil, vẻ ngờ vực. Họa có điên mới lên đường giữa trời mù trắng tuyết này! Chẳng lẽ Emil không hiểu điều đó?
- Bây giờ tao là người quyết định, - Emil nói, - mày chỉ việc vâng lời thôi!
Trong bếp đã lên đèn, cô Lina đã dậy. Đúng vào phút chót Emil mới cùng con Lukas và cỗ xe trượt băng qua cổng trang trại Katthult và rẽ vào con đường trong tuyết và gió.
Úi, bão tuyết đang ở trên đầu Emil! Tuyết táp ngang tai nó, bám dính vào mắt nó khiến nó chẳng còn trông thấy gì, mà nó thì đang muốn ít nhất phải trông thấy con đường. Emil đưa bàn tay đi găng lên quệt mặt, nhưng vẫn không nhìn thấy đường, mặc dù nó có mang theo trên xe trượt những hai chiếc đèn bão. Không có đường nào cả, chỉ có tuyết. Nhưng con Lukas đã đến Mariannelund nhiều lần. Có thể sâu thẳm trong trí nhớ loài ngựa của nó, nó biết đại khái con đường sẽ chạy như thế nào. Lukas lại rất dẻo dai và ngoan cường, đích thực là một con ngựa mà người ta dám cùng xông pha trong bão tuyết! Họ cứ thế từ từ tiến lên. Sau mỗi lần cỗ xe bị sa lầy trong tuyết, là lại có một cú giật mạnh. Chốc chốc Emil lại phải xuống xe, lấy xẻng xúc bớt tuyết. Emil khỏe như một con bò mộng và đêm đó nó đã xúc cơ man là tuyết, khiến nó không bao giờ quên.
- Người ta sẽ trở nên mạnh mẽ khi buộc phải thế, - Emil bảo con Lukas.
Chắc chắn rồi, Emil rất khỏe và trong những dặm đường đầu tiên mọi việc khá suôn sẻ, nhưng càng về sau càng khó khăn, phải, rồi mọi việc trở nên thật sự tệ hại cho Emil. Lúc này nó đã thấm mệt, cái xẻng mỗi lúc như càng nặng hơn trên tay nó, nó không còn có thể xúc hùng hục như ban nãy nữa. Emil rét run, tuyết chui vào ủng khiến các ngón chân nó tê cứng lại, các ngón tay đau buốt vì lạnh, tai cũng cóng, mặc dù nó đã quấn quanh mũ một chiếc khăn len, để gió khỏi thổi bay mất tai. Tất cả cộng lại quả thật tệ hại và Emil dần dần đánh mất dũng khí. Bố đúng là có lý khi nói:
- Không thể được. Emil ạ, tự con biết là không thể được mà!
Lukas cũng đuối sức dần. Mỗi lúc con ngựa càng khó nhọc hơn khi phải lôi cỗ xe bị sa lầy trong tuyết. Cuối cùng xảy ra điều mà Emil lo sợ suốt nãy giờ. Cỗ xe bỗng sụt nghiêng đi, và Emil biết cả bọn đang sa xuống rãnh.
Phải, họ đang ở dưới rãnh và mắc kẹt ở đó. Dù con Lukas ra sức kéo, còn Emil thì cố hết sức mà đùn đẩy chảy cả máu mũi, vẫn chẳng ích lợi gì. Cỗ xe vẫn đứng lì tại chỗ.
Thế là Emil nổi cơn tức giận, nó tức điên lên với tuyết, với cỗ xe, với cái rãnh và nói chung với tất cả tình cảnh khốn khổ này, tới mức nó gần như mất trí. Emil rú lên một tiếng ghê rợn, nghe như tiếng rú nguyên thủy. Con Lukas giật mình sợ hãi và có lẽ cả chú Alfred cũng thế, nếu chú còn sống. Emil tự nghe cũng phát hoảng và đang hú bỗng im bặt.
- Chú còn sống đấy chứ, chú Alfred? - nó sợ hãi hỏi.
- Không, chắc chú chết rồi, - chú Alfred đáp với giọng khàn khàn kỳ dị và đáng sợ.
Và thế là cơn tức giận bay biến khỏi Emil, chỉ nỗi buồn còn lại. Nó cảm thấy đơn độc. Cho dù chú Alfred còn nằm trong xe sau lưng nó kia, nó vẫn hoàn toàn đơn độc và chẳng có ai giúp đỡ. Lúc này nó không còn biết phải làm gì. Nó chỉ ước gì được nằm vùi trong tuyết để ngủ và quên hết sự đời.
Nhưng gần đâu đây có một trang trại. Chính là cái trang trại mà Emil đặt cho cái tên là trang trại Bánh Rán. Và đột nhiên Emil trông thấy một ánh lửa, một tia hy vọng lóe lên trong nó.
- Để cháu đi gọi người tới giúp, chú Alfred, - nó nói.
Nhưng chú Alfred không trả lời. Emil vội lên đường. Nó vất vả vượt qua những hố những đụn tuyết lồi lõm, để rồi rốt cuộc, khi nó đến được cửa chuồng bò thì trông nó giống như một hình nhân đắp bằng tuyết hơn bất cứ thứ gì khác.
Chính ông chủ trang trại Bánh Rán đang ở trong chuồng bò. Ông ta khá kinh ngạc khi trông thấy thằng bé của trang trại Katthult đứng trên ngưỡng cửa, người phủ đầy tuyết, máu mũi nhoe nhoét, nước mắt đầm đìa. Phải, Emil đã khóc, nó không thể làm khác, nó biết lôi được ông chủ trang trại Bánh Rán ra trời tuyết giữa lúc này thật chẳng dễ dàng gì. Ông ta thật khó chịu, cái ông nông dân này, nhưng hẳn ông ta nhận thấy mình không thể không giúp đỡ. Thế là ông mang theo ngựa, những sợi chão và mấy cái chăn cũ và lôi được cỗ xe trượt lên khỏi cái rãnh, mặc dù suốt thời gian đó ông ta rất bực tức và cứ càu nhàu luôn mồm.
Giá cái ông chủ trang trại Bánh Rán là người tử tế hơn một chút thì chắc ông ta đã tìm cách tiếp tục giúp Emil đến tận Mariannelund. Nhưng ông ta không làm thế, nên Emil và con Lukas đành tiếp tục cuộc hành trình tuyệt vọng và không chút an ủi xuyên qua bão tuyết của mình. Chúng cũng chẳng còn có thể làm gì hơn. Tất nhiên cả hai cứ liên tục gắng thêm chút nữa, thêm chút nữa, nhưng chúng đã quá kiệt sức nên chỉ nhích được tý một như rùa bò. Cuối cùng thì Emil đành đầu hàng. Nó không thể cố nổi nữa. Nó thậm chí không còn đủ sức nhấc cái xẻng lên.
- Cháu chịu rồi, chú Alfred, - Emil nói và òa khóc.
Chỉ còn vài cây số nữa là đến Mariannelund, vì vậy nên thật đau khổ khi phải đầu hàng chính vào lúc đã gần tới đích.
Không nghe chú Alfred ư hữ gì. Chắc chú ấy chết rồi, Emil nghĩ. Con Lukas cúi đầu đứng đó, trông như thể đang xấu hổ. Con ngựa cũng đã kiệt sức.
Emil trèo lên ghế xà ích. Nó cứ ngồi đó mà khóc khe khẽ, tuyết phủ kín người nó và nó không động đậy. Bây giờ tất cả thế là hết, tuyết cứ việc rơi bao nhiêu cũng mặc, nó không quan tâm nữa. Emil nhắm mắt lại, muốn ngủ. Nó có thể ngồi ngủ ngay trên ghế xà ích này, dưới trời tuyết mịt mù này, nếu được thế thì hay quá, nó nghĩ.
Nhưng thật ra không có tuyết lẫn mùa đông. Thật ra đang mùa hè đấy chứ. Emil cảm thấy như thế, vì nó đang cùng chú Alfred tắm dưới hồ ở trang trại Katthult.
Và chú Alfred muốn dậy Emil bơi. Chú Alfred ngốc nghếch, chẳng lẽ chú không biết Emil đã biết bơi hay sao? Chính chú đã dạy cho nó cách đây nhiều năm, chú quên rồi sao? Emil phải cho chú biết nó bơi giỏi thế nào mới được. Thế rồi hai chú cháu cứ bơi cùng nhau... Thế rồi hai chú cháu cứ bơi cùng nhau, bơi cùng nhau mãi, càng lúc càng bơi ra xa và vẫy vùng dưới nước mới tuyệt làm sao! Emil bảo: “Hai chú cháu mình, chú Alfred!”, rồi chờ đợi chú Alfred trả lời như xưa nay vẫn thế: “Đúng, hai chú cháu mình, Emil, phải như thế chứ!”. Nhưng thay vì vậy nó lại nghe tiếng chuông. Không thể thế được! Khi đang bơi giữa hồ thì làm gì có tiếng chuông nào.
Emil khó nhọc dứt mình ra khỏi giấc mơ, khó nhọc mở mắt. Và kia nó trông thấy một chiếc xe ủi tuyết! Giữa màn tuyết quay cuồng nhô ra chiếc xe ủi tuyết. Phải, đúng là chiếc xe ủi tuyết đến từ Mariannelund. Bác tài lái chiếc xe cứ trố mắt nhìn Emil, như thể bác ta đã trông thấy một con ma, chứ không phải thằng bé mình phủ đầy tuyết đến từ trang trại Katthult của làng Lönneberga vậy.
- Đường từ đây đến Mariannelund thông rồi hả bác? -Emil hồi hộp hỏi.
- Ừ, bác tài đáp lớn, - nếu cháu nhanh nhanh lên. Nửa giờ nữa chắc chắn sẽ lại đầy tuyết đấy.
Nhưng nửa giờ nữa là đủ với Emil.
Phòng chờ chỗ bác sĩ đông kín người khi Emil mở toang cánh cửa. Đúng lúc ông bác sĩ thò đầu ra từ phòng khám, xem ai sẽ là người tiếp theo. Nhưng Emil đã la lên:
- Chú Alfred đang nằm trên xe trượt ngoài kia và đang hấp hối!
Ông bác sĩ không phải kẻ ngốc. Ông lập tức lôi theo vài người đàn ông đang ngồi trong phòng chờ ra chỗ xe trượt và khiêng chú Alfred vào, đặt chú nằm lên bàn mổ. Vừa lướt mắt nhìn chú Alfred, ông bác sĩ đã kêu lên.
- Mọi người về nhà cả đi! Giờ tôi bận việc khác rồi.
Emil đã tưởng chỉ cần chú Alfred đến được chỗ ông bác sĩ là chú sẽ khỏe lại tức thì. Nhưng lúc này, khi nhìn thấy ông bác sĩ lắc đầu na ná như bà Krösa-Maja, Emil phát hoảng. Ngộ nhỡ không có cách gì cứu nổi chú Alfred nữa - ngộ nhỡ tất cả đều vẫn quá muộn? Emil cảm thấy đau đớn hơn là nó hình dung. Vừa khóc nức nở, nó vừa nghẹn ngào van xin ông bác sĩ:
- Cháu xin biếu ông con ngựa của cháu, nếu ông chữa khỏi cho chú ấy... và cả con lợn của cháu nữa. Chỉ cần ông chữa khỏi cho chú ấy! Ông tin ông sẽ làm được chứ ạ?
Ông bác sĩ nhìn Emil hồi lâu.
- Ta sẽ làm tất cả những gì có thể, nhưng ta không hứa gì hết!
Chú Alfred cứ nằm đó, không chút biểu hiện của sự sống. Nhưng đột nhiên chú mở mắt và ngỡ ngàng nhìn Emil.
- Cháu đấy à, Emil! - chú nói.
- Đúng, Emil đấy, - ông bác sĩ đáp. - Nhưng bây giờ tốt hơn là để thằng bé đi ra ngoài một lúc, vì tôi phải mổ cho cậu, Alfred ạ.
Có thể đọc được nỗi sợ hãi trong mắt chú Alfred, vì xưa nay các ông bác sĩ và chuyện mổ xẻ rất xa lạ với chú.
- Cháu nghĩ là chú ấy hơi sợ, - Emil nói. - Có lẽ tốt nhất là cháu nên ở lại bên chú ấy.
Ông bác sĩ gật đầu.
- Ừ, cháu đã đưa được cậu ấy đến đây, thì chắc cháu cũng sẽ vượt qua được chuyện này.
Thế là Emil cầm lấy bàn tay lành lặn của chú Alfred mà nắm thật chặt, trong khi ông bác sĩ mổ bàn tay bên kia. Chú Alfred không kêu một tiếng nào. Chú không rên la, cũng không khóc - chỉ có Emil là khóc một chút, nhưng khóc khẽ tới mức không ai nghe thấy.
Một ngày trước ngày Chúa Giáng sinh Emil mới cùng chú Alfred trở về nhà. Lúc bấy giờ cả làng Lönneberga đều biết đến hành động anh hùng vĩ đại của Emil và ai nấy đều tung hô nó.
- Cái thằng bé ở trang trại Katthult đó tôi đã luôn luôn quý mến mà, - tất cả cùng nói. - Tôi không hiểu nổi tại sao một số người lại cứ luôn ca cẩm về nó! Trên đời này làm gì có thằng bé nào không nghịch ngợm một chút cơ chứ!
Ngoài ra Emil còn cầm về cho bố mẹ một bức thư của ông bác sĩ. Trong thư có đoạn viết:
“Ông bà có một cậu con trai mà ông bà có thể tự hào”.
Còn mẹ Emil thì ghi vào cuốn vở màu xanh:
“Lạy Chúa, trái tim người mẹ tội nghiệp của con, trái tim từng bao lần tuyệt vọng khi nghĩ về Emil, giờ mới được an ủi làm sao! Và con sẽ có cách để cả làng cả xã này biết về việc làm tốt đẹp của thằng bé!”
Nhưng mà ôi chao, những người ở trang trại Katthult đã trải qua những ngày đầy lo âu. Vào cái buổi sáng kinh khủng đó, khi họ phát hiện ra Emil và chú Alfred đều biến mất, thì bố Emil phát hoảng tới mức lên cơn đau bụng và phải vào giường nằm. Ông cứ ngỡ suốt đời này sẽ chẳng còn được trông thấy Emil. Nhưng rồi tin tốt lành từ Mariannelund đã làm ông bình tâm lại. Tuy vậy cho tới lúc Emil trở về và chạy ào vào buồng ngủ để báo cho bố là mình đã lại ở nhà, thì ông vẫn còn đau bụng.
Bố Emil nhìn Emil, hai mắt ông sáng lấp lánh.
- Emil, con là một cậu bé tốt, - ông nói, và Emil sung sướng tới mức tim nó như muốn nhảy khỏi lồng ngực. Đây đúng là một trong những ngày mà Emil cảm thấy yêu bố.
Mẹ Emil đứng bên cạnh, phấn khích vì tự hào.
- Phải, Emil của chúng ta thật là ngoan, - mẹ nói và vuốt ve mái tóc bồng bềnh của Emil.
Bố Emil chườm bụng bằng một cái vung nồi nóng, khiến cơn đau giảm đi rõ rệt. Nhưng cái vung đã nguội ngắt và cần được làm cho nóng lại.
- Để con, con làm được, - Emil hăng hái kêu lên, - bây giờ con đã quen chăm sóc người ốm rồi.
Bố Emil gật đầu công nhận.
- Còn mình, mình có thể mang cho tôi một li nước quả ép, - bố bảo mẹ. Phải, lúc này ông ấy cảm thấy mình đúng là sung sướng, khi cứ việc nằm một chỗ và chẳng cần phải lo lắng gì!
Nhưng mẹ Emil còn bận chút việc khác, một lúc sau bà mới ép xong nước quả, và đúng lúc vừa rót nước quả vào li, bà nghe một tiếng rú ghê hồn vọng ra từ buồng ngủ. Đó là bố Emil rú. Không chần chừ một giây, mẹ Emil chạy vào buồng ngủ, và ngay khoảnh khắc đó cái vung nồi bay vèo về phía bà. Bà kịp nhảy né sang bên, nhưng trong cơn hoảng sợ bà đánh rơi li nước quả xuống cái vung dưới sàn nhà, khiến nước bốc hơi xèo xèo.
- Con trai bất hạnh của mẹ, con đã nướng cái vung nóng tới mức nào vậy? - Mẹ hỏi Emil lúc đó đứng ngơ ngác như trời trồng.
Té ra trong lúc Emil đang nướng nóng cái vung trong bếp thì bố Emil đã thiếp đi. Khi quay vào buồng ngủ, thấy bố đang ngủ ngon lành, tất nhiên Emil không muốn đánh thức bố dậy, nên đã cẩn thận luồn cái vung vào dưới chăn, để lên bụng bố. Phải, cố nhiên là thật đen đủi khi cái vung lại quá nóng.
Mẹ Emil làm mọi cách để bố bình tĩnh trở lại.
- Vâng, vâng, vâng, em sẽ đem ngay kem bôi bỏng lên cho mình đây, - mẹ nói.
Nhưng bố Emil vùng dậy khỏi giường. Ông không đủ tự tin để tiếp tục ốm, một khi Emil đã ở nhà, ông nói, hơn nữa ông cũng muốn chào chú Alfred.
Chú Alfred ngồi trong bếp, trông khá xanh xao với một cánh tay quấn băng, nhưng vẻ mặt hồ hởi và hài lòng. Cô Lina thì cứ tíu tít lăng xăng quanh chú. Cô và bà Krösa-Maja đang dở tay đánh các đồ đồng. Cho tới ngày Giáng sinh tất cả nồi niêu xoong chảo đều phải sạch sẽ và bóng lộn. Nhưng cô Lina không sao đứng yên được. Tay cầm giẻ, tay cầm cái liễn đựng bánh bằng đồng, cô cứ chạy quanh chú Alfred và phởn phơ như thể cô vừa bất ngờ tìm thấy một mỏ vàng trong bếp vậy. Nãy giờ bé Ida cũng không rời mắt khỏi chú Alfred. Nó nhìn chú chăm chú và nghiêm nghị đến mức có cảm giác nó không biết chắc có đúng chú Alfred vừa về đến nhà là chú Alfred trước đây không.
Bà Krösa-Maja được dịp nói một thôi một hồi về chứng nhiễm trùng máu, nói hăng tới mức sùi cả bọt mép. Chú Alfred nên lấy làm mừng vì đã thoát hiểm, bà nói.
– Nhưng cậu cũng đừng có mà tự mãn thái quá, vì cậu thấy đấy, nhiễm trùng máu là căn bệnh cực kỳ tệ hại và nó vẫn còn ở trong cơ thể, còn lâu mới hết. Cho nên ngay một người đã khỏi bệnh thì rất lâu sau vẫn có thể bị lại, thật đấy, đúng là như thế đấy.
Tối đó ở trang trại Katthult thật là vui vẻ đầm ấm. Mẹ Emil khao món xúc xích mẹ mới làm, thế là thành một bữa tiệc xúc xích thực thụ. Cả nhà ngồi quây quần với tâm trạng cực kỳ vui vẻ và hạnh phúc trong gian bếp đầy không khí Giáng sinh: Emil, bố, mẹ, cô Lina, bé Ida, chú Alfred và bà Krösa-Maja. Phải, đó là một tiệc Giáng sinh nho nhỏ đích thực với những ngọn nến lung linh trên bàn ăn và đủ các thức kèm theo. Sau đó phải kể đến món xúc xích ngon tuyệt mới được chiên ròn, vàng rộm, ăn cùng với nước xốt phúc bồn tử. Chú Alfred ăn đặc biệt nhiều, cho dù với chú, phải ăn bằng một tay cũng hơi khó. Cô Lina nhìn chú đầy âu yếm và cô bỗng sực nhớ một chuyện trọng đại.
- Phải rồi, anh Alfred, bây giờ anh không bị nhiễm trùng máu nữa! Vậy sang xuân chúng mình cưới nhau, anh nhá?
Chú Alfred hoảng tới mức giật thót cả người, đánh rơi bao nhiêu nước xốt phúc bồn tử xuống quần.
- Tôi không hứa, - chú nói. - Tôi vẫn còn một ngón tay cái, và ai dám bảo đảm rằng tôi lại không bị nhiễm trùng máu lần nữa với ngón tay cái còn lại?
- Nhưng khi đó thì chú Alfred ơi, cháu sẽ đem chú ra chôn ở phía Bắc tòa nhà chính, - Emil nói. - Cháu sẽ làm thế, vì cháu sẽ không tha lôi chú đến Mariannelund thêm một lần nữa đâu.
Bà Krösa-Maja tức giận lườm Emil.
- Phải, người ta có thể mang tất cả mọi chuyện ra mà đùa cợt, tôi biết rồi, - bà tự ái nói.
Lúc này, khi mọi người ngồi thoải mái trong ánh nến Giáng sinh và không khí có phần hơi long trọng, mẹ Emil mới rút bức thư từ trong túi tạp dề ra và đọc to những gì ông bác sĩ đã nói về Emil. Nếu tất cả mọi người nghe thêm một lần nữa thì cũng có hại gì đâu, bà nghĩ.
Khi bà đọc xong, không ai nói gì. Không khí trở nên im lặng vì những lời lẽ vô cùng tốt đẹp và ý nghĩa của bức thư. Cuối cùng bé Ida lên tiếng:
- Thư nói về anh đấy, anh Emil!
Nhưng Emil thấy ngượng nghịu và chẳng biết nên quay sang ai nữa. Tất cả mọi người đều nhìn nó và nó thì không thích thế, nên cứ ương bướng nhìn đăm đăm ra cửa sổ. Nhưng nhìn ra cửa sổ cũng chẳng vui vẻ gì cho lắm, vì nó thấy tuyết lại rơi, và nó biết rõ sáng sớm mai ai sẽ phải xúc tuyết.
Thế là Emil lại lấy xúc xích ăn. Khi ăn, nó cứ cụp mắt xuống và chỉ ngước lên liếc nhanh đúng một lần, xem mọi người có còn nhìn mình nữa không.
Ít nhất thì mẹ Emil vẫn đang nhìn nó. Mẹ không thể rời mắt khỏi thằng con yêu quý. Trông thằng bé sao mà đáng yêu với đôi má hồng hào, mái tóc bồng bềnh và đôi mắt xanh dịu dàng, phải, trông nó như một thiên thần bé nhỏ trong lễ Giáng sinh, mẹ nghĩ.
Hơn nữa bây giờ mẹ lại có trong tay khẳng định của ông bác sĩ bằng giấy trắng mực đen hẳn hoi, rằng mẹ có quyền tự hào về con trai mình.
- Lạ thật, - mẹ nói. - Đôi lúc nhìn Emil, em lại cứ nghĩ rồi ra nó sẽ làm nên lắm.
Bố Emil ngờ vực nhìn mẹ.
- Làm nên cái gì chứ? - ông ngạc nhiên hỏi.
- Chà, em làm sao biết được? Có lẽ... nó sẽ làm chủ tịch hội đồng xã, hoặc chức gì na ná như thế.
Thế là cô Lina phá lên cười:
- Không có lẽ nào người ta cần một chủ tịch hội đồng xã chuyên bày trò nghịch ngợm!
Mẹ Emil nghiêm khắc nhìn cô, nhưng không nói gì mà chỉ bực bội khẽ khoát tay ra hiệu mời cả nhà tiếp tục dùng xúc xích.
Emil lấy thêm một ít xúc xích vào đĩa và trong khi từ tốn rót nước xốt phúc bồn tử lên xúc xích nó suy nghĩ về điều mẹ vừa nói. Nếu sau này nó có trở thành chủ tịch hội đồng xã thật - thì có lẽ cũng chẳng đến nỗi nào! Thì cũng phải có ai đó làm chủ tịch hội đồng xã chứ.
Rồi nó lại trăn trở về điều cô Lina nói. Nếu nó trở thành chủ tịch hội đồng xã chuyên bày trò nghịch ngợm... thì nó có thể nghĩ ra trò gì đây? Emil rót sữa vào cốc của mình và tiếp tục trăn trở... trò nghịch ngợm của chủ tịch hội đồng xã chắc phải hơn hẳn, hơn xa những trò nghịch ngợm thông thường khác rồi, không thể dễ dàng nghĩ ra như trở bàn tay được. Emil đưa cốc sữa lên mồm định uống, nhưng đúng khoảnh khắc đó nó lại nghĩ ra một trò nghịch ngợm hết ý. Nó bèn phì một cái rõ mạnh, khiến sữa - như mọi khi - lại bắn qua bàn văng hết vào người bố.
Mặc dù vậy bố Emil không bực tức lắm. Ai lại đi mắng mỏ một người đã được ông bác sĩ ca ngợi hết lời như thế, hơn nữa người đó lại vừa có được một hành động anh hùng đến vậy, bố Emil chỉ chùi sữa đi và hơi làu bàu:
- Đó, dù sao cũng rõ ngay là ai đã trở về cái nhà này!
- Mình không được nói năng như thế chứ, - mẹ Emil nói đầy trách móc.
Bố Emil bèn im lặng và đắm chìm trong suy nghĩ về thằng con trai và tương lai của nó.
- Chuyện Emil sẽ trở thành chủ tịch hội đồng xã thì tôi nghi ngờ, - cuối cùng ông nói. - Nhưng chắc chắn rồi ra nó có thể trở thành một gã trai đàng hoàng tử tế, nếu nó vẫn sống và khỏe mạnh và nếu Chúa muốn vậy.
Mẹ Emil gật đầu tán thành.
- Phải, phải, nếu Chúa muốn vậy!
- Và nếu anh Emil muốn vậy, - bé Ida thêm vào.
Emil mỉm cười hiền lành.
- Để rồi xem, - nó nói, - để rồi xem!
Thế rồi trời tối, và đêm đó tất cả mọi người đều ngủ trong an lành, còn tuyết thì cứ rơi trên trang trại Katthult, khắp làng Lönneberga và khắp vùng Smăland.
Ồ không, không đâu! Bạn không cần phải sợ, ông bác sĩ không lấy đi của Emil con Lukas và Nhóc Lợn đâu!

Hết

2 nhận xét:

  1. Có phải tên khác của truyện là "Emil ở làng Lonneberga"?
    "Nhưng chắc chắn rồi ra nó có thể trở thành một gã trai đàng hoàng tử tế, nếu nó vẫn sống và khỏe mạnh và nếu Chúa muốn vậy. "
    -Trái tim nhân hậu của Astrid Lindgren nhìn trẻ thơ với đầy đủ sự phong phú và trong sáng- và bà luôn tin vào thiện lương của trẻ nhỏ.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Đọc những tác phẩm viết về thiếu nhi, cho thiếu nhi của các tác giả nước ngoài như “Tom Sawyer”, “Gia đình Lily”, “Nhóc Emil”, “Pippi tất dài”, “Totto - chan cô bé bên cửa sổ” rồi so sánh cung cách đối xử với trẻ em của đa số người dân Việt ngay ở hôm nay… Thì có lẽ ta cũng thấy quan niệm về trẻ em và cung cách đối xử với trẻ em là một nguyên nhân để dân tộc VN mãi chưa trưởng thành.

      Xóa