Câu chuyện tình yêu
(Love Story)
Tác giả: Erich Segal
Dịch giả: Hoàng Cường
Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới - 1987
Chương 12
Nếu có thể chỉ dùng một từ mà mô tả cuộc sống
của hai vợ chồng chúng tôi trong ba năm đầu chung sống đó là từ “chắt bóp”.
Trong cuộc sống đó, hễ tỉnh dậy là chúng tôi cùng nghĩ đến cách làm sao có đủ
tiền để làm những việc mà chúng tôi không thể đừng. Nói chung là cố gắng lắm
thì may ra vừa đủ.
Cuộc sống đó chẳng có gì là thơ mộng đâu. Chắc các bạn còn
nhớ đoạn thơ bốn câu nổi tiếng của Omar Khayyam chứ ? Một tập thơ dưới lùm cây,
một ổ bánh mì, một vò rượu vang, vân vân ? Các bạn hãy thay tập thơ bằng cuốn
“Scott nói về các tờ-rớt” và thử tưởng tượng cách nhìn nên thơ đó có tác dụng
gì đối với cuộc sống của tôi. Thiên đường chăng? Tôi chẳng cần biết. Tôi chỉ muốn
biết là giá cuốn sách đó bao nhiêu (có thể may ra kiếm được ở một cửa hàng sách
cũ nào không) và mua chịu được ở đâu bánh mì và rượu vang “nên thơ” kia không.
Rồi sau đó có thể bớt xén được những khoản chỉ tiêu nào để lấy tiền trả nợ.
Cuộc sống thay đổi. Có lúc mà những quyết định
đơn giản nhất cũng phải đưa ra thông qua Ủy ban ngân sách lúc nào cũng họp thường
trực trong đầu chúng tôi.
“- Anh Oliver này, tối nay đi xem Backhet đi.
- Thế là ba đôla.
- Anh bảo sao ?
- Một đôla rưỡi cho em và một đôla rưỡi cho anh.
- Có nghĩa là đi hay không nào ?
- Không có nghĩa là đi hay không. Chỉ có nghĩa là ba đôla, thế
thôi”.
Chúng tôi hưởng tuần trăng mật trên một chiếc
thuyền buồm với hai mươi mốt đứa trẻ. Nói cụ thể hơn là: tôi thì điều khiển một
chiếc thuyền buồm Rode dài 11 mét, từ bảy giờ sáng cho đến khi nào các khách đi
thuyền của tôi phát chán thì thôi, còn Jenny thì làm cô trông trẻ. Tuần trăng mật
đó diễn ra ở một nơi tên là Nhà thuyền Pequod tại Denis Port (không xa Hyannis
bao nhiêu). Denis Port là một quần cư gồm một khách sạn lớn, một bến tàu nhỏ
xíu và vài chục nếp nhà cho thuê. Bên ngoài một trong những ngôi nhà gỗ nhỏ nhất,
tôi treo một tấm biển tưởng tượng: “Ở đây Jenny và Oliver đã chung sống với
nhau”. Tôi cho rằng sau suốt một ngày phải ân cần tử tế với các khách hàng nhỏ
xíu của tôi, - vì nguồn thu nhập của chúng tôi chủ yếu thuộc vào họ - Jenny và
tôi vẫn còn có thể tử tế ân cần được với nhau thì phải nói là giỏi. Tôi chỉ nói
“tử tế ân cần” thôi, vì tôi không tìm ra từ ngữ để miêu tả việc yêu Jennyfer
Cavilleri và được nàng yêu lại là như thế nào. Ấy xin lỗi, tôi muốn nói là
Jennifer Barrett.
Trước khi lên đường đi hưởng tuần trăng mật
tại Denis Port chúng tôi đã tìm được một căn nhà rẻ tiền ở Cambridge Bắc tuy rằng
về mặt kỹ thuật, địa chỉ thì ghi là khu Somerville và nhà thì nói như Jenny: “ở
vào tình trạng không thể sửa chữa được”. Ban đầu nhà này xây cho hai gia đình,
nhưng bây giờ thì được chuyển thành bốn căn hộ, với giá cho thuê cắt cổ tuy được
gọi là “rẻ”. Nhưng kén chọn thế nào được đối với sinh viên mới ra trường trong
khi nhà cho thuê thì ít mà người thuê thì nhiều ?
- Anh Olie, tại sao nhà chức trách không đến
ra lệnh cấm ở tại căn nhà ọp ẹp này ?
- Có lẽ vì họ sợ không dám đặt chân đến.
- Em cũng thế.
- Hồi tháng Sáu em có sợ đâu.
(Cuộc đối thoại diễn ra trong tháng Chín,
khi chúng tôi đi nghỉ về).
- Tháng Sáu em chưa lấy chồng. Nay đã thành
người đàn bà có chồng, em coi chỗ này là nguy hiểm.
- Thì em định làm gì ?
- Nói với chồng em, chồng em sẽ lo liệu.
- Em nói đi, anh là chồng em đây, - tôi bảo
nàng.
- Thật không... Anh hãy chứng tỏ anh là chồng
em xem nào.
- Em bảo sao... - Tôi hỏi, trong bụng nghĩ:
“Ấy đừng! Đừng ở ngoài phố!”
Nàng nói tiếp:
- Anh hãy bế em qua bậc cửa đi.
- Em không tin những trò mê tín vớ vẩn này
chứ ?
- Anh cứ bế em đi, em sẽ quyết định tin hay
không sau.
Thôi được. Tôi bế nàng, lên năm bậc thềm đến
tận cửa:
- Sao anh dừng lại! - Nàng hỏi.
- Đây chẳng phải là bậc cửa rồi ư ?
- Không phải, không phải.
- Anh thấy tên hai chúng mình ghi bên cạnh
nút bấm chuông kia kìa.
- Đây chưa phải là bậc cửa chính thức. Bế
em lên tầng một, anh lười.
Đến chỗ ở “chính thức” của vợ chồng chúng
tôi là phải leo hai mươi bốn bậc nữa. Tôi phải dừng lại gần nửa chừng để lấy
hơi. Tôi hỏi nàng:
- Sao em nặng thế ?
- Anh không nghĩ là em có thể có mang à ?
Ý nghĩ ấy không giúp gì tôi lấy lại hơi.
Mãi sau tôi mới nói được:
- Em có mang đấy à ?
- A ha! Anh sợ, phải không...
- Đâu có.
- Không dối được em đâu.
- Ừ, đúng. Anh có hoảng, trong một giây
thôi.
Tôi bế nàng nốt đoạn đường còn lại.
Đó là một trong những giây phút hiếm hoi và
quý báu mà tôi nhớ là không dính dáng đến cái từ “chắt bóp”.
*
* *
Cái tên lừng lẫy của tôi cho phép vợ chồng
tôi được mua ghi sổ nợ ở một cửa hàng thực phẩm mà ông chủ thường không bao giờ
bán chịu cho sinh viên. Ngược lại, chính cái tên ấy lại hại chúng tôi ở chỗ
chúng tôi ít ngờ tới nhất: tại trường Shady Lane nơi mà Jenny sẽ đến đây dạy học,
Ann Miller Whitman, bà hiệu trưởng nói với vợ tôi:
- Tất nhiên trường Shady Lane chúng tôi
không có khả năng trả lương cho các cô giáo như ở các trường công.
Rồi bà nói thêm là dù sao cũng không nghĩ
những người trong dòng họ Barrett lại quan tâm đến “khía cạnh này” của vấn đề.
Jenny cố tìm cách xua tan những ảo tưởng của
bà ta, nhưng ngoài ba nghìn năm trăm đô la một năm mà nhà trường đã đề xuất,
nàng chỉ nhận được thêm khoảng hai phút “hô, hô, hô” của bà hiệu trưởng. Bà
Whitman thấy ý kiến của Jenny nói rằng vợ chồng nhà Barrett phải trả tiền thuê
nhà như bất cứ ai thật là khôi hài.
Khi Jenny đã kể lại với tôi chuyện ấy, tôi
đưa ra một vài gợi ý về những gì mà bà Whitman có thể làm được với ba nghìn năm
trăm đô la, hô, hô, hô của bà ta. Thấy thế, Jenny hỏi liệu tôi có sẵn sàng bỏ
trường luật để kiếm sống nuôi nàng trong khi chờ đợi nàng qua những kỳ thi cần
thiết để vào dạy ở trường công không. Tôi suy nghĩ rất nghiêm túc trong hai
giây đồng hồ về toàn bộ tình hình và đi đến một kết luận vừa ngắn gọn vừa chính
xác:
- Mẹ kiếp.
- Một câu khá hùng hồn.- vợ tôi bảo.
- Chứ em chờ anh nói gì, Jenny. Hô, hô, hô
à ?
- Không đâu. Anh hãy chịu khó tập thích món
mì ống Ý, thế thôi.
*
* *
Tôi nghe theo lời nàng. Tôi tập ưa thích
món mì ống còn Jenny tập làm quen với tất cả những cách nấu nướng có thể tưởng
tượng được để làm cho món mì có cái vẻ gì khác chứ không phải là mì suông. Với
chút tiền đã kiếm trong kỳ hè cộng với đồng lương của Jenny và khoản thu nhập dự
kiến của công việc ban đêm mà tôi tính sẽ đến nhận tại bưu điện trong dịp Nôen
thư từ dồn dập, chúng tôi thấy cũng tạm được. Tất nhiên có hàng đống bộ phim mà
chúng tôi không đi xem (và hàng đống buổi hòa nhạc mà Jenny cũng bỏ), nhưng dù
sao chúng tôi cũng thu xếp cuộc sống được tàm tạm.
Nhưng tất nhiên, chúng tôi cố thu xếp tạm tạm
được ở mỗi mặt sinh sống thôi.
Về mặt xã hội, cuộc sống của hai chúng tôi
đã thay đổi hoàn toàn. Chúng tôi vẫn ở Cambridge và trên lý thuyết Jenny có thể
vẫn cứ tham gia tất cả các hội âm nhạc của nàng. Nhưng nàng không có thời giờ. Ở
trường Shady Lane về là nàng đã mệt nhoài rồi, lại còn phải làm bữa tối (đi ăn
hiệu là điều nằm ngoài khả năng hiện thực). Về phía tôi, các bạn bè tôi cũng tế
nhị để chúng tôi yên. Nghĩa là họ không mời mọc gì chúng tôi nữa, cốt để chúng
tôi khỏi phải mời mọc lại họ, các bạn có hiểu ý tôi muốn nói gì không ?
Chúng tôi thậm chí còn bỏ các trận đấu
bóng.
Với tư cách hội viên câu lạc bộ Varsity,
tôi được mua vé ở khu ghế chính giữa, tức là những chỗ rất tốt nhưng cũng rất đắt.
Giá mỗi vé là sáu đôla, tổng cộng là mười hai đôla. Jenny bảo tôi:
- Sai rồi, chỉ sáu đô la thôi. Anh có thể
đi xem một mình, không có em. Em chẳng hiểu gì về bóng đá với bóng đẩy, ngoài
cái điều là có những kẻ la hét ầm ĩ: “Xông lên, xông vào đi! ” Mà anh thì lại
thích những trò ấy, vì thế, em muốn anh cứ đi xem đi!
- Thôi không nói chuyện này nữa.- tôi cắt
ngang vì dù sao tôi là chồng và là chủ gia đình.- Với lại, anh còn dùng thời
gian để học.
Dẫu vậy, các chiều thứ bảy, tôi không thể
không áp chiếc máy thu thanh bán dẫn vào tai, lắng nghe những tiếng reo hò của
các cổ động viên. Về mặt địa lý họ chỉ cách tôi không đến một cây số nhưng đối
với tôi bây giờ họ như sống trên một hành tinh khác.
Tôi dùng các đặc quyền hội viên câu lạc bộ
Varsity của tôi để mua vé trận đấu với trường Yale cho Robbie Walde, một bạn học
ở trường luật. Robbie cảm ơn mãi. Khi anh ta về rồi, Jenny yêu cầu tôi giải
thích một lần nữa những ai có quyền ngồi ở khu ghế đặc biệt dành cho câu lạc bộ
Varsity. Tôi giảng giải lại cho nàng hiểu rằng khu ghế ấy dành cho tất cả những
ai bất kể lứa tuổi, tầm vóc cao thấp hoặc vị trí xã hội, đã phục vụ một cách xuất
sắc thể thao trường Harvard trong các môn. Nàng hỏi tiếp:
- Cả những nhà thể thao trên nước nữa ?
Một nhà thể thao là một nhà thể thao, dù là
khô hay ướt.
- Trừ anh, Oliver ạ. Anh là một nhà thể
thao bị đóng băng rồi.
Tôi chuyển sang vấn đề khác, cho rằng đó chỉ
là một câu châm chọc thông thường của Jenny chứ tôi không muốn nghĩ là có một ẩn
ý gì khác đằng sau câu hỏi của nàng về các truyền thống thể thao của trường
Harvard. Như có thể là nàng ám chỉ một cách tế nhị rằng tuy sân vận động
Soldier Field có tới 54.000 chỗ, nhưng tất cả những cựu vận động viên đều sẽ ngồi
ở cùng khu chúa sừng, tất cả, già lẫn trẻ, cả những vận động viên ướt, khô hoặc
đã đóng băng. Có phải chỉ riêng khoản sáu đô-la làm tôi xa sân vận động những
chiều thứ bảy hay không?
Thôi kệ, nếu Jenny quả thực nghĩ đến chuyện
khác trong đầu thì không nên bàn cãi làm gì.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét