Thị Trấn Tortilla Flat
Tác giả: John Steinbeck
Dịch giả: Lâm Vũ Thao
Nhà Xuất Bản Trẻ - 2012
V
Làm thế nào mà Thánh Francis lật ngược tình thế và phạt
nhẹ Pilon, Pablo và Jesus Maria.
Chiều buông xuống không
ai hay biết như tuổi tác đến với một người hạnh phúc. Một chút vàng len vào
trong nắng. Vịnh trở nên xanh thẳm hơn và lăn tăn sóng chạy vào bờ. Những ngư
dân cô độc tin rằng cá cắn câu nhiều hơn khi triều lên đã rời khỏi những tảng
đá của mình, thế chỗ họ là những người tin rằng cá cắn câu nhiều lúc triều xuống.
Quãng ba giờ chiều, gió đổi
hướng, nhè nhẹ thổi vào từ vịnh, mang theo bao mùi tảo dễ chịu. Những người vá
lưới ở các lô đất trống của Monterey đặt con suốt xuống và quấn thuốc lá. Qua
những con đường trong thành phố, các quý bà phốp pháp mắt ánh vẻ mệt mỏi và từng
trải mà người ta thường thấy trong mắt lợn được những chiếc ô-tô nặng nề vần tới
các buổi tiệc trà và rượu gin ở Khách sạn Del Monte. Trên đường Alvarado, bác
thợ may Hugo Machado treo tấm bảng “Năm Phút Nữa Quay Lại” lên cửa tiệm rồi về
nhà cả ngày. Những tán thông đu đưa chầm chậm, đê mê. Lũ gà mái trong cả trăm
trại gà đều đều ca cẩm về thân phận tệ hại của mình.
Pilon và Pablo ngồi dưới
một bụi hồng dại trong sân quán Torrelli, lặng lẽ uống rượu mặc cho buổi chiều
loang dần trên người như râu tóc mọc.
- Không mang hai ga-lông rượu đến cho Danny cũng tốt,
- Pilon nói. -
Hắn chả biết chừng mực gì khi uống rượu
cả.
Pablo tán thành.
- Danny trông có vẻ khỏe mạnh, - chàng nói, - nhưng chính những người trông khoẻ mạnh là người
mà ta nghe cáo phó mỗi ngày. Như Rudolfo Kelling đấy. Cả Angelina Vasquez nữa.
Tính cách thực tế của
Pilon nhẹ nhàng trỗi dậy.
- Rudolfo ngã xuống cái mỏ đá phía trên Pacific Grove, - chàng nhận xét với vẻ
hơi bất bình. - Angelina thì ăn phải một hộp cá thối. Nhưng, - chàng nói tiếp đầy thiện ý, - tôi biết ý huynh muốn nói
gì. Có khối người chết vì lạm dụng rượu.
* * *
Cả Monterey bắt tay vào sửa
soạn các công việc đặc thù cho buổi đêm. Bà Guttierez thái những miếng ớt nhỏ
cho vào món sốt enchilada [Món bánh mì kẹp
thịt và phó-mát]. Rupert
Hogan, người bán rượu, thêm nước vào ly gin rồi cất đi để dùng sau nửa đêm. Ông
rắc thêm tí tiêu vào món whisky uống lúc chập tối.
Ở sảnh khiêu vũ El Paseo,
Bullet Rosendale mở một thùng bánh quy hình nơ và sắp xếp chúng như sợi dây màu
nâu thô kệch trên những chiếc đĩa to để mời khách. Cửa hàng dược phẩm Place cuộn
mái che lại. Một nhóm người đã ngồi trước bưu điện cả buổi chiều để chào đón bạn
bè giờ chuyển sang nhà ga để xem tàu Del Monte Express từ San Francisco tới. Lũ
mòng biển từ các bãi gần nhà máy cá hộp bốc lên rợp trời, bay về phía những mỏm
đá ngoài biển. Bọn bồ nông bướng bỉnh mổ vào mặt nước ở bất cứ chỗ nào chúng đậu
xuống nghỉ đêm. Trên các thuyền đánh cá, những người Ý cuốn lưới lên bằng những
ống cuốn to. Cô Alma Alvarez bé nhỏ, mới chín mươi tuổi, mang những bó phong lữ
hồng hằng ngày đến tượng Đức Mẹ Đồng Trinh bên tường ngoài của nhà thờ San
Carlos. Trong ngôi làng mộ đạo Tin Lành cạnh Pacific Grove, hội Phụ nữ ái hữu
Ki-tô giáo gặp nhau để uống trà và thảo luận; họ lắng nghe một quý bà nhỏ con
mô tả tình hình tệ nạn và đĩ điếm của Monterey một cách nhiệt tình và đầy màu sắc.
Bà này cho rằng nên có một ủy ban đi thăm viếng những khu này để xem điều kiện
sống thật sự kinh khủng như thế nào. Họ đã bàn luận về tình hình này quá thường
xuyên, giờ là lúc cần những dữ kiện mới.
* * *
Mặt trời xế về hướng Tây,
tỏa một màu cam rực rỡ. Dưới bụi hồng dại trong sân quán Torrelli, Pablo và
Pilon đã dứt điểm ga-lông rượu thứ nhất. Torrelli bước ra khỏi nhà đi ngang qua
sân mà không nhìn các vị cựu khách hàng của mình. Họ đợi tới khi lão đi khuất về
phía Monterey; khi đó Pablo và Pilon đi vào trong nhà, gạ gẫm được thím
Torrelli mời mình bữa tối. Họ vỗ mông thím, gọi thím là “Vịt Phết Bơ” và cợt nhả
với thím, rồi cuối cùng bỏ thím lại, sướng vênh vang và hơi xộc xệch.
Giờ ở Monterey đã là buổi
tối, đèn đã được thắp sáng. Những ô cửa sổ lấp lánh dìu dịu. Trên Rạp hát
Monterey dòng chữ “Lũ trẻ địa ngục - Lũ trẻ địa ngục” cứ nhấp nha nhấp nháy. Một
nhóm nhỏ những người tin rằng cá cắn câu nhiều vào buổi tối chiếm chỗ trên những
tảng đá lạnh lẽo ngoài biển. Một làn sương mỏng mảnh trôi giạt qua những con đường
và lơ lửng quanh các ống khói, mùi gỗ thông cháy dễ chịu lấp đầy không gian.
Pablo và Pilon trở lại bụi
hồng dại ngồi bệt xuống đất, nhưng họ không còn vui vẻ như ban nãy.
- Ở đây lạnh quá, - Pilon nói, chàng nhấp một ngụm rượu cho ấm.
- Ta hãy về nhà, ở đó ấm áp hơn, - Pablo nói.
- Nhưng trong bếp chả có củi.
- Ừ, -
Pablo nói, - hay là huynh mang chỗ rượu kia đi, tôi sẽ gặp lại huynh ở góc đường. - Và chàng đã làm đúng
như thế, khoảng nửa tiếng đồng hồ sau.
Pilon kiên nhẫn chờ đợi,
vì chàng biết rằng có những việc ngay cả bạn bè cũng không thể giúp. Trong khi
chờ, Pilon cẩn thận để mắt canh chừng hướng con đường mà Torrelli đã đi, vì
Torrelli là một người cường tráng mà với lão mọi giải thích cho dù có được cân
nhắc cẩn thận hay thêu dệt đẹp đẽ thế nào đều vô hiệu. Hơn nữa, Pilon biết,
Torrelli có cái lý tưởng phóng đại và hoàn
toàn viển vông của người Ý về quan hệ hôn nhân. Nhưng Pilon nhọc công canh chừng.
Lão Torrelli không hề đột ngột trở về nhà. Một chốc sau Pablo quay lại, Pilon
ngưỡng mộ và thỏa mãn nhận thấy Pablo cắp một bó củi thông từ trong đống gỗ nhà
Torrelli.
Pablo không bình luận gì
về chuyến phiêu lưu gần nhất của mình cho đến khi cả hai đã về tới nhà. Lúc đó
chàng mới lặp lại lời của Danny:
- Rất sinh động, cái con Vịt Phết Bơ ấy.
Trong bóng tối Pilon gật
đầu đồng tình và từ tốn triết lý.
- Hiếm khi nào người ta tìm được mọi thứ trong cùng một chợ - rượu vang, đồ
ăn, ái tình và củi. Chúng ta phải nhớ ơn Torrelli, Pablo, bạn hiền ạ. Ấy là người
mà ta cần kết bạn. Khi nào ta phải kiếm cho lão ấy một món quà nho nhỏ.
Pilon nhóm một đống lửa hừng
hực trong cái bếp bằng gang. Hai người bạn kéo ghế lại gần và hơ hũ trái cây của
mình bên ngọn lửa để sưởi cho rượu ấm lên một chút. Đêm nay ánh sáng trong
phòng có phần thiêng liêng, vì Pablo đã mua một cây nến để thắp cho thánh
Francis. Nhưng một chuyện gì đó đã làm chàng xao lãng trước khi cái kế hoạch
thiêng liêng ấy được thực hiện trọn vẹn. Giờ thì ngọn nến nhỏ cháy thật đẹp
trong vỏ sò, hắt lên tường những cái bóng nhảy múa của Pablo và Pilon.
- Chẳng biết cái tay Jesus Maria ấy đã đi đâu, - Pilon phán.
- Hắn hứa hắn sẽ quay lại từ lâu rồi, - Pablo nói. - Không biết hắn có đáng tin không nữa.
- Biết đâu có chút việc nào đó kìm chân hắn, Pablo. Với cái bộ râu ngô và tấm
lòng tử tế ấy, hắn ta gần như lúc nào cũng gặp rắc rối với đàn bà.
- Não của hắn là não cào cào, - Pablo nói. - Hắn hát, hắn chơi, rồi hắn nhảy. Trong hắn chả có
chút nghiêm túc nào.
Cả hai không phải chờ
lâu. Họ vừa bắt đầu bình rượu thứ hai thì Jesus Maria loạng choạng đi vào.
Chàng ta bám hai bên cửa cho khỏi ngã. Áo chàng rách tươm còn mặt thì đầy máu.
Một bên mắt tím bầm và u tối dưới ánh nến chập chờn.
Pablo và Pilon lao về
phía chàng.
- Ôi bạn hiền của ta! Anh ấy bị thương. Anh ấy ngã từ vách đá xuống. Anh ấy bị
tàu cán qua người.
Không có tí ti giọng châm
biếm nào trong mấy lời ấy, nhưng Jesus Maria nhận ra đó là kiểu châm biếm hiểm
độc nhất. Chàng trừng mắt nhìn họ bằng con mắt hãy còn chút lý trí trong đó.
- Mẹ của hai ngươi là những con bò cái không vú, - chàng phán.
Họ bật ngửa kinh hãi vì lời
rủa tục tằn.
- Bạn của chúng ta mất trí rồi.
- Xương trong đầu anh ấy đã vỡ.
- Rót cho anh ấy chút rượu, Pablo.
Jesus Maria ủ ê ngồi bên
bếp lửa ôm hũ trái cây của mình, trong khi các bạn của chàng kiên nhẫn chờ đợi
lời giải thích về tấn bi kịch. Nhưng Jesus Maria dường như hài lòng với việc để
mặc cho các bạn mù tịt về chuyện không may. Mặc dù Pilon hắng giọng nhiều lần,
và mặc dù Pablo nhìn Jesus Maria bằng con mắt thông cảm và thấu hiểu, Jesus
Maria vẫn ngồi dằn dỗi và chằm chằm nhìn hết bếp lò, rồi đến rượu và ngọn nến
thánh linh, cho đến khi rốt cuộc sự im lặng bất nhã của chàng khiến Pilon cũng
bất nhã tương tự. Về sau, chàng không thể hiểu nổi tại sao mình có thể làm chuyện
ấy.
- Lại mấy tên lính ấy à? - chàng hỏi.
- Ừ, -
Jesus Maria làu bàu. - Lần này chúng nó tới sớm quá.
- Chắc phải tới hai chục thằng thì huynh mới ra nông nổi này, - Pablo bình luận, để
tinh thần của bạn được tốt hơn.
- Mọi người đều biết huynh đánh nhau cừ thế nào mà. - Và Jesus Maria đúng là trông có vui hơn một tí.
- Có bốn thằng, - chàng nói. - Arabella Gross cũng giúp bọn nó nữa. Nàng lấy hòn đá đập vào đầu tôi.
Pilon cảm thấy một cơn
sóng phẫn nộ dâng cao trong lòng.
- Tôi sẽ không nhắc lại cho huynh nghe, - chàng nghiêm nghị nói, - rằng các bạn của huynh đã cảnh báo huynh về cô ả
rác rưởi cá hộp ấy như thế nào. - Chàng băn khoăn liệu chàng đã bao giờ cảnh báo
Jesus Maria chưa, và nhớ ra dường như chàng có cảnh báo.
- Mấy đứa con gái da trắng rẻ tiền này lang sói lắm, bạn hiền ạ. - Pablo xen vào. - Nhưng huynh có đưa cho ả
cái vật bé bé bao quanh không?
Jesus Maria thò tay vào
túi lấy ra cái xu-chiêng màu hồng bằng tơ nhăn nhúm.
- Chưa kịp, - chàng nói. - Tôi chỉ mới đang gần tới lúc ấy; vả lại, bọn tôi còn chưa đi vào rừng.
Pilon khụt khịt mũi và lắc
đầu với một chút ngán ngẩm.
- Huynh đã uống whisky.
Jesus Maria gật đầu.
- Thế whisky ấy từ đâu ra?
- Của mấy tên lính ấy, - Jesus Maria nói. - Chúng giấu dưới một ống cống. Arabella biết chỗ,
và nàng bảo với tôi. Nhưng mấy tên lính ấy bắt gặp bọn tôi cùng cái chai.
Câu chuyện đang dần dần
rõ nét. Pilon thích kiểu thế này. Chuyện gì mà tất tần tật xùy ra nhanh quá thì
chẳng còn hay. Chuyện hay nằm ở những chỗ ỡm ờ mà người nghe phải tự điền vào
chỗ trống bằng kinh nghiệm của mình. Chàng cầm cái xu-chiêng hồng trong lòng
Jesus Maria lên, vuốt ve nó bằng những đầu ngón tay và, mắt chàng trở nên mơ
màng. Nhưng rồi ngay lập tức, cặp mắt ấy sáng rỡ lên.
- Tôi biết rồi, - chàng la lên. - Ta sẽ đưa cái này cho Danny để làm quà tặng bà Morales.
Cả bọn, trừ Jesus Maria,
đều tán thành ý kiến ấy và Jesus Maria cảm thấy mình trở thành thiểu số một
cách vô vọng. Pablo, với sự hiểu biết tinh tế về thất bại này, rót đầy rượu vào
hũ trái cây của Jesus Maria.
Một lát sau, ba người bắt
đầu cười. Pilon kể một chuyện rất buồn cười về điều đã xảy ra với cha chàng. Sự
tươi tỉnh sinh động quay lại với cả hội. Họ hát hò. Jesus Maria biểu diễn một
màn nhảy vặn vẹo để chứng tỏ thương tích của chàng không quá tệ. Trong bình, rượu
dần dần cạn, nhưng trước khi rượu cạn sạch ba người đã buồn ngủ. Pilon và Pablo
loạng choạng về giường, còn Jesus Maria nằm thoải mái trên sàn, cạnh bếp lửa.
Lửa lụi dần. Căn nhà tràn
ngập những âm thanh sâu lắng của giấc ngủ. Căn phòng bên ngoài chỉ có mỗi một
thứ chuyển động. Ngọn lửa hình mũi giáo của ngọn nến thánh linh bập bùng lên xuống
với tốc độ nhanh đến khó tin.
Sau này, ngọn nến nhỏ ấy
khiến Pilon, Pablo và Jesus Maria phải nghĩ ngợi về chuyện đạo đức. Một khúc
sáp nhỏ đơn giản với một sợi dây xuyên qua: Bạn hẳn nói một vật như thế chỉ
tuân theo một số nguyên tắc vật lý nhất định và không gì khác. Bạn hẳn nghĩ rằng
cách vận hành của nó được đảm bảo bởi các nguyên tắc về nhiệt và sự cháy. Bạn
châm bấc; sáp chảy dần; ngọn nến cháy vài giờ đồng hồ, rồi tắt lụi đi, và thế
là hết. Chuyện đến đó là chấm dứt. Chẳng mấy chốc ngọn nến ấy sẽ bị quên lãng,
và rồi, dĩ nhiên, nó chưa hề tồn tại.
Bạn quên mất ngọn nến này
đã được ban phước hay sao? Rằng trong một khoảnh khắc của lương tri hay có lẽ
chỉ vì sự đề cao tôn giáo thuần túy, Pablo đã định dâng nó cho Thánh Francis.
Đây chính là nguyên tắc đưa khúc sáp ấy ra khỏi phạm trù vật lý.
Ngọn nến hướng mũi ánh
sáng của nó lên trời, như một nghệ sĩ tự đốt cháy mình để trở nên thần thánh.
Ngọn nến mỗi lúc một vơi đi. Một cơn gió nổi lên từ bên ngoài, luồn qua các kẽ
hở trên vách. Sáp chảy xuống hai bên. Một tấm lịch bằng lụa, có hình khuôn mặt
một cô gái đáng yêu ngó ra ngoài từ nhụy của một bông hồng đỏ thắm, bị đùa cách
tường hơi xa. Nó chạm vào ngọn lửa. Lửa liếm vào tấm lịch tường rồi lan về phía
trần nhà. Một mảng giấy dán tường bong ra, bắt lửa rồi rơi vào một đống báo.
Trên trời, chư thánh cứ
nhìn với những bộ mặt không thay đổi và không tha thứ. Ngọn nến đã được ban phước.
Nó thuộc về Thánh Francis. Đêm nay Thánh Francis sẽ có cả một ngọn nến lớn ngay
nơi đó.
Nếu có thể đánh giá được
độ sâu của giấc ngủ, thì có thể công bằng mà nói rằng Pablo, kẻ phải chịu trách
nhiệm về đám cháy, ngủ còn say hơn cả hai bạn của chàng. Nhưng vì không có đồng
hồ đo độ say ngủ nào, nên chỉ có thể nói rằng chàng ngủ rất say.
Ngọn lửa bốc lên tường rồi
gặp những lỗ nhỏ trên trần, luồn qua đó mà xuyên vào màn đêm. Căn nhà tràn ngập
tiếng lửa gầm gào. Jesus Maria khó nhọc trở mình và bắt đầu cởi áo khoác trong
khi vẫn ngủ. Bỗng một tàn lửa rơi trúng mặt chàng. Chàng chồm dậy với một tiếng
hét, và bàng hoàng đứng nhìn đám cháy vây bủa quanh mình.
- Pilon, -
chàng rú lên. - Pablo!
Chàng chạy sang phòng bên
kia, kéo các bạn mình ra khỏi giường và đẩy họ ra khỏi nhà. Pilon vẫn còn kịp giơ
mấy ngón tay tóm cái xu-chiêng hồng.
Bọn họ đứng ngoài căn nhà
đang cháy và trông vào cánh cửa mở có rèm bốc lửa phừng phừng. Họ thấy cái bình
để trên bàn hãy còn đến nửa tấc rượu trong đó.
Pilon linh cảm Jesus
Maria có thể anh dũng liều mạng. Chàng gào lên:
- Đừng làm vậy. Nó phải bị cháy, đó là hình phạt đối với bọn ta vì đã bỏ rơi
nó.
Tiếng còi hú dội về phía
bọn họ và tiếng gầm gừ của xe tải leo lên đồi bằng số hai từ sở cứu hỏa ở
Monterey. Những chiếc xe cứu hỏa màu đỏ to đùng đến gần, đèn pha loang loáng
chiếu vào những tán cây thông.
Pilon vội vã ngoảnh sang
Jesus Maria.
- Chạy đi báo cho Danny là nhà anh ấy đang cháy. Chạy mau đi, Jesus Maria.
- Sao huynh không chạy đi?
- Nghe này, - Pilon nói. - Danny không biết huynh là người thuê nhà của anh ấy. Anh ấy có thể hơi giận
Pablo với tôi.
Jesus Maria hiểu ra cái
lô-gich này bèn phóng tới nhà Danny. Căn nhà tối om.
- Danny, -
Jesus Maria gọi. - Danny, nhà huynh đang cháy.
Không có tiếng trả lời.
- Danny! -
chàng lại gọi lần nữa.
Từ nhà bà Morales bên cạnh
một cánh cửa sổ bật lên. Giọng Danny có vẻ bực bội.
- Cậu muốn cái quái gì hả?
- Căn nhà kia của huynh đang cháy, cái nhà Pablo với Pilon đang ở đấy.
Mất một lúc Danny không
đáp. Đoạn chàng hỏi:
- Có sở cứu hỏa ở đó không?
- Có, -
Jesus Maria kêu.
Đến lúc này thì cả bầu trời
được thắp sáng lên. Có thể nghe tiếng gỗ cháy lách cách.
- Hừ, -
Danny nói, - nếu sở cứu hỏa không thể làm được trò trống gì thì Pilon còn mong tôi làm
được cái gì?
Jesus Maria nghe tiếng cửa
sổ đóng sầm lại, chàng quay đầu chạy về phía đám cháy. Chàng biết là gọi Danny
không đúng lúc, nhưng ai mà biết được cơ chứ? Nếu Danny mù tịt về vụ hỏa hoạn,
chàng có thể nổi giận. Dù gì thì Jesus Maria cũng vui vẻ vì đã báo cho Danny.
Giờ thì tội vạ đâu là do bà Morales chịu.
Đó là một căn nhà nhỏ,
gió lùa nhiều, và các bức vách thì tuyệt đối khô ráo. Hẳn là từ khi khu phố Tàu
cũ bị cháy chưa có đám cháy nào khác nhanh và hoàn hảo như thế. Các nhân viên cứu
hỏa ngó qua những bức vách đang bốc cháy, đoạn bắt đầu tưới lên các bụi, cây và
nhà hàng xóm. Trong vòng chưa tới một tiếng đồng hồ căn nhà hoàn toàn biến mất.
Chỉ tới khi đó thì các vòi nước mới được xịt vào đống tro để dập tắt than và
tàn lửa.
Pilon, Pablo và Jesus
Maria đứng vai kề vai chứng kiến toàn bộ sự việc. Phân nửa dân số Monterey và
toàn bộ dân số Tortilla Flat, trừ Danny và bà Morales, vui vẻ loanh quanh đứng
xem trận cháy. Cuối cùng, khi mọi sự đã xong, chỉ còn một đám hơi nước bốc lên
từ đống tro đen thui, Pilon lặng lẽ quay đi.
- Huynh đi đâu? - Pablo gọi.
- Tôi đi, - Pilon nói, - vào rừng để ngủ tiếp. Tôi khuyên hai người cũng nên đi. Sẽ tốt hơn nếu
Danny không thấy mặt chúng ta một thời gian.
Họ gật đầu lia lịa đoạn
theo chàng đi vào rừng thông.
- Đây là bài học cho chúng ta, - Pilon nói. - Qua sự vụ này chúng ta được bài học là không bao
giờ để rượu trong nhà qua đêm.
- Lần tới, - Pablo nói, vẻ tuyệt vọng, - huynh để rượu bên ngoài và thể nào cũng có người
thó mất thôi.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét