Thứ Bảy, 3 tháng 9, 2022

Đời Ảo - Phần VII

Đời Ảo
(Nguyên tác: Paranoia)
 
Tác giả: Joseph Finder
Dịch giả: Tâm Thủy
Nhà xuất bản Lao Động - Năm xuất bản: 2011
 
Phần 7 - Khống Chế

Khống chế: Quyền lực áp dụng lên một điệp viên hay một điệp viên nhị trùng để ngăn chặn anh ta ly khai hay tái nhị trùng (còn được gọi là “tam trùng”). - Từ điển tình báo quốc tế.

66

Sáng hôm sau tôi kiểm tra thư tại nhà và thấy tin từ “Arthur”:
Sếp rất hài lòng với bài thuyết trình của anh và muốn xem thêm ngay lập tức.
Tôi nhìn nó một phút, rồi quyết định không trả lời.
Một lúc sau, tôi xuất hiện không báo trước ở căn hộ của bố tôi, với một hộp bánh rán hiệu Kripsy Kreme. Tôi đỗ ở khoảng trống ngay trước khu nhà ba tầng của ông. Tôi biết khi không xem ti vi, bố thích ngồi nhìn chăm chăm ra cửa sổ cả ngày. Ông không bỏ lỡ bất cứ điều gì xảy ra bên ngoài.
Tôi vừa đến sau khi đem xe đi rửa, và chiếc Porsche là một khối đá vỏ chai lấp lánh, một vật đẹp đẽ. Tôi nóng cả người. Bố tôi vẫn chưa thấy nó. Thằng con trai “thua cuộc” của ông, không còn là kẻ thua cuộc nữa, đang đến một cách hào nhoáng - trong một cỗ chiến xa ba trăm hai mươi mã lực.
Bố tôi vẫn ngồi tại chỗ cũ trước ti vi, xem chương trình điều tra rẻ tiền nào đó về những vụ bê bối ở các tập đoàn. Antwoine ngồi cạnh ông trên một chiếc ghế ít thoải mái hơn, đọc một trong những tờ báo khổ nhỏ bán ở siêu thị trông giống y chang nhau; tôi nghĩ đó là tờ Ngôi Sao.

Bố tôi ngước lên, thấy hộp các tông bánh rán tôi vẫy với ông, nhưng lại lắc đầu.
- Thôi, - ông nói.
- Con dám chắc có sô cô la đông trong này. Món bố thích nhất.
- Tao không ăn nổi thứ của nợ đấy nữa. Gã da đen Mandingo này đang chĩa súng vào đầu tao. Sao mày không mời hắn một cái?
Antwoine cũng lắc đầu.
- Không, cảm ơn. Tôi đang cố giảm một hai cân. Ông đúng là ác quá.
- Cái gì thế này, trụ sở của chuyên gia giảm cân Jenny Craig à? - Tôi đặt hộp bánh rán xuống bàn cà phê mặt gỗ thích cạnh Antwoine. Bố vẫn chưa nói gì về cái xe, nhưng tôi đoán có lẽ ông quá chăm chú vào chương trình ti vi. Hơn nữa thị lực của ông cũng không tốt như thế.
- Ngay khi mày đi, gã này sẽ bắt đầu quất roi, bắt tao chạy quanh phòng, - bố nói.
- Anh ấy không dừng lại nhỉ? - tôi nói với ông.
Mặt ông có vẻ thấy buồn cười hơn là giận dữ.
- Bất cứ điều gì khiến hắn thấy hài lòng, - ông bảo. - Dù không có chuyện gì khiến hắn thấy hứng chí hơn là ngăn tao hút.
Sự căng thẳng giữa bọn họ dường như đã giảm xuống thành thế cam chịu.
- Này, bố trông khá hơn nhiều rồi, bố ạ, - tôi nói dối.
- Vớ vẩn, - ông nói, mắt tập trung vào cuộc điều tra giả trên ti vi. - Mày vẫn làm ở chỗ mới đó à?
- Phải, - tôi nói. Tôi cười rụt rè, đoán đã đến lúc cho ông biết tin mới quan trọng. - Thực ra...
- Tao sẽ nói cho mày biết một điều, - ông nói, cuối cùng cũng dứt mắt ra khỏi ti vi và nhìn tôi với ánh mắt toét nhèm, ông chỉ về phía ti vi mà không nhìn nó. - Bọn chó đẻ đó - bọn khốn đó - chúng sẽ lừa mày đến đồng năm xu cuối cùng nếu mày để mặc chúng.
- Ai, các tập đoàn?
- Các tập đoàn, bọn Tổng Giám đốc, với quyền lựa chọn cổ phiếu và khoản lương hưu hậu hĩnh và các chính sách ngọt ngào của chúng. Chúng đều chỉ vì chính mình mà thôi, từng thằng một, và mày đừng quên điều đó.
Tôi nhìn xuống thảm.
- Chậc, - tôi nói khẽ, - không phải tất cả.
- Ôi dào, đừng tự lừa chính mình.
- Nghe bố anh đi, - Antwoine nói, không ngẩng lên khỏi tờ Ngôi Sao. Giọng anh dường như đượm chút trìu mến. - Ông ấy là một kho hiểu biết đấy.
- Thực ra, bố, con biết được chút ít về các Tổng Giám đốc. Con vừa được thăng chức lớn - con vừa được giao làm Trợ lý Điều hành cho Tổng Giám đốc của Trion.
Chỉ có sự im lặng. Tôi nghĩ ông đang không nghe tôi nói. Ông trân trối nhìn ti vi. Tôi nghĩ nói như thế có thể hơi cao ngạo, nên tôi dịu giọng đi một chút.
- Thực sự là chuyện lớn, bố ạ.
Lại thêm im lặng.
Tôi vừa định lặp lại thì ông lên tiếng:
- Trợ lý Điều hành? Nó là cái gì, giống như thư ký à?
- Không, không. Nó là, giống như là, những thứ đẳng cấp cao. Động não suy nghĩ và mọi thứ như thế.
- Vậy chính xác thì mày làm gì cả ngày?
Ông mắc bệnh khí thũng, nhưng ông vẫn biết chính xác cách làm tôi xẹp lép.
- Thôi không cần quan tâm, bố, - tôi nói. - Con xin lỗi đã nhắc tới việc này.
Tôi thực sự hối tiếc. Tại sao tôi lại quan tâm ông nghĩ cái quái gì chứ?
- Không, tao nói thật. Tao tò mò mày làm cái gì mà có được bộ vành bóng bẩy ngoài đó.
Vậy rốt cuộc ông cũng để ý. Tôi cười.
- Khá đẹp nhỉ?
- Mày tốn bao nhiêu cho cái xe đó?
- Chà, thực ra thì...
- Tao muốn nói là hàng tháng. - Ông hít thở sâu một luồng ô xy.
- Không mất tí nào.
- Không mất tí nào, - ông lặp lại, như thể không hiểu nổi.
- Không mất một xu. Trion trả toàn bộ phí thuê. Đó là một món bổng lộc cho công việc mới.
Ông lại hít vào.
- Bổng lộc.
- Cũng như căn hộ mới của con.
- Mày chuyển nhà?
- Con tưởng con bảo bố rồi. Bảy trăm mét vuông ở tòa nhà Harbor Suites mới đó. Và Trion trả tiền cho nó.
Lại hít vào.
- Mày tự hào chứ? - ông nói.
Tôi ngớ cả người. Trước nay tôi chưa bao giờ nghe ông nói từ đó, tôi không nghĩ đã nghe.
- Vâng, - tôi nói, đỏ mặt.
- Tự hào vì sự thật rằng giờ chúng sở hữu mày?
Lẽ ra tôi phải thấy lưỡi dao cạo cắm trong quả táo.
- Không ai sở hữu con, bố ạ, - tôi cộc lốc. - Con nghĩ nó được gọi là “ăn nên làm ra”. Bố tra thử mà xem. Bố sẽ thấy nó ở trong từ điển đồng nghĩa bên cạnh “cuộc sống ở đỉnh cao”, “ban điều hành”, và “những cá nhân cao giá”.
Tôi không tin nổi những gì đang tuôn ra khỏi miệng mình. Suốt từ trước tới giờ tôi luôn bị xỉ vả vì sống vô nghĩa như con khỉ leo que. Bây giờ tôi lại thực sự đang huênh hoang về những chuyện xa hoa thế này đây. Thấy ông bắt tôi phải làm gì chưa?
Antwoine biết ý đặt báo xuống xin phép ra ngoài, giả vờ làm gì đó trong bếp.
Bố tôi cười cay nghiệt và quay lại nhìn tôi.
- Vậy để tao nói rõ chuyện này. - Ông hít vào thêm chút ô xy. - Mày không sở hữu cái xe hay căn hộ, đúng không? Mày gọi đó là bổng lộc? - Ngừng một hơi. - Tao sẽ nói cho mày biết thế nghĩa là gì. Mọi thứ chúng cho mày chúng đều có thể lấy đi, và chúng cũng sẽ lấy đi. Mày lái xe hơi của công ty, mày sống trong nhà của công ty, mày mặc đồng phục của công ty, và không thứ nào là của mày. Cả cuộc đời mày không thuộc về mày.

Tôi cắn môi. Bùng phát cũng chẳng có ích gì cho tôi. Người đàn ông già nua này đang chết dần, tôi tự nói với mình phải đến lần thứ một triệu. Ông phải dùng steroid. Ông là một người bất hạnh, cay độc. Nhưng nó cứ thế tuôn ra.
- Bố biết không, có những người cha thực ra sẽ thấy tự hào trước thành công của con mình, bố biết không?
Ông hớp hớp không khí, đôi mắt tí xíu lóe lên.
- Thành công, đó là cách mày gọi chuyện đó hử? Thấy không, Adam, mày càng lúc càng khiến tao nhớ tới mẹ mày.
- Ồ, thế à?
Tôi tự bảo mình: “nuốt xuống, kiềm chế cơn giận, đừng nổi cáu, nếu không ông ta sẽ thắng”.
- Đúng vậy. Mày giống như bà ta. Cũng có cùng tính cách hướng ngoại đó, ai cũng thích bà ta, bà ta hòa nhập được ở mọi nơi, bà ta hẳn đã có thể lấy một gã giàu có hơn, bà ta hẳn đã có thể sống tốt hơn nhiều. Và đừng nghĩ là bà ta không cho tao biết thế. Tất cả các đám phụ huynh ở Bartholomew Browning, mày sẽ thấy bà ta thân mật với bọn khốn giàu có đó, chưng diện, gần như ốp ngực vào mặt bọn nó. Nghĩ tao không thấy sao?
- Ồ, hay lắm, bố. Đúng là hay lắm. Rất tiếc con không giống bố hơn, bố biết mà.
Ông chỉ nhìn tôi.
- Bố biết mà - cay đắng, cáu kỉnh. Tức giận với cả thế giới. Bố muốn con lớn lên giống y như bố chứ gì?
Ông thở phù phù, mặt đỏ lựng lên.
Tôi tiếp tục nói. Tim đập cả trăm nhịp một phút, giọng cứ to dần, và tôi gần như hét lên.
- Khi con rỗng túi và lúc nào cũng đàn đúm thì bố coi con là thằng bỏ đi. Được rồi, vậy giờ con cũng thành công như trong định nghĩa của bất cứ ai, và bố chẳng có gì hơn ngoài sự khinh rẻ. Có lẽ có lý do nên bố mới không thể tự hào vì con dù con có làm gì, bố ạ.
Ông trừng mắt, hổn hển nói:
- Thế à?
- Nhìn bố đi. Nhìn cuộc đời bố đi. - Trong tôi như có con tàu chở hàng lồng lên, không thể dừng lại, mất điều khiển. - Bố luôn nói thế giới này chia ra thành người thắng và kẻ thua. Vậy con muốn hỏi bố điều này, bố. Vậy bố là gì? Bố là gì?
Ông hớp khí ô xy, mắt đỏ ngầu và trông như sắp bật ra khỏi đầu. Dường như ông lẩm bẩm một mình. Tôi nghe được “chết tiệt” và “mẹ kiếp” và “chó má thật”.
- Phải rồi, bố, - tôi nói, quay đi. - Con muốn giống y như bố đấy.

Tôi lao ra cửa như luồng gió chứa đầy cơn tức giận dồn nén của chính mình. Lời đã nói ra rồi không thể lấy lại được nữa, và tôi thấy khổ sở hơn bao giờ hết. Tôi rời khỏi căn hộ của ông trước khi có thể gây ra thêm sự tàn phá nào nữa. Điều cuối cùng tôi thấy, hình ảnh chia tay với ông, là gương mặt đỏ bừng, thở hồng hộc và lẩm bẩm, mắt đờ đẫn và trân trối như không tin nổi, hay giận dữ hoặc đau đớn, tôi không biết nữa.

67

- Vậy anh thực sự làm cho chính Jock Goddard à? - Alana nói. - Trời, em hy vọng em chưa bao giờ nói với anh điều gì tiêu cực về Goddard. Đúng không?

Chúng tôi đang đi thang máy lên căn hộ của tôi. Em đã về qua nhà sau khi đi làm để thay đồ, và em trông thật tuyệt - áo cổ thuyền đen, quần đen, giày đen đế cao. Em cũng xịt đúng mùi hương hoa ngọt ngào đã dùng trong cuộc hẹn trước của chúng tôi. Tóc em đen dài và bóng mượt, và nó tương phản tuyệt vời với đôi mắt xanh rực rỡ.
- Đúng rồi, em thực sự nói ông ấy như cặn bã, và anh lập tức báo cáo ngay.
Em cười, thoáng bóng hàm răng hoàn hảo.
- Thang máy này phải cùng cỡ căn hộ của em.
Tôi biết điều đó không đúng, nhưng tôi vẫn phá lên cười.
- Thang máy này đúng là to hơn cả chỗ cũ của anh, - tôi nói. Khi tôi bảo mình vừa mới chuyển tới Harbor Suites, em bảo mình đã nghe về các căn hộ ở đó và có vẻ tò mò, nên tôi mời em ghé qua để xem nhà. Chúng tôi có thể ăn tối ở nhà hàng khách sạn bên dưới, nơi tôi vẫn chưa có cơ hội đến ăn.
- Chà, quang cảnh đúng là tuyệt, - em nói khi vừa bước chân vào căn hộ. Một đĩa nhạc của Alanis Morissette đang bật nhẹ nhàng. - Thật tuyệt diệu.
Em nhìn quanh và thấy vải nhựa bọc vẫn còn ở trên một chiếc ghế bành và một ghế đẩu, và hóm hỉnh bảo:
- Thế bao giờ anh mới chuyển tới đây?
- Ngay khi anh có một hai tiếng rỗi. Anh lấy gì cho em uống nhé?
- Hừmm. Chắc chắn rồi, thế thì tốt quá.
- Một ly Cosmopolitan nhé? Anh cũng pha được cocktail gin-tonic rất ngon.
- Gin-tonic hay đấy, cảm ơn anh. Vậy anh chỉ vừa làm cho ông ấy, đúng không?
Dĩ nhiên em đã tìm hiểu về tôi, tôi ra tủ rượu vừa được chất đầy trong hốc tường cạnh bếp và lấy một chai rượu gin Tanqueray Malacca.
- Vừa tuần này thôi.
Em theo tôi vào bếp. Tôi lấy một nắm chanh từ trong cái tủ lạnh gần-như-trống-rỗng và bắt đầu cắt làm đôi.
- Nhưng anh đã ở Trion khoảng một tháng rồi.
Em nghiêng đầu, cố hiểu được sự thăng chức đột ngột của tôi.
- Bếp đẹp lắm. Anh có tự nấu ăn không?
- Dụng cụ chỉ để trưng bày thôi, - tôi nói. Tôi bắt đầu ấn các nửa quả chanh vào máy vắt điện. - Dù sao thì đúng vậy, anh được tuyển vào bộ phận Tiếp thị Sản phẩm mới, nhưng rồi đại khái là Goddard liên quan tới một dự án anh đang làm, và anh đoán ông ấy thích cách tiếp cận của anh, hay ý tưởng gì gì đó.
- Đúng là may mắn, - em nói, lên giọng át tiếng ro ro điện của máy vắt.
Tôi nhún vai.
- Để xem xem có đúng là may mắn không.
Tôi cho đá vào hai cốc vại thường dùng kiểu trong quán Pháp, rót một ít rượu gin, rồi đổ đầy nước tonic lấy từ trong tủ lạnh và một phần nước chanh vừa phải. Tôi đưa em cốc đồ uống.
- Vậy Tom Lundgren hẳn đã tuyển anh cho đội của Nora. Ô này, thật là ngon. Chỗ chanh đó làm nên vị khác biệt đấy.
- Cảm ơn em. Đúng vậy, Tom Lundgren tuyển anh, - tôi nói, giả vờ ngạc nhiên vì em biết.
- Anh có biết mình được tuyển để lấp vị trí của em không?
- Là sao?
- Vị trí để khuyết khi em chuyển tới AURORA.
- Thế à? - tôi tỏ vẻ ngạc nhiên.
Em gật đầu.
- Không thể tin được.
- Chà, thế giới nhỏ thật. Nhưng “AURORA” là gì?
- Ồ, em tưởng anh biết. - Em liếc nhìn tôi từ phía trên gọng kính, ánh mắt dường như hơi quá bất chợt.
Tôi lắc đầu ngây thơ.
- Không...?
- Em đoán anh có lẽ cũng đã tìm hiểu về em. Em được phân làm tiếp thị cho nhóm Công nghệ Thay thế.
- Nó được gọi là AURORA à?
- Không, AURORA là dự án cụ thể em được phân vào. - Em do dự một giây. - Em tưởng làm cho Goddard, anh hẳn nhúng tay vào được mọi thứ.
Sơ suất chiến thuật ở phần tôi. Tôi muốn em nghĩ chúng tôi có thể nói thoải mái về bất cứ điều gì em làm.
- Về lý thuyết thì anh có thể tiếp cận mọi thứ. Nhưng anh vẫn còn đang đoán xem máy sao chép ở đâu.
Em gật đầu.
- Anh quý Goddard không?
Tôi nói gì được chứ, phải không?
- Ông ấy rất đáng nể.
- Ở bữa tiệc ngoài trời của ông ấy, hai người dường như khá thân. Em thấy ông ấy gọi anh ra gặp bạn bè mình, và anh mang đồ cho ông ấy hay gì đó.
- Ờ, thật thân đi, - tôi nói, châm biếm. - Anh là tên sai vặt. Là cơ bắp của ông ấy. Em thích bữa tiệc đó không?
- Ở quanh tất cả những người quyền thế đó cũng thấy hơi là lạ, nhưng sau vài cốc bia thì chuyện dễ dàng hơn. Chính là lần đầu tiên em tới đó.
Vì em đã được phân vào dự án cưng của ông ta, AURORA, tôi nghĩ. Nhưng tôi muốn tế nhị về nó, nên giờ tôi tạm buông ra.
- Để anh gọi xuống nhà hàng bảo họ chuẩn bị bàn sẵn cho chúng ta.

- Anh biết không, em đã nghĩ Trion không tuyển từ bên ngoài đâu, - em nói, nhìn vào thực đơn. - Họ hẳn thực sự muốn anh, nên mới lách luật như thế.
- Anh nghĩ họ cho rằng họ đã cuỗm được anh đi. Anh không có gì đặc biệt cả.
Chúng tôi đã chuyển từ gin-tonic sang rượu Sancerre mà tôi đã gọi vì theo tôi thấy từ các hóa đơn rượu của em thì đây là loại rượu em ưa thích nhất. Em tỏ ra ngạc nhiên và hài lòng khi tôi gọi nó. Đó là một phản ứng tôi đã bắt đầu quen.
- Em nghi ngờ điều đó đấy, - em nói. - Anh làm gì ở Wyatt?
Tôi nói cho em phiên bản phỏng-vấn-xin-việc tôi còn nhớ, nhưng như thế chưa đủ. Em muốn biết chi tiết về dự án Lucid.
- Anh thực sự không được nói về những gì anh làm ở Wyatt, nếu em không phiền, - tôi nói, cố không tỏ vẻ quá lên mặt ta đây.
Em ngượng nghịu:
- Ồ, Chúa ơi, dĩ nhiên rồi, em hoàn toàn hiểu mà.
Bồi bàn tới.
- Anh chị đã sẵn sàng gọi món chưa?
Alana nói:
- Anh trước đi, - và xem xét thực đơn thêm một chút trong khi tôi gọi cơm thập cẩm.
- Em đang nghĩ gọi món đó, - em nói.
Được rồi, vậy em không phải là người ăn chay.
- Chúng ta được phép gọi cùng món mà, - tôi bảo.
- Tôi cũng sẽ gọi cơm thập cẩm, - em nói với bồi bàn. - Nhưng nếu có thịt trong đó, như xúc xích chẳng hạn, anh loại ra được không?
- Dĩ nhiên rồi, - bồi bàn nói và ghi chép lại.
- Em thích cơm thập cẩm, - em nói. - Em hầu như không bao giờ ăn cá hay hải sản ở nhà. Đây đúng là một món thú vị.
- Em vẫn muốn giữ nguyên rượu Sancerre chứ? - tôi bảo.
- Chắc chắn rồi.
Khi bồi bàn quay đi, tôi đột nhiên nhớ ra Alana bị dị ứng tôm và lên tiếng.
- Đợi chút, có tôm trong cơm thập cẩm không?
- Ừm, có đấy, - bồi bàn trả lời.
- Đó có thể là vấn đề đấy, - tôi nói.
Alana trân trối nhìn tôi.
Làm sao anh biết...”. Em nheo mắt cất tiếng.
Có một khoảnh khắc căng thẳng đến khổ sở dài thật là dài trong khi tôi vắt óc ra nghĩ. Tôi không tin nổi mình lại nói hớ như thế. Tôi nuốt mạnh và máu như cạn khỏi mặt. Cuối cùng tôi nói:
- Ý em là em cũng dị ứng với nó?
Một khoảng lặng.
- Đúng vậy. Xin lỗi. Buồn cười thật.
Đám mây nghi ngờ dường như đã tan đi. Chúng tôi đều đổi sang sò khô.

- Dù sao, - tôi nói. - Nói về anh thế là đủ rồi. Anh muốn nghe về AURORA.
- Chậc, chuyện đó cần phải giữ bí mật, - em xin lỗi.
Tôi cười toe toét.
- Không, đây không phải là ăn miếng trả miếng, em thề đấy, - em phản đối. - Thật đấy!
- Được rồi, - tôi nói với vẻ hoài nghi. - Nhưng giờ em làm anh tò mò rồi, em thực sự sẽ không bắt anh phải mò mẫm và tự tìm hiểu chứ?
- Không thú vị đến thế đâu.
- Anh không tin. Ít nhất em cho anh biết vắn tắt không được sao?
Em ngước lên và thở dài.
- Chậc, như thế này này. Anh đã bao giờ nghe về công ty Haloid chưa?
- Chưa, - tôi chậm rãi nói.
- Dĩ nhiên là chưa. Chẳng có lý do gì anh phải nghe về nó. Nhưng công ty Haloid này là một công ty giấy ảnh nhỏ vào cuối những năm 1940 đã mua quyền sở hữu công nghệ mới mà tất cả các công ty lớn đều từ chối - IBM, RCA, GE. Phát minh đó là một thứ có tên sao chụp khô, rồi chứ? Và trong mười hay mười lăm năm, công ty Haloid đổi thành Tập đoàn Xerox, và nó từ một công ty gia đình nhỏ trở thành một tập đoàn khổng lồ. Tất cả bởi vì họ chấp nhận cơ hội với một công nghệ không ai mong muốn.
- Được rồi.
- Hay cách Tập đoàn sản xuất Galvin ở Chicago, chế tạo máy thu thanh hiệu Motorola cho ô tô, cuối cùng đã tiến vào lĩnh vực chất bán dẫn và điện thoại di động. Hay một công ty thăm dò dầu khí nhỏ gọi là Dịch vụ Địa Vật lý bắt đầu mở rộng sang bóng bán dẫn, rồi mạch tích hợp và trở thành Dụng cụ Texas. Vậy anh hiểu ý em rồi đó. Lịch sử công nghệ đầy những minh họa về các công ty chuyển mình nhờ nắm bắt đúng công nghệ vào đúng thời điểm, và bỏ các đối thủ cạnh tranh của mình lại đằng sau hít bụi. Đó là điều mà Jock Goddard đang cố làm với AURORA. Ông nghĩ AURORA sẽ thay đổi thế giới, và bộ mặt của nền thương mại Mỹ, cũng cái cách mà bóng bán dẫn, chất bán dẫn hay công nghệ sao chép đã từng làm được.
- Công nghệ Thay thế.
- Chính xác.
- Nhưng tờ Nhật báo Phố Wall nghĩ Jock bị gạt bỏ rồi.
- Cả hai chúng ta đều biết nhiều hơn thế. Ông ấy chỉ tiến nhanh hơn khỏi chỗ ngoặt mà thôi. Nhìn vào lịch sử công ty mà xem. Có ba hay bốn điểm mà ai cũng nghĩ Trion sắp lao xuống vực, trên bờ phá sản, và rồi đột nhiên nó làm mọi người sửng sốt và hồi phục mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
- Em nghĩ đây là một trong những điểm bước ngoặt đó hả?
- Khi AURORA sẵn sàng được công bố, ông ấy sẽ công bố. Và rồi để xem tờ Nhật báo Phố Wall nói được gì. AURORA khiến những rắc rối gần đây nhất hầu như chẳng là gì cả.
- Thật kinh ngạc. - Tôi nhìn vào ly rượu của mình và nói ôi-thật-là-tự-nhiên, - Thế công nghệ đó là gì?
Em cười và lắc đầu.
- Em có lẽ không nên nói nhiều như thế. - Nghiêng đầu sang bên, em vừa đùa vừa nói, - Anh đang điều tra em hay sao thế?

68

Ngay từ khoảnh khắc em nói muốn ăn tối ở nhà hàng tại Harbor Suites, tôi đã biết rằng chúng tôi sẽ ngủ cùng nhau đêm đó. Tôi đã có những cuộc hẹn với phụ nữ mà cảm hứng đến từ chuyện “nàng sẽ hay là không?”. Dĩ nhiên lần này khác, nhưng cơn hứng còn mạnh mẽ hơn. Nó đã luôn ở đó, đường ranh vô hình chúng tôi đều biết mình sẽ bước qua, đường ranh chia chúng tôi từ bạn bè sang một cái gì đó gần gũi hơn; câu hỏi là chúng tôi sẽ bước qua ở đâu, như thế nào, ai là người chủ động trước, và cảm giác sẽ ra sao.
Sau bữa tối, chúng tôi trở lên căn hộ của tôi, cả hai đều hơi chuếnh choáng vì quá nhiều vang trắng và G&T. Tôi choàng tay qua vòng eo thon thả của em. Tôi muốn cảm nhận làn da mềm mại trên bụng, dưới ngực, trên mông. Tôi muốn thấy những vùng kín đáo nhất. Tôi muốn chứng kiến giây phút lớp vỏ cứng xung quanh Alana tan vỡ, người phụ nữ xinh đẹp và sâu sắc vô cùng; khi em run lên, buông mình, khi đôi mắt xanh trong đó mụ mị vì hoan lạc.

Chúng tôi loạng choạng trong căn hộ, tận hưởng cảnh biển, và tôi pha cho cả hai rượu martini, thứ chúng tôi hoàn toàn không cần đến. Em bảo:
- Em không tin nổi mình phải tới Palo Alto sáng mai.
- Có chuyện gì ở Palo Alto vậy?
Em lắc đầu.
- Chẳng có gì thú vị cả.
Em cũng vòng tay qua thắt lưng tôi, nhưng tay vô-tình-một-cách-cố-ý trượt xuống hông, siết nhịp nhàng, và em đùa liệu tôi đã gỡ xong giường ra chưa.
Phút tiếp theo, môi tôi đã ở trên môi em, những ngón tay mò mẫm nhẹ nhàng vuốt ve bầu ngực, và em luồn bàn tay rất ấm áp xuống háng tôi. Chúng tôi đều nhanh chóng nổi hứng, và chúng tôi loạng choạng ra cái ghế bành đã bỏ vải nhựa bọc. Chúng tôi hôn và ghì hông vào nhau. Em rên rỉ. Em riết róng kéo tuột quần tôi đầy khao khát. Em mặc bộ đồ lót lụa trắng bên dưới áo đen. Ngực em tròn trịa, đầy đặn, hoàn hảo.
Em lên đỉnh một cách ồn ào, phóng túng đến ngạc nhiên.

Tôi gạt đổ ly rượu martini của mình. Chúng tôi lần đường qua hành lang dài tới phòng ngủ, và lại làm một lần nữa, lần này thong thả hơn.
- Alana, - tôi nói khi chúng tôi nằm ôm nhau.
- Hừmm?
- Alana, - tôi lặp lại. - Có nghĩa là “đẹp” trong tiếng Gaelic gì đó, đúng không?
- Em nghĩ là tiếng Celtic. - Em cào nhẹ nhẹ trên ngực tôi. Tôi vuốt ve một bên ngực em.
- Alana, anh nghĩ anh phải thú nhận một việc.
Em rên rỉ.
- Anh đã có gia đình?
- Không...
Em quay sang tôi, một thoáng khó chịu trong mắt.
- Anh đang hẹn hò với người khác?
- Không, tuyệt đối không. Anh phải thú nhận - anh ghét Ani DiFranco.
- Nhưng không phải anh - anh trích dẫn cô ấy sao... - em bối rối.
- Bạn gái cũ của anh từng nghe nhiều nhạc của cô ấy, và giờ nó có sự liên hệ không tốt lắm.
- Vậy tại sao anh lại có một đĩa CD của cô ấy ở bên ngoài?
Em đã thấy cái thứ quỷ quái đó ở cạnh máy chơi đĩa.
- Anh định bắt mình thích cô ca sĩ đó.
- Tại sao?
- Vì em.
Em nghĩ một lúc, đôi mày sẫm cau lại.
- Anh không phải thích mọi thứ em thích. Em không thích xe Porsche.
- Em không thích? - tôi quay sang em, ngạc nhiên.
- Chúng chỉ là đồ khốn biết lăn thôi.
- Đúng vậy.
- Có thể vài người cần nó, nhưng anh chắc chắn là không.
- Không ai “cần” một chiếc Porsche. Anh chỉ nghĩ nó hay hay.
- Em thấy ngạc nhiên anh lại không chọn xe màu đỏ.
- Không. Màu đỏ là mồi nhử cớm - bọn cớm thấy xe Porsche màu đỏ là chúng sẽ bật ra đa lên ngay.
- Bố anh có xe Porsche không? Bố em có một chiếc. - Em đảo mắt. - Nực cười. Giống như là cái xe mãn-kinh-đàn-ông, khủng-hoảng-tuổi-trung-niên vậy.
- Thực ra, phần lớn tuổi thơ anh, nhà anh thậm chí không có cái xe nào cả.
- Anh không có xe?
- Bọn anh đi bằng phương tiện giao thông công cộng.
- Ồ. - Giờ em tỏ ra không thoải mái. Sau một phút, em nói. - Vậy tất cả những thứ này hẳn phải khá choáng ngợp. - Em khoát tay để ám chỉ căn hộ và mọi thứ khác.
- Ừ.
- Hừmm.
Lại một phút nữa trôi qua.
- Anh lúc nào đó ghé qua thăm em ở chỗ làm được không?
- Không được. Tầng năm khá hạn chế tiếp cận. Dù sao, em nghĩ tốt hơn nếu những người ở nơi làm không biết chuyện, anh đồng ý chứ?
- Ờ, em nói đúng.

Tôi ngạc nhiên khi em thu mình lại cạnh tôi và chìm vào giấc ngủ: Tôi nghĩ em sẽ rời khỏi đây ngay, về nhà, thức dậy trên giường mình, nhưng có vẻ em muốn ở lại qua đêm.
Đồng hồ đầu giường báo ba giờ ba lăm khi tôi thức giấc. Em vẫn còn ngủ, khò khò nhè nhẹ. Tôi đi qua thảm và khẽ khàng đóng cửa phòng ngủ sau lưng mình.
Tôi đăng nhập vào thư điện tử và lại thấy vẫn danh sách thư rác và những thứ vô nghĩa, một vài công chuyện không cấp bách lắm, và một thư Hushmail từ “Arthur” với chủ đề là, “phản hồi: thiết bị tiêu dùng”. Meacham nghe cực kỳ tức tối.

Sếp thất vọng cực điểm vì anh không trả lời. Cần thêm tài liệu thuyết trình vào 6 giờ chiều mai nếu không vụ này nguy đấy.

Tôi nhấn vào “trả lời” và gõ:

Không thể lấy thêm tài liệu, xin lỗi” và ký tên là “Donnie”.

Rồi tôi đọc lại và xóa bức thư đi. Không. Tôi sẽ không trả lời. Thế đơn giản hơn. Tôi làm đủ chuyện cho chúng rồi.
Tôi để ý thấy túi xách tay vuông màu đen nhỏ nhắn của Alana đang nằm trên quầy đá granite chỗ em để nó lại. Em không mang máy tính hay túi đi làm, vì em về qua nhà để thay đồ.
Trong túi xách tay có phù hiệu, son môi, kẹo bạc hà thơm miệng, vòng chìa khóa và máy điện thoại Trion Maestro. Chìa khóa có lẽ dùng cho căn hộ và ô tô của em, và có lẽ là cả hòm thư ở nhà gì đó. Con Maestro rất có thể chứa số điện thoại và địa chỉ, nhưng cũng có lịch hẹn cụ thể nữa. Chúng có thể sẽ rất hữu ích cho Wyatt và Meacham.
Nhưng tôi còn làm cho chúng không?
Có lẽ là không.
Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi cứ thế rút lui? Tôi đã thực hiện phần mình trong cuộc giao kèo, lấy cho chúng hầu như mọi thứ chúng muốn về AURORA - chậc, dù sao cũng là phần lớn. Biết đâu chúng sẽ tính rằng có sách nhiễu tôi thêm cũng chẳng đáng. Lật mặt nạ của tôi không ích lợi gì cho chúng, chừng nào tôi còn tiềm năng hữu dụng. Và chúng sẽ không bơm thông tin nặc danh cho bọn FBI đâu, bởi như thế chỉ dẫn chính quyền lần ngược về chúng mà thôi.
Chúng có thể làm gì tôi?

Rồi tôi nhận ra: Tôi đã ngừng làm cho chúng rồi. Tôi đã ra quyết định vào chiều hôm đó trong phòng làm việc ở ngôi nhà ven hồ của Jock Goddard. Tôi sẽ không tiếp tục phản bội ông. Meacham và Wyatt cứ đi mà chết mẹ đi.
Lúc ấy hẳn sẽ thật dễ dàng để bỏ điện thoại di động của Alana vào giá sạc điện cắm với máy tính để bàn rồi bật liên kết nóng. Hẳn rồi, vẫn có rủi ro nếu Alana dậy, vì em ngủ ở giường lạ, không thấy tôi và đi quanh căn hộ xem tôi biến đâu. Trong trường hợp đó, em có thể thấy tôi đang tải thông tin trong con Maestro của em về máy tính. Có lẽ em không để ý. Nhưng em rất thông minh nhanh nhạy, và em rất có khả năng đoán ra sự thật.
Và dù tôi nhanh trí thế nào, dù tôi xử lý lanh lợi ra sao, em cũng sẽ biết tôi định làm gì. Và tôi sẽ bị bắt quả tang, thế là mối quan hệ này sẽ chấm dứt, và đột nhiên điều đó đánh động tôi. Tôi say mê Alana, dù mới chỉ sau vài cuộc hẹn và một đêm bên nhau. Tôi chỉ vừa mới phát hiện mặt đời thường, cởi mở, có phần hoang dã của em. Tôi yêu cách em cười thoải mái không kiềm chế, sự mạnh dạn, khiếu hài hước tỉnh khô của em. Tôi không muốn mất em vì thứ lão Nick Wyatt ghê tởm buộc tôi phải làm.
Tôi đã nộp cho Wyatt đủ loại thông tin hữu ích về dự án AURORA rồi. Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ. Tôi đã xong chuyện với lũ khốn đó.
Và trước mắt tôi cứ hiện lên hình ảnh Jock Goddard thu mình trong góc tối phòng làm việc, vai run lên. Đó là giây phút khiến tôi bừng tỉnh. Lòng tin ông đặt vào tôi. Và tôi lại xâm phạm sự tín nhiệm đó vì lão Nick Wyatt khốn kiếp sao?
Không, tôi không nghĩ vậy. Đủ rồi.

Vì vậy tôi đặt con Maestro của Alana lại vào hộp đựng. Tôi rót cho mình một ly nước lạnh từ máy pha nước trên cửa tủ lạnh Sub Zero, uống cạn và lại leo lên cái giường ấm áp với Alana. Em thì thầm gì đó trong giấc ngủ, thế là tôi dịch vào ngay sát em, và lần đầu tiên trong nhiều tuần lễ, thực sự thấy hài lòng về bản thân mình.

69

Goddard rảo chân băng qua hành lang tới Trung tâm Chỉ thị Điều hành, và tôi vất vả mới bắt kịp ông mà không phải chạy. Trời, già rồi mà đi nhanh vậy, như con rùa dùng thuốc kích thích methamphetamine ấy.
- Cuộc họp chết tiệt này rồi sẽ thành rạp xiếc đây, - ông lẩm bẩm. - Tôi triệu tập đội Guru tới để cập nhật trạng thái ngay khi tôi nghe tin họ sắp để lỡ ngày giao hàng Giáng sinh. Họ biết tôi đang tức phát điên lên rồi, và họ sẽ xoay tròn như đoàn kịch ba lê Nga múa vở “Điệu nhảy của nàng tiên Kẹo Bi”. Anh sắp thấy một mặt không hấp dẫn lắm của tôi đấy.

Tôi không nói gì - tôi nói được gì đây? Tôi đã thấy lúc ông giận dữ, và chúng thậm chí không so sánh nổi với những gì tôi thấy ở duy nhất một vị Tổng Giám đốc Điều hành khác mà tôi từng gặp. Cạnh Nick Wyatt, ông là Ngài Rogers hòa nhã. Và thực ra tôi vẫn còn run rẩy, cảm động vì cảnh thân mật nhỏ bé kia trong phòng làm việc ở ngôi nhà ven hồ - tôi chưa bao giờ tận mắt thấy người khác mở lòng mình đến thế. Cho tới giây phút đó, một phần trong tôi vẫn thấy vướng mắc chuyện tại sao Goddard lại chọn tôi, tại sao ông lại chú ý tôi. Giờ tôi hiểu rồi, và nó khiến thế giới của tôi rung chuyển. Tôi không còn chỉ muốn gây ấn tượng với ông, tôi muốn được ông tán thành, có thể điều gì đó còn sâu sắc hơn nữa.
Tại sao, tôi đau khổ nghĩ, tại sao Goddard phải đảo rối tung mọi chuyện khi làm một người tử tế như vậy? Không phức tạp thế này thì làm cho Nick Wyatt cũng đủ khổ ải với tôi lắm rồi. Giờ tôi đang chống lại người bố tôi chưa bao giờ có, và nó đang làm loạn đầu tôi.
- Trụ cột của Guru là một phụ nữ trẻ rất thông minh tên là Audrey Bethune, một người thực sự có triển vọng, - Goddard lẩm bẩm. - Nhưng tai họa này có thể khiến sự nghiệp của con bé trật đường ray. Tôi thật không có kiên nhẫn với sai sót ở quy mô như thế này.
Khi chúng tôi tiến đến phòng, ông đi chậm lại.
- Giờ, nếu anh có ý kiến, đừng ngại lên tiếng. Nhưng hãy cẩn thận - đây là một nhóm chức vụ cao và có chính kiến, và họ sẽ không tôn trọng anh chỉ vì tôi vứt anh vào cuộc chơi đâu.

Đội Guru tụ tập quanh bàn họp lớn, chờ đợi căng thẳng. Họ ngước lên khi chúng tôi bước vào. Một vài người cười và nói, “Chào Jock”, hoặc “Chào ông Goddard”. Họ trông giống như những con thỏ sợ hãi. Tôi nhớ chuyện mình đã ngồi ở bàn này cách đây không lâu. Có vài ánh mắt liếc tôi dò hỏi, vài lời thì thầm. Goddard ngồi xuống ở đầu bàn. Gần ông là một phụ nữ da đen ở tầm tuổi ba mươi, cùng người tôi thấy nói chuyện với Tom Lundgren và vợ hắn ở bữa tiệc ngoài trời, ông vỗ vào bên cạnh bàn để bảo tôi ngồi xuống cạnh mình.
Điện thoại di động của tôi đã rung trong túi suốt mười phút nay rồi, nên tôi lén lấy nó ra và liếc mã của người gọi. Một loạt cuộc gọi từ một số tôi không nhận ra. Tôi tắt điện thoại đi.

- Chào các bạn, - Goddard nói. - Đây là trợ lý của tôi, anh Adam Cassidy.
Một vài nụ cười lịch sự, rồi tôi thấy một trong số các khuôn mặt đó thuộc về bà bạn cũ Nora Sommers. Chó chết, mụ cũng ở trong đội Guru? Mụ mặc bộ vét sọc đen trắng và tô son trát phấn. Mụ đón ánh mắt tôi và tươi cười rạng rỡ như thể tôi là đứa bạn thời thơ ấu xa cách lâu ngày. Tôi lịch sự cười đáp lại, tận hưởng khoảnh khắc đó.
Audrey Bethune, quản lý chương trình, mặc bộ vét hải quân đẹp đẽ, áo cánh trắng và hoa tai núm nhỏ bằng vàng. Chị có làn da sẫm màu, tóc bồng xịt gôm và ôm mặt. Tôi đã tìm hiểu nhanh về tiểu sử của chị và biết chị xuất thân từ một gia đình thuộc tầng lớp trung thượng lưu. Bố chị là bác sĩ, cũng như ông chị, và mỗi mùa hè, chị lại ở khu nhà của gia đình ở thị trấn Oak Bluffs trên đảo Vườn nho của Martha. Chị cười với tôi, để lộ khoảng trống nhỏ giữa răng trước. Chị với tay ra sau lưng Goddard để bắt tay tôi. Lòng bàn tay chị khô và mát. Tôi thấy ấn tượng với chị. Sự nghiệp của chị đang bấp bênh.

Guru - dự án có mã SÓNG THẦN - là máy trợ giúp số cầm tay siêu nạp, công nghệ tuyệt đỉnh và thiết bị hội tụ duy nhất của Trion. Nó vừa là PDA, vừa là máy liên lạc, vừa là điện thoại di động. Nó có sức mạnh của máy tính cá nhân trong một khối hai trăm ba mươi gam. Nó gửi được thư, tin nhắn tức thời, dùng được bảng biểu, có trình duyệt Internet hỗ trợ đầy đủ HTML và màn hình màu ma trận động TFT tuyệt vời.
Goddard hắng giọng.
- Vậy tôi hiểu là chúng ta có một chút thử thách, - ông nói.
- Đó là một cách nói, Jock, - Audrey nói trôi chảy. - Ngày hôm qua chúng tôi vừa nhận được kết quả kiểm tra nội bộ, cho thấy chúng ta có một thành phần bị lỗi. Màn hình tinh thể lỏng hoàn toàn hỏng.
- À há, - Goddard nói với vẻ bình tĩnh tôi biết phải gượng ép. - Tinh thể lỏng không tốt, vậy hả?
Audrey lắc đầu.
- Rõ rành rành là hệ điều hành tinh thể lỏng bị lỗi.
- Từng cái một? - Goddard hỏi.
- Đúng vậy.
- Một phần tư triệu thành phẩm có hệ điều hành tinh thể lỏng lỗi, - Goddard nói. - Tôi hiểu rồi. Ngày giao hàng vào - bao giờ nhỉ? - ba tuần. Hừm. Giờ như tôi nhớ - và cứ chỉnh lại nếu tôi nhầm - kế hoạch của các anh chị là giao chúng trước khi kết thũc quý, nhờ đó góp vào doanh thu của quý ba và cho chúng ta trọn vẹn mười ba tuần của quý Giáng sinh để thu gom khoản doanh thu rất cần thiết.
Chị gật đầu.
- Audrey, tôi nghĩ chúng ta đều đồng ý rằng Guru là bậc thầy vĩ đại của đơn vị này. Và như chúng ta đều biết, Trion đang trải qua một số khó khăn trên thị trường. Cũng có nghĩa là việc giao hàng Guru đúng kế hoạch càng trở nên tối quan trọng.
Tôi thấy Goddard nói thận trọng quá mức, và tôi biết ông đang cố kìm nén sự khó chịu cực kỳ.
Giám đốc tiếp thị, Rick Durant trông bóng mượt, buồn rầu đế vào:
- Thật là một khó khăn lớn. Chúng tôi đã thực hiện chiến dịch tiếp thị mở, đặt quảng cáo ở khắp nơi rồi. “Máy trợ giúp số cho thế hệ tiếp theo”. - Hắn đảo mắt.
- Ờ phải, - Goddard lẩm bẩm. - Và có vẻ nó sẽ không được giao hàng cho tới thế hệ tiếp theo.
Ông quay sang kỹ sư chính, Eddie Cabral, mặt tròn, ngăm đen, đầu mái bằng kiểu lỗi thời.
- Có vấn đề với bề mặt à?
- Giá như vậy, - Cabral trả lời. - Không, cả con vi mạch chết tiệt đó sẽ phải làm lại, thưa Tổng Giám đốc.
- Nhà sản xuất theo hợp đồng nằm ở Malaysia? - Goddard hỏi.
- Chúng ta luôn may mắn với họ, - Cabral nói. - Dung sai và chất lượng luôn khá tốt. Nhưng đây là vi mạch tích hợp chuyên dụng phức tạp. Nó phải dùng màn hình tinh thể lỏng độc quyền của Trion chúng ta, và bánh ra lò không được ngon cho lắm...
- Vậy thay thế màn hình LCD thì sao? - Goddard cắt lời.
- Không, Tổng Giám đốc, - Cabral nói. - Không làm được nếu không chế tạo lại toàn bộ, dễ phải mất thêm tới sáu tháng.

Tôi đột ngột ngồi dậy. Những biệt ngữ bật ra trước tôi. Vi mạch tích hợp chuyên dụng... màn hình LCD độc quyền của Trion...

- Đó là bản tính của vi mạch tích hợp chuyên dụng, - Goddard nói. - Luôn có bánh bị cháy. Hiệu suất như thế nào, được bốn mươi, năm mươi phần trăm không?
Cabral khổ sở:
- Không phần trăm. Một lỗi hệ thống dây chuyền.
Goddard mím chặt miệng, ông như thể sắp phát khùng:
- Sẽ mất bao lâu để làm lại vi mạch tích hợp chuyên dụng?
Cabral ngập ngừng.
- Ba tháng. Nếu chúng ta may mắn.
- “Nếu chúng ta may mắn”. - Goddard lặp lại. - Phảinếu chúng ta may mắn”.
Giọng ông to dần lên.
- Ba tháng đẩy ngày giao hàng về tháng Mười hai. Không được chút nào, phải không?
- Không, Tổng Giám đốc, - Carbal đáp.
Tôi gõ vào cánh tay Goddard, nhưng ông lờ tôi đi.
- Mexico không sản xuất được cho chúng ta nhanh hơn à?
Trưởng nhóm sản xuất, người phụ nữ tên Kathy Gornick nói:
- Có lẽ nhanh hơn một hai tuần, cũng không giúp được chúng ta bao nhiêu. Và rồi chất lượng tốt nhất cũng chỉ là dưới mức tiêu chuẩn.
- Đúng là mớ bòng bong chết tiệt, - Goddard nói. Trước giờ tôi chưa bao giờ nghe ông chửi thề.
Tôi cầm tờ đặc tả sản phẩm lên, rồi lại vỗ vào cánh tay Goddard.
- Tôi xin ra ngoài một chút nhé?

Tôi lao ra khỏi phòng, bước vào khu giải lao, mở điện thoại ra.
Noah Mordden không ngồi ở bàn nên tôi thử số di động, và gã trả lời ngay hồi chuông đầu tiên:
- Sao thế?
- Là tôi Adam đây.
- Anh trả lời điện thoại rồi mà?
- Anh nhớ con búp bê xấu xí trong phòng anh chứ? Con nói được “Ăn quần tao đi, Goddard” ấy?
- Lucille Hãy Yêu Em. Không cho cậu đâu. Tự đi mà mua lấy.
- Có phải nó có màn hình tinh thể lỏng trong bụng không?
- Cậu định làm gì thế, Cassidy?
- Nghe này, tôi muốn hỏi anh về hệ điều hành tinh thể lỏng. Vi mạch tích hợp chuyên dụng.

Vài phút sau, khi tôi về phòng họp, trưởng nhóm kỹ sư và trưởng nhóm sản xuất đang tranh cãi kịch liệt về việc liệu một màn hình tinh thể lỏng khác có thể nhét được vào vỏ Guru nhỏ nhắn không. Tôi yên lặng ngồi lại và đợi cuộc tranh luận lắng xuống. Cuối cùng tôi có cơ hội.
- Xin lỗi, - tôi nói, nhưng không ai để ý.
- Ông thấy đấy, - Eddie Cabral nói. - Đây chính là lý do tại sao chúng ta phải hoãn đợt xuất xưởng lại.
- Chúng ta không đủ tiền cho việc lỡ đợt xuất xưởng của Guru, - Goddard bật lại.
Tôi hắng giọng:
- Xin cho tôi một giây.
- Adam, - Goddard nói.
- Tôi biết chuyện này nghe có vẻ điên rồ, - tôi nói, - nhưng còn nhớ con búp bê rô bốt Lucille Hãy Yêu Em không?
- Chúng ta đang làm gì thế này, - Rick Durant càu nhàu, - đi bơi ở Hồ Hóng Chuyện à? Đừng nhắc tới nó nữa. Chúng ta giao hàng nửa triệu con búp bê xấu xí đó và bị trả lại hết.
- Đúng vậy, - tôi nói. - Vì thế mà ta có ba trăm nghìn vi mạch tích hợp chuyên dụng, màn hình LCD tinh thể lỏng độc quyền của Trion, nằm trong nhà kho tại Van Nuys.
Vài tiếng khúc khích, có cả tiếng hô hố bật ra rõ ràng. Một kỹ sư nói với người khác, đủ to để mọi người đều nghe được.
- Anh ta biết gì về đầu nối không vậy?
Người khác nói:
- Thật khôi hài.
Nora nhìn tôi, nhăn mặt thông cảm giả tạo, và nhún vai.
Eddie Cabral nói.
- Giá mà dễ như thế, ừm, Adam. Nhưng vi mạch tích hợp chuyên dụng không thay thế nhau được. Chúng phải tương thích đầu nối.
Tôi gật đầu.
- Vi mạch tích hợp chuyên dụng của Lucille dùng mảng đầu nối SOLC-68. Không phải cùng mảng nối với Guru sao?
Goddard trân trối nhìn tôi.
Chung quanh chỉ có những nhịp im lặng và tiếng lật giấy sột soạt.
- Đầu nối SOLC-68, - một kỹ sư nói. - Phải, dùng được đó.
Goddard nhìn quanh phòng, rồi vỗ bàn.
- Vậy thì được rồi, - ông nói. - Chúng ta còn đợi gì nữa?
Nora tươi cười ướt át với tôi và giơ ngón tay cái lên.

Trên đường về văn phòng, tôi lại lấy điện thoại di động ra. Năm tin nhắn, tất cả đều từ cùng một số, và một được ghi “Riêng tư”. Tôi bật thư thoại lên và nghe thấy tiếng Meacham, cái giọng xun xoe không lẫn đi đâu được.
Arthur đây. Tôi không nghe được tin gì từ anh trong ba ngày qua. Không chấp nhận được. Gửi thư cho tôi ngay trưa nay nếu không sẽ đón nhận hậu quả”.
Tôi giật mình. Chuyện hắn gọi tôi, đó là việc mạo hiểm sự an toàn dù cuộc gọi được định tuyến như thế nào đi nữa, đủ cho thấy hắn nghiêm túc ra sao.
Hắn nói đúng: tôi không giữ liên lạc. Nhưng tôi không định bắt lại liên lạc. Xin lỗi nhé, anh bạn.
Tin tiếp theo từ Antwoine, giọng cao và căng thẳng. “Adam, anh phải đến bệnh viện ngay”, anh nói trong tin đầu tiên. Tin thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm - tất cả đều của Antwoine. Giọng anh càng lúc càng cấp bách.
Adam, anh ở chỗ quái quỷ nào vậy? Thôi nào, trời ạ. Đến đây ngay bây giờ đi”.

Tôi qua văn phòng của Goddard - ông vẫn còn nói chuyện phiếm với vài người trong đội Guru - và bảo Flo, “Chị bảo giùm Jock tôi có việc khẩn cấp nhé? Việc của bố tôi”.

70

Tôi đã biết chuyện gì xảy ra ngay từ trước khi tới đó, dĩ nhiên, nhưng tôi vẫn lái xe như phát điên. Từng cột đèn đỏ, từng xe rẽ trái, từng biển hiệu hai-mươi-dặm-một-giờ-vào-năm-học- mọi thứ hùn vào trì hoãn tôi, không cho tôi đến bệnh viện gặp bố trước khi ông mất.
Tôi đỗ sai chỗ vì tôi không có thời gian đi quanh bãi đỗ xe bệnh viện để tìm chỗ trống, rồi chạy vào cửa phòng cấp cứu, thúc toang cửa theo cách mà kỹ thuật viên y tế khẩn cấp làm khi đẩy cáng chở bệnh nhân, và lao tới bàn tiếp phòng cấp cứu. Người trực bàn mặt mày sưng sỉa đang nói chuyện điện thoại, vừa nói vừa cười, rõ ràng là cuộc gọi cá nhân.
- Frank Cassidy? - tôi hỏi.
Cô ta nhìn tôi và tiếp tục tán gẫu.
- Francis Cassidy! - tôi hét lên. - Ông ấy đâu?
Cô ta bực bội đặt điện thoại xuống và liếc vào màn hình máy tính. “Phòng ba”.

Tôi lao qua khu vực đợi, kéo cánh cửa nặng nề vào phòng bệnh và thấy Antwoine ngồi trên ghế cạnh tấm màn xanh. Khi anh nhìn thấy tôi, anh chỉ ngây ra, không nói gì, và tôi thấy được mắt anh đỏ ngầu. Rồi anh lắc đầu chậm khi tôi tới gần và nói:
- Tôi rất tiếc, Adam.

Tôi giật màn ra và thấy bố đang ngồi trên giường, mắt mở, và tôi nghĩ, Anh thấy không, anh nhầm rồi, Antwoine, ông ấy vẫn còn ở với chúng ta, ông già quái gở, cho tới khi tôi nhận ra da mặt ông màu rất lạ, hơi màu vàng sáp, và miệng ông mở, một điều kinh khủng. Không biết vì sao tôi trân trối nhìn nó; miệng ông mở theo cách không bao giờ xảy ra khi người ta còn sống, cứng lại trong một hơi thở hổn hển đau đớn, hơi thở tuyệt vọng cuối cùng, giận dữ, gần như hầm hè.
- Ôi, không, - tôi rên lên.
Antwoine đứng phía sau đặt tay lên vai tôi.
- Họ thông báo mười phút trước.
Tôi chạm vào mặt bố, gò má man mát trắng bợt. Không lạnh buốt, không ấm áp. Mát hơn vài độ so với thông thường, nhiệt độ bạn không bao giờ cảm nhận được ở người sống. Làn da như đất sét nặn, không sinh khí.
Hơi thở như rời bỏ tôi. Tôi không thở nổi; tôi cảm thấy như ở trong chân không. Ánh sáng như lung linh. Đột nhiên tôi òa lên.
- Bố ơi. Không.
Tôi trân trối nhìn bố qua đôi mắt nhòa đẫm nước mắt, chạm vào trán ông, má ông, chỗ da thô ráp đỏ ửng trên mũi với lông đen nhỏ trồi ra khỏi lỗ chân lông, rồi tôi cúi xuống hôn lên gương mặt giận dữ của ông. Nhiều năm trời tôi đã hôn trán hay bên mặt bố, dù ông hiếm khi đáp lại, nhưng tôi luôn chắc chắn mình có thấy chút hài lòng bí mật thoáng qua trong mắt ông. Dĩ nhiên giờ ông thực sự không đáp lại được nữa rồi, điều đó khiến tôi chết lặng.
- Tôi muốn anh có cơ hội tạm biệt ông ấy, - Antwoine nói. Tôi nghe thấy giọng anh, cảm thấy nó run lên, nhưng không thể quay lại nhìn. - Ông lại suy hô hấp, và lần này tôi thậm chí còn không lãng phí thời gian tranh cãi với ông, tôi gọi cấp cứu ngay, ông hổn hển dữ lắm. Họ bảo ông bị viêm phế quản, và có lẽ đã được một thời gian. Họ cứ tranh cãi mãi có nên đặt ống cho ông không, nhưng họ không có cơ hội làm thế. Tôi cứ gọi, gọi mãi cho anh.
- Tôi biết.
- Có một ít thời gian... Tôi muốn anh được tạm biệt ông.
- Tôi biết. Không sao đâu.
Tôi nuốt nước bọt. Tôi không muốn nhìn Antwoine, không muốn thấy mặt anh, bởi nghe giống như anh đang khóc, mà tôi thì không chịu nổi điều đó. Và tôi không muốn anh thấy tôi khóc, dù tôi biết thế là ngu ngốc. Ý tôi là nếu bạn không khóc khi bố mình mất, thì bạn bị làm sao đó rồi.
- Ông có... nói gì không?
- Phần lớn là chửi thề.
- Ý tôi là ông có...
- Không, - Antwoine nói chậm chạp. - Ông ấy không hỏi anh. Nhưng anh biết đấy, không hẳn là ông có nói gì cả, ông...
- Tôi biết rồi.
Tôi muốn anh ấy đừng nói nữa.
- Hầu như ông chỉ chửi mắng bác sĩ, và tôi...
- Được rồi, - tôi nói, nhìn mặt bố. - Tôi không thấy ngạc nhiên.
Trán ông cứng lại đầy nhăn nhúm, cau có giận dữ. Tôi với lên và chạm vào những nếp nhăn, cố vuốt chúng mềm ra nhưng không thể.
- Bố, - tôi nói. - Con xin lỗi.
Tôi không biết mình có ý gì khi nói như thế. Tôi xin lỗi điều gì? Đã đến lúc ông phải ra đi, và ông mất còn tốt hơn sống trong đau đớn triền miên.

Màn bên kia giường được kéo lại. Một người da ngăm đen mặc áo xanh y tế đeo ống nghe xuất hiện. Tôi nhận ra anh ta là bác sĩ Patel đã gặp lần trước.
- Adam, - anh nói. - Tôi rất tiếc.
Anh ấy có vẻ thật lòng thương tiếc.
Tôi gật đầu.
- Ông ấy bị viêm phế quản nặng, - bác sĩ Patel nói. - Chắc đã ủ bệnh được một thời gian, dù trong lần nhập viện trước, lượng bạch cầu trong máu không chỉ ra điều gì bất thường.
- Được rồi, - tôi nói.
- Trong tình trạng của mình, bệnh quá sức ông ấy. Cuối cùng, ông bị nhồi máu cơ tim, thậm chí trước khi chúng tôi kịp quyết định có nên luồn ống vào khí quản cho ông không. Cơ thể ông không chịu nổi căn bệnh.
Tôi lại gật đầu. Tôi không muốn biết chi tiết; để làm gì cơ chứ?
- Như thế cũng là tốt nhất, ông có thể phải thở máy hàng tháng trời. Chắc anh cũng không muốn thấy cảnh như vậy.
- Tôi hiểu. Cảm ơn. Tôi biết các anh đã làm tất cả những gì có thể.
- Chỉ có - chỉ có mình ông ấy, đúng không? Anh chỉ còn mình ông à? Anh không có anh chị em gì?
- Đúng vậy.
- Hai người hẳn rất thân thiết.
Thật sao? Tôi nghĩ. Và anh biết thế... nhờ? Đó là ý kiến chuyên môn y khoa chăng? Nhưng tôi chỉ gật đầu.
- Adam, anh có muốn chúng tôi gọi tới nhà tang lễ nào không?
Tôi cố nhớ tên nhà tang lễ khi mẹ mất. Một vài giây sau tôi nhớ ra.
- Cứ cho chúng tôi biết nếu chúng tôi giúp gì được anh, - bác sĩ Patel nói.
Tôi nhìn cơ thể bố, hai nắm tay siết chặt, vẻ mặt tức tối, đôi mắt tròn trân trối, miệng mở to. Rồi tôi ngước lên bác sĩ Patel và bảo.
- Anh xem anh giúp ông nhắm mắt lại được không?

71

Khoảng một tiếng sau, người ở nhà tang lễ đến và đưa bố vào túi đựng thi thể, rồi đưa ông đi bằng cáng. Họ gồm hai người dễ chịu, chắc nịch, tóc cắt ngắn, và cả hai đều nói, “Tôi xin chia buồn với anh”. Tôi lấy di động gọi giám đốc nhà tang lễ, và lặng lẽ bàn về những chuyện tiếp theo. Ông ta cũng nói, “Tôi xin chia buồn với anh”. Ông muốn biết liệu có họ hàng lớn tuổi nào từ xa đến không, tôi muốn tang lễ cử hành vào khi nào, liệu bố tôi có đi lễ tại một nhà thờ nào không, phỏng như tôi muốn đám tang diễn ra ở đó. Ông hỏi gia đình đã có điểm chôn cất chưa. Tôi nói cho giám đốc nhà tang lễ nơi mẹ tôi an táng, và tôi đoán chắc bố đã mua hai vị trí, một cho mẹ và một cho ông. Giám đốc nhà tang lễ bảo sẽ liên hệ với nghĩa trang, ông muốn biết khi nào tôi tới để hoàn tất sắp xếp.

Tôi ngồi xuống khu đợi cấp cứu và gọi tới văn phòng. Jocelyn đã biết bố tôi phải cấp cứu gì đó, và chị bảo:
- Bố anh thế nào rồi?
- Ông vừa qua đời, - tôi nói. Đó là cách bố tôi vẫn nói: người ta “qua đời”, họ không chết.
- Ôi, - Jocelyn kêu lên. - Adam, tôi rất tiếc.
Tôi bảo chị hủy lịch hẹn cho vài ngày tới, rồi yêu cầu chuyển máy tới Goddard. Flo cầm máy và nói:
- Chào anh. Sếp ra khỏi văn phòng rồi - tối nay ông sắp bay sang Tokyo.
Rồi hạ giọng, chị hỏi:
- Bố anh thế nào rồi?
- Ông vừa qua đời, - tôi nói nhanh. - Hiển nhiên tôi phải nghỉ làm vài ngày, và tôi muốn chị chuyển dùm lời xin lỗi trước cho Jock...
- Dĩ nhiên, - chị nói. - Dĩ nhiên. Xin chia buồn. Tôi chắc sếp sẽ hỏi trước khi lên máy bay, nhưng tôi biết sếp sẽ thông cảm thôi, đừng lo nhé.

Antwoine tới khu đợi, trông lạc lõng, mất phương hướng.
- Giờ anh muốn tôi làm gì? - anh nhẹ nhàng hỏi.
- Không làm gì cả, Antwoine ạ.
Anh ngập ngừng:
- Anh muốn tôi dọn đồ đi không?
- Không, thôi nào. Anh từ từ cũng được.
- Chỉ là chuyện này đột ngột quá, và tôi không có chỗ nào khác...
- Cứ ở căn hộ đó bao lâu cũng được, - tôi nói.
Anh đổi chân trụ.
- Mà ông có nhắc tới anh, - anh bảo.
- Ờ, chắc chắn rồi, - tôi nói. Anh rõ ràng thấy áy náy vì bảo tôi rằng cuối cùng bố không tìm tôi. - Tôi biết vậy.
Một tiếng cười nhẹ, dịu dàng.
- Không phải lúc nào cũng tích cực, nhưng tôi nghĩ đó là cách ông bày tỏ tình thương của mình, anh biết mà?
- Tôi biết.
- Cha anh đúng là một lão già kiên cường đấy.
- Phải.
- Chúng tôi mất một ít thời gian để mọi chuyện suôn sẻ.
- Ông cũng quá đáng với anh.
- Chỉ là tính ông như vậy, anh biết mà. Tôi không để bụng.
- Anh chăm sóc ông, - tôi nói. - Với ông điều đó rất có ý nghĩa dù ông không thể nói ra.
- Tôi biết, tôi biết. Đến cuối cùng thì đại thể là giữa chúng tôi cũng có được một mối quan hệ.
- Ông quý anh.
- Chuyện đó thì tôi không biết đúng không, nhưng chúng tôi đã có một mối thân tình.
- Không, tôi nghĩ ông quý anh. Tôi biết vậy.
Anh ngừng lời.
- Ông là một người tốt.
Tôi không biết phải đáp lại như thế nào. Cuối cùng tôi cất lời:
- Anh thực sự rất tốt với ông, Antwoine, - cuối cùng tôi nói. - Tôi biết điều đó có ý nghĩa với ông rất nhiều.

Thật buồn cười: sau lần đầu tiên bật khóc bên giường bệnh của bố, trong tôi có cái gì đó đóng lại. Tôi không khóc nữa, trong một thời gian dài. Tôi cảm thấy như một cánh tay tê dại, đờ đẫn, đau như kim châm sau khi bị nằm đè lên cả đêm.
Trên đường lái xe tới nhà tang lễ, tôi gọi Alana vào máy công ty, và nhận được thư thoại, nhắn rằng em “không ở nơi làm” nhưng sẽ thường xuyên kiểm tra tin nhắn. Tôi nhớ em tới Palo Alto. Tôi gọi số di động, và em trả lời ngay hồi chuông đầu tiên.
- Alana đây.
Tôi yêu giọng em: nó nhẹ nhàng êm dịu, thoáng chút khàn khàn.
- Adam đây.
- À, đồ khốn.
- Anh làm gì chứ?
- Không phải anh nên gọi cho con gái buổi sáng sau khi ngủ với cô ta hay sao, làm cô ta đỡ thấy tội lỗi vì đã lả lơi?
- Chúa ơi, Alana, anh...
- Có người còn gửi cả hoa, - em nói tiếp, lời lẽ đâu ra đấy. - Không phải em từng trải qua chuyện đó, nhưng em đọc được như thế trong tờ Cosmo.
Dĩ nhiên em đúng: Tôi chưa gọi cho em, hoàn toàn khiếm nhã.
Nhưng tôi phải nói gì với em, sự thật?
Rằng tôi không gọi cho em vì tôi đông cứng cả người như con côn trùng bị mắc trong hổ phách, và tôi không biết phải làm sao?
Rằng tôi không tin nổi mình may mắn thế nào mới tìm được một người phụ nữ như em - em là một vết ngứa tôi không thể ngừng gãi - và thế mà tôi thấy mình như một thằng lừa đảo hoàn toàn và cực kỳ ác độc? Phải, tôi nghĩ, em đã đọc trong tờ Cosmo bọn đàn ông Sở Khanh như thế nào, cưng ơi, nhưng em không ngờ nổi đâu.
- Palo Alto ra sao rồi?
- Tương đối, nhưng anh không chuyển chủ đề dễ như thế được đâu.
- Alana, - tôi nói, - Nghe này. Anh muốn nói cho em biết - anh có chuyện buồn. Bố anh vừa qua đời.
- Ôi, Adam. Ôi, em rất tiếc. Chúa ơi. Giá mà em ở đó.
- Anh cũng ước vậy.
- Em làm được gì không?
- Đừng lo chuyện đó. Không cần gì cả.
- Anh biết... tang lễ cử hành khi nào?
- Vài ngày tới.
- Em sẽ ở đây tới thứ Năm. Adam, em rất tiếc.

Tiếp theo tôi gọi Seth, cậu ấy cũng nói gần như thế.
- Ôi trời, anh bạn, tao rất tiếc. Tao làm được gì không?
Người ta ai cũng nói vậy, và cũng tốt, nhưng rồi bạn bắt đầu tự hỏi, có gì để làm chứ? Đâu phải tôi muốn món thịt hầm. Tôi còn chẳng biết mình muốn gì.
- Không cần gì đâu, thật đấy.
- Thôi nào, tao có thể xin nghỉ ở công ty luật. Không lo gì cả.
- Không, được rồi mà, cảm ơn mày nhé.
- Sẽ có tang lễ gì đó chứ?
- Ờ, có thể. Tao sẽ báo cho mày biết.
- Giữ gìn nhé, anh bạn?

Rồi điện thoại reo lên trong tay tôi. Meacham không chào gì cả. Lời đầu tiên của hắn là:
- Mày lẩn đi chỗ chết tiệt nào rồi hả?
- Bố tôi vừa qua đời. Khoảng một giờ trước.
Một quãng im lặng dài.
- Trời, - hắn nói. Rồi hắn thêm vào cứng nhắc, như thể mãi sau mới nghĩ ra. - Rất tiếc nghe tin đó.
- Vâng, - tôi nói.
- Thật không đúng thời điểm.
- Phải, - tôi nói, bừng lên tức giận. - Tôi đã bảo ông ấy đợi.
Rồi tôi bấm KẾT THÚC.

72

Giám đốc nhà tang lễ cũng là người đã sắp xếp đám tang của mẹ tôi. Ông tử tế, nồng nhiệt, tóc đen đậm và hàng ria rậm cứng. Tên ông ta là Frank - “cùng tên với bố cậu”, như lời ông nói. Ông dẫn tôi vào phòng khách của nhà tang lễ, trông giống như nhà ở ngoại ô chưa có đồ đạc đầy đủ, với thảm phương Đông và đồ sẫm màu, một vài phòng trên hành lang chính. Văn phòng ông nhỏ và tối, với tủ hồ sơ bằng thép lỗi thời và vài bức tranh sao chép đóng khung vẽ hình thuyền và phong cảnh. Ông không có điểm nào giả tạo; thực sự tỏ ra thông hiểu tôi. Frank kể chút ít về lúc bố ông mất, sáu năm trước, và bảo chuyện đó khó khăn như thế nào. Ông đưa tôi một hộp khăn giấy Kleenex nhưng tôi không cần. Ông ghi chép về cáo phó trên báo - tôi thầm tự hỏi ai sẽ đọc nó, ai sẽ thực sự quan tâm - và chúng tôi chọn xong lời lẽ. Tôi cố nhớ tên chị của bố, bà cũng đã mất rồi, cả tên bố mẹ ông, người tôi gặp không đến mười lần trong đời, và chỉ biết gọi là “bà nội” và “ông nội”. Quan hệ của bố với ông bà căng thẳng, nên chúng tôi hiếm khi gặp họ. Tôi hơi lờ mờ về lịch sử công việc dài và phức tạp của bố, nên tôi có thể đã bỏ qua trường ông từng dạy, nhưng tôi nhớ được những nơi quan trọng.
Frank hỏi về lý lịch quân sự của bố, và tôi chỉ nhớ rằng ông từng tham gia huấn luyện cơ bản ở doanh trại nào đó và chưa từng đi đâu đánh trận, và ông ghét quân đội thậm tệ. Frank hỏi liệu tôi muốn phủ cờ lên quan tài không, bố tôi có quyền được như thế vì là cựu chiến binh, nhưng tôi bảo không. Bố hẳn sẽ không muốn có cờ trên quan tài mình. Ông hẳn sẽ xỉ vả điều đó, hẳn sẽ nói những điều như, “Mày nghĩ tao là ai, John F. Kennedy nằm trong tang lễ cấp liên bang khốn kiếp à?”. Frank hỏi liệu tôi muốn quân đội chơi điệu “Taps” không, bố cũng có quyền được như thế, và ông bảo thời nay không có lính kèn, và họ thường bật đĩa thu ở bên mộ. Tôi bảo không, bố cũng sẽ không muốn “Taps” đâu. Tôi bảo Frank rằng mình muốn tang lễ và những chuyện khác tổ chức càng sớm càng tốt, ngay khi ông sắp xếp được. Tôi muốn cố nhanh cho xong.
Frank gọi nhà thờ Thiên Chúa nơi chúng tôi tổ chức đám tang cho mẹ tôi và lên kế hoạch lễ tang vào hai ngày tới. Không có họ hàng nào ngoài thành phố, ít nhất như tôi biết; những người duy nhất còn lại là vài người anh em họ và một bà cô ông chả gặp bao giờ. Có vài người tôi cho có thể coi là bạn ông, dù họ chưa nói chuyện với nhau hàng năm trời rồi; họ đều sống quanh đây. Frank hỏi bố tôi có y phục nào tôi muốn chôn cùng ông không. Tôi bảo có thể. Tôi sẽ xem lại.
Rồi Frank đưa tôi xuống cầu thang tới một dãy phòng trưng bày quan tài. Tất cả đều to và sặc sỡ, đúng kiểu bố hẳn sẽ lấy ra làm trò cười. Tôi còn nhớ hồi mẹ tôi mất, ông từng rủa xả ngành tang lễ và coi nó là trò gian lận khổng lồ, về cách người ta bơm giá cắt cổ cho các cỗ quan tài đằng nào cũng bị chôn xuống đất, thế thì để làm gì chứ, ông còn nghe nói họ thường thay thế quan tài đắt tiền bằng đồ rẻ tiền bằng gỗ thông khi bạn không để ý. Tôi biết không đúng vậy - tôi đã thấy quan tài của mẹ hạ xuống, và đất được xúc lên, và tôi không nghĩ có vụ lừa đảo nào xảy ra nổi trừ phi người ta đến lúc nửa đêm và đào nó lên, tôi thấy khó tin lắm.
Vì sự ngờ vực này - dù sao cũng là cái cớ của ông - bố chọn quan tài thuộc loại rẻ nhất cho mẹ, gỗ thông rẻ tiền nhuộm cho giống gỗ gụ. “Tin tao đi”, ông nói với tôi ở nhà tang lễ khi mẹ tôi mất, khi tôi còn đang khóc sướt mướt. “Mẹ mày không thích lãng phí tiền bạc đâu”.
Nhưng tôi sẽ không làm thế với ông, dù ông đã mất và không biết được sự khác biệt. Tôi lái xe Porsche, tôi sống trong căn hộ khổng lồ ở Harbor Suites, và tôi có thể mua được một cỗ quan tài tốt cho bố mình. Với số tiền tôi kiếm được từ công việc ông không ngừng xỉ vả. Tôi chọn quan tài gỗ gụ trông sang trọng, bên trong có thứ được gọi là “hộp kỷ niệm”, một ngăn tủ để người ta đặt những đồ từng thuộc về người đã khuất.
Vài giờ sau, tôi lái về nhà và trèo lên cái giường chẳng bao giờ được dọn dẹp và lăn ra ngủ. Cuối ngày hôm đó, tôi lái tới căn hộ của bố và lục lọi trong tủ quần áo, tôi chắc khá lâu rồi không ai mở nó ra, và thấy một bộ com lê màu xanh trông rẻ tiền tôi chưa thấy ông mặc bao giờ. Trên mỗi vai đều có dải bụi. Tôi tìm được áo sơ mi nhưng không có cà vạt - tôi không nghĩ ông từng bao giờ đeo cà vạt - nên tôi quyết định lấy một cái của mình. Tôi lục khắp căn hộ tìm những thứ mình nghĩ ông muốn chôn cùng. Một bao thuốc lá, có lẽ vậy.
Tôi cứ sợ đến căn hộ sẽ khó khăn lắm, rồi tôi sẽ lại bật khóc. Nhưng tôi chỉ buồn não lòng khi thấy những gì ông để lại ít ỏi như thế nào - mùi thuốc lá phảng phất, xe lăn, ống thở, ghế bành hiệu Barcalounger. Sau nửa tiếng khổ sở trong đống đồ của ông, tôi bỏ cuộc và quyết định mình sẽ không đặt gì vào “hộp kỷ niệm”. Cứ để nó trống trỗng như một biểu tượng, sao lại không?
Khi về đến nhà, tôi lấy chiếc cà vạt mình ít yêu thích nhất, cà vạt xanh-và-trắng trông vừa đủ u sầu, và tôi không tiếc bỏ đi. Tôi không muốn quay lại nhà tang lễ nên mang nó xuống bàn của người giữ cửa và bảo đem chuyển nó đi.

Ngày hôm sau là ngày viếng người đã khuất. Tôi tới nhà tang lễ sớm hơn bắt đầu hai mươi phút. Nơi này bật điều hòa tới mức gần như lạnh buốt, và sực mùi chất làm thơm phòng. Frank hỏi tôi muốn “kính viếng” bố một mình không, và tôi đồng ý. Ông chỉ về một căn phòng bên kia hành lang. Khi vào phòng, thấy quan tài đang mở, tôi như bị giật điện. Bố nằm đó mặc bộ com lê rẻ tiền màu xanh và đeo cà vạt sọc xanh của tôi, tay vắt chéo trên ngực. Tôi thấy cổ họng mình sưng lên, nhưng thoáng qua nhanh chóng, và tôi không bật khóc, thật lạ lùng. Tôi chỉ thấy trống rỗng.
Ông nhìn không thật chút nào, nhưng người ta chẳng bao giờ, chẳng bao giờ như thế cả. Frank hay bất cứ ai chịu trách nhiệm đã làm tốt việc mình - không bôi quá nhiều sáp môi hay gì đó - nhưng trông bố vẫn giống một bức tượng trưng bày bằng sáp trong viện bảo tàng Madame Tussaud, giữa những hình nhân giống thật nhất. Sinh khí đã rời khỏi cơ thể và người làm tang lễ không thể làm gì để đưa nó quay trở lại. Mặt ông “hồng hào” giả tạo.
Dường như trên môi điểm son nâu nhạt. Ông nhìn ít giận dữ hơn khi ở bệnh viện, nhưng họ vẫn không thể làm ông trông thanh thản được. Tôi đoán họ chỉ làm được có hạn để duỗi đôi lông mày khỏi nhăn lại. Da ông giờ đây lạnh giá, và bợt bạt hơn lúc ở bệnh viện. Tôi do dự một lúc rồi hôn má ông; cảm giác lạ lùng, không tự nhiên, không sạch sẽ.
Tôi đứng đó nhìn cái vỏ xác thịt, cái bao bị vứt bỏ này, đó là cái kén từng chứa đựng linh hồn bí ẩn và đáng sợ của bố mình. Và tôi bắt đầu nói chuyện với ông, vì tôi đoán hầu hết tất cả những người con đều nói chuyện với bố khi ông mất. “Bố ạ”, tôi nói. “Cuối cùng bố cũng rời khỏi đây. Nếu thực sự có cuộc sống sau khi chết, con hy vọng bố sẽ hạnh phúc ở đó hơn nơi này”.
Tôi thấy thương tiếc cho ông, có lẽ đó là điều tôi không bao giờ cảm nhận được khi ông còn sống. Tôi nhớ vài lần ông thực sự hạnh phúc, khi tôi còn nhỏ và ông kiệu tôi đi chơi. Rồi lần đội bóng của ông đoạt giải vô địch. Vài lúc như vậy. Nhưng ông hiếm khi cười, trừ khi phá lên điệu cười cay đắng. Có lẽ ông cần dùng thuốc chống suy nhược, có lẽ đó chính là vấn đề của ông, nhưng tôi ngờ lắm. “Con không hiểu được bố nhiều”, tôi nói. “Nhưng con thực sự đã cố hiểu”.

Chẳng mấy ai đến trong ba giờ đồng hồ đó. Có vài người bạn từ thời trung học của tôi, một số đi với vợ, và hai người bạn đại học. Bà dì Irene tới một lúc và bảo, “Bố cháu thật may mắn khi có cháu”. Giọng bà hơi mang chất Ailen và bà dùng loại nước hoa sặc mùi mà các quý bà nhiều tuổi hay dùng. Seth đến sớm và về muộn, ở bên cạnh tôi. Cậu ta kể chuyện về bố, cố làm cho tôi cười, những giai thoại từ thời ông còn làm huấn luyện viên, những chuyện đã thành truyền kỳ giữa bạn bè tôi ở trường Bartholomew Browning. Có lần ông lấy bút đánh dấu và vẽ một đường thẳng ngay giữa mặt nạ của một thằng nhóc, một đứa ngốc nghếch tên là Pelly, rồi xuống đồng phục tới tận giày, và xuống cỏ thành đường dài dọc sân bóng, thậm chí dù bút dánh dấu không để lại vết trên cỏ được, và ông nói, “Em chạy hướng này, Pelly, hiểu không? Đây là hướng em chạy”.
Có lần ông gọi hội ý rồi đi tới một cầu thủ bóng bầu dục tên là Steve, nắm lấy mặt nạ cậu ta và bảo, “Em có ngu không, Steve?”. Rồi không đợi Steve trả lời, ông giật mặt nạ lên xuống, khiến Steve gật đầu như con búp bê. “Có, thưa huấn luyện viên”, ông the thé giả giọng Steve. Cả đội thấy hài hước và phần lớn phá lên cười. “Có, em ngu”.
Có ngày ông gọi hội ý giữa trận khúc côn cầu và la mắng một thằng nhóc tên là Resnick vì chơi quá thô bạo. Ông vớ lấy gậy côn cầu của Resnick nói, “Anh Resnick, nếu tôi còn thấy anh đâm cầu thủ khác bằng chuôi gậy” - và ông thọc mạnh gậy vào bụng Resnick, ngay lập tức khiến nó bị nôn - “hay đầu gậy” - và ông lại thúc gậy vào bụng nó - “tôi sẽ tiêu diệt anh”. Và Resnick nôn ra máu, và rồi nôn khan. Không ai cười cả.
- Ờ, - tôi nói. - Ông thật vui tính nhỉ?
Lúc này tôi muốn cậu ta đừng kể nữa, và may mắn thay, Seth ngừng lời.

Buổi tang lễ sáng hôm sau, Seth ngồi bên cạnh tôi trên ghế nhà thờ, bên kia là Antwoine. Vị linh mục tóc bạc và đạo mạo, trông như một vị bộ trưởng trên ti vi, là Cha Josepth Iannucci. Trước đám tang, Cha gọi tôi sang bên và hỏi đôi chút về bố - “tín ngưỡng”, ông trông như thế nào, ông kiếm sống ra sao, ông có sở thích nào không, những câu hỏi như thế. Tôi bí rì rì.
Có khoảng hai mươi người trong nhà thờ, vài người là giáo dân đến dự tang lễ và không biết bố. Vài người khác là bạn tôi thời trung học và đại học, rồi bạn bè trong vùng và bà lão nhà bên cạnh. Một người “bạn” của bố đến, ông ta từng ở câu lạc bộ Kiwanis cùng bố cách đây nhiều năm, cho đến khi bố bỏ đi vì tức giận chuyện vặt vãnh nào đó. Ông thậm chí còn không biết bố bị ốm. Có vài anh em họ lớn tuổi tôi chỉ lờ mờ nhận ra.
Seth và tôi hộ tang cùng với những người ở nhà thờ và nhà tang lễ. Trước cửa nhà thờ có một vòng hoa - tôi không biết tại sao nó lại ở đấy, có người gửi hoa hay do nhà tang lễ mang đến.
Đám tang là nghi lễ dài không tưởng nổi, đầy đứng lên với ngồi xuống và quỳ, có lẽ để bạn không ngủ gục. Tôi mệt lử, mờ mịt, vẫn còn sốc nặng. Cha Iannucci gọi bố là “Francis” và vài lần đọc tên đầy đủ của ông, “Francis Xavier”, như thể muốn bảo ông là tín đồ Thiên Chúa ngoan đạo chứ không phải lão vô thần mà mối liên hệ duy nhất với Chúa là gọi tên Người trong những lời rỗng tuếch. Cha nói, “Chúng ta đều thương tiếc khi phải chia tay với Francis, chúng ta đau buồn trước sự ra đi của ông, nhưng chúng ta tin rằng ông đến với Chúa, rằng ông tới một nơi tốt đẹp hơn, và giờ ông cùng chia sẻ sự hồi sinh của Chúa bằng một cuộc sống mới”. Cha hỏi, “Tại sao Francis phải chịu đựng nhiều như vậy trong những tháng cuối cùng của cuộc đời?”, rồi trả lời điều gì đó về sự chịu đựng của Chúa và nói “Chúa không bị đánh bại hay khuất phục trước khổ đau”. Tôi không rõ ông muốn nói điều gì, nhưng tôi cũng không lắng nghe lắm. Tôi thần người đi.
Khi kết thúc, Seth ôm tôi, rồi Antwoine ôm và bắt tay tôi thật chặt, và tôi ngạc nhiên khi thấy một giọt nước mắt rớt xuống trên mặt anh chàng to con này. Tôi không khóc suốt cả buổi lễ; tôi không hề khóc cả ngày hôm nay. Tôi thấy mình như bị gây mê. Có lẽ với tôi chuyện đã qua rồi.
Dì Irene run rẩy ra chỗ tôi và nắm lấy tay tôi bằng cả hai tay mềm yếu da đã đồi mồi. Son đỏ chót trên môi bà được tô bằng bàn tay run rẩy.
Mùi nước hoa sặc sụa đến mức tôi phải nín thở.
- Bố cháu rất tốt, - bà nói. Bà dường như đọc được gì đó trên mặt tôi, sự nghi ngờ tôi không định để lộ, và bảo, - Ta biết ông không phải là người dễ dàng chấp nhận tình cảm của mình, ông không thoải mái khi biểu lộ cảm xúc. Nhưng ta biết ông yêu cháu.
Được rồi, nếu dì nhất định thế, tôi nghĩ, rồi cười và cảm ơn bà.
Ông bạn của bố ở Kiwanis, một người to lớn trạc tuổi bố nhưng nhìn phải trẻ hơn tới hai mươi tuổi, nắm lấy tay tôi và bảo:
- Xin chia buồn với cháu.
Thậm chí cả Jonesie, người công nhân ở khu bốc dỡ của hãng Viễn thông Wyatt cũng đến với vợ, Esther. Cả hai đều nói chia buồn với tôi.

Tôi đang rời nhà thờ, chuẩn bị vào xe limousine để theo xe tang đến nghĩa trang thì thấy một người ngồi ở hàng ghế cuối. Người này tới sau khi tang lễ bắt đầu một lúc, nhưng từ xa, dưới ánh đèn tối bên trong nhà thờ, tôi không nhìn rõ mặt ông.
Ông quay lại và bắt gặp ánh mắt tôi.
Đó là Goddard.

Tôi không tin nổi. Ngạc nhiên và cảm động, tôi chầm chậm bước đến chỗ ông. Tôi mỉm cười, cảm ơn ông đã tới. Ông lắc đầu, xua tay từ chối lời cảm ơn.
- Tôi tưởng ông ở Tokyo? - tôi nói.
- Ôi dào, đâu phải bộ phận châu Á Thái Bình Dương chưa bắt tôi đợi hết lần này đến lần khác.
- Tôi không... - Tôi lóng ngóng, hoài nghi. - Ông xếp lại lịch công tác?
- Một trong những điều ít ỏi tôi học được trên đời là biết xác định thứ tự ưu tiên quan trọng như thế nào.
Tôi không nói nổi nên lời trong phút chốc.
- Sáng mai tôi sẽ quay lại công ty, - tôi nói. - Có lẽ hơi muộn, vì chắc tôi phải giải quyết một số chuyện...
- Không sao, - ông bảo. - Cứ từ tốn mà làm. Chậm thôi.
- Tôi ổn rồi, thật đó.
- Nên tử tế với chính mình, Adam. Chúng ta sẽ xoay xở được khi vắng anh ít lâu.
- Không phải - không giống chuyện với con trai ông đâu, Jock. Ý tôi là bố tôi đã ốm yếu vì bệnh khí thũng khá lâu rồi, và... thế này thực tốt hơn. Ông ấy cũng muốn ra đi.
- Tôi biết cảm giác đó, - ông khẽ khàng nói.
- Chúng tôi thực tình cũng không thân thiết đến thế. - Tôi nhìn quanh bên trong nhà thờ tối lờ mờ, những hàng ghế gỗ, các bức tranh vàng và đỏ trên tường. Vài người bạn đang đứng ở cửa đợi nói chuyện với tôi. - Tôi có lẽ không nên nói như vậy, đặc biệt là ở đây, đúng không? - Tôi cười buồn bã. - Nhưng ông ấy không phải là người dễ gần, ông già khắc nghiệt, như thế chuyện ông mất với tôi cũng dễ dàng hơn. Tôi cũng không suy sụp hoàn toàn hay gì cả.
- Ồ, không, như thế càng khó khăn hơn, Adam. Rồi anh sẽ thấy. Khi mà tình cảm của anh lại phức tạp đến thế.
Tôi thở dài.
- Tôi không nghĩ tình cảm của mình với ông ấy là - từng là - phức tạp.
- Rồi sau nó sẽ ập tới. Những cơ hội bỏ lỡ. Những điều có thể đã xảy ra. Nhưng tôi muốn anh nhớ như thế này: Bố anh thật may mắn mới có anh.
- Tôi không cho là ông ấy nghĩ mình...
- Đúng vậy. Bố anh, ông ấy là người may mắn.
- Tôi chẳng nghĩ thế đâu, - tôi nói, và đột nhiên, không hề báo trước, cái van bị khóa trong tôi trượt đi, con đập vỡ tan, nước mắt tôi trào lên. Mặt đỏ bừng xấu hổ vì nước mắt cứ chảy xuống mặt, tôi thốt lên, - Xin lỗi, Jock.
Ông đưa cả hai tay lên đặt trên vai tôi.
- Nếu anh không khóc được, anh không còn sống nữa, - Goddard nói. Mắt ông ươn ướt.
Giờ tôi khóc như đứa bé, và tôi vừa xấu hổ vừa có chút gì nhẹ nhõm. Goddard vòng tay ôm chặt lấy tôi, và tôi thổn thức như thằng ngốc.
- Tôi muốn anh biết điều này, con trai, - ông nói, rất khẽ khàng. - Anh không đơn độc đâu.

73

Ngay sau ngày tang lễ tôi quay lại làm việc. Tôi làm được gì chứ, quanh quẩn ủ rũ ở nhà ư? Tôi không suy sụp đến thế, dù tôi thấy trầy trật, như đã bị tước đi một lớp da. Tôi cần ở xung quanh mọi người. Và có lẽ, giờ sau khi bố mất, ở cạnh Goddard sẽ khiến tôi được an ủi, ông bắt đầu trở thành điều gần với người bố nhất mà tôi từng có. Không phải tôi bị mụ mị đi như đang ngồi trước mặt bác sĩ tâm lý, nhưng có chuyện đã thay đổi, với tôi, sau khi ông tới lễ tang. Tôi không còn tự mâu thuẫn hay có thái độ hai chiều về cái gọi là nhiệm vụ thực của mình ở Trion, “lý do thật sự” mình ở đây - bởi nó không còn là lý do thật sự nữa.

Ít nhất theo tính toán của tôi, tôi đã làm phần mình, trả xong nợ, và tôi xứng đáng được có một quá khứ sạch sẽ. Tôi không còn làm việc cho Nick Wyatt nữa. Tôi ngừng trả lời điện thoại hay thư điện tử của Meacham. Một lần tôi thậm chí còn nhận được thư thoại trên điện thoại di động từ Judith Bolton. Ả không để lại tên, nhưng tôi nhận được giọng ngay lập tức. “Adam”, ả bảo. “Tôi biết anh đang trải qua một gian đoạn khó khăn. Tất cả chúng tôi đều rất buồn vì bố anh qua đời, và chúng tôi xin chia buồn sâu sắc với anh”.

Tôi có thể mường tượng cuộc họp chiến lược giữa Judith, Meacham và Wyatt, đầy tức giận và phẫn nộ vì con diều của chúng đã bứt khỏi dây. Judith sẽ nói gì đó rằng chúng nên nhẹ tay với hắn, hắn vừa mất bố, và Wyatt sẽ nói gì đó độc miệng, bảo lão chẳng thèm quan tâm, đồng hồ đã điểm rồi, và Meacham cố lấy điểm với sếp về chuyện chúng sẽ nướng tôi trên lửa và đập tôi tơi tả như thế nào; và Judith bảo không, chúng ta phải tiếp cận hắn khéo léo hơn, để tôi thử nắm bắt hắn...

Thư thoại tiếp tục, “Nhưng việc anh tiếp tục giữ liên hệ thường xuyên cực kỳ quan trọng, thậm chí ngay cả trong lúc rối ren này. Tôi muốn tất cả chúng ta giữ thái độ tích cực và thành thật, Adam, nhưng tôi cần anh liên lạc ngay hôm nay”.

Tôi xóa tin nhắn của cô ta cũng như của Meacham. Chúng sẽ hiểu vấn đề. Sẽ tới lúc tôi chính thức gửi thư điện tử cho Meacham để chấm dứt quan hệ, nhưng vào lúc này, tôi nghĩ mình cứ nhử chúng trong khi tình thế này thấm vào đầu chúng. Tôi không còn là con diều của Nick Wyatt nữa.
Tôi đã cho chúng những gì chúng cần. Chúng sẽ nhận ra cứng rắn cũng chẳng để làm gì.
Chúng có thể đe dọa, nhưng chúng không thể buộc tôi tiếp tục làm cho chúng. Miễn là tôi còn ghi nhớ chúng thực sự chẳng làm được gì, tôi có thể cứ thế bỏ đi.
Tôi chỉ cần ghi nhớ thật kỹ. Tôi có thể cứ thế bỏ đi.

74

Sáng hôm sau, điện thoại di động reo thậm trí trước khi tôi lái vào nhà để xe của Trion. Flo gọi.
- Jock muốn gặp anh, - chị nói, nghe khẩn cấp. - Ngay lập tức.
Goddard ngồi trong phòng họp phía sau với Camilletti, Colvin và Stuart Lurie, Phó Giám đốc cao cấp của bộ phận Phát triển Tập đoàn. Tôi từng gặp ông ở bữa tiệc ngoài trời của Jock.
Khi tôi vào, Camilletti đang nói.
- ... Không, theo những gì tôi nghe được thì thằng chó đó vừa bay tới Palo Alto ngày hôm qua, với bản điều khoản đã lập sẵn. Hắn ăn trưa với Hillman, Tổng Giám đốc, và đến bữa tối thì họ ký. Hắn ra giá ngang với lời chào của chúng ta từng đô một - phải nói là từng xu một - nhưng bằng tiền mặt!
- Sao chuyện chết tiệt này có thể xảy ra cơ chứ! - Goddard nổ tung. Tôi chưa bao giờ thấy ông giận giữ đến thế. - Delphos đã ký điều khoản hạn chế hợp tác, vì Chúa!
- Điều khoản hạn chế hợp tác lên lịch vào ngày mai - nó còn chưa được ký. Vì thế hắn mới bay ra đó nhanh như vậy, để hắn giành được vụ này trước khi chúng ta khóa nó.
- Chúng ta đang nói về ai vậy? - tôi nhỏ nhẹ hỏi và ngồi xuống.
- Nicholas Wyatt, - Stuart Lurie trả lời. - Hắn vừa mua Delphos ngay trước mũi chúng ta bằng năm trăm triệu đô tiền mặt.
Bụng tôi quặn lên. Tôi nhận ra tên Delphos nhưng nhớ đúng ra mình không được biết về nó. Wyatt mua Delphos? tôi nghĩ, sửng sốt.
Tôi quay sang Goddard, nhìn dò hỏi.
- Đó là công ty chúng ta đang trong giai đoạn mua lại - tôi từng bảo anh về họ, - ông sốt ruột nói. - Các luật sư của chúng ta chỉ vừa mới soạn thảo xong hợp đồng mua lại lần cuối...
Ông chùng xuống, rồi đột ngột cao giọng.
- Tôi thậm chí không tưởng được Wyatt lại có chừng ấy tiền trên bản cân đối kế toán!
- Họ có suýt soát một tỷ tiền mặt, - Jim Colvin nói. - Thực ra là tám trăm triệu. Nên năm trăm triệu gần như đã làm cạn con lợn tiết kiệm rồi, vì họ có ba tỷ nợ, và khoản trả nợ dễ phải tới hai trăm triệu một năm.
Goddard đập tay xuống bàn tròn.
- Chết tiệt! - ông gầm lên. - Wyatt làm được cái quái quỷ gì với một công ty như Delphos chứ? Hắn không có AURORA... Wyatt mà lại mạo hiểm công ty mình như vậy, hoàn toàn không thể hiểu được, trừ phi hắn chỉ đơn thuần muốn chọc ngoáy chúng ta.
- Một điều hắn vừa làm thành công rồi, - Camilletti nói.
- Vì Chúa, không có AURORA, Delphos vô dụng! - Goddard nói.
- Không có Delphos, AURORA cũng hỏng, - Camilletti nói.
- Biết đâu hắn biết về AURORA, - Colvin lên tiếng.
- Không thể nào! - Goddard nói. - Và thậm chí nếu hắn biết về nó, hắn cũng không có nó!
- Nếu hắn có thì sao? - Stuart Lurie đưa giả thuyết.
Im lặng rất lâu.
Camilletti từ tốn, mạnh mẽ nói.
- Chúng tôi bảo vệ AURORA với những nguyên tắc an ninh ngang với mức liên bang mà Bộ Quốc Phòng yêu cầu những nhà thầu cho chính phủ phải áp dụng khi xử lý các thông tin mật nhạy cảm. - Hắn trừng trừng nhìn Goddard gay gắt. - Tôi đang nói về tường lửa, giấy phép an ninh, bảo vệ mạng, truy cập bảo mật đa cấp - tất cả mọi phương pháp an toàn con người biết tới. Nó ở trong vùng im lặng. Hoàn toàn không có một khả năng chết tiệt nào.
- Chậc, - Goddard nói. - Không biết làm sao Wyatt đã biết các chi tiết về vụ đàm phán của chúng ta...
- Trừ phi, - Camilletti ngắt lời, - hắn có tay trong.
Dường như có ý tưởng nảy ra trong đầu hắn, và hắn nhìn tôi.
- Anh từng làm cho Wyatt, phải không?
Tôi thấy như máu dồn lên đầu, và để giấu điều đó, tôi giả vờ tức giận.
- Tôi từng làm ở Wyatt, - tôi gắt.
- Anh còn giữ liên lạc với hắn không? - hắn hỏi, mắt khoan sâu vào tôi.
- Anh định ám chỉ gì? - tôi đứng lên.
- Tôi chỉ hỏi anh một câu hỏi có-hay-không đơn giản - anh còn giữ liên lạc với Wyatt không? - Camilletti đốp lại. - Anh từng ăn tối với hắn ở nhà hàng Auberge cách đây không lâu, đúng chứ?
- Paul, đủ rồi, - Goddard nói. - Adam, anh ngồi ngay lập tức xuống đi. Adam không được tiếp cận chút nào với AURORA. Hay kể cả chi tiết về vụ đàm phán với Delphos. Tôi tin rằng hôm nay là lần đầu tiên Adam nghe nhắc tới tên công ty.
Tôi gật đầu.
- Tiếp tục nào, - Goddard nói. Ông đã hạ hỏa đi đôi chút. - Paul, tôi muốn anh nói chuyện với các luật sư của chúng ta, xem có thể trông cậy được gì. Xem chúng ta liệu có ngăn được Wyatt không. Giờ tới việc này, theo kế hoạch, AURORA được công bố trong bốn ngày nữa. Ngay khi thế giới biết chúng ta vừa làm được gì, người người sẽ điên loạn tranh giành mua nguyên vật liệu và hãng sản xuất suốt dọc chuỗi cung ứng chết tiệt này. Hoặc chúng ta hoãn ra mắt, hoặc... Tôi không muốn trở thành một phần của cuộc tranh giành đó. Chúng ta sẽ phải chụm đầu vào nhau và tìm kiếm cơ hội mua lại phù hợp nào khác...
-... Không ai có công nghệ đó ngoài Delphos! - Camilletti nói.
- Chúng ta đều là những người thông minh, - Goddard nói. - Luôn có khả năng khác.
Ông đặt tay lên tay ghế và đứng dậy.
- Các anh biết không, Ronald Reagan thường kể một câu chuyện về cậu bé tìm thấy đống phân và bảo, “Hẳn có ngựa ở quanh đây”. - Ông cười, và những người khác cũng lịch sự cười theo. Họ tỏ ra tán thưởng nỗ lực yếu ớt nhằm xoa dịu căng thẳng đó. - Chúng ta cùng làm việc thôi. Đi tìm con ngựa nào.

75

Tôi biết chuyện gì đã xảy ra.
Tôi nghĩ kỹ về mọi chuyện khi lái xe về nhà đêm đó, và càng nghĩ kỹ, tôi càng giận dữ, càng giận giữ tôi lại càng lái nhanh và ẩu hơn.
Nếu không phải vì tờ điều khoản tôi lấy từ hồ sơ của Camilletti, Wyatt đã không biết về Delphos, công ty Trion sắp mua. Càng nhắc mình điều này, tôi càng thấy tệ hại.
Chó chết, đến lúc phải cho Wyatt biết mọi chuyện kết thúc rồi. Tôi không còn làm việc cho chúng nữa.
Tôi mở khóa cửa căn hộ, bật đèn lên và đi thẳng ra máy tính để gửi thư điện tử.
Nhưng không.

Arnold Meacham đang ngồi ở máy tính để bàn, trong khi hai gã tóc đầu đinh bặm trợn đang lục tung nhà tôi. Đồ rải khắp mọi nơi. Sách đều bị lấy khỏi giá, máy chơi đĩa CD và DVD bị gỡ tung ra, thậm chí cả ti vi cũng vậy. Trông như thể ai đó vừa đập phá, ném mọi thứ lung tung, phá càng nhiều càng tốt, cố gây ra nhiều hư hại nhất.
- Cái quái gì... - tôi nói.
Meacham bình tĩnh nhìn lên từ màn hình máy tính.
- Đừng bao giờ định lờ tao đi.
Tôi phải ra khỏi đây. Tôi quay người, lao tới cửa, ngay lập tức một gã đầu đinh khác đóng sầm cửa lại và đứng trước nó, nhìn tôi cảnh giác.
Không còn đường thoát nào khác, trừ khi tính tới cửa sổ, một cú rơi hai-mươi-bảy-tầng-lầu không được hấp dẫn cho lắm.
- Mày muốn gì? - tôi nói với Meacham, hết nhìn hắn lại liếc ra cửa.
- Mày nghĩ mày giấu được tao cái chết tiệt gì sao? - Meacham nói. - Tao không nghĩ vậy đâu. Mày không có két an toàn hay lỗ kín nào thoát được bọn tao. Tao thấy mày lưu lại tất cả thư tao. Tao không ngờ mày quan tâm cơ đấy.
- Dĩ nhiên, - tôi căm phẫn. - Tao giữ lại mọi thứ để phòng hờ.
- Chương trình mã hóa mày dùng để ghi lại các cuộc gặp với Wyatt, Judith và tao - mày nên biết, nó đã bị phá cách đây hơn năm rồi. Có những chương trình mạnh hơn nhiều.
- Hay quá, cảm ơn, - tôi nói, nặng ngữ điệu mỉa mai. Tôi cố tỏ ra không bối rối. - Giờ sao mày và bọn đàn em của mày không xéo khỏi đây trước khi tao gọi cảnh sát.
Meacham khịt mũi và ra dấu tay như thể bảo tôi lại gần.
- Không, - tôi lắc đầu. - Tao nói mày và bọn đàn em của mày...
Qua khóe mắt, tôi thấy một chuyển động đột ngột, nhanh như chớp giật, rồi cái gì đó đập mạnh vào sau đầu tôi. Tôi khuỵu đầu gối, miệng ứa máu. Mọi thứ nhuốm màu đỏ đen. Tôi với tay ra bắt lấy kẻ tấn công, nhưng khi tay vừa vung ra sau lưng, tôi đã bị chân người ta đá mạnh vào thận phải. Cơn đau thắt chạy dọc thân, khiến tôi ngã sóng soài trên tấm thảm Ba Tư.
- Không, - tôi hắt ra.
Lại một cú đá, lần này vào sau đầu, đau kinh khủng. Những đốm sáng lấp lóe trước mắt tôi.
- Bảo họ tránh xa tao ra, - tôi rên lên. - Bảo đàn em - của mày - dừng lại. Nếu tao mụ người đi, tao có thể lắm lời đấy.
Đó là tất cả những gì tôi nghĩ được. Đồng bọn của Meacham chắc không biết nhiều về những việc mà Meacham và tôi làm. Chúng chỉ là bọn cơ bắp. Meacham sẽ không bảo chúng, không muốn chúng biết. Có lẽ chúng chỉ biết chút ít, đủ để hiểu phải tìm cái gì. Nhưng Meacham sẽ muốn giữ chúng ngoài vòng càng nhiều càng tốt.
Tôi co rúm, chuẩn bị tinh thần lại bị đá vào sau đầu, mọi thứ trắng lóa và hoa lên, miệng tôi sặc vị kim loại. Trong một lúc, phòng im ắng; dường như Meacham đã ra dấu cho chúng ngừng lại.
- Mày muốn gì ở tao? - tôi hỏi.
- Chúng ta sẽ làm một chuyến đi, - Meacham nói.

76

Meacham và bọn khủng bố của hắn thúc tôi ra khỏi căn hộ, đi thang máy xuống gara rồi theo cửa cho nhân viên phục vụ ra ngoài phố. Tôi sợ chết khiếp. Một chiếc xe Suburban đen với cửa sổ phủ màu đang đỗ ở cổng. Meacham dẫn đường, hai gã kia ở cạnh tôi, vây lấy tôi, chắc để không cho tôi chạy, hay tấn công Meacham gì đó. Một gã mang máy tính xách tay của tôi; một gã mang máy tính để bàn.
Đầu tôi nhức nhối, dưới lưng và ngực đau buốt. Tôi hẳn trông tệ lắm, thâm tím và bầm dập.
Chúng ta sẽ làm một chuyến đi” thường có nghĩa là đổ xi măng vào giày quẳng xuống sông Đông, ít nhất là trong phim Mafia. Nhưng nếu chúng muốn giết tôi, tại sao không làm thế trong căn hộ?
Sau một lúc tôi đoán được bọn đầu gấu từng là cảnh sát, được bộ phận An ninh Tập đoàn Wyatt thuê. Chúng chắc được tuyển chỉ vì vai u thịt bắp. Chúng là loại công cụ mềm.
Một gã lên lái xe, và Meacham ngồi ở ghế trước, ngăn cách tôi bằng một tấm kính chống đạn, nói chuyện điện thoại suốt dọc đường đi.
Rõ ràng hắn đã làm được việc. Hắn dọa tôi sợ vãi tè ra quần, và hắn cùng bọn đàn em đã tìm được những bằng chứng tôi giữ về Wyatt.

Bốn mươi lăm phút sau, chiếc Suburban ngoặt vào con đường đá dài của Wyatt.
Hai tên đàn em lục soát người tôi tìm vũ khí hay bất cứ thứ gì, như thể làm thế nào đó trên đường từ căn hộ tới đây, tôi đã nhặt được một khẩu Glock vậy. Chúng lấy điện thoại di động của tôi và xô tôi vào trong nhà. Tôi đi qua máy phát hiện kim loại, nó báo động. Chúng lấy cả đồng hồ, thắt lưng và chìa khóa.
Wyatt đang ngồi trước một chiếc ti vi màn hình phẳng lớn trong căn phòng rộng rãi, ít đồ đạc, xem kênh CNBC đã tắt tiếng và nói chuyện điện thoại. Tôi liếc nhìn mình trong gương khi bị bọn đầu đinh áp giải vào. Tôi trông khá tệ.
Tất cả đều đứng đó.
Vài phút sau, Wyatt kết thúc cuộc gọi và đặt điện thoại xuống, nhìn sang tôi.
- Lâu không gặp, - lão nói.
- Ờ, phải, - tôi nói.
- Nhìn mày xem. Va phải cửa à? Hay ngã cầu thang?
- Đại thể như thế.
- Rất tiếc nghe tin bố mày. Nhưng trời ạ, thở bằng ống, bình ô xy, tất cả chuyện đó - tao mà như vậy thì bắn tao chết quách cho rồi.
- Cứ tự nhiên, - tôi lẩm bẩm, nhưng tôi không nghĩ lão nghe thấy.
- Ông ta chết cũng tốt nhỉ? Đỡ phải đau đớn khốn khổ.
Tôi muốn lao vào lão, bóp cổ lão.
- Cảm ơn đã quan tâm, - tôi nói.
- Tao muốn cảm ơn mày, - lão nói, - vì thông tin về Delphos.
- Có vẻ ông đã phải dốc cạn con lợn tiết kiệm để mua nó.
- Luôn phải nghĩ trước ba nước. Mày nghĩ tao ở chỗ này nhờ cái gì? Khi bọn tao tuyên bố có vi mạch quang học, giá cổ phiếu của Wyatt sẽ tăng vọt lên quỹ đạo.
- Hay lắm, - tôi nói. - Ông tính được hết rồi. Ông không cần tôi nữa.
- Ồ, mày còn lâu mới xong, anh bạn ạ. Tới khi lấy được cho tao đặc tả về chính cái vi mạch đó cơ. Và cả vật mẫu nữa.
- Không, - tôi nói, rất khẽ khàng. - Giờ tôi xong việc rồi.
- Mày nghĩ mày xong việc à? Trời, mày ảo giác rồi. - Lão phá lên cười.
Tôi hít một hơi thật sâu. Tôi cảm nhận được mạch đập ở cuống họng, đầu nhức nhối.
- Luật pháp rõ ràng về chuyện này, - tôi hắng giọng nói. Tôi đã tra trên một đống website luật. - Ông mắc sâu vào vụ này hơn tôi, vì ông lên toàn bộ âm mưu này. Tôi chỉ là con tốt. Ông chơi cả ván cờ.
- Luật pháp, - Wyatt cười cái điệu không tin nổi. - Mẹ kiếp, mày đang nói với tao về luật pháp? Vì thế mày mới lưu lại thư điện tử, ghi chép gì đó, định cố làm một vụ kiện tao à? Ôi trời, tao thấy khá là thương hại mày đấy. Tao nghĩ mày thực sự không hiểu được, phải không? Mày nghĩ tao sẽ thả mày đi trước khi mày xong việc à?
- Ông đã có đủ loại thông tin tình báo đáng giá từ tôi rồi, - tôi nói. - Kế hoạch của ông đã thành công. Kết thúc rồi. Từ giờ đừng liên lạc với tôi nữa. Giao dịch chấm dứt. Trong mắt mọi người, chuyện này chưa bao giờ xảy ra.
Nỗi kinh hoàng tột đỉnh nhường chỗ cho một thứ tự tin mê sảng: Cuối cùng tôi đã vượt ranh giới. Tôi nhảy khỏi vách đá và vút lên không trung, và tôi sẽ tận hưởng chuyến bay cho tới khi va xuống mặt đất.
- Nghĩ đi, - tôi tiếp tục. - Ông có nhiều điều để mất hơn tôi. Công ty của ông. Và của cải của ông. Tôi ư, tôi là thằng rỗng túi. Một con cá nhỏ. Không, chỉ là loại phù du.
Lão cười ngoác miệng.
- Mày định làm gì, tới chỗ “Jock” Goddard và kể cho hắn rằng mày chẳng là gì hơn một thằng rình mò khốn kiếp, tất cả “ý tưởng” sáng giá đều được đối thủ cạnh chính của hắn bón cho? Và rồi mày nghĩ hắn sẽ làm gì? Cảm ơn mày, đưa mày đi ăn trưa ở cái quán nhỏ bé và cụng ly sữa Ovaltine với nhau? Tao không nghĩ vậy đâu.
Tôi lắc đầu, tim đập cuồng loạn.
- Ông thực sự không muốn Goddard biết làm sao ông lại nắm được mọi chi tiết về vụ đàm phán của họ với Delphos.
- Hay mày nghĩ mày có thể đến chỗ FBI, thế à? Bảo chúng, mày là gián điệp được Wyatt thuê? Ồ, chúng thích lắm đấy. Mày biết bọn FBI dễ thông cảm như thế nào chứ nhỉ? Chúng sẽ giày xéo mày như một con gián chết tiệt, còn tao sẽ phủ nhận mọi thứ, thế là chúng không thể không tin tao, và mày biết tại sao không? Vì mày là thằng lừa đảo nhỏ nhoi chết tiệt. Mày bị ghi nhận là thằng lừa đảo, anh bạn ạ. Tao sa thải mày khỏi công ty khi mày thụt két, và mọi thứ đã được ghi lại.
- Vậy ông sẽ gặp khó khăn để giải thích tại sao ai ở Wyatt cũng nhiệt tình đề cử tôi như thế.
- Nhưng không ai đề cử mày cả, hiểu chứ? Bọn tao không bao giờ đề cử thằng lừa đảo như mày. Mày, kẻ bị cuồng dối trá, mày giả mạo giấy có tiêu đề của bọn tao để làm ra thư tiến cử cho chính mày khi nộp hồ sơ vào Trion. Những bức thư đó không đến từ bọn tao. Giám định pháp lý văn bản và phân tích giấy chắc chắn sẽ kết luận điều đó. Mày dùng máy in khác, hộp mực khác. Mày giả mạo chữ ký, thằng khốn bệnh hoạn ạ. - Dừng lại một lát. - Mày thực sự nghĩ bọn tao sẽ không che chắn rào giậu sao?
Tôi cố cười đáp trả, nhưng tôi không thể khiến các cơ miệng run rẩy hợp tác.
- Rất tiếc, điều đó không giải thích được điện thoại từ các lãnh đạo của Wyatt tới Trion, - tôi nói. - Dù sao Goddard sẽ nhận ra ngay. Ông ấy hiểu tôi.
Wyatt cười như sủa.
- Hắn hiểu mày! Thật tức cười. Trời, mày thực sự không hiểu mày đang đối phó với ai phải không? Mày kiêu ngạo quá rồi đó. Mày nghĩ ai sẽ tin rằng phòng Nhân sự của bọn tao gọi đến Trion nói những lời sáng chói về mày, sau khi chúng tao đá mày ra? Ờ, tìm hiểu đôi chút đi, thằng chó má, và mày sẽ thấy mọi cuộc gọi từ phòng Nhân sự đều được tái định tuyến rồi. Bản ghi điện thoại cho thấy tất cả đều gọi từ phòng mày. Mày tự gọi những cuộc gọi của phòng Nhân sự, đồ mắc dịch, giả làm cấp trên của mày ở Wyatt, tự tạo tất cả những lời tiến cử hào nhoáng đó. Trời, đồ bệnh hoạn. Mày tâm thần rồi. Mày dựng lên cả chuyện mày làm quản lý trong dự án Lucid, muốn thì chứng minh được là sai ngay. Mày thấy đó, đồ khốn, nhân viên an ninh của bọn tao và chúng sẽ hợp tác và đối chiếu các dữ kiện.
Đầu tôi quay mòng mòng, tôi thấy buồn nôn.
- Và có lẽ mày nên kiểm tra cái tài khoản ngân hàng bí mật mà mày tự hào lắm - cái mày chắc mẩm bọn tao gửi tiền vào từ tài khoản nước ngoài nào đó ấy? Sao mày không truy xem nguồn tiền đó thật ra đến từ đâu?
Tôi trân trối nhìn lão.
- Số tiền đó, - Wyatt giải thích, - được gửi về trực tiếp từ vài tài khoản bí mật ở Trion. Với dấu tay điện tử chết dẫm của mày trên đó. Mày trộm tiền của chúng, cũng như mày trộm tiền của bọn tao.
Mắt lão lồi ra:
- Đầu mày chính là cái bẫy, thằng khốn đáng thương hại. Lần sau tao thấy mày, tốt nhất mày nên có tất cả đặc tả kỹ thuật con vi mạch quang học của Jock Goddard, không thì đời mày tiêu. Giờ xéo khỏi nhà tao.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét