Thứ Bảy, 3 tháng 9, 2022

Đời Ảo - Phần III

Đời Ảo
(Nguyên tác: Paranoia)

Tác giả: Joseph Finder
Dịch giả: Tâm Thủy
Nhà xuất bản Lao Động - Năm xuất bản: 2011

Phần 3 - Ống Dẫn

Ống dẫn: Biệt ngữ tình báo chỉ các tài sản mang tính chất hỗ trợ như trạm an toàn, nơi thả hộp chết, v.v... của một cơ quan tình báo bí mật. - Từ điển tình báo quốc tế.

23

Khi về đến nhà người tôi tã cả ra, thậm chí còn tệ hơn lúc trước. Tôi không hợp với loại công việc này. Tôi muốn ra ngoài và lại say bí tỉ, nhưng tôi phải lên giường, ngủ một chút.
Căn hộ của tôi dường như nhỏ bé và dơ dáy hơn bao giờ hết. Tôi đang kiếm được mức lương sáu con số, vậy nên đáng ra tôi có thể chi trả một trong những căn hộ tại các tòa nhà cao tầng mới gần cầu tàu. Chẳng có lý do gì để tôi tiếp tục ở trong cái lỗ đáy địa ngục này trừ việc nó là cái lỗ đáy địa ngục của tôi, lời nhắc nhở rằng tôi thực sự là thằng vô công rồi nghề hạng bét không làm nên cơm cháo gì chứ không phải là gã màu mè ăn mặc tươm tất tôi đã biến thành. Thêm nữa tôi không có thời gian đi tìm chỗ ở mới.

Tôi bấm công tắc đèn cạnh cửa và phòng vẫn tối om. Chết tiệt. Thế có nghĩa là bóng trong cái đèn bàn lớn xấu xí ở bên ghế trường kỷ, nguồn sáng chính trong phòng, đã bị cháy. Tôi luôn để đèn bàn sáng để mình có thể bật tắt đèn ở cửa. Giờ tôi phải loạng choạng đi qua căn hộ tối mò để tới cái tủ nhỏ chứa bóng đèn thay thế và những đồ lặt vặt. Thật may mắn là tôi biết từng góc nhỏ trong căn hộ bé xíu này, thật vậy đấy, ngay cả khi mắt nhắm tịt. Tôi sờ soạng trong hộp giấy các tông nhăn nhúm tìm bóng đèn mới, hy vọng nó là một trăm oát chứ không phải hai nhăm hay tương tự như thế, rồi tìm đường qua phòng tới bộ trường kỷ, vặn đui đèn ra, tháo bóng và lắp cái mới vào. Vẫn không có ánh sáng. Mẹ kiếp: đúng là cái kết hoàn hảo cho một ngày tồi tệ. Tôi tìm đến nút bật nhỏ trên bệ đèn rồi bật, phòng sáng bừng lên.
Tôi đang đi được nửa đường ra phòng tắm thì chợt nghĩ: Sao cái đèn lại bị tắt? Tôi chưa bao giờ tắt nó đi - chưa bao giờ. Tôi mất trí ư?
Có phải đã có người ở trong căn hộ không?
Cảm giác rùng mình, thoáng qua chút gì như hoang tưởng. Ai đó đã ở đây. Nếu không thì làm sao mà đèn lại bị tắt bằng công tắc trên bệ chứ?

Tôi không có bạn ở chung, không có bạn gái, và chẳng ai khác có chìa khóa cả. Cái công ty quản lý tệ hại trông coi tòa nhà cho lão chủ cũng tệ hại và luôn vắng mặt của khu ổ chuột này không bao giờ tới các phòng. Thậm chí ngay cả khi bạn van nài họ cho người tới sửa lò sưởi cũng không. Chẳng có ai từng ở trong này ngoài tôi.
Tôi nhìn qua máy điện thoại ngay bên dưới đèn bàn, cái điện thoại Panasonic màu đen cũ kỹ kết hợp chức năng trả lời cuộc gọi, chức năng đó tôi giờ không còn dùng đến nữa vì đã có dịch vụ thư thoại của công ty điện thoại. Tôi thấy có điều không ổn. Dây điện thoại đen nằm vắt qua các phím, ngay phía trên thay vì cuộn lại ở một bên như mọi khi. Được rồi, quả thực chúng chỉ là những chi tiết vụn vặt, nhưng bạn sẽ để ý tới chúng khi sống một mình. Tôi cố nhớ mình gọi điện lần cuối khi nào, mình đã ở đâu, mình đã làm gì. Tôi đãng trí tới mức gác máy lệch đi ư? Nhưng tôi chắc chắn là điện thoại không như thế này khi tôi rời nhà sáng nay.
Chắc chắn đã có người ở đây.
Tôi nhìn lại chiếc điện thoại kiêm trả lời cuộc gọi và nhận ra còn có điểm bất thường khác, và nó thậm chí còn chẳng khó thấy. Máy ghi cuộc gọi mà tôi không dùng bao giờ có hệ băng kép, một băng cát xét nhỏ cho cuộc gọi đi và một cho cuộc gọi đến.
Nhưng băng cát xét thu âm cuộc gọi đến không còn nữa. Có người đã bỏ nó ra.
Tôi đoán đó là người muốn có bản sao chép những cuộc gọi của tôi.

Hay là - đột nhiên tôi nảy ra ý nghĩ - người muốn chắc chắn rằng tôi đã không dùng máy ghi âm để lưu lại bất cứ cuộc gọi nào tôi nhận. Hẳn phải là thế. Tôi đứng lên rồi tìm máy ghi âm dùng băng duy nhất tôi còn lại, một loại cát xét nhỏ tôi mua hồi còn ở đại học, vì sao tôi chẳng còn nhớ nữa. Tôi nhớ mang máng là vài tuần trước đã thấy nó ở ngăn bàn dưới cùng, lúc đi tìm bật lửa. Tôi kéo ngăn đáy bàn ra, lục lọi nhưng không thấy. Cũng không thấy nó trong ngăn kéo nào khác. Càng tìm, tôi càng chắc chắn là đã từng thấy nó nằm ở ngăn đáy. Khi tìm lần nữa, tôi thấy nguồn điện AC đi kèm, khẳng định nghi ngờ của mình. Máy ghi âm cũng không cánh mà bay.

Giờ thì tôi chắc chắn rồi: người lục lọi căn hộ muốn tìm tất cả các loại băng ghi âm tôi có thể đã lưu lại. Câu hỏi là, người đó là ai? Nếu là người của Wyatt và Meacham thì rõ là thật điên tiết và xúc phạm người ta.
Nhưng nếu không phải bọn họ thì sao? Nếu là Trion thì sao? Điều đó đáng sợ đến mức tôi thậm chí không muốn nghĩ về nó nữa. Tôi nhớ lại câu hỏi không biểu cảm của Mordden: Cậu bị cuốn vào chuyện gì vậy?

24

Nhà của Nick Wyatt nằm ở khu ngoại ô khá giả nhất, nơi mà ai cũng từng nghe đến, giàu có tới mức người ta biến nó thành chuyện cười. Nó thực là khu cao cấp thái quá nhất, hào nhoáng nhất và to nhất trong cái thành phố vốn đã nổi tiếng vì những dinh thự cao cấp thái quá, hào nhoáng và to tướng. Rõ là Wyatt coi trọng việc sống trong ngôi nhà mà ai cũng nhắc, ngôi nhà lên bìa tờ Tập san Kiến trúc, ngôi nhà mà cánh phóng viên địa phương lúc nào cũng cố tìm cớ để vào được đặng viết bài. Họ ưa há hốc miệng kinh ngạc trước mô hình San Simen bằng Silicon. Họ thích mấy thứ Nhật Bản, cảnh Thiền thanh bình giản dị một cách giả tạo, đối lập đến kệch cỡm với cả đoàn ô tô Bentley mui trần và giọng the thé hoàn toàn chẳng Thiền tí nào của lão.
Trong phòng Quan hệ Công chúng của hãng Viễn thông Wyatt có một người chuyên lo quảng bá hình ảnh cá nhân cho Nick Wyatt, đặt tin trên tờ People's Daily USA Today hay bất cứ tờ nào khác. Thỉnh thoảng hắn lại tung ra các câu chuyện về dinh thự của Wyatt, nhờ thế mà tôi biết rằng nó đáng giá năm mươi triệu đô, rằng nó to và phong lưu còn hơn cả căn nhà bên hồ ở gần Seattle của Bill Gates, rằng nó là bản sao của một cung điện Nhật từ thế kỷ mười bốn mà Wyatt đã cho mua ở Osaka rồi chuyển từng phần về Mỹ. Bao quanh nó là bốn mươi mẫu vườn Nhật đầy các loại hoa cỏ quý hiếm, vườn đá, thác nước nhân tạo, hồ nhân tạo, cầu gỗ cổ đưa về từ Nhật. Thậm chí cả những viên đá to nhỏ khác nhau lát trên đường lái xe vào cũng được chuyển về từ Nhật. Dĩ nhiên tôi không thấy được điều đó khi đang lái xe lên lối vào dài bất tận. Tôi thấy chòi gác bằng đá và cửa sắt cao ngất tự động mở ra, rồi dường như hàng dặm tre, một bãi đỗ xe với sáu xe Bentley mui trần đủ màu sắc xếp như một thỏi kẹo Lifesavers sáu mầu (lão không dùng xe cơ bắp Mỹ đâu), và một ngôi nhà gỗ nền thấp có tường đá cao bao quanh.

Tôi đã nhận được lệnh tới đây do Meacham gửi tới qua thư điện tử bảo mật - thông báo của “Arthur” tới tài khoản Hushmail, gửi bằng chương trình “vô danh” của Phần Lan, hệ tái gửi thư không thể lần ra. Có cả đống ngôn từ mã hóa khiến bức thư giống như lời xác nhận đơn đặt hàng của tôi với người bán hàng nào đó trên mạng, nhưng thực ra nó cho tôi biết thời gian và địa điểm.
Meacham đã cho tôi hướng dẫn chính xác phải đến đâu và bằng cách nào. Tôi phải đến bãi đỗ xe của một nhà hàng Denny's rồi đợi chiếc Lincoln xanh thẫm và theo nó tới nhà của Wyatt. Tôi nghĩ chuyện này nhằm xác định chắc chắn tôi không bị theo đến đây. Họ có hơi hoang tưởng một chút, tôi nghĩ, nhưng tôi là ai mà dám tranh cãi chứ? Rốt cuộc thì tôi mới là gã trên ghế nóng.

Ngay khi tôi ra khỏi xe, chiếc Lincoln phóng đi. Một người Philippin ra mở cửa, bảo tôi cởi giày. Hắn dẫn tôi vào một phòng đợi bày biện những tấm bình phong Nhật, chiếu tatami và bàn sơn mài thấp, rồi một cái đi văng thấp vuông vắn màu trắng, trông như dùng nệm futon. Không thoải mái cho lắm. Tôi giở qua các tạp chí sắp hàng đầy nghệ thuật trên bàn cà phê màu đen - The Robb Report, Tạp chí Kiến trúc (hiển nhiên cả số có hình dinh thự của Wyatt ở trên bìa), và danh mục của nhà đấu giá Sotheby.
Cuối cùng thì người trông nhà, gọi hắn thế nào cũng được, lại xuất hiện và gật đầu với tôi. Tôi theo hắn đi xuống một hành lang dài về phía căn phòng khác cũng gần như trống huơ trống hoác, tôi có thể thấy bên trong Wyatt ngồi ở đầu một cái bàn ăn màu đen dài và thấp.
Khi chúng tôi tiến đến cửa vào phòng ăn, tôi đột nhiên nghe thấy tiếng chuông báo động chói tai, to kinh khủng. Tôi hoang mang nhìn quanh, nhưng trước khi kịp hiểu chuyện gì thì tôi đã bị gã người Philippin và một tên khác bỗng dưng xuất hiện tóm lấy và cả hai vật tôi xuống sàn. Tôi kêu lên, “Cái mẹ gì vậy?” và chống cự chút ít, nhưng hai tên này khỏe như lực sĩ sumo vậy. Rồi tên thứ hai giữ tôi trong khi gã người Philippin rà tôi từ trên xuống dưới. Chúng tìm gì chứ, vũ khí à? Gã người Philippin tìm thấy máy nghe nhạc iPod MP3 liền giật ra khỏi cặp đi làm của tôi.
Hắn nhìn nó, nói gì đó bằng bất cứ cái ngôn ngữ nào mà người ta nói ở Philippin, rồi đưa nó cho tên còn lại, gã này soi mói, lật qua lật lại rồi lảm nhảm cộc cằn không thể hiểu nổi.
Tôi ngồi dậy.
- Các anh lúc nào cũng đón chào khách của ông Wyatt như thế này à? - tôi nói.
Người quản gia cầm lấy chiếc iPod, vào phòng ăn trao cho Wyatt, lão vẫn theo dõi sự vụ từ nãy giờ. Wyatt trả nó lại cho gã người Philipin mà thậm chí không để mắt nhìn qua.
Tôi đứng lên.
- Trước giờ các anh chưa bao giờ thấy thứ gì như thế à? Hay là nhạc từ bên ngoài không được mang vào chỗ này sao?
- Họ chỉ đề phòng thôi, - Wyatt nói. Lão mặc áo sơ mi bó dài tay màu đen, chắc bằng vải lanh và có lẽ là giá còn cao hơn số tiền tôi kiếm được trong một tháng, thậm chí ngay cả bây giờ khi làm ở Trion. Dường như lão rám nắng hơn mọi khi. Tôi nghĩ chắc lão phải ngủ trên giường tắm nắng.
- Sợ tôi giấu đồ gì đó sao? - tôi lên tiếng.
- Tao chẳng “sợ” cái gì cả, Cassidy. Tao thích ai cũng phải chơi đúng luật. Nếu mày khôn và không định tỏ ra ranh mãnh thì mọi thứ vẫn tốt đẹp. Đừng có nghĩ đến việc thử làm một cái “hợp đồng bảo hiểm”, bởi bọn tao đi trước mày nhiều rồi.
Khôi hài thay, ý nghĩ đó chưa bao giờ xuất hiện trong đầu tôi cho tới khi lão nhắc đến.
- Tôi không hiểu.
- Tao muốn nói là nếu mày định làm gì đó ngu xuẩn kiểu như thu băng cuộc gặp của chúng ta hay bất cứ cuộc gọi nào từ tao hay bất cứ ai liên quan đến tao, chuyện sẽ không hay cho mày đâu. Mày không cần bảo hiểm, Adam. Tao chính là bảo hiểm của mày.
Một phụ nữ Nhật xinh đẹp mặc kimono xuất hiện bê một cái khay và trao cho lão cuộn khăn nóng với kẹp bằng bạc. Lão lau tay rồi đưa nó lại cho cô ta. Nhìn gần thì chắc chắn lão từng đi căng da mặt. Da quá căng, khiến mắt lão trông gần như mắt người Eskimo.
- Điện thoại ở nhà mày không an toàn, - lão tiếp tục. - Thư thoại ở nhà, trên máy tính hay điện thoại di động cũng vậy. Mày chỉ được chủ động liên lạc với bọn tao trong trường hợp khẩn cấp, ngoại trừ để phản hồi yêu cầu của bọn tao. Trong các trường hợp khác, bọn tao sẽ liên hệ với mày bằng thư bảo đảm được mã hóa. Giờ thì mày cho tao thấy cái gì đây?
Tôi đưa lão đĩa CD về tất cả nhân sự được tuyển vào Trion gần đây mà tôi đã tải về từ website cùng với vài tờ giấy đầy chữ đánh máy. Trong khi lão đọc những ghi chép của tôi, người phụ nữ Nhật mang một cái khay khác quay lại và bắt đầu xếp trước mặt Wyatt một loạt những miếng sushi và sashimi nhỏ, hoàn hảo trông như được chạm trổ, bày trong hộp sơn mài màu gụ, với những ụ cơm trắng nhỏ, wasabi xanh nhạt và các lát gừng ngâm ửng hồng. Wyatt không nhìn lên; hắn quá nhập tâm vào những ghi chép tôi mang tới. Sau vài phút, hắn nhấc cái điện thoại đen nhỏ trên bàn lên, nãy giờ tôi không để ý thấy nó, và hạ giọng nói gì đó. Tôi nghĩ là mình đã nghe thấy từ “fax”.
Cuối cùng lão nhìn tôi.
- Khá lắm, - lão nói. - Rất thú vị.
Một người phụ nữ khác xuất hiện, trung tuổi, nghiêm nghị, mặt nhăn nheo, tóc bạc, kính đeo trên dây quanh cổ. Bà ta cười, nhận từ lão thếp giấy rồi đi mà không nói gì. Lão có thư ký thường trực cả đêm ư?
Wyatt cầm đũa và gắp một miếng cá sống bỏ vào miệng, vừa trầm ngâm nhai vừa nhìn tôi.
- Mày hiểu sự ưu việt của chế độ ăn Nhật Bản chứ? - lão hỏi.
Tôi nhún vai.
- Tôi cũng thích mấy thứ như món Tempura. [một món ẩm thực của Nhật Bản gồm các loại hải sản, rau, củ tẩm bột mì rán ngập trong dầu]
Hắn cười khẩy và lắc đầu.
- Tao không nói về món Tempura. Mày nghĩ tại sao Nhật lại dẫn đầu thế giới về tuổi thọ bình quân chứ? Một chế độ ăn ít chất béo, giàu protein, nhiều đồ ăn từ thực vật, nhiều chất chống ô xy hóa. Họ ăn đậu tương nhiều gấp bốn mươi lần chúng ta. Hàng thế kỷ nay họ không ăn cái gì có bốn chân.
- Vâng, - tôi nói, rồi nghĩ: Và ý lão là...?
Lão lại làm một mồm đầy cá.
- Mày thực sự nên nghiêm chỉnh nâng cao chất lượng cuộc sống đi. Mày bao nhiêu nhỉ, hai nhăm?
- Hai sáu.
- Mày còn vài chục năm phía trước. Hãy chăm sóc cơ thể mình. Hút thuốc, uống rượu, hamburger, Bic Macs và những thứ tạp nham đó - mày phải bỏ đi. Tao ngủ ba giờ mỗi đêm. Không cần nhiều hơn. Mày vui vẻ chứ, Adam?
- Không.
- Tốt. Mày không đến đó để vui vẻ. Mày thoải mái ở Trion trong vai trò mới không?
- Tôi vẫn đang nghiên cứu đường đi nước bước, sếp tôi là hạng chó cái nghiêm chỉnh...
- Tao không nói về vỏ bọc của mày. Tao đang nói về công việc thật sự của mày - vụ xâm nhập.
- Thoải mái? Không, chưa đâu.
- Nó khá rủi ro. Tao hiểu sự khổ cực của mày. Mày vẫn gặp bạn bè cũ chứ?
- Vẫn gặp.
- Tao không mong mày vứt bỏ chúng. Như thế có thể sẽ gây nghi ngờ. Nhưng tốt hơn hết mày nên chắc chắn là câm cái miệng mắc dịch lại, nếu không thì sẽ ngập trong phân đó.
- Tôi hiểu.
- Tao cho là tao không phải nhắc nhở mày về hậu quả nếu như thất bại nữa.
- Tôi không cần nhắc nhở.
- Tốt. Việc của mày khó đấy, nhưng thất bại sẽ còn tệ hơn nhiều.
- Thực ra là tôi cũng thinh thích làm ở Trion. - Tôi chỉ nói thật lòng, nhưng tôi biết với lão đó sẽ là một cú quất.
Lão ngước lên, vừa cười tự mãn vừa nhai.
- Nghe thế tao rất mừng.
- Đội của tôi đang chuẩn bị thuyết trình cho Augustine Goddard, cũng sắp rồi.
- Anh bạn già Jock Goddard hả. Ờ, mày sẽ sớm nhận ra lão là thằng khùng lảm nhảm lên mặt đạo đức và giả tạo. Tao nghĩ lão thực sự tin vào mấy mẩu tin nịnh bợ đó, món rác rưởi “lương tâm công nghệ cao” thường thấy trong tờ Fortune. Tin sái cổ là phân mình không thối.
Tôi gật đầu; tôi biết nói gì chứ? Tôi không biết Goddard, nên chẳng thể đồng ý hay không, nhưng sự ghen tị của Wyatt thì rõ lù lù ra.
- Khi nào mày thuyết trình cho lão thối tha đó?
- Trong vài tuần tới.
- Có lẽ tao sẽ giúp được cái gì đó.
- Sự trợ giúp nào tôi cũng cần hết.
Điện thoại đổ chuông và lão nhấc nó lên ngay.
- Đây? - Lão nghe vài phút. - Được rồi, - lão nói và dập máy. - Mày đã đánh trúng cái gì đó. Trong một hai tuần tới, mày sẽ nhận được lai lịch đầy đủ về cô nàng Alana Jennings này.
- Chắc chắn rồi, như những gì tôi có về Lundgren và Sommers.
- Không, đây là mức độ chi tiết khác hẳn.
- Tại sao?
- Vì mày sẽ muốn nối bước ả. Ả là đường vào cho mày. Và giờ mày đã có một cái mã, tao muốn có tên của tất cả những ai có liên hệ với AURORA về bất cứ mặt nào. Tất cả, từ giám đốc dự án xuống đến cả lao công.
- Làm thế nào? - Tôi hối hận ngay khi vừa cất lời.
- Tự đoán đi. Đó là việc của mày, trời ạ. Và tao muốn ngay ngày mai.
- Ngày mai?
- Đúng.
- Được rồi, - tôi nói, chỉ có chút xíu phản kháng len vào giọng. - Và rồi sếp sẽ có cái mình cần, đúng không? Và thế là chúng ta xong chuyện.
- Ồ không, - hắn nói. Hắn nhăn nhở những cái răng to trắng bóc. - Đây chỉ là bắt đầu, anh bạn. Chúng ta chỉ mới hơi chạm tới bề mặt mà thôi.

25

Tới giờ thì tôi làm việc như điên, và lúc nào cũng mệt nhoài. Ngoài giờ hành chính làm ở Trion, tôi bỏ ra nhiều giờ làm muộn tới đêm, hàng đêm, nghiên cứu bằng Internet hoặc đọc các tài liệu tình báo cạnh tranh do Meacham và Wyatt gửi tới, những tài liệu khiến tôi có vẻ rất thông minh. Đôi lần tôi suýt ngủ gục trên vô lăng khi đang lái xe trên quãng đường tắc nghẽn dài dằng dặc để về nhà. Rồi tôi sẽ mở choàng mắt, bừng tỉnh và ngừng lại trong giây cuối để kịp tránh nguy cơ chệch sang làn đường ngược chiều hay đâm vào xe phía trước. Sau bữa trưa tôi thường bắt đầu lả đi, và phải dùng một lượng lớn cafein để giữ mình không khoanh tay lại và mê đi luôn trong khoang làm việc. Tôi sẽ mơ tưởng tới chuyện về nhà sớm và chui vào chăn trong cái lỗ tối tăm của mình rồi đánh một giấc say sưa ngay giữa chiều. Tôi sống bằng cà phê, Diet Pepsi và Red Bull. Bạn có thể thấy mắt tôi thâm quầng, ít nhất thì bọn mê công việc còn tìm được cảm giác phấn chấn bệnh hoạn; còn tôi chỉ thấy đuối, như con ngựa thồ hàng trong cuốn tiểu thuyết Nga nào đó.
Nhưng thậm chí làm bằng niềm tin vẫn không phải chuyện tệ nhất của tôi. Vấn đề là tôi đang dần quên mất công việc “thực sự” của tôi là gì và công việc “vỏ bọc” của tôi là gì. Tôi bận bù đầu chỉ để qua được hết buổi họp này đến buổi họp khác, cố gắng kiểm soát mọi việc đủ để Nora không ngửi thấy mùi máu trong nước và bám theo tôi, tôi chỉ xoay xở được chút xíu thời gian để lén lút mò quanh và thu thập thông tin về AURORA.

Thỉnh thoảng tôi lại gặp Mordden, trong các buổi họp hay ở phòng ăn cho nhân viên, và gã vẫn dừng lại nói chuyện. Nhưng gã không bao giờ nhắc lại cái đêm gã hoặc hoặc không thấy tôi bước ra khỏi văn phòng của Nora. Có lẽ gã không thấy tôi trong văn phòng mụ. Hoặc có lẽ gã đã thấy và có lý do để không mở miệng nói ra.
Và cứ cách vài đêm tôi lại nhận được thư từ “Arthur”, hỏi tôi đã tìm hiểu tới đâu, chuyện diễn biến thế nào, làm cái quái gì mà tôi lại lâu đến vậy.

Hầu như đêm nào tôi cũng về muộn, và hiếm khi có mặt ở nhà. Seth để lại cả đống tin nhắn trên điện thoại, và sau khoảng một tuần gì đấy thì bỏ cuộc. Phần lớn bạn bè tôi cũng đã chịu thua rồi. Tôi cố gắng xoay được nửa tiếng đồng hồ đây đó tới căn hộ của bố để thăm ông, nhưng bất cứ lúc nào tôi xuất hiện, ông đều giận tôi vì tránh mặt ông đến nỗi chẳng thèm nhìn tôi nữa. Giữa bố tôi và Antwoine đã lắng xuống thành một loại thỏa hiệp tạm đình chiến, kiểu như chiến tranh lạnh vậy. Chí ít thì Antwoine không dọa sẽ nghỉ việc. Chưa dọa.
Một đêm nọ tôi quay lại văn phòng của Nora và tháo thiết bị nhỏ bé ghi phím gõ, nhanh chóng và vô sự. Anh bạn bảo-vệ-yêu-xe-Mustang của tôi thường đi tuần vào khoảng từ mười giờ tới mười giờ hai mươi, vì vậy tôi làm trước khi anh ta xuất hiện. Chỉ tốn chưa đến một phút, và chẳng thấy Noah Mordden đâu.

Đoạn cáp nhỏ xíu này giờ chứa hàng trăm ngàn phím gõ của Nora, bao gồm tất cả các mật mã. Chỉ còn là việc cắm thiết bị vào máy tính và tải khối chữ về. Nhưng tôi không dám làm thế ngay ở lô của mình. Ai mà biết được hệ thống mạng của Trion có cài chương trình quét nào chứ? Rủi ro không đáng nhận.
Thay vì thế, tôi đăng nhập vào Website của tập đoàn. Trong hộp tìm kiếm, tôi gõ vào AURORA, nhưng không thấy kết quả gì. Ngạc nhiên chưa, ngạc nhiên chưa. Nhưng tôi còn ý tưởng khác, tôi gõ tên của Alana Jennings và lấy được trang về cô ta. Không có ảnh - phần lớn mọi người đều có ảnh đưa lên, dù vài người thì không - nhưng có thông tin cơ bản như số điện thoại nội bộ, chức danh (Giám đốc Tiếp thị, Bộ phận Nghiên cứu Công nghệ Thay thế), số bộ phận, cũng chính là số hòm thư của cô ta.
Tôi biết con số nhỏ bé này là thông tin cực kỳ hữu dụng. Ở Trion cũng giống như ở Wyatt, bạn có số bộ phận trùng với tất cả mọi người làm việc cùng chỗ với mình. Tất cả những gì tôi phải làm là đánh số đó vào cơ sở dữ liệu của tập đoàn và tôi đã có danh sách của tất cả mọi người trực tiếp làm cùng Alana Jennings - cũng có nghĩa là tất cả bọn họ đều làm trong Dự án AURORA.
Điều đó không có nghĩa là tôi đã có danh sách nhân viên đầy đủ của AURORA, có thể còn có người cùng tầng đó nhưng làm ở những bộ phận khác, nhưng ít nhất thì tôi đã có một phần tương đối: bốn mươi bảy cái tên. Tôi in trang web của từng người ra và cho chúng vào cặp giấy trong túi đi làm. Tôi đoán là chúng sẽ làm bọn người của Wyatt hài lòng được ít lâu.

Tôi về nhà khoảng mười giờ tối hôm đó, và khi đang định ngồi xuống máy tính để tải về tất cả các phím gõ từ máy của Nora, tôi để ý thấy có gì đó khác. Ngay ở giữa bàn “bếp” của tôi - một thứ đồ dán formica tôi mua mất bốn mươi lăm đô tại chỗ bán đồ đạc đã qua sử dụng - là một chiếc phong bì màu nâu dày cộp, mới cứng và được dán kín.
Nó không có ở đó vào buổi sáng. Lại một lần nữa ai đó từ bên Wyatt đã lẻn vào căn hộ của tôi, cứ như thể họ đang định chứng minh rằng mình muốn vào đâu cũng được. Rồi, biết rồi. Có lẽ họ đoán rằng đây là cách an toàn nhất để đưa đồ cho tôi mà không bị trông thấy. Nhưng với tôi thì nó gần như là lời đe dọa vậy.

Phong bì chứa một hồ sơ dày về Alana Jennings, đúng như Nick Wyatt đã hứa. Tôi mở nó ra và thấy cả đống ảnh của cô ta, và đột nhiên mất hứng thú với các phím mà Nora Sommers đã gõ. Cô nàng Alana Jennings này, nói trắng ra thì đúng là nóng bỏng.

Tôi ngồi xuống ghế đọc sách và nghiền ngẫm hồ sơ.
Rõ là đã có khối thời gian, công sức và tiền bạc được bỏ ra cho nó. Thám tử tư đã bám sát cô ta, ghi chép cẩn thận nhất cử nhất động, thói quen và những việc lặt vặt cô ta làm. Có ảnh cô ta đang đi vào tòa nhà Trion, ở hàng ăn với vài người bạn gái, ở câu lạc bộ quần vợt nào đó, tập thể dục ở một trong những câu lạc bộ sức khỏe dành cho nữ giới, bước ra khỏi chiếc xe Mazda Miata màu xanh của mình. Cô ta có tóc đen bóng và mắt xanh, thân hình mảnh mai (nhìn rõ nhờ bộ đồ tập hiệu Lycra). Đôi khi cô ta đeo kính gọng đen dày, loại mà phụ nữ đẹp vẫn đeo để tỏ ra là họ thông minh và nghiêm túc mà vẫn đẹp đến mức có thể đeo kính xấu xí. Chúng thực ra còn làm cô ta trông quyến rũ hơn. Có lẽ đấy mới là mục đích.

Sau một giờ đọc hồ sơ, tôi biết về cô ta nhiều hơn về bất cứ bạn gái nào của mình. Cô ta không chỉ xinh đẹp mà còn giàu có - mối đe dọa kép. Cô ta lớn lên ở Darien, bang Connecticut, đi học ở trường Miss Porter ở Farmington, rồi tới Yale theo ngành tiếng Anh, chuyên về văn học Mỹ. Cô ta cũng từng theo vài khóa công nghệ máy tính và kỹ thuật điện. Theo bản sao học bạ, cô ta hầu như toàn đạt điểm A và A trừ, và được chọn tới Phi Beta Kappa [cộng đồng học thuật danh giá, chuyên để vinh danh những thành công trong lĩnh vực nghệ thuật và khoa học tự do] trong những năm đầu đại học. Được rồi, vậy cô ta cũng thông minh nữa; thế là mối đe dọa gấp ba.
Người của Meacham đã moi ra được đủ loại thông tin tài chính về cô ta và gia đình. Cô ta có quỹ ủy thác vài triệu đô, nhưng bố cô ta, Giám đốc Điều hành một công ty sản xuất nhỏ ở Stamford còn có danh mục đầu tư đáng giá hơn thế nhiều. Cô ta có hai em gái, một người vẫn đang học ở Wesleyan, người còn lại làm cho Sotheby ở Manhattan.

Vì cô ta gần như ngày nào cũng gọi cho bố mẹ, có thể dễ đoán là cô ta thân thiết với họ. (Hồ sơ có đính kèm bản hóa đơn điện thoại của một năm, và thật may là có người đã làm nó dễ hiểu cho tôi, tóm tắt xem cô ta thường gọi cho ai nhất). Cô ta độc thân và dường như không hẹn hò ai đều đặn, và đứng tên sở hữu một căn hộ cao cấp ở một khu rất khá giả không xa trụ sở Trion lắm.
Cô ta đi mua đồ vào mỗi Chủ nhật ở siêu thị bán thức ăn chưa chế biến, và có vẻ là người ăn chay, vì cô ta không bao giờ mua thịt, thậm chí là thịt gà hay cá. Cô ta ăn như một con chim, một con chim của rừng mưa nhiệt đới - rất nhiều hoa quả, dâu, quả hạch. Cô ta không tới quán bar hay đi bù khú, nhưng thỉnh thoảng cũng gọi cửa hàng rượu gần nhà mang đồ tới. Vodka hay uống ở nhà chắc là Grey Goose; rượu gin là Tanqueray Malacca. Cứ một hai lần một tuần cô ta lại đi ăn nhà hàng, và không phải mấy quán như Denny’s hay Applebee’s hay Hooters đâu; dường như cô ta thích chỗ hạng sang với những cái tên như Chakra, Alto, Buzz và Om. Cô ta cũng hay tới các nhà hàng của Thái.
Cô ta đi xem phim ít nhất một lần một tuần và thường mua vé trước ở Fandago; đôi khi cũng xem những phim cho phái nữ thường thấy, nhưng hầu như là phim nước ngoài. Rõ ràng đây là một người phụ nữ ưa xem phim kinh điển Cây guốc gỗ hơn là xem phim hài Porky. Ôi dà. Cô ta mua nhiều sách trên mạng, từ trang Amazon, Barnes và Noble, thường là các tiểu thuyết nghiêm túc thời thượng, một ít là Mỹ Latin và kha khá cuốn về phim ảnh. Gần đây cũng mua vài cuốn về đạo Phật và sự thông thái phương Tây, và những thứ vớ vẩn kiểu đó. Alana cũng mua vài DVD phim, gồm cả bộ Bố già cũng như các phim đen trắng thập kỷ bốn mươi như Bồi thường gấp đôi. Thật ra thì cô ta đã mua Bồi thường gấp đôi hai lần, một lần là băng video vài năm trước, lần sau là đĩa DVD mua gần đây. Dễ thấy cô ta chỉ mới mua đầu DVD trong vòng hai năm qua; và rõ là cô ta thích nhất phim Fred MacMurray/Barbara Stanwyck cũ kỹ. Cô ta mua hầu như mọi đĩa nhạc của Ani DiFranco và Alanis Morissette.

Tôi ghi nhớ những thông tin đó. Tôi bắt đầu có hình dung về Alana Jennings. Và tôi bắt đầu vạch ra một kế hoạch.

26

Chiều thứ Bảy, tôi mặc đồ quần vợt trắng (tôi vừa mua buổi sáng - thường thì tôi mặc quần lửng tả tơi và áo phông mà chơi), đeo đồng hồ Ý đắt đến lố bịch mà tôi vừa vung tiền mua gần đây, và đến một nơi rất phô trương và riêng biệt có tên là Câu lạc bộ Tennis và Quần vợt sân tường. Alana Jennings là thành viên của câu lạc bộ này, và theo hồ sơ thì hầu như thứ Bảy nào cô ta cũng chơi ở đây. Tôi đã xác nhận lại thời gian ra sân của cô ta bằng cách gọi tới đây ngày hôm qua và bảo mình đáng lẽ ra có trận đấu ngày mai với cô ta, nhưng quên giờ và không liên lạc được, không biết là mấy giờ nữa? Thật dễ dàng. Cô ta có một trận đấu đôi vào lúc 16 giờ 30.
Nửa tiếng trước khi đến trận đấu của cô ta, tôi gặp người quản lý thành viên của câu lạc bộ và được dẫn đi xem qua nơi này. Cũng phải mất ít công sức, bởi đây là câu lạc bộ kín; bạn không thể cứ thế từ ngoài đường bước vào được. Tôi đã bảo Arnold Meacham nhờ Wyatt sắp xếp cho một gã giàu có nào đó là thành viên câu lạc bộ - một người bạn của một người bạn của một người bạn, lùi lại vài mức độ như thế từ Wyatt - liên hệ với câu lạc bộ và bảo lãnh cho tôi. Gã đó nằm trong Ban Hội viên, và rõ ràng là tên tuổi của hắn cũng có trọng lượng trong câu lạc bộ, bởi vì Josh, tay Giám đốc Hội viên, xem ra rất vui được dẫn tôi đi xem. Hắn thậm chí còn cho tôi vé vào cửa trong ngày dành cho khách để tôi có thể xem các sân đấu (sân đất nện nhé, cả trong nhà và bên ngoài), có thể vào một trận đấu nào đó nữa.

Chỗ này là một ngôi nhà theo phong cách kiến trúc Shingle trải dài, trông giống như “biệt thự nông thôn” ở Newport. Nó nằm giữa một bãi cỏ được cắt xén hoàn hảo như mặt biển màu lục bảo. Tôi cuối cùng cũng dứt được Josh ra ở quán cà phê nhờ giả vờ vẫy tay với ai đó tôi quen. Hắn bảo sẽ sắp xếp cho tôi một séc đấu, nhưng tôi bảo không cần, tôi quen mọi người ở đây, tôi sẽ ổn thôi.
Vài phút sau tôi thấy cô ta. Bạn không thể không thấy cô em này được. Cô ta mặc áo hãng Fred Perry, và có bộ ngực đầy đặn (chả biết tại sao mà mấy bức ảnh theo dõi không thể hiện được điều đó lắm). Đôi mắt xanh lấp lánh. Cô ta vào quán cà phê với một người phụ nữ khác trạc tuổi mình và gọi Pellegrino cho cả hai. Tôi lấy một bàn gần cô ta, nhưng không quá sát và ở đằng sau ngoài tầm mắt. Cái tôi cần là quan sát, nhìn kỹ, lắng nghe và quan trọng nhất là không bị thấy. Nếu Alana để ý tôi thì lần sau muốn la cà xung quanh là mệt đấy. Tôi chẳng phải là Brad Pitt, nhưng cũng chẳng xấu xí lắm; phụ nữ thường hay để ý đến tôi. Tôi phải cẩn thận.

Tôi không nói được người phụ nữ Alana Jennings đi cùng là hàng xóm hay bạn đại học hay gì nữa, nhưng họ rõ ràng không nói chuyện công việc với nhau. Dễ đoán được rằng họ không làm cùng nhau trong đội AURORA. Thật không may mắn - tôi sẽ không nghe được cái gì hay ho cả.
Nhưng rồi điện thoại di động của cô ta đổ chuông. “Alana nghe đây”, cô ta nói. Giọng mượt như nhung, êm dịu như ở trường tư, có học thức mà không giả tạo.
- Thật à? - Alana nói. - Chà, có vẻ anh giải quyết được nó rồi.
Tai tôi dỏng lên.
- Keith, anh vừa cắt giảm thời gian đi được phân nửa đấy, thật tuyệt vời.
Chắc chắn cô ta đang nói chuyện công việc. Tôi dịch đến gần hơn một chút để nghe rõ hơn. Phòng ồn ào tiếng cười, tiếng đĩa leng keng và tiếng bóng tennis thịch thịch, làm cho phần lớn những gì cô ta nói rất khó nghe. Ai đó va vào bàn tôi, một gã to con béo bụng, làm ly Coke của tôi rung lên. Hắn cười to, làm mất phần lớn cuộc nói chuyện của Alana. Biến đi, thằng khốn.
Hắn núng nính đi mất, và tôi lại nghe được thêm chút ít nữa. Giờ cô ta đang nói thì thầm, và chỉ vài mẩu ngẫu nhiên lọt về phía tôi. Tôi nghe thấy cô ta nói: “... ờ, đó là câu hỏi sáu-mươi-tư-tỷ-đô, phải không nào? Giá mà tôi biết được”. Rồi to hơn một chút. “Cảm ơn cho tôi biết nhé - nghe hay đấy”. Một tiếng bíp nhỏ và cuộc gọi kết thúc.
- Công việc, - cô ta phân trần với người phụ nữ kia. - Xin lỗi nhé. Tớ ước gì tắt nó đi được, nhưng mấy ngày nay tớ phải giữ điện thoại bật liên tục. Drew kia rồi!
Một thằng cao to đến chỗ họ - khoảng ba mươi, da màu đồng, cơ thể to bè như người chèo thuyền - và hôn lên má cô ta. Tôi để ý thấy hắn không hôn người phụ nữ còn lại.
- Chào em, - hắn nói.
Hay thật, tôi nghĩ. Bọn người của Wyatt đã bỏ qua chi tiết Alana rốt cuộc cũng đang hẹn hò ai đó.
- Chào Drew, - cô ta đáp. - George đâu?
- Cậu ấy không gọi em à? - Drew hỏi. - Cái thằng lơ đễnh. Cậu ta quên là mình phải đi với con gái cuối tuần này.
- Thế chúng ta không có người thứ tư à? - người phụ nữ kia nói.
- Tìm ai đó vào vậy, - Drew bảo. - Anh không tin nổi cậu ta không gọi cho em. Đúng là thằng nhút nhát.
Một bóng đèn bừng sáng trong đầu tôi. Đột nhiên vứt bỏ kế hoạch làm người quan sát vô danh mà tôi đã lên một cách cẩn thận, tôi ra quyết định táo bạo chỉ trong nửa giây. Tôi đứng lên và lên tiếng.
- Xin lỗi.
Họ nhìn về phía tôi.
- Các anh chị cần người thứ tư đúng không? - tôi nói.
Tôi giới thiệu mình bằng tên thật, bảo họ tôi đang xem qua nơi này. Tôi không nhắc tới Trion. Họ có vẻ nhẹ người vì tìm được tôi. Tôi nghĩ họ nhìn cái vợt ti tan chuyên nghiệp hiệu Yonex của tôi và nghĩ là tôi rất khá, dù tôi bảo họ rằng mình chỉ tầm tầm thôi, và lâu rồi tôi chưa chơi. Căn bản thì đúng thế.

Chúng tôi chọn một sân ở ngoài trời. Ngày hôm nay nắng đẹp và ấm áp, hơi có chút gió. Alana và Drew ở một đội, tôi cùng người phụ nữ kia ở một đội, tên cô ta là Jody. Jody và Alana khả năng ngang nhau, nhưng Alana có dáng chơi uyển chuyển hơn. Cô ta không hẳn là tấn công dữ dội, nhưng có cú đánh trái tay tốt, liên tục trả bóng, liên tục đón bóng, không có di chuyển nào thừa. Giao bóng đơn giản và chính xác: luôn luôn qua lưới. Kiểu chơi của cô ta thật tự nhiên, cứ như là hít thở vậy.
Thật không may, tôi lại đánh giá thấp Ngài Đẹp Trai. Hắn chơi rất tốt. Ban đầu tôi chơi không vững, khá gượng gạo, và hai lần giao hỏng quả đầu, khiến Jody khó chịu ra mặt. Dù vậy, tôi lấy lại phong độ khá nhanh. Trong khi đó, Drew chơi như thể mình đang chơi trong giải quần vợt Wimbledon của Anh vậy. Tôi càng lấy lại phong độ, hắn càng chơi tấn công, tới mức nó trở nên lố bịch. Hắn bắt đầu tiến đến sát lưới, lấn lên phía trước sân để đón những quả đáng lẽ dành cho Alana, đúng là bám dính lấy bóng. Bạn có thể thấy cô ta nhăn mặt với hắn. Tôi bắt đầu cảm nhận được giữa họ có chuyện gì đó - căng thẳng dâng cao.
Đang diễn ra ở đây là cả một chuyện khác - trận đấu của hai con đầu đàn. Drew bắt đầu giao bóng thẳng vào tôi, đánh rất mạnh, đôi khi quá xa. Dù giao bóng nhanh dữ dội, hắn lại không điều khiển bóng tốt, rồi hắn và Alana dần thua. Lúc sau tôi cũng tóm được đuôi hắn, đoán được hắn sẽ lấn sân, tôi ngụy trang cú đánh bóng của mình và đánh về phía sau hắn. Ngài Đẹp Trai đã bấm phải cái nút ganh đua cũ trong tôi. Tôi muốn đặt hắn về đúng vị trí. Tôi muốn người đàn bà của gã nguyên thủy đó. Chẳng mấy chốc tôi đổ mồ hôi. Tôi nhận ra mình đang chơi quá hăng say, quá công kích trong cuộc đấu chủ yếu là xã giao này; không hợp lý lắm. Vì vậy tôi chùng xuống và chơi kiên nhẫn hơn, giữ bóng trên không, để Drew tự mắc phải sai lầm.

Drew tới lưới và bắt tay tôi khi hết trận. Rồi hắn vỗ vào lưng tôi.
- Anh chơi cơ bản giỏi lắm, - hắn nói bằng giọng điệu thân mật giả tạo.
- Anh cũng vậy, - tôi nói.
Hắn nhún vai.
- Tôi phải lo phần lớn sân.
Alana nghe được và đôi mắt xanh ánh lên vẻ khó chịu. Cô ta quay sang tôi.
- Anh có thời gian đi uống chút gì đó không?

Chỉ có Alana và tôi ở dưới “mái hiên”, cách họ gọi khu sàn gỗ lớn nhìn ra các sân chơi. Jody đã kiếm cớ bảo mình phải đi, nhận ra trong cách nói bóng gió gì đó của phụ nữ là Alana không muốn đi cả nhóm. Rồi Drew thấy chuyện gì đang diễn ra và cũng tìm cớ đi nốt, dù không hòa nhã được như thế.
Cô phục vụ đến và Alana bảo tôi chọn trước, cô ta còn chưa quyết định được mình muốn gì. Tôi gọi một ly Tanqueray Malacca Gin & Tonic. Cô ta giật mình liếc nhìn tôi, chỉ trong một giây ngắn ngủi rồi lấy lại bình tĩnh ngay.
- Tôi cũng gọi như thế, - Alana nói.
- Em sẽ đi xem bọn em có loại đó không, - cô bé phục vụ, một học sinh trung học tóc vàng cột kiểu đuôi ngựa, nói. Một vài phút sau cô bé mang đồ uống quay lại.
Chúng tôi nói chuyện một lúc, về câu lạc bộ, về các thành viên (cô ta gọi họ là “hợm hĩnh”), về sân chơi (“những sân tốt nhất quanh đây từ trước tới giờ”), nhưng cô ta quá sành điệu để hỏi han chuyện buồn chán anh-làm-nghề-gì. Alana không nhắc tới Trion, và tôi cũng vậy. Tôi bắt đầu thấy sợ đến phần đó của cuộc nói chuyện, không biết tôi sẽ phải làm thế nào để lấp liếm đi sự trùng hợp kỳ lạ rằng chúng tôi đều làm việc ở Trion, và này, em từng làm đúng cái việc tôi đang làm đấy nhé! Tôi không thể tin nổi mình lại tự nguyện chơi cùng với họ, tự nhảy đúng vào quỹ đạo của cô ta thay vì ẩn mình không gây chú ý. Thật tốt là chúng tôi chưa bao giờ thấy nhau ở nơi làm việc. Tôi tự hỏi có phải những người trong AURORA đi bằng cổng riêng không. Dù sao thì rượu gin bốc lên đầu rất nhanh, và hôm nay là ngày nắng đẹp, và cuộc nói chuyện thật trôi chảy.
- Tôi xin lỗi vì Drew lại quá khích như thế, - Alana nói.
- Cậu ta chơi tốt lắm.
- Anh ấy cũng quá đáng quá. Anh là mối đe dọa. Hẳn mấy chuyện đàn ông. Chiến đấu bằng vợt.
Tôi cười.
- Giống như trong một câu của Ani DiFranco, không biết em biết không? “Vì tất cả mọi công cụ đều là vũ khí nếu bạn biết dùng nó đúng cách”.
Mắt cô ta sáng bừng lên.
- Chính xác! Anh cũng nghe Ani à?
Tôi nhún vai.
- “Khoa học đuổi bắt tiền bạc, và tiền bạc đuổi bắt chính mình...”
- “Và những trí óc ưu tú nhất của thế hệ tôi không thể bảo lãnh”, cô ta đọc nốt. - Nam giới không nhiều người thích Ani.
- Vậy chắc tôi là anh chàng nhạy cảm. - Tôi tỏ vẻ thản nhiên.
- Chắc vậy. Chúng ta thỉnh thoảng đi đâu chơi đi, - Alana nói.
Tôi nghe đúng không vậy? Có phải cô ta vừa mời tôi đi chơi không?
- Hay đấy, - tôi nói. - Thế em thích đồ ăn Thái không?

27

Tôi tới nhà bố trong tâm trạng vui vẻ sau cuộc hẹn hò nho nhỏ với Alana Jennings đến mức tôi tưởng như mình đang mặc áo giáp. Giờ thì chẳng có gì ông nói hay làm có thể khiến tôi bận tâm được.
Vừa bước lên nền gỗ nứt nẻ của bậc thềm, tôi đã nghe tiếng họ cãi nhau - giọng the thé, oang oác, nghèn nghẹn của bố tôi, càng lúc càng giống chim hơn, và giọng trả lời ầm ầm, trầm và âm vang của Antwoine. Tôi thấy họ trong phòng tắm ở tầng một, căn phòng tràn đầy hơi nước cuồn cuộn bốc lên từ máy hóa hơi. Bố tôi đang nằm sấp mặt xuống ghế dài, cả đống gối dưới đầu và ngực đỡ ông lên. Antwoine đang xoa bóp tấm lưng trần của ông bằng đôi bàn tay to bè, áo y tá xanh nhạt sũng nước. Anh ngước lên khi tôi mở cửa phòng.
- Chào Adam.
- Thằng chó đẻ này đang cố giết tao, - bố rít lên.
- Đây là cách làm đờm trong phổi ông lỏng ra, - Antwoine nói. - Thứ của nợ đó đóng nhờn nhợt lại vì chỗ lông mao bị hỏng đấy.
Anh tiếp tục công việc, gây ra tiếng đập nhẹ. Lưng bố nhợt nhạt ốm yếu, trắng như tờ giấy, chùng và rũ xuống. Dường như không có tí cơ bắp nào. Tôi vẫn còn nhớ lưng bố từng trông như thế nào lúc tôi còn nhỏ: cơ bắp, gân guốc, trông đến phát sợ. Đây là da dẻ của một ông già, và tôi ước là mình chưa trông thấy.
- Thằng khốn này nói dối tao, - bố nói, giọng nghẹn đi vì đống gối. - Nó bảo tao chỉ đi tắm hơi thôi. Nó không nói nó sẽ đập tao nứt cả đống xương sườn chết tiệt. Chúa ạ, tao phải uống steroid, xương tao giòn tan, thằng da đen khốn kiếp!
- Này bố, - tôi hét lên, - đủ rồi!
-  Tao không phải là con chó cái trong tù của mày, thằng da đen!
Antwoine không phản ứng. Anh tiếp tục vỗ lên lưng bố tôi, đều đều và nhịp nhàng.
- Bố, - tôi nói, - người này to con và khỏe hơn bố nhiều. Con không nghĩ làm cậu ấy điên lên là hay đâu.
Antwoine ngước lên nhìn tôi với đôi mắt ngái ngủ và thích thú.
- Này, ngày nào trong tù tôi cũng phải xoay xở với bọn phân biệt chủng tộc Aryan Nation. Cứ tin tôi đi, một lão què lắm miệng chẳng là gì đâu.
Tôi nhăn mặt.
- Thằng chó đẻ khốn kiếp! - bố rít lên. Tôi để ý thấy ông không dùng từ “thằng da đen” nữa.
Lúc sau, bố lại được đặt ngồi trước ti vi, nối với máy sục khí, ống thông vào mũi.
- Vụ này không nên cơm cháo gì cả, - ông nói, cáu kỉnh với cái ti vi. - Mày thấy đống đồ ăn cho thỏ nó cho tao chưa?
- Chúng gọi là rau dưa hoa quả, - Antwoine nói. Anh ngồi trên ghế cách đó vài bước. - Tôi biết ông ấy thích ăn gì - tôi thấy trong chạn rồi. Thịt bò hầm của Dinty Moore trong hộp to, xúc xích Viên, xúc xích gan. Chà, tôi còn ở đây thì không đâu. Ông cần ăn đồ ăn có lợi cho sức khỏe, Frank ạ, tăng cường sức đề kháng cho ông. Ông bị cảm, ông sẽ mắc viêm phổi, phải vào bệnh viện, rồi tôi biết làm gì bây giờ? Ông sẽ không cần đến tôi khi ở trong bệnh viện.
- Trời ạ.
- Thêm nữa là không uống Coca. Phải bỏ thứ của nợ đó đi. Ông cần nước, làm giảm nước nhầy đi, không có cafein. Ông cần kali, can xi vì dùng steroid. - Anh chọc chọc ngón tay trỏ vào lòng bàn tay, cứ như thể mình là huấn luyện viên cho nhà vô địch quyền anh thế giới hạng nặng vậy.
- Nếu muốn thì cứ đi mà làm thức ăn cho thỏ, nhưng tao không ăn đâu, - bố nói.
- Thế thì ông chỉ tự giết mình thôi. Ông tốn năng lượng để thở gấp mười lần người bình thường, vậy nên ông phải ăn, lấy sức lực, thêm chút cơ bắp, đại loại thế. Ông mà tiêu tùng khi tôi đang chăm sóc, tôi không chịu trách nhiệm đâu.
- Làm như mày thực sự quan tâm vậy, - bố nói.
- Ông nghĩ tôi đến đây giúp ông chết à?
- Tao nhìn thì có vẻ như thế đấy.
- Nếu tôi muốn giết ông, sao tôi phải chậm rãi mà làm chứ? - Antwoine nói. - Trừ phi ông nghĩ tôi thấy chuyện này vui vẻ. Như là tôi thích chuyện chết tiệt này vậy.
- Thật là bùng nổ ha? - tôi lên tiếng.
- Ồ này, xem cái đồng hồ trên tay cậu ấy kìa? - Antwoine đột nhiên nói. Tôi quên tháo chiếc Panerai ra. Có lẽ trong tiềm thức tôi nghĩ rằng nó thậm chí không bắt mắt anh ta hay bố tôi.
- Cho tôi xem với nào. - Anh bước tới chỗ tôi, kinh ngạc xem nó. - Trời, cái đồng hồ này phải đáng giá năm ngàn đô la ấy chứ.” Anh ta đoán gần đúng giá rồi. Tôi thấy xấu hổ - nó nhiều hơn số tiền anh ta kiếm được trong hai tháng. - Đây là đồng hồ lặn của Ý hả?
- Ờ, - tôi vội vã đáp.
- Ôi trời, mày đang giỡn tao đấy à, - bố tôi nói, giọng như cái bản lề kẹt gỉ. - Khốn kiếp, tao không tin nổi. - Giờ thì ông cũng trân trân nhìn cái đồng hồ của tôi. - Mày bỏ ra năm nghìn đô cho một cái đồng hồ chết tiệt? Đồ tồi! Mày biết tao phải mửa mật ra thế nào mới kiếm được năm nghìn đô khi tao đang cho mày đi học không? Mày bỏ ra chừng ấy cho một cái đồng hồ khốn kiếp?
- Đó là tiền của con, bố à. - Rồi tôi yếu ớt nói thêm, - Đó là đầu tư.
- Thôi đi, vì Chúa, mày nghĩ tao là thằng ngu à? Đầu tư gì chứ?
- Bố à, là thế này, con vừa được thăng tiến lớn. Giờ con làm ở Hệ thống Trion và kiếm được gấp đôi mức lương làm ở Wyatt, thế được rồi chứ?
Ông nhìn tôi buốt giá.
- Chúng cho mày bao nhiêu tiền mà mày vứt đi năm nghìn chứ - Chúa ạ, tao nói không nổi nữa.
- Họ trả cho con rất nhiều, bố ạ. Và nếu con muốn vứt tiền của mình đi, thì con sẽ vứt đi. Là con kiếm được cơ mà.
- Mày kiếm được, - ông mỉa mai nhại lại. - Cứ tự nhiên nếu có bất cứ khi nào mày muốn trả lại tao số... - ông lấy hơi - Tao không biết tao đã đổ bao nhiêu vạn đô cho mày rồi nữa.

Tôi suýt thì nói thẳng ra tôi đã bỏ bao nhiêu tiền cho ông, nhưng tôi ngừng lại kịp thời. Một thoáng thắng lợi không đáng. Thay vì thế tôi nói đi nói lại với mình rằng, đây không phải là bố của mày đâu. Đây chỉ là một phiên bản tranh biếm họa xấu xa của bố, được Hanna-Barbera chuyển thành hoạt hình, bị thuốc prednisone và cả tá chất biến đổi tinh thần làm méo mó không nhận ra nổi. Nhưng dĩ nhiên tôi biết điều đó không đúng lắm, và đây thật ra vẫn là cùng một lão già khốn nạn, chỉ có điều âm đã được vặn to lên vài nấc.

- Mày sống trong thế giới tưởng tượng, - bố tiếp tục nói, rồi thở mạnh. - Mày nghĩ chỉ cần mày mua một bộ comlê hai nghìn đô, giày năm trăm đô và đồng hồ năm nghìn đô là mày sẽ trở thành một đứa trong bọn chúng phải không? - Ông lại hít một hơi. - Được rồi, tao sẽ cho mày biết. Mày đang mặc bộ đồ Halloween chết tiệt, thế thôi. Mày đang hóa trang. Tao nói thế với mày vì mày là con tao và sẽ không ai khác nói thẳng vào mặt mày. Mày chẳng hơn gì con khỉ đột mặc vét tuxedo.
- Thế nghĩa là sao? - tôi lẩm bẩm. Tôi để ý thấy Antwoine đã ý tứ bước ra khỏi phòng. Mặt tôi đỏ lựng lên.
Ông ấy chỉ là người bệnh thôi, tôi tự nhủ. Ông bị khí thũng ở giai đoạn cuối. Ông đang chết dần. Ông không biết mình đang nói gì đâu.
- Mày nghĩ sẽ có lúc mày trở thành một trong số chúng? Con ạ, mày thích nghĩ thế phải không? Mày nghĩ rằng chúng sẽ nhận mày và cho mày tham gia những câu lạc bộ kín, thịt con gái chúng và chơi pô lô với chúng. - Ông hít vào cả phổi không khí. - Nhưng chúng biết mày là ai và mày đến từ đâu, con trai ạ. Có thể chúng sẽ cho mày chơi trong hộp cát ít lâu, nhưng ngay khi mày bắt đầu quên mất mày thực ra là ai, mẹ kiếp, sẽ có người nhắc cho mày nhớ thôi.
Tôi không thể nhịn thêm nữa. Ông đang làm tôi phát điên.
- Thương trường không như thế đâu bố, - tôi kiên nhẫn nói. - Đó không phải một câu lạc bộ. Đây là chuyện kiếm tiền. Nếu bố giúp họ kiếm tiền, bố thỏa mãn một nhu cầu. Con ở chỗ đó vì họ cần con.
- Ờ, chúng cần mày, - bố tôi nhại lại, nhả ra từng chữ, gật đầu. - Hay đấy. Chúng cần mày như kẻ muốn đi ị cần giấy vệ sinh thôi, mày hiểu chứ? Rồi một khi chúng lau đít xong, chúng xả nước. Tao bảo mày thế này, tất cả những gì chúng quan tâm là kẻ thắng, và chúng biết mày là đồ thua cuộc thôi, chúng sẽ không cho mày quên điều đó đi đâu.
Tôi đảo mắt, lắc đầu và không nói gì. Một mạch máu đập ở thái dương.
Ông lại lấy hơi.
- Và mày quá ngu xuẩn và tự mãn nên không biết được điều đó. Mày cứ sống trong cái thế giới tưởng tượng chết tiệt, y như mẹ của mày. Nó lúc nào cũng nghĩ mình quá tốt đối với tao, nhưng nó chẳng là cái đinh gì. Nó chỉ mơ tưởng. Và mày cũng chẳng là cái đinh gì. Mày đi học trường dự bị đại học hào nhoáng trong vài năm, và mày có bằng đại học vô dụng và đắt giá, nhưng mày vẫn chẳng là cái đinh gì.
Ông thở sâu, và giọng dường như dịu đi đôi chút.
- Tao bảo mày điều này vì tao không muốn mày bị xéo qua như cách mà chúng đã xéo qua tao, con ạ. Giống như cái trường dự bị đại học chết dẫm đó, cách mà lũ phụ huynh giàu có coi thường tao, như tao không phải trong bọn chúng. Mà, biết không, tao mất ít lâu mới nhận ra điều đó, nhưng chúng đã đúng. Tao không phải trong bọn chúng. Mày cũng vậy, và mày càng sớm đoán ra điều đó, mày càng khá khẩm hơn.
- Khá khẩm như bố chứ gì, - tôi nói. Nó cứ trượt ra khỏi miệng.
Ông trừng trừng nhìn tôi, mắt sáng rực.
- Ít nhất tao biết tao là ai, - ông nói. - Mẹ kiếp, mày chẳng biết mày là ai.

28

Buổi sáng hôm sau là Chủ nhật, cơ hội duy nhất để tôi ngủ dậy muộn, vì vậy dĩ nhiên Arnold Meacham nhất định phải gặp tôi từ sớm. Tôi trả lời hòm thư hắn dùng hàng ngày, lấy tên “Donnie”, có nghĩa là tôi có điều để báo cáo. Hắn phản hồi lại ngay, bảo tôi đến bãi đỗ xe ở gần một nhà kho vật liệu xây dựng cụ thể vào đúng chín giờ sáng.
Lúc này đã có nhiều người ở đây - không phải ai cũng ngủ dậy muộn vào Chủ nhật - họ mua gỗ, gạch lát sàn, đồ điện, các túi hạt cỏ và phân bón. Tôi ngồi trong chiếc Audi đợi cả nửa tiếng đồng hồ.
Rồi một chiếc BMW 745i màu đen lùi vào chỗ trống bên cạnh tôi, nhìn hơi lạc lõng giữa các xe bán tải và xe SUV. Arnold Meacham mặc áo len đan xanh dương và trông như thể đang đi đâu đó chơi gôn. Hắn ra hiệu bảo tôi vào xe, tôi làm theo và đưa cho hắn một chiếc đĩa CD và một cặp tài liệu.
- Và ở đây có gì? - hắn hỏi.
- Danh sách nhân viên của Dự án AURORA, - tôi nói.
- Tất cả?
- Tôi không biết. Chí ít cũng là một số người.
- Sao không phải là tất cả?
- Đây có bốn mươi bảy cái tên, - tôi nói. - Khởi đầu như thế cũng tươm tất.
- Chúng ta cần danh sách đầy đủ.
Tôi thở dài.
- Tôi sẽ xem mình làm được gì. - Tôi dừng vài giây, do dự vừa không muốn nói cho gã này biết bất cứ thứ gì tôi không phải nói - tôi càng cho hắn biết nhiều, hắn càng lấn tới - vừa muốn khoe khoang tôi đã tiến xa như thế nào.
- Tôi đã có mật khẩu của sếp tôi. - cuối cùng tôi nói.
- Sếp nào? Lundgren à?
- Nora Sommers.
Hắn gật đầu.
- Mày đã dùng phần mềm đó?
- Không, là con Keyghost.
- Mày sẽ làm gì với chúng?
- Tìm trong đống thư điện tử lưu trữ. Có lẽ là vào lịch họp của bà ta và tìm hiểu xem bà ta gặp gỡ những ai.
- Nhỏ nhặt quá, - Meacham nói. - Tao nghĩ đã tới lúc thâm nhập vào AURORA.
- Giờ quá mạo hiểm, - tôi lắc đầu.
- Tại sao?
Một người đẩy xe hàng đầy túi phân bón Scott màu xanh đi ngang qua cửa sổ xe Meacham. Bốn năm thằng nhóc chạy loăng quăng đằng sau anh ta. Meacham nhìn sang, bật cho cửa sổ kéo lên rồi quay lại tôi.
- Tại sao? - hắn lặp lại.
- Thẻ vào cửa được làm riêng.
- Trời ạ, bám theo ai đó, trộm một cái thẻ, thế nào cũng được. Tao phải quẳng mày vào lại khóa tập huấn cơ bản à?
- Họ ghi nhận tất cả lượt vào cửa, và mỗi cổng đều có cửa xoay, vì vậy không thể cứ thế mà lẻn vào được.
- Còn nhân viên quét dọn thì sao?
- Cũng có máy quay truyền hình mạch kín ở từng cổng vào. Không dễ như vậy đâu. Ông không muốn tôi bị bắt, không phải lúc này chứ.
Hắn đành nhân nhượng.
- Trời, chỗ đó bảo mật ghê thật.
- Chắc ông phải học được một hai mánh đấy.
- Im mẹ đi, - hắn gắt. - Còn hồ sơ nhân sự thì sao?
- Bên nhân sự cũng được bảo mật rất kỹ, - tôi nói.
- Chỗ đó không giống như AURORA. Nó hẳn phải tương đối dễ dàng. Lấy cho bọn tao hồ sơ nhân sự của bất cứ ai có liên hệ với AURORA về bất cứ mặt nào. Ít nhất là hồ sơ của những người trong danh sách này. - Hắn giơ đĩa CD lên.
- Tôi sẽ thử vào tuần tới.
- Tối nay đi. Tối Chủ nhật rất hợp để thực hiện điều đó.
- Ngày mai là ngày quan trọng. Chúng tôi sẽ thuyết trình trước Goddard.
Hắn tỏ ra ghê tởm.
- Cái gì chứ, mày quá bận rộn với công việc vỏ bọc à? Tao mong là mày chưa quên mày thực ra làm việc cho ai.
- Tôi phải bắt kịp với mọi người. Điều đó quan trọng lắm.
- Càng có lý do để mày làm việc tại văn phòng tối nay, - hắn nói, và quay chìa khóa khởi động xe.

29

Đầu buổi tối hôm đó tôi lái xe tới trụ sở Trion. Bãi đỗ xe gần như trống không, ở đó có lẽ chỉ còn là bảo vệ, nhân viên ở các trung tâm 24/7 và vài người mê việc như tôi đang giả bộ lúc này. Tôi không nhận ra đại sứ tiền sảnh, một phụ nữ gốc Tây Ban Nha trông không có vẻ vui sướng vì phải ngồi ở đó lắm. Bà ta chẳng thèm nhìn tôi khi tôi đi vào, nhưng tôi vẫn chào, làm bộ như đang ưu tư, hay ngượng ngùng gì đó. Tôi tới lô của mình ngồi làm thật một lát, bảng tính doanh số Maestro theo từng khu vực họ gọi là EMEA, chia ra thành Châu Âu/Trung Đông/Châu Á. Đường đồ thị không tốt, nhưng Nora muốn tôi nắn bóp các con số để lôi ra bất cứ điểm khả quan nào tôi có thể tìm được.
Gần như cả tầng đều tối đen. Tôi thậm chí phải bật đèn ở khu của mình lên. Thật căng thẳng.
Meacham và Wyatt muốn có hồ sơ nhân sự của mọi người trong AURORA. Bọn chúng muốn biết quá trình công tác của từng người một, xem họ được tuyển từ những công ty nào và công việc trước của họ là gì. Đó là một cách hay để tìm hiểu AURORA rốt cuộc là như thế nào.
Nhưng đâu phải tôi có thể cứ thế ung dung đi vào bộ phận Nhân sự, mở vài ngăn kéo ra và giật lên bất cứ hồ sơ nào tôi thích. Bộ phận Nhân sự ở Trion khác với phần lớn các bộ phận khác trong công ty, thực sự áp dụng biện pháp an ninh ngăn ngừa. Dễ thấy nhất là không thể truy cập được vào máy tính của họ thông qua cơ sở dữ liệu chính của tập đoàn; chúng nằm trong mạng riêng biệt. Âu cũng phải thôi - hồ sơ nhân sự chứa đủ loại thông tin cá nhân như bản đánh giá hiệu quả công tác, giá trị tài khoản tiết kiệm cho nghỉ hưu hay quyền chọn cổ phiếu, đại loại thế. Có lẽ bộ phận Nhân sự sợ là phần đông nhân viên sẽ phát hiện ra rằng bộ máy điều hành cấp cao của Trion kiếm được nhiều hơn tất cả như thế nào và rồi náo loạn sẽ bùng nổ ở các khu làm việc theo lô.

Bộ phận Tài nguyên Nhân sự nằm ở tầng ba của Cánh E, cách bộ phận Tiếp thị Sản phẩm mới cả một quãng dài. Trên đường tới đó có nhiều cửa khóa, nhưng thẻ của tôi có lẽ cái nào cũng mở được.
Rồi tôi nhớ ra rằng đâu đó có ghi lại ai vào tại điểm nào, vào lúc nào. Thông tin được lưu trữ, không nhất thiết có nghĩa là ai đó sẽ xem hay lấy nó làm chuyện gì. Nhưng nếu sau này vạn nhất xảy ra rắc rối, thật không hay rằng một đêm Chủ nhật, vì lý do nào đó tôi lại đi từ bộ phận Sản phẩm mới tới bộ phận Nhân sự, rắc sau lưng mẩu vụn bánh mì điện tử suốt cả đường đi.
Vì vậy tôi ra khỏi tòa nhà, đi bằng thang máy xuống và ra bằng một cổng hậu. Mấy hệ thống an ninh này chỉ theo dõi lượt vào chứ không theo dõi lượt ra. Khi đi ra thì không phải dùng thẻ. Có lẽ đây là nguyên tắc an toàn cháy nổ gì đó, tôi chẳng biết. Nhưng như thế có nghĩa là tôi có thể rời khỏi tòa nhà mà không ai biết.
Lúc này ngoài trời đã tối. Tòa nhà Trion bừng lên, lớp vỏ crôm mài của nó sáng lấp lánh, các khung cửa kính thẫm màu xanh. Ngoài này khá yên tĩnh, chỉ thỉnh thoảng có tiếng ô tô vụt qua trên đường cao tốc.
Tôi đi sang Cánh E, nơi này dường như có nhiều chức năng hành chính - bộ phận Mua sắm Trung tâm, Quản lý Hệ thống, đại loại như thế - và tôi thấy ai đó đang bước ra khỏi cửa phục vụ.
- Này, giữ cửa cho tôi với! - tôi hét lên. Tôi vẫy thẻ Trion cho hắn xem, hắn nom như một lao công. - Cái thẻ chết tiệt này không hoạt động được.
Hắn để cửa cho tôi, không liếc tôi lấy một cái, và tôi bước ngay vào trong. Không bị ghi lại. Cứ theo hệ thống trung tâm thì tôi vẫn còn đang ngồi trên tầng ở lô của mình.
Tôi đi cầu thang bộ lên tầng ba. Cửa vào tầng ba không khóa. Đây cũng có lẽ là nguyên tắc an toàn cháy nổ gì đó: ở các tòa nhà cao trên một mức nhất định nào đó, bạn phải có thể đi từ tầng này sang tầng kia bằng thang bộ, phòng trường hợp khẩn cấp. Có lẽ có tầng đặt trạm đọc thẻ ngay trong lối ra thang bộ. Nhưng tầng ba thì không. Tôi bước thẳng vào khu vực tiếp tân bên ngoài bộ phận nhân sự.
Phòng đợi nhìn đúng kiểu bên nhân sự - cả đống đồ gỗ gụ đắt giá để nói rằng chúng tôi rất nghiêm túc và nơi đây người ta chăm lo về sự nghiệp của anh, và những cái ghế nhiều màu, trông thoải mái và chào đón. Chúng bảo rằng bất cứ khi nào bạn tới bộ phận nhân sự, bạn sẽ phải hạ mông ngồi đó lâu thật là lâu.
Tôi nhìn quanh tìm máy quay truyền hình mạch kín và không thấy cái nào. Cũng không phải tôi nghĩ sẽ có; nơi này đâu phải ngân hàng - hay dự án bí mật - nhưng tôi vẫn muốn đoán chắc. Hay ít nhất cũng là chắc chắn hết mức có thể.
Đèn hơi tối, khiến nơi này trông càng trang nghiêm. Hay là ma quái, tôi không biết nữa.
Tôi đứng đó vài giây, nghĩ ngợi. Không có lao công nào quanh đó để cho tôi vào trong; có lẽ họ sẽ tới vào tối muộn hoặc sáng sớm. Đấy hẳn là cách lọt vào tốt nhất. Thay vì thế, tôi đành phải dùng trò cũ thẻ-của-tôi-không-hoạt-động vậy, nó đã giúp tôi vào được tận đây rồi. Tôi quay ngược xuống thang bộ và ra tiền sảnh bằng lối hậu, một cô đại sứ tiền sảnh với mái tóc dày màu đỏ đồng đang ngồi đó xem tập chiếu lại của phim truyền hình Người độc thân qua một màn hình an ninh.
- Thế mà tôi cứ nghĩ mình là người duy nhất phải làm việc vào Chủ nhật chứ, - tôi nói với cô ta. Cô ta ngước lên, lịch sự cười rồi lại quay lại bộ phim. Tôi trông giống như thuộc về nơi này, tôi có thẻ cặp vào thắt lưng và tôi tới từ bên trong tòa nhà, nên hẳn là tôi có lý do để ở trong thật, phải không? Cô ta không phải mẫu người nói nhiều, nhưng như thế cũng tốt - cô ta chỉ muốn ở một mình để xem Người độc thân. Cô ta sẽ làm bất cứ cái gì để thoát được tôi.
- Này, - tôi nói. - Xin lỗi làm phiền chị, nhưng chị có máy chữa thẻ không? Không phải tôi muốn vào văn phòng của mình đâu, nhưng tôi buộc phải vào nếu không thì mất việc mất, thế mà cái máy đọc thẻ chết tiệt không cho tôi vào. Cứ như thể nó biết tôi lẽ ra nên ở nhà xem bóng bầu dục, chị biết đấy.
Cô ta mỉm cười. Có lẽ là cô ta không quen bị nhân viên Trion để ý.
- Tôi hiểu ý anh, - cô ta nói. - Nhưng xin lỗi anh, cô chữa thẻ mai mới tới cơ.
- Ôi trời. Thế tôi làm thế nào vào được đây? Tôi không đợi đến mai được. Chết mất rồi.
Cô ta gật đầu, nhấc tai nghe lên.
- Stan, - cô ta nói. - Anh ra đây giúp chúng tôi được không?
Stan, nhân viên bảo vệ, tới vài phút sau. Hắn khoảng năm mươi, nhỏ con, rắn chắc, ngăm đen với mái tóc đen bóng thấy rõ là giả, rìa là tóc thật đã ngả bạc. Tôi không bao giờ hiểu nổi tại sao lại chuốc phiền đội tóc giả làm gì nếu bạn không chịu thỉnh thoảng sửa sang một lần cho nó chí ít cũng hơi hơi giống thật. Chúng tôi đi thang máy lên tầng ba.
Tôi huyên thuyên với hắn mấy chuyện nghe phức tạp về hệ thống thẻ có cấp bậc riêng của bộ phận Nhân sự, nhưng hắn không quan tâm lắm. Hắn muốn nói chuyện thể thao, cái này thì tôi làm được, không khó gì. Hắn thất vọng với đội Denver Broncos, và tôi giả vờ như tôi cũng thế. Khi chúng tôi lên tới bộ phận Nhân sự, hắn lấy thẻ của mình ra, có lẽ nó sẽ cho phép hắn vào bất cứ đâu hắn làm việc trong phần này của tòa nhà. Hắn vẫy nó trước máy đọc thẻ.
- Đừng làm việc quá sức nhé, - hắn nói.
- Cảm ơn ông anh, - tôi nói.
Hắn nhìn sang tôi.
- Anh nên chữa cái thẻ đó đi.
Và tôi vào trong.

30

Khi đã đi qua khu vực tiếp tân, bộ phận Nhân sự trông giống như mọi văn phòng đáng nguyền rủa khác ở Trion, vẫn cùng một kiểu bài trí lô làm việc giống nhau. Đèn huỳnh quang trên đầu đã tắt, chỉ đèn khẩn cấp là còn bật. Theo những gì tôi thấy khi đi quanh, tất cả các khoang đều không người, các phòng cũng vậy. Không phải mất nhiều thời gian để tìm ra các bản ghi được lưu trữ ở đâu. Ở giữa tầng là những hồ sơ màu be xếp ngang, tạo thành những lối đi hình kẻ ô.
Tôi đã tính làm vụ gián điệp này hoàn toàn trực tuyến, nhưng không có mật mã của bộ phận Nhân sự thì chẳng làm gì được. Dù vậy khi đang ở đây, tôi nghĩ mình sẽ để lại một thiết bị ghi nhận phím gõ. Sau này tôi có thể quay lại lấy nó. Hãng Viễn thông Wyatt mới là kẻ chi trả cho mấy món đồ chơi đó chứ không phải tôi. Tôi tìm một khoang làm việc và cài đặt thiết bị.
Còn giờ, tôi phải cắm rễ xung quanh mấy ngăn hồ sơ, tìm hiểu về những người ở dự án AURORA. Và tôi phải hành động thật nhanh - càng ở đây lâu, tôi càng dễ bị bắt.

Câu hỏi là: chúng được sắp xếp như thế nào? Theo bảng chữ cái, theo tên? Theo số thứ tự của nhân viên? Càng nhìn vào nhãn của các ngăn hồ sơ, tôi càng nản chí. Gì chứ, chẳng lẽ tôi lại nghĩ là mình cứ thế lướt vào, kéo mở một cái cửa rồi lôi ra vài hồ sơ sáng giá sao? Có hàng dãy ngăn kéo tựa đề QUẢN LÝ PHÚC LỢI và LƯƠNG HƯU/TRỢ CẤP HÀNG NĂM/NGHỈ HƯU và HỒ SƠ NGHỈ VÌ ỐM ĐAU, NGHỈ HÀNG NĂM VÀ CÁC LOẠI KHÁC; rồi các ngăn tựa YÊU SÁCH VÀ BỒI THƯỜNG CHO CÔNG NHÂN VIÊN và YÊU SÁCH, TRANH CHẤP; một khu vực gọi là HỒ SƠ NHẬP CƯ VÀ NHẬP QUỐC TỊCH... và cứ thế cứ thế. Tê liệt cả đầu óc.
Chả biết tại sao một bài hát ngớ ngẩn từng một thời thịnh hành tự dưng vang lên trong đầu tôi - bài Đoàn người đang chạy, của Paul McCartney trong thời gian bất hạnh ở ban nhạc Wings. Một bài hát tôi thực sự căm ghét, nó tồi tệ hơn bất cứ bài gì của Celine Dion. Giai điệu khó chịu nhưng dễ nhớ, như bệnh viêm kết mạc vậy, và lời chẳng có nghĩa gì hết. “Một cái chuông đang reo lên tại quảng trường của ngôi làng, vì đám thỏ đang chạy!”. Ừm, thôi được rồi.
Tôi thử một ngăn hồ sơ, và dĩ nhiên là nó bị khóa; ngăn nào cũng thế. Mỗi tủ hồ sơ có khóa ở trên đỉnh, và chúng phải có chung chìa khóa. Tôi tìm bàn của nhân viên hành chính, bài hát chết tiệt đó vẫn quanh quẩn trong đầu... “Vị quan tòa địa phương... nuôi lòng đố kỵ”... còn tôi thì vẫn tìm bàn của nhân viên hành chính, và hẳn rồi, chìa khóa cho đống hồ sơ đang ở đó, mắc vào vòng chìa khóa cắm trên một ngăn kéo không khóa ở phía trên dãy trung tâm.
Chà, Meacham nói đúng; chìa khóa luôn luôn dễ tìm. Tôi chọn xem những hồ sơ nhân sự sắp xếp theo bảng chữ cái.
Chọn một cái tên từ danh sách AURORA - Yonah Oren - tôi nhìn dưới vần O. Không có ai. Tôi lại tìm tên khác - Sanjay Kumar - và cũng không thấy ai. Tôi thử Peter Daut: không có. Lạ thật. Để cho chắc chắn, tôi tìm các tên đó trong ngăn CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM, TAI NẠN. Vẫn không có. Với các hồ sơ lương hưu cũng vậy. Thực ra cho đến giờ thì tôi không tìm thấy gì ở bất cứ hồ sơ nào.
Gã cai tù và Thủy thủ Sam...”. Đúng là tra tấn bằng nước kiểu Trung Quốc mà [hình thức tra tấn bằng cách nhỏ nước thẳng xuống đỉnh đầu trong thời gian dài làm nạn nhân hóa điên] - lời bài hát nhạt phèo đó có nghĩa gì chứ? Liệu có ai hiểu nổi không?
Có một điều lạ lùng rằng ở nơi lẽ ra phải có các hồ sơ thì dường như lại có những khoảng trống nhỏ, những chỗ xếp lỏng, như thể là hồ sơ đã bị lấy đi. Hay chỉ do tôi tưởng tượng ra thôi? Lúc sắp bỏ cuộc đến nơi, tôi đi thêm một vòng quanh những dãy tủ hồ sơ, và rồi tôi để ý thấy một hốc tường - một phòng mở riêng biệt gần dãy ô tủ hồ sơ. Một tấm biển trước lối vào ghi rằng:
 
HỒ SƠ NHÂN SỰ MẬT -
CHỈ ĐƯỢC TIẾP CẬN KHI CÓ SỰ CHẤP THUẬN TRỰC TIẾP
TỪ JAMES SPERLING HOẶC LUCY CELANO.
 
Tôi bước vào hốc tường và nhẹ cả người khi thấy ở đây mọi thứ đơn giản hơn: các ngăn được xếp theo số phòng ban. James Sperling là giám đốc Nhân sự và Lucy Celano, như tôi biết, là trợ lý hành chính của ông ta. Tôi mất vài phút để tìm ra bàn của Lucy Celano, và có lẽ là thêm ba mươi giây để tìm chùm chìa khóa (ở ngăn tủ bên phải phía dưới).
Rồi tôi quay trở lại các tủ hồ sơ bị hạn chế và tìm ngăn tủ có số phòng ban, bao gồm cả dự án AURORA. Tôi mở khóa tủ hồ sơ và kéo nó ra. Một tiếng cạch như kim loại va chạm vang lên, như thể một bánh xe nhỏ nào đó đằng sau ngăn tủ vừa rơi xuống. Tôi tự hỏi không biết bao lâu mới có ai đó thực sự tìm vào các ngăn tủ này. Có phải họ hầu như làm việc với các hồ sơ trực tuyến, và giữ bản cứng chỉ vì lý do pháp lý và kiểm toán không?
Rồi tôi chứng kiến một điều thật kỳ quái: tất cả các hồ sơ của bộ phận AURORA đã biến mất. Tôi muốn nói là có khoảng trống khoảng hai hay ba gang tay giữa số trước và số sau. Ngăn tủ bị trống một nửa.
Các hồ sơ của AURORA không còn nữa.

Trong giây lát, tim tôi như ngừng đập. Tôi thấy nhẹ bỗng cả đầu.
Ở một góc xa tầm mắt, tôi thấy ánh sáng chói lòa bắt đầu chớp nháy. Đó là một trong những chiếc đèn xenon nhấp nháy báo khẩn cấp treo cao trên tường, gần trần nhà, ngay bên ngoài hốc tường. Vì chuyện quái quỷ gì chứ? Và vài giây sau, tiếng chuông báo động vang lên, to tới không tin nổi, khàn khàn những tiếng hoét, hoét.
Không biết làm sao tôi đã khởi động hệ thống phát hiện xâm nhập, chắc chắn là để bảo vệ những hồ sơ mật này.
Tiếng chuông báo động to tới mức bạn có lẽ sẽ nghe thấy nó xuyên suốt cả khu nhà.

31

Bọn an ninh có thể tới bất cứ lúc nào. Có lẽ lý do duy nhất họ còn chưa lên đây là vì vào cuối tuần, nhân lực ít hơn ngày thường.
Tôi lao ra cửa, đâm sầm vai vào thanh chốt, và cửa không mở được. Cú va chạm đau thấu trời.
Tôi lại thử lại; cửa đã bị chốt khóa. Ôi Chúa ơi. Tôi thử một cửa khác, và cả nó cũng bị khóa từ bên trong.
Giờ thì tôi nhận ra tiếng cạch kim loại vui tai một hai phút trước là gì - khi mở ngăn hồ sơ, tôi hẳn đã làm khởi động một loại cơ chế nào đó khiến tất cả cửa ra khỏi khu vực này đều tự động bị khóa lại. Tôi chạy tới bên kia tầng, phía đó có một hệ thống cửa ra khác, nhưng chúng cũng không mở được. Thậm chí ngay cả cửa thoát hiểm khẩn cấp phòng hỏa hoạn dẫn ra cầu thang nhỏ phía sau cũng bị khóa, và điều này hẳn vi phạm nguyên tắc.
Tôi bị mắc kẹt như con chuột trong mê cung. Giờ thì bảo vệ hẳn sẽ có mặt bất cứ lúc nào, và họ sẽ lục soát khu vực.
Đầu tôi quýnh quáng lên. Tôi có nên bịa ra gì đó với họ không? Stan, người bảo vệ đã cho tôi vào - có lẽ tôi có thể thuyết phục hắn rằng tôi vô tình bước vào nhầm khu vực, mở ra nhầm ngăn tủ. Hắn có lẽ có cảm tình với tôi, có thể tôi sẽ làm được. Nhưng nếu như hắn lại thực sự thẳng tay làm nhiệm vụ thì sao, đòi xem thẻ của tôi và thấy tôi chẳng thuộc về nơi nào gần chỗ này?
Không, tôi không thể mạo hiểm. Tôi không còn lựa chọn, phải trốn thôi.
Tôi bị mắc kẹt bên trong.
Mắc kẹt giữa bốn bức tường này”, nhóm Wings gào lên kinh tởm trong tôi. Chúa ơi!
Ánh đèn xenon nhấp nháy chớp từng hồi, sáng chói mắt, và chuông báo động cứ kêu hoét, hoét, cứ như thể chỗ này là lò phản ứng hạt nhân trong vụ tan chảy lõi lò vậy.
Nhưng tôi biết trốn ở đâu bây giờ? Tôi cho rằng điều đầu tiên nên làm là tạo ra cái gì đó làm chệch hướng, một lời giải thích hợp lý và vô hại cho tiếng chuông báo động. Cứt thật, không đủ thời gian!
Nếu tôi bị bắt ở đây, chuyện thế là xong. Mọi thứ. Tôi không chỉ mất việc ở Trion. Tồi tệ hơn nhiều. Sẽ là một thảm họa, một cơn ác mộng thực sự.
Tôi vớ lấy sọt rác bằng kim loại gần nhất. Nó trống không, vì vậy tôi vớ lấy một mẩu giấy ở gàn bàn, vo tròn lại, rút bật lửa ra đốt. Tôi chạy quay lại hốc tường chứa hồ sơ bí mật và đặt nó ở gần tường. Rồi tôi rút một điếu thuốc lá trong bao thuốc của mình ra và vứt chung vào trong sọt rác. Giấy bén lửa, cháy bùng lên, tạo ra một đám khói lớn. Có lẽ nếu một phần mẩu thuốc lá được tìm thấy, người ta sẽ đổ lỗi cho đầu thuốc còn cháy âm ỉ. Có lẽ.
Tôi nghe thấy tiếng những bước chân ồn ào, những giọng nói dường như phát ra từ cầu thang phía sau.
Không, xin Chúa. Hết cả rồi. Hết cả rồi.
Tôi nhìn thấy cái gì đó như cửa buồng để đồ. Nó không bị khóa. Đằng sau là kho vật phẩm, không rộng lắm, nhưng có lẽ sâu khoảng gần bốn mét, xếp chật những giá cao toàn ram giấy và những thứ như thế.
Tôi không dám bật đèn lên nên khó mà nhìn rõ, nhưng tôi thấy được một khoảng trống giữa hai giá ở đằng sau, có lẽ tôi sẽ ép được mình vào trong.
Tôi chỉ vừa đóng được cửa lại sau lưng thì nghe thấy tiếng một cánh cửa khác bật mở, và rồi những tiếng la hét nghèn nghẹt.
Tôi cứng cả người. Chuông báo động vẫn reo. Người ta chạy tới chạy lui, hét càng to hơn, gần hơn.
“Đằng này!”, ai đó gào lên.
Tim tôi đập thình thịch. Tôi nín thở. Tôi chỉ vừa cử động một tí, giá đằng sau đã kêu cót két rồi. Tôi cựa người, vai cọ vào cái hộp, tạo ra âm thanh sột soạt. Tôi không nghĩ có ai đi qua lại nghe được những âm thanh nhỏ xíu tôi gây nên, làm sao nghe nổi với tất cả những huyên náo ngoài kia, những tiếng la hét, chuông báo động như thế chứ. Nhưng tôi buộc mình phải bất động tuyệt đối.
“... mẩu thuốc chết tiệt!”
Tôi nghe thấy, nhẹ cả người.
“... bình dập!”, một người khác trả lời.
Lâu, lâu lắm - có thể là mười phút, cũng có thể là nửa giờ, tôi không biết nữa, tôi không cử động được tay để nhìn đồng hồ đeo tay - tôi cựa quậy đứng đó khó chịu, đầm đìa mồ hôi, như đang giả chết, bàn chân tê đi vì tư thế khôi hài tôi đang đứng.
Tôi đợi cửa buồng bị lôi mở, ánh sáng ập vào trong, đời tôi thế là hết.
Tôi không biết lúc đó mình có thể nói gì nữa. Không gì cả, thật vậy. Tôi sẽ bị bắt quả tang và tôi tuyệt nhiên không biết mình có thể biện giải kiểu gì để thoát được. Chỉ bị đuổi việc là còn may mắn. Tôi có thể sẽ phải đối mặt với các hành động pháp lý từ phía Trion - đơn giản là chẳng có lời giải thích nào nghe hợp lý cho việc tôi ở đây. Tôi không muốn nghĩ tới việc Wyatt sẽ làm gì với mình.
Và đổi lại cả đống rắc rối ấy, tôi ở đây làm gì chứ? Chẳng vì cái gì cả. Tất cả hồ sơ AURORA đằng nào cũng biến mất rồi.
Tôi nghe thấy tiếng gì như vòi phun, rõ ràng là tiếng bình dập cháy, và giờ thì những tiếng la hét đã giảm bớt. Tôi tự hỏi liệu bảo vệ có gọi nhân viên cứu hỏa của riêng công ty không, hay là gọi đội cứu hỏa địa phương. Và liệu đám lửa trong sọt rác có giải thích được cho tiếng chuông báo động không. Hay họ sẽ tiếp tục lục soát nơi này?
Vì vậy tôi đứng đó, đôi chân biến thành hai khối băng ngứa râm ran trong khi mồ hôi đổ xuống mặt, và lưng cùng vai cứng cả lại vì chuột rút.
Và tôi đợi.
Thỉnh thoảng tôi nghe thấy giọng nói, nhưng chúng bình tĩnh hơn, giống như đã chấp nhận tình huống. Có tiếng bước chân, nhưng không còn hỗn loạn nữa.
Sau một khoảng thời gian dường như vô tận, tất cả yên ắng trở lại. Tôi cố giơ tay trái lên xem giờ, nhưng tay tôi tê dại. Tôi siết nó, cử động tay phải qua để cấu véo tay tê cho tới khi có thể giơ lên kiểm tra mặt đồng hồ dạ quang. Vừa qua mười giờ ít phút, dù tôi đã ở trong này lâu đến mức cứ nghĩ hẳn đã phải quá nửa đêm rồi.
Tôi chậm chạp tự gỡ ra khỏi tư thế uốn mình, di chuyển im lặng về phía cửa kho đồ. Rồi tôi đứng đó vài phút, chăm chú lắng nghe. Tôi không nghe thấy âm thanh nào. Có vẻ là một vụ cá cược an toàn khi cho rằng họ đã đi - họ đã dập lửa, đã tự thấy hài lòng rằng rốt cuộc không có vụ đột nhập nào. Con người, đặc biệt là bảo vệ - những người ít nhiều căm ghét tất cả máy tính làm được mọi thứ nhưng lại khiến họ mất việc - họ không tin tưởng máy móc lắm. Họ sẽ nhanh chóng đổ lỗi cho sai sót nào đó trong hệ thống báo động. Có lẽ, nếu tôi thực sự may mắn, sẽ không ai tự hỏi tại sao chuông báo động chống xâm nhập lại reo trước khi chuông báo cháy reo.
Rồi tôi hít một hơi và chậm rãi mở cửa.
Tôi nhìn hai bên và nhìn thẳng phía trước, khu vực có vẻ vắng lặng. Không có ai ở đây. Tôi bước ra vài bước, dừng chân, lại nhìn quanh.
Không có ai.
Nơi này nồng nặc mùi khói, và mùi hóa chất gì đó nữa, có lẽ là từ bình dập lửa.
Tôi đi nhẹ nhàng dọc theo tường, tránh tất cả cửa sổ trông ra ngoài hay cửa bằng tấm kính cho tới khi đến một trong những cửa ra. Không phải cửa dẫn tới khu tiếp tân chính, và không phải cửa ra cầu thang đằng sau, nơi từ đó bảo vệ đã vào.
Và chúng bị khóa.
Vẫn bị khóa.
Chúa ơi, không.
Họ không ngắt khóa tự động. Đi nhanh hơn một chút, khí huyết lại sôi sục, tôi tới cửa khu tiếp tân và đẩy thanh chặn, và chúng cũng bị khóa.
Tôi vẫn bị khóa bên trong.
Giờ thì sao đây?
Tôi không có lựa chọn nào. Không có cách mở khóa từ bên trong, ít nhất là theo những gì tôi được dạy. Và tôi cũng không thể cứ gọi bảo vệ nhờ giúp, đặc biệt là sau những gì vừa xảy ra.
Không. Tôi sẽ phải đợi ở bên trong này cho tới khi có ai đó cho tôi ra ngoài. Cũng có nghĩa là phải đợi tới trời sáng, khi đội lao công tới. Hay tồi tệ hơn, khi nhân viên nhân sự đầu tiên tới. Và tôi sẽ phải giải thích ra trò.
Tôi cũng mệt lả rồi. Tôi tìm một khoang cách xa cửa ra vào và cửa sổ, rồi ngồi xuống. Tôi hoàn toàn kiệt sức. Tôi cần ngủ ghê gớm. Và thế là tôi khoanh tay lại như một sinh viên mệt rã rời ở thư viện đại học, và lăn ra ngủ ngay lập tức.

32

Khoảng năm giờ sáng, tôi bị một tiếng động loảng xoảng đánh thức. Tôi giật người dậy. Đội lao công đã tới, đẩy theo những cái xô nhựa màu vàng to đùng, giẻ lau sàn và máy hút bụi loại vắt được qua vai. Có hai người đàn ông và một phụ nữ, nói liến thoắng với nhau bằng tiếng Bồ Đào Nha. Tôi biết một ít: nhiều người hàng xóm nơi tôi lớn lên là người Brazil.
Tôi đã rỏ một chút nước dãi ra bàn của một ai đó, ai cũng được. Tôi lấy ống tay áo lau đi, rồi đứng dậy và thong dong đi tới cửa ra, họ đã giữ nó mở bằng một thanh đệm cao su.
- Bom dia, como vai? [Xin chào, anh chị có khỏe không? - Tiếng Bồ Đào Nha] tôi nói. Tôi lắc đầu, tỏ ra ngượng ngùng, nhìn đồng hồ đeo tay một cách phô trương.
- Bem, obrigado e o senhor? -[Vâng, cảm ơn anh, còn anh? - Tiếng Bồ Đào Nha] Người phụ nữ trả lời, để lộ vài cái răng vàng. Bà ta hẳn hiểu được - tội nghiệp anh chàng viên chức, làm việc ở đây cả đêm, hay là ở đây sớm không tưởng nổi, bà ta không biết hoặc cũng chẳng quan tâm.
Một người đàn ông nhìn sọt rác kim loại cháy sém và nói gì đó với người còn lại. Như là, cái quái gì đã xảy ra ở đây vậy?
- Cansado, - tôi nói với bà ta: - Tôi mệt, thế đấy. Bom, até logo. Gặp lại sau nhé.
- Até logo, senhor, [Chào anh. - Tiếng Bồ Đào Nha] - Người phụ nữ nói khi tôi bước ra cửa.
Trong thoáng chốc tôi nghĩ tới việc lái xe về nhà, thay quần áo rồi quay lại ngay. Nhưng như thế vượt quá sức tôi, nên thay vì thế, tôi rời khỏi Cánh E - lúc này mọi người đã bắt đầu lục đục tới - vào lại Cánh B, đi tới khoang làm việc của mình. Được rồi, nếu ai đó có kiểm tra bản ghi lượt vào cửa, họ sẽ thấy tôi tới đây vào khoảng bảy giờ tối Chủ nhật, rồi quay lại vào khoảng năm giờ ba mươi sáng thứ Hai. Người tham việc. Tôi chỉ mong không chạm trán ai đó mình biết trong bộ dạng như thế này, như thể vẫn mặc nguyên quần áo mà ngủ, mà dĩ nhiên là đúng như thế. May mắn thay, tôi không gặp ai. Tôi vớ lấy một lon Coca Vani ăn kiêng ở phòng nghỉ và làm một ngụm to. Sớm như thế này thì vị nó thật là tệ, nên tôi làm một bình cà phê ở máy pha Bunn-O-Matic và vào phòng vệ sinh nam để rửa mặt. Áo tôi hơi nhăn, nhưng nhìn chung thì tôi trông tề chỉnh, thậm chí dù tôi cảm thấy thật tệ hại. Ngày hôm nay là một ngày quan trọng, và tôi phải làm hết sức.

Một giờ trước khi cuộc họp quan trọng với Augustine Goddard diễn ra, chúng tôi tập hợp ở Packard, một trong các phòng họp lớn, để tổng duyệt lại. Nora mặc một bộ đồ màu xanh đẹp mắt, và trông như đã làm tóc đặc biệt cho dịp này. Mụ trông vô cùng lo lắng, căng thẳng dâng tràn. Mụ đang cười, mắt mở to.
Chad và mụ đang tổng duyệt lại trong phòng khi những người còn lại tập hợp. Chad đang đóng vai Jock. Họ chơi trò đối đáp như một cặp vợ chồng già đang diễn lại nhịp điệu của một cuộc tranh cãi đã quen thuộc từ lâu, rồi đột ngột điện thoại cầm tay của Chad đổ chuông. Hắn có một chiếc điện thoại Motorola nắp gập, tôi chắc chắn là hắn thích nó vì hắn có thể chấm dứt một cuộc gọi bằng cách đóng nó lại.
- Chad đây, - hắn nói. Giọng hắn đột nhiên ấm lên. - Chào, Tony. - Hắn giơ ngón tay trỏ lên bảo Nora đợi, rồi đi tới một góc phòng.
- Chad, - Nora bực bội gọi từ đằng sau. Hắn quay lại, gật đầu với mụ rồi lại giơ ngón tay lên. Khoảng một phút sau, tôi nghe thấy hắn gấp điện thoại lại và bước tới phía Nora, nói nhỏ và nhanh. Tất cả chúng tôi đều nhìn và lắng nghe; họ ở vòng tròn trung tâm mà.
- Đấy là một người bạn của tôi ở phòng kiểm soát, - hắn nói nhỏ, mặt nghiêm trọng. - Quyết định về Maestro đã được lập rồi.
- Làm sao cậu biết? - Nora hỏi.
- Phòng kiểm soát vừa nhận được lệnh gạch sổ toàn bộ khoản tiền năm mươi triệu đô cho Maestro. Quyết định đã được duyệt ở cấp Tổng. Buổi họp này với Goddard chỉ là hình thức.
Nora đỏ bừng mặt và quay đi. Mụ bước đến cửa sổ và nhìn ra ngoài, không nói gì cả phút đồng hồ.

33

Trung tâm Chỉ thị Điều hành ở trên tầng bảy của Cánh A, ngay phía cuối hành lang sau văn phòng của Goddard. Chúng tôi tập hợp ở đó thành nhóm. Tinh thần khá thấp. Nora bảo vài phút nữa sẽ ra với chúng tôi.
- Người chết đang đi! - Chad vừa đi vừa hát lên với tôi. - Người chết đang đi!
Tôi gật đầu. Mordden liếc sang Chad đang đi bên cạnh tôi, và gã giữ khoảng cách, chắc chắn đang nghĩ đủ thứ xấu xa về tôi, cố đoán tại sao tôi lại không làm mặt lạnh với Chad, tôi đang giở trò gì vậy. Gã không còn dừng lại khoang của tôi thường xuyên kể từ đêm tôi lẻn vào văn phòng của Nora. Thật khó đoán được có phải gã đang cư xử lạ lùng không, vì lạ lùng vốn là chế độ mặc định của gã. Và tôi cũng không muốn buông mình vào trạng thái hoang tưởng - có phải gã đang nhìn mình khang khác không, hay đại loại thế. Nhưng tôi không thể ngừng tự hỏi liệu mình có làm hỏng cả nhiệm vụ này với một hành động bất cẩn, liệu Mordden có gây rắc rối cho tôi không.
- Này, chỗ ngồi rất quan trọng đấy, cậu bạn, - Chad thì thầm với tôi. - Goddard luôn ngồi ghế giữa ở phía bàn gần cửa. Nếu cậu muốn biến thành vô hình, cậu ngồi bên phải ông ấy. Nếu cậu muốn ông ấy chú ý đến mình, hoặc là ngồi bên trái hoặc ngồi chính diện ông ấy.
- Bộ tớ muốn ông ta chú ý đến sao?
- Tớ làm sao biết được, ông ấy là sếp mà.
- Cậu đã tham gia nhiều buổi họp có ông ấy chưa?
- Không nhiều lắm. - Hắn nhún vai. - Một vài buổi thôi.
Tôi ghi nhớ trong đầu hãy ngồi bất cứ đâu mà Chad khuyên tôi không ngồi, như là bên phải Goddard chẳng hạn. Lừa tao một lần, thế là thôi nhé, đồ tồi.

Trung tâm Chỉ thị Điều hành đúng là đáng kinh ngạc. Có một bàn họp lớn bằng thứ gỗ gì đó giống ở vùng nhiệt đới, nó choán phần lớn phòng. Cuối phòng toàn bộ là màn hình thuyết trình. Có mành che cách âm dày thấy ngay được là sẽ kéo từ trần xuống bằng điều khiển, có lẽ không chỉ để ngăn ánh sáng vào phòng mà còn để không ai bên ngoài nghe được gì từ trong này. Gắn vào bàn là tổ hợp ống nghe nói và những màn hình nhỏ trước mỗi ghế, chúng sẽ trượt lên khi bạn bấm nút ở đâu đó.
Có nhiều tiếng thì thầm, tiếng cười căng thẳng, tiếng thì thào hóm hỉnh. Tôi có phần trông đợi được nhìn thấy Jock Goddard nổi tiếng tận mắt và ở khoảng cách gần, dù tôi sẽ không bao giờ được bắt tay ông ta. Tôi không phải nói gì hay có phần trong bài thuyết trình, nhưng tôi vẫn căng thẳng.
Khoảng mười giờ kém năm, Nora vẫn chưa xuất hiện. Hay mụ đã nhảy ra ngoài cửa sổ mất rồi? Có phải mụ đang gọi điện, cố vận động hành lang, nỗ lực lần cuối cùng để cứu sản phẩm quý báu của mình, giật bất cứ cái dây nào mình có thể?
- Có phải bà ta lạc đường rồi không? - Phil đùa.

Mười giờ kém hai phút, Nora vào phòng, trông bình thản, rạng rỡ, dường như lại hấp dẫn hơn. Mụ trông như thể vừa trang điểm lại, son môi và đại loại thế. Có lẽ mụ thậm chí đã thiền hay gì đó, vì mụ trông hoàn toàn thay đổi.
Rồi đúng mười giờ, Jock Goddard và Paul Camilletti bước vào phòng, và tất cả mọi người yên lặng. Camilletti “Cắt Cổ”, mặc áo vét ngắn tay đen và áo sơ mi lụa màu ô liu, tóc vuốt ngược về phía sau, trông như Gordon Gekko ở phố Wall vậy. Hắn ngồi xuống ghế ở một góc của cái bàn rộng. Goddard, vẫn mặc áo cổ cao đen dưới áo choàng thể thao nâu bằng vải tuýt, đi tới gần Nora và thì thầm gì đó khiến mụ phá lên cười. Ông đặt tay lên vai mụ; mụ đặt tay lên tay ông trong vài giây. Mụ đang cư xử như thiếu nữ, có chút ve vãn; đó là một mặt của Nora mà tôi chưa bao giờ thấy.
Rồi Goddard ngồi ngay xuống đầu bàn, đối diện với màn hình, cảm ơn nhé, Chad. Tôi ngồi bên bàn đối diện và bên phải ông ta. Tôi nhìn rõ ông và chắc chắn không có cảm giác mình vô hình, ông có đôi vai tròn, hơi khom khom. Tóc bạc, hất về một bên, hơi rối. Lông mày bạc rậm, mỗi bên trông giống một đỉnh núi tuyết. Trán ông hằn sâu đầy nếp nhăn và mắt ông ánh lên vẻ tinh quái.
Vài giây im lặng ngượng nghịu trôi qua, rồi ông nhìn quanh bàn lớn.
- Các anh chị ai cũng căng thẳng cả, - ông nói. - Thoải mái đi! Tôi không cắn đâu.
Giọng ông dễ chịu, hơi lào khào, một giọng nam trung êm dịu. Ông liếc sang Nora và nháy mắt.
- Chí ít là không phải thường xuyên.
Mụ cười phá lên; một vài người khác khẽ cười lịch sự. Tôi cũng mỉm cười, chủ yếu là để nói: tôi đánh giá cao ông đã cố gắng cho chúng tôi thoải mái.
- Chỉ khi anh bị đe dọa thôi, - mụ nói. Ông cười, môi tạo thành hình chữ V. - Jock, anh không phiền nếu tôi bắt đầu bây giờ chứ.
- Xin mời.
- Jock, chúng tôi đều đã làm việc cực kỳ vất vả để làm mới Maestro, đến mức đôi lúc tôi nghĩ thật khó có thể vượt ra khỏi bản thân, để tìm lấy một góc nhìn thực tế. Suốt ba mươi sáu giờ qua hầu như tôi không nghĩ về cái gì khác. Và tôi thấy rõ là có vài cách quan trọng để chúng ta có thể cập nhật, cải thiện Maestro, khiến nó hấp dẫn hơn, tăng thị phần, thậm chí là tăng đáng kể.
Goddard gật đầu, ngón tay xếp thành nóc tháp chuông, nhìn xuống ghi chép của mình.
Mụ gõ lên cuốn sổ thuyết trình mỏng kẹp chặt.
- Chúng tôi đã tìm ra một chiến thuật, khá là tốt, thêm vào mười hai chức năng mới khiến Maestro bắt kịp công nghệ. Nhưng tôi phải nói với anh một cách trung thực rằng nếu tôi ở vào địa vị của anh, tôi sẽ rút dây cắm thôi.
Goddard đột ngột quay lại nhìn mụ, đôi lông mày rậm màu trắng nhướn lên. Tất cả chúng tôi đều trân trối nhìn mụ, sửng sốt. Tôi không tin nổi là mình đang nghe thấy điều này. Mụ đang đốt cả đội của mình.
- Jock, - mụ nói tiếp, - nếu có điều gì anh đã dạy tôi, thì đó là đôi khi một người lãnh đạo thực sự phải hy sinh thứ mà anh ta yêu quý nhất. Tôi rất đau lòng phải nói thế này. Nhưng chỉ là tôi không thể bỏ qua sự thật được. Maestro đã rất tuyệt vời trong thời của nó. Nhưng thời của nó đã đến - và đi. Đó là Luật của Goddard - nếu sản phẩm của anh không có tiềm năng chiếm được vị trí thứ nhất hoặc thứ hai trên thị trường, anh bỏ nó đi.
Goddard yên lặng một lúc. Ông trông ngạc nhiên, ấn tượng, và sau vài giây, gật đầu với một nụ cười sắc sảo kiểu tôi-thích-điều-tôi-thấy.
- Chúng ta - tất cả mọi người đều đồng ý về điều này chứ? - ông kéo dài giọng.
Dần dần mọi người đều gật đầu, nhảy lên con tàu đang đi khi nó rời ga. Chad gật đầu, cắn môi theo kiểu mà Bill Clinton từng làm. Mordden gật đầu lia lịa, như thể cuối cùng thì gã cũng thể hiện được quan điểm thực sự của mình. Những kỹ sư khác lẩm bẩm, “Đúng vậy”, và “Tôi đồng ý”.
- Tôi phải nói là tôi ngạc nhiên khi nghe điều này, - Goddard nói. - Đây chắc chắn không phải điều tôi nghĩ sẽ được nghe sáng nay. Tôi đã chờ Trận chiến Gettysburg. Tôi rất ấn tượng.
- Điều tạm thời tốt đẹp cho bất cứ cá nhân nào trong chúng tôi, - Nora bổ sung, - không hẳn đã là điều tốt nhất cho Trion.
Tôi không tin nổi cách Nora đang dẫn dắt vụ hiến tế này, nhưng tôi phải khâm phục sự xảo quyệt của mụ, kỹ năng chính trị kiểu Machiavelli của mụ.
- Được rồi, - Goddard nói, - trước khi chúng ta kéo cò súng, hãy đợi một phút. Anh - tôi không thấy anh gật đầu. - Ông ta dường như nhìn thẳng vào tôi.
Tôi liếc quanh, rồi quay lại ông ta. Chắc chắn ông ta đang nhìn thẳng vào tôi.
- Anh, - ông ta nói. - Anh bạn trẻ, tôi không thấy anh gật đầu cùng những người còn lại.
- Cậu ta là người mới, - Nora vội vã chen vào. - Vừa mới bắt đầu thôi.
- Tên anh là gì, anh bạn trẻ?
- Adam, - tôi nói. - Adam Cassidy.
Tim tôi bắt đầu đập thình thịch. Mẹ kiếp. Cứ như là bị gọi trả bài ở trường vậy. Tôi cảm thấy như thằng bé học lớp hai.
- Anh có vướng mắc gì với quyết định của chúng ta ở đây à, Adam? - Goddard hỏi.
- Hả? Không.
- Vậy anh đồng ý rút dây cắm.
Tôi nhún vai.
- Anh đồng ý, không đồng ý - hay thế nào?
- Tôi chắc chắn hiểu Nora tại sao nói như vậy, - tôi nói.
- Và nếu anh ngồi ở vị trí của tôi? - Goddard thúc.
Tôi thở sâu.
- Nếu tôi ngồi ở vị trí của ông, tôi sẽ không rút dây cắm.
- Không à?
- Và tôi cũng sẽ không thêm vào mười hai chức năng mới đó.
- Anh sẽ không à?
- Phải. Chỉ một thôi.
- Và nó là gì vậy?
Tôi liếc thoáng qua Nora, thấy mụ mặt đỏ tía tai. Mụ đang trân trối nhìn tôi như thể một quái vật ngoài hành tinh đang bùng ra khỏi ngực tôi. Tôi quay lại Goddard.
- Giao thức bảo mật dữ liệu.
Lông mày của Goddard cong cả xuống.
- Bảo mật dữ liệu? Vì cái quái gì mà nó lại hấp dẫn được khách hàng chứ?
Chad hắng giọng và nói:
- Thôi nào, Adam, nhìn vào nghiên cứu thị trường đi. Bảo mật dữ liệu là cái gì chứ? Xếp thứ bảy mươi lăm trên danh sách chức năng mà khách hàng muốn có. - Hắn cười khẩy. - Trừ phi anh nghĩ khách hàng bình thường là Austin Powers, Người đàn ông Bí ẩn Tầm quốc tế.
Có tiếng cười khúc khích từ phía đầu bên kia bàn.
Tôi tử tế cười.
- Không, Chad, anh nói đúng - khách hàng thông thường không quan tâm tới bảo mật dữ liệu. Nhưng tôi không nói đến khách hàng thông thường. Tôi đang nói về quân đội.
- Quân đội? - Goddard nhướn một bên lông mày lên.
- Adam... - Nora chen ngang bằng giọng cảnh cáo thẳng thừng.
Goddard vẫy tay về phía Nora.
- Không, tôi muốn nghe điều này. Anh nói là quân đội?
Tôi thở sâu, cố không tỏ ra hoảng hốt.
- Nhìn xem, Lục quân, Không quân, của Canada, của Anh - toàn bộ cơ sở quốc phòng của Mỹ, của Anh, của Canada - gần đây vừa đại tu lại hệ thống thông tin toàn cầu của họ, đúng không?
Tôi lôi ra vài mẩu tin cắt từ tờ Tin Phòng vệ, Tuần báo Tin học Liên bang - dĩ nhiên là những tạp chí tôi luôn có một ít ở nhà mình - và giơ lên. Tôi cảm thấy tay mình hơi run, và hy vọng không ai để ý. Wyatt đã chuẩn bị cho tôi chuyện này và tôi hy vọng là thông tin chính xác.
- Nó gọi là Hệ thống Thông tin Quốc phòng, DMS - hệ thống tin nhắn bảo mật cho hàng triệu quân nhân trên toàn thế giới. Nó được sử dụng thông qua máy tính để bàn, và Lầu Năm Góc rất muốn đưa nó lên mạng không dây. Thử tưởng tượng xem sự khác biệt sẽ đến thế nào - truy cập không dây từ xa một cách an toàn vào dữ liệu và hệ thống liên lạc bảo mật, với người nhận và người gửi được xác thực, mã hóa an toàn hai đầu, bảo vệ dữ liệu, toàn vẹn thông tin. Chưa ai nắm được thị trường này cả!
Goddard nghiêng đầu, chăm chú lắng nghe.
- Và Maestro là sản phẩm hoàn hảo cho mảng thị trường này. Nó nhỏ, bền - gần như không thể phá hủy - và hoàn toàn đáng tin cậy. Bằng cách này, chúng ta biến điểm tiêu cực thành tích cực: công nghệ cũ và lạc hậu của Maestro lại là điểm cộng đối với quân đội, vì nó hoàn toàn tương thích với giao thức truyền mạng không dây năm năm tuổi của họ. Tất cả những gì chúng ta cần là thêm vào bảo mật dữ liệu. Chi phí nhỏ nhất và tiềm năng thị trường thì khổng lồ - tôi muốn nói là khổng lồ!
Goddard đang trân trối nhìn tôi, dù tôi không đoán được ông thấy ấn tượng hay ông nghĩ tôi đã hóa điên.
Tôi tiếp tục:
- Vì vậy thay vì mông má lại sản phẩm già nua, rõ ràng thua kém này, chúng ta phân lại thị trường cho nó. Thêm vào vỏ nhựa cứng và mã hóa bảo mật, và chúng ta trở lại thời hoàng kim. Chúng ta sẽ thống lĩnh nhánh thị trường này nếu nhanh tay. Quên chuyện gạch sổ năm mươi triệu đi - giờ chúng ta đang nói về hàng trăm triệu cho doanh thu hàng năm.
- Trời, - Camilletti nói từ đầu bàn bên kia. Hắn nguệch ngoạc ghi chép vào một tập giấy.
Goddard gật đầu, ban đầu chậm, rồi mạnh hơn.
- Rất hấp dẫn, - ông nói và quay sang Nora. - Tên anh ta là gì nhỉ, Elijah?
- Adam, - Nora trả lời ngắn gọn.
- Cảm ơn, Adam, - ông nói. - Không tệ chút nào.
Đừng cảm ơn tôi, tôi nghĩ, cảm ơn Nick Wyatt ấy.
Và rồi tôi thấy Nora nhìn mình với biểu cảm căm thù thuần túy, không che đậy.

34

Lệnh chính thức đến qua thư điện tử trước bữa trưa: Goddard đã yêu cầu hoãn xử tử Maestro. Đội Maestro được lệnh lập đề xuất để trang bị và làm lại bao gói chút ít cho sản phẩm để đáp ứng được nhu cầu của quân đội. Trong khi đó, nhân viên của bộ phận Quan hệ Chính phủ sẽ bắt đầu đàm phán hợp đồng với Cơ quan đặc trách Hệ thống Thông tin Quốc phòng về Tiếp nhận và Hậu cần của Lầu Năm Góc.
Dịch ra là: bóng đập rổ. Sản phẩm cũ không chỉ đã được gỡ khỏi máy trợ sinh mà còn được cấy tim và truyền một lượng máu lớn.

Và rồi bão tố ập tới.
Chad nhàn nhã bước vào khi tôi đang ở trong phòng vệ sinh nam, đứng trước chỗ đi tiểu và kéo khóa quần ra. Tôi để ý thấy là Chad dường như có giác quan thứ sáu biết rằng tôi xấu hổ khi đi tiểu. Hắn luôn luôn theo tôi vào phòng vệ sinh nam để nói chuyện về công việc hay thể thao và làm tắt đầu vòi của tôi cực giỏi. Lần này hắn bước tới ngay chỗ bên cạnh, mặt sáng bừng lên như thể phấn khích được thấy tôi. Tôi nghe thấy hắn kéo khóa quần. Cơn buồn của tôi tắt ngấm. Tôi lại nhìn trân trối những kẽ gạch trên bồn tiểu.
- Này, - hắn nói. - Giỏi lắm. Đúng là cách “trèo cao”! - Hắn chầm chậm lắc đầu vòi, tạo ra tiếng phì phì. Nước tiểu của hắn ầm ĩ bắn tóe lên đáy hình thoi nhỏ của bồn tiểu. “Trời”, hắn rỉ ra chế nhạo. Hắn đã vượt qua lằn ranh vô hình nào đó - thậm chí không còn giả tạo nữa.
Tôi nghĩ, mày làm ơn biến đi để tao giải quyết nỗi buồn được không?
- Tớ đã cứu sản phẩm, - tôi chỉ ra.
- Phải, và mày nhân tiện thiêu Nora luôn. Như vậy có đáng không? Chỉ để mày ghi được vài điểm với Tổng Giám đốc Điều hành, có thêm ít đất diễn? Đó không phải là cách mọi chuyện diễn ra ở đây, bạn thân mến ạ. Mày vừa phạm phải một sai lầm lớn. - Hắn vẩy vẩy, kéo khóa quần lên và đi ra khỏi phòng vệ sinh mà không rửa tay.
Thư thoại từ Nora đã đợi sẵn khi tôi về đến khoang của mình.

- Chào chị Nora, - tôi nói khi bước vào văn phòng mụ.
- Adam, - mụ nhẹ nhàng nói. - Mời ngồi xuống đây đi.
Mụ cười một nụ cười buồn bã và dịu dàng. Đây là điềm xấu.
- Nora, liệu tôi có thể nói rằng...
- Adam, anh biết đấy, một trong những điều chúng tôi thấy tự hào ở Trion là luôn luôn cố gắng để xếp đúng người đúng việc - để chắc chắn là những nhân viên tiềm năng nhất của chúng tôi được giao trách nhiệm phù hợp nhất với họ. - Mụ lại cười, mắt lấp lánh. - Vì vậy mà tôi đã đệ đơn yêu cầu chuyển vị trí công tác và bảo Tom giải quyết.
- Chuyển vị trí?
- Tất cả chúng tôi đều ấn tượng kinh khủng với tài năng, sự tháo vát và kiến thức uyên thâm của anh. Buổi họp sáng nay đã chứng tỏ điều đó rất rõ. Chúng tôi cảm thấy rằng một người phẩm chất như anh có thể làm nên chuyện lớn ở cơ sở RTP của chúng ta. Đơn vị quản lý chuỗi cung ứng ở đó chắc chắn sẽ cần một nhân viên có tinh thần làm việc nhóm mạnh mẽ như anh.
- RTP?
- Văn phòng vệ tinh của Khu vực Tam giác Nghiên cứu. Ở Raleigh-Durham, Bắc Carolina.
- Bắc Carolina? - Tôi nghe đúng không vậy? - Chị muốn nói là chuyển tôi xuống Bắc Carolina?
- Adam, anh nói cứ như thể đó là Siberia vậy. Anh đã bao giờ tới Raleigh-Durham chưa? Đó thực sự là một vùng rất tuyệt.
- Tôi - nhưng tôi không thể chuyển đi, tôi có trách nhiệm ở đây, tôi phải...
- Bộ phận Tái định cư Nhân viên sẽ sắp xếp mọi thứ cho anh. Họ sẽ chu cấp toàn bộ chi phí chuyển đi - tất cả trong phạm vi hợp lý, dĩ nhiên. Tôi đã bắt đầu lo liệu với bộ phận Nhân sự rồi. Chuyển đi có thể hơi làm ngắt quãng cuộc sống một chút, dĩ nhiên, nhưng họ sẽ làm mọi chuyện dễ chịu đến ngạc nhiên. - Mụ nở rộng nụ cười. - Anh sẽ thích ở đó cho xem, và họ sẽ thích anh!
- Nora, - tôi nói. - Goddard muốn tôi trung thực nói lên suy nghĩ của mình, và tôi là người hâm mộ cuồng nhiệt với tất cả những gì mà chị đã làm cho dòng Maestro, tôi sẽ không phủ nhận điều đó. Không đời nào tôi muốn chọc giận chị.
- Chọc giận tôi? - mụ nói. - Adam, ngược lại - tôi biết ơn anh về thông tin. Tôi chỉ ước là anh đã chia sẻ suy nghĩ của mình với tôi trước buổi họp. Nhưng đó là nước chảy qua cầu mà thôi. Chúng ta phải hướng tới những gì lớn lao và tốt đẹp hơn. Và anh cũng thế!

Vụ chuyển vị trí sẽ diễn ra trong ba tuần tới. Tôi hoàn toàn hoảng loạn. Khu vực Bắc Carolina là công việc hành chính văn phòng thuần túy. Cách vị trí Nghiên cứu và Phát triển này hàng triệu dặm. Ở đó tôi sẽ vô dụng với Wyatt. Và lão sẽ kết tội tôi đã làm hỏng việc. Tôi gần như có thể nghe thấy tiếng lưỡi dao trảm quyết rơi xuống.
Thật buồn cười: chỉ tới khi bước ra khỏi văn phòng của mụ tôi mới nghĩ về bố mình, và rồi tôi thực sự chấn động. Tôi không thể chuyển đi được. Tôi không thể để ông già ở đây. Nhưng làm sao tôi từ chối đi nơi Nora cử đi được? Làm ầm lên - chống lệnh mụ, hay ít nhất là thử làm vậy, chắc chắn sẽ phản ngược lại tôi - tôi còn lựa chọn nào chứ? Nếu tôi từ chối đi Bắc Carolina, tôi sẽ phải xin nghỉ khỏi Trion, và rồi thì sẽ loạn cào cào.
Cứ như thể cả tòa nhà đang chầm chậm quay tròn vậy; tôi phải ngồi xuống và suy nghĩ. Khi tôi đi qua khoang của Noah Mordden, gã ngoắc ngón tay gọi tôi vào.
- À, Cassidy, - gã nói. - Julien Sorel*  của riêng Trion. Hãy cư xử tử tế với quý bà De Renal chứ.

*[Nhân vật chính trong tiểu thuyết “Đỏ và Đen” của Stendhal, nỗ lực tìm cách vượt lên khỏi tầng lớp bình dân nhờ tài năng, sự chăm chỉ, mánh khóe và đạo đức giả, để rồi bị người yêu phản bội]
**[Nhân vật trong “Đỏ và Đen”, phu nhân thị trưởng De Renal. Quý bà mà Julien Sorel đem lòng yêu và tìm cách chinh phục]

- Xin lỗi? - tôi nói. Tôi không hiểu gã đang nói về cái quái gì.
Mặc áo Aloha và đeo kính tròn to màu đen, gã trông càng lúc càng giống với một bức tranh biếm họa vẽ chính mình. Điện thoại IP của hắn đổ chuông, nhưng hiển nhiên là nhạc chuông không bình thường chút nào. Đó là một file nhạc được cắt ra từ bài “Suffragette City”: “Ồ la la cảm ơn quý bà!
- Anh cho là cậu đã gây ấn tượng được với Goddard, - gã nói. - Tuy nhiên, cậu cũng phải cẩn thận không gây thù chuốc oán quá mức với lãnh đạo trực tiếp của mình. Quên Stendhal đi. Cậu có lẽ sẽ muốn đọc Tôn Tử. - Hắn cau mày. - Cậu có thể cứu được mạng mình đấy.
Khoang của Mordden được trang hoàng với đủ thứ lạ lùng. Có một bàn cờ bày thế cẩn thận, một tranh dán tường H.P. Lovecraft, một con búp bê lớn tóc xoăn vàng. Tôi chỉ bàn cờ dò hỏi.
- Trận Tal-Botvinnik, 1960, - gã nói, như thể tôi hiểu nổi điều đó vậy. - Một trong những nước cờ vĩ đại nhất của mọi thời đại. Dù thế nào thì ý anh là người ta không vây thành nếu có thể tránh được. Hơn nữa, điều sáng suốt này không phải của Tôn Tử mà của hoàng đế La Mã Domitian, nếu cậu tấn công quân vương, cậu phải giết được hắn. Thế mà cậu lại công kích Nora mà không chuẩn bị sẵn không quân chi viện.
- Tôi không có ý công kích.
- Dù cậu định đạt được điều gì thì đó cũng là một nước tính sai, anh bạn. Mụ chắc chắn sẽ hủy diệt cậu. Nhớ đấy, Adam. Quyền lực làm hỏng người. PowerPoint chắc chắn sẽ làm hỏng người.
- Bà ta chuyển tôi tới Tam giác Nghiên cứu.
Gã nhướn một bên lông mày lên.
- Có thể đã còn tệ hơn nữa kia. Cậu đã bao giờ tới Jackson, Mississippi chưa?
Tôi đã đến, và tôi thích nơi đó, nhưng tôi đang chán nản và không thấy thích nói chuyện dài hơn với gã kỳ quặc này. Gã khiến tôi thấy căng thẳng. Tôi chỉ vào con búp bê xấu xí trên giá và hỏi.
- Đó là của anh?
- Lucille Hãy Yêu Em, - gã nói. - Một thất bại thảm hại, và anh tự hào muốn nói đó là con đầu tiên anh làm.
- Anh chế tạo... búp bê?
Gã với ra siết bàn tay con búp bê, thế là nó như sống dậy, đôi mắt giống thật đến kinh hãi mở ra và thực sự nheo lại như con người. Cái miệng của thần ái tình hé mở rồi cong xuống cau có đáng sợ.
- Cậu chắc chưa bao giờ thấy búp bê làm như thế.
- Và tôi không nghĩ mình muốn thấy lại lần nữa, - tôi nói.
Mordden lóe lên một ánh cười.
- Lucille có đầy đủ biểu cảm nét mặt của con người. Bé hoàn toàn là rô bốt, nhưng lại khá ấn tượng. Bé rên rỉ, nhặng xị và khó chịu, như một em bé thật sự vậy. Bé cũng ợ hơi. Bé ríu rít, thầm thì, thậm chí là tè dầm trong tã lót. Bé biết biểu lộ dấu hiệu đau bụng. Bé làm được đủ mọi việc trừ mỗi chuyện bị hăm tã. Bé biết định vị ngôn ngữ, có nghĩa là bé sẽ nhìn bất cứ ai nói với mình. Anh có thể dạy bé nói.
- Tôi không biết anh hứng thú với búp bê.
- Ơ này, anh có thể làm mọi thứ anh muốn ở đây. Anh là Kỹ sư Xuất sắc của Trion. Anh thiết kế nó cho cháu gái, con bé không chịu chơi với nó. Con bé nghĩ nó làm sởn gai ốc.
- Nó có vẻ thô kệch, - tôi nói.
- Hình dáng cũng tệ. - Gã quay sang con búp bê và nói chậm. - Lucille? Chào Tổng Giám đốc Điều hành của chúng ta đi.
Lucille chầm chậm quay đầu lại Mordden. Tôi nghe được tiếng vo vo bé xíu của máy móc. Nó nháy mắt, lại quạu cọ, và bắt đầu nói với giọng trầm của James Earl Jones, môi cong lên thành từ:
- Ăn quần tao đi, Goddard.
- Trời, - tôi bật ra.
Lucille chầm chậm quay về phía tôi, lại nháy mắt rồi cười ngọt ngào.
- Lõi công nghệ bên trong con chằn tinh xấu xí này đi trước thời đại nhiều, - Mordden nói. - Anh đã phát triển cả một hệ điều hành đa tuyến chạy trên bộ xử lý 8 bit. Trí thông minh nhân tạo tiên tiến nhất với mã được dịch rất chặt chẽ. Cấu trúc khá thông minh. Ba ASIC độc lập trong cái bụng béo này, chính là anh thiết kế đấy.

[ASIC là vi mạch tích hợp chuyên dụng được thiết kế dành cho một ứng dụng cụ thể]

ASIC. Cái này tôi biết, là từ chuyên ngành về vi mạch máy tính được thiết kế tùy biến đặc biệt có thể làm được hàng tá việc khác nhau.
- Lucille? - Mordden nói, và con búp bê nhìn sang hắn, chớp mắt. - Mẹ mày, Luccille.
Mắt Lucille dần nheo lại, miệng trễ xuống và nó phát ra âm thanh đau khổ a-a-a. Một giọt nước mắt lăn xuống má nó. Gã kéo áo pajama diềm đăng ten màu hồng của nó lên, để lộ một màn hình LCD vuông nhỏ.
- Ba và Má có thể đặt chương trình cho bé qua các thiết lập trên màn hình độc quyền nhỏ xíu của Trion. Một trong các ASIC điều khiển màn hình LCD này, một cái khác điều khiển động cơ, cái còn lại điều khiển lời nói.
- Thật kinh ngạc, - tôi bảo. - Tất cả chỉ cho một con búp bê.
- Đúng thế. Và rồi công ty đồ chơi mà bọn anh hợp tác đã làm hỏng lần ra mắt. Hãy lấy đó làm bài học cho cậu. Vụ đóng gói bao bì thật khủng khiếp. Mãi tới tuần cuối cùng của tháng Mười một họ mới chuyển hàng đến nơi, như thế nghĩa là đã muộn khoảng tám tuần. Tới lúc đó thì Ba và Má đã lên xong danh sách Giáng sinh rồi. Hơn nữa giá thành cũng tồi tệ - trong nền kinh tế này, Ba và Má không thích bỏ ra hơn trăm bảng cho một món đồ chơi chết tiệt. Dĩ nhiên, những thiên tài tiếp thị trong bộ phận Tiêu dùng và Giáo dục ở Trion nghĩ anh đã sáng chế ra thú nhồi bông Beanie Baby thế hệ tiếp theo, vì vậy bọn anh trữ hàng trăm nghìn con chip tùy biến này, chúng được chế tạo ở Trung Quốc với chi phí khổng lồ và chẳng dùng được cho cái gì khác. Cũng có nghĩa là Trion mắc kẹt với gần nửa triệu con búp bê xấu xí không ai mong muốn, thêm vào ba trăm nghìn bộ phận búp bê chờ lắp ráp, vẫn nằm trong kho ở Van Nuys tới tận hôm nay.
- Ối.
- Không sao đâu. Không ai chạm được vào anh. Anh có đá kryptonite rồi.
Gã không giải thích điều mình muốn nói, nhưng đây chính là Mordden, gần như một kẻ điên, nên tôi cũng không hỏi thêm.

Tôi trở lại khoang của mình và phát hiện có vài thư thoại. Khi bật đến cái thứ hai, tôi giật mình nhận ra giọng nói trước khi ông ta tự giới thiệu.
- Anh Cassidy. - Trong điện thoại là một giọng xào xạo. - Tôi rất... À, tôi là Jock Goddard. Tôi rất ấn tượng với những ý kiến của anh trong buổi họp ngày hôm nay, và tôi tự hỏi liệu anh có thể ghé qua văn phòng của tôi không. Anh xem có thể gọi cho trợ lý Flo của tôi và lên thời gian được chứ?
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét