Đời Ảo
(Nguyên tác: Paranoia)
Tác giả: Joseph Finder
Dịch giả: Tâm Thủy
Nhà xuất bản Lao Động - Năm xuất bản: 2011
Phần 6 - Hộp Chết
Hộp chết: Nơi thả đồ, ẩn mình. Biệt ngữ
tình báo chỉ một địa điểm vật lý được che giấu sử dụng làm biện pháp liên lạc
giữa điệp viên và người đưa tin, chỉ huy điệp vụ hay một điệp viên khác trong một
tổ chức hay mạng lưới tình báo. - Từ điển
tình báo quốc tế.
57
Với tôi, tối nay thế này vẫn còn là sớm -
tôi về nhà vào chín giờ ba mươi, suy nhược và căng thẳng, cần tới ba ngày ngủ
li bì. Vừa lái xe khỏi Trion, tôi vừa thầm tua đi tua lại cảnh với Mordden, cố
hiểu cho rõ. Tôi tự hỏi liệu gã có định kể cho ai biết rồi giao nộp tôi không.
Và nếu không, thì tại sao? Hay hắn định nắm thóp tôi như thế nào đó? Tôi không
biết phải đối phó như thế nào, và đấy là điều tồi tệ nhất.
Rồi tôi mơ tưởng tới cái giường mới tinh với
đệm Dux và tôi sẽ thả mình lên nó như thế nào ngay khi về tới nhà. Cuộc đời của
tôi đã đi đến chỗ nào thế này? Tôi mơ tưởng được ngủ. Thảm hại.
Dù sao tôi cũng không thể ngủ ngay, vì tôi
vẫn còn việc phải làm. Tôi phải bỏ những hồ sơ của Camilletti ra khỏi đôi bàn
tay nóng bỏng của mình rồi gửi cho Meacham và Wyatt. Tôi không muốn giữ những
văn bản đó lâu hơn việc của mình một phút nào.
Vì vậy tôi dùng máy quét Meacham đưa cho,
chuyển chúng thành tệp PDF, mã hóa chúng và gửi bằng thư điện tử bảo mật qua dịch
vụ vô danh.
Sau khi làm xong, tôi lấy trình KeyGhost
ra, cắm vào máy tính và bắt đầu tải về. Khi tôi mở văn bản đầu tiên, tôi phát
cáu - nó giống như một khối ngôn từ vô nghĩa. Rõ ràng xôi hỏng bỏng không. Tôi
xem kỹ hơn và thấy thực ra có khuôn mẫu ở đây; có thể rốt cuộc tôi chưa làm hỏng
chuyện. Tôi nhận ra tên của Camilletti, một loạt số và ký tự, rồi cả câu.
Hàng trang hàng trang chữ. Mọi thứ hắn gõ
vào máy tính ngày hôm đó, và rất nhiều.
Điều đầu tiên: Tôi lấy mật khẩu của hắn.
Sáu con số, kết thúc bằng 82 - có lẽ là ngày sinh nhật con hắn. Hoặc ngày cưới.
Đại loại như thế.
Nhưng còn thú vị hơn nhiều là tất cả đống
thư điện tử. Rất nhiều, đầy các thông tin mật về công ty, về việc mua lại một
công ty hắn đang đảm trách. Công ty đó là Delphos, tôi đã thấy trong hồ sơ. Đó
là công ty mà họ chuẩn bị trả cả núi tiền và cổ phiếu để mua về.
Có các bức thư trao đổi qua lại, đánh nhãn
TRION TUYỆT MẬT, về một phương pháp bí mật mới để quản lý hàng hóa mà họ đã đưa
vào áp dụng vài tháng trước nhằm đối phó với nạn sao chép và giả mạo, đặc biệt ở
châu Á. Một vài phần của từng thiết bị Trion, dù là điện thoại để bàn, điện thoại
cầm tay hay máy quét y khoa giờ đều được khắc laser lô gô và số sê ri. Các dấu
nhận dạng cực nhỏ chỉ có thể thấy dưới kính hiển vi: Chúng không thể làm giả,
và chúng chứng minh rằng sản phẩm thực sự do Trion sản xuất.
Có nhiều thông tin về các nhà chế tạo vi mạch
ở Singapore mà Trion hoặc đã mua lại, hoặc đã đầu tư vào rất nhiều. Thú vị thật
- Trion đang dấn sâu vào lĩnh vực sản xuất vi mạch, hoặc ít nhất cũng đặt cọc một
chân trong đó.
Tôi cảm thấy kỳ quặc khi đọc tất cả những
điều này. Cứ như thể đang giở qua nhật ký của ai đó. Tôi cũng cảm thấy tội lỗi
- không phải vì lòng trung thành với Camilletti, dĩ nhiên rồi, mà bởi vì
Goddard. Tôi gần như thấy được cái đầu giống thần lùn của Goddard trong một
bong bóng trôi trên không, không tán thành nhìn tôi lục thư điện tử, các trao đổi
và ghi chép riêng của Camilletti. Có lẽ đó là vì tôi mệt nhoài, nhưng tôi thấy
tồi tệ với những việc mình đang làm. Nghe lạ thật, tôi biết - ăn trộm những thứ
về dự án AURORA rồi chuyển cho Wyatt thì được, nhưng đưa cho chúng những gì tôi
không được phân công lấy thì lại hoàn toàn là phản bội những người chủ mới của
tôi.
Cụm chữ NBPW bật ra trước mắt. Chúng hẳn phải
chỉ tờ Nhật báo phố Wall. Tôi muốn thấy
phản ứng của hắn về bài trên tờ Nhật báo,
nên tôi phóng to dòng chữ lên, và suýt thì ngã khỏi ghế.
Từ những gì tôi thấy, Camilletti sử dụng một
số hòm thư khác nhau ngoài Trion - Hotmail, Yahoo, và của một công ty truy cập
Internet địa phương nào đó. Những thư khác có vẻ là dùng cho chuyện riêng, như
trao đổi với người môi giới chứng khoán, thư ngắn cho anh chị em và bố, những
thứ như thế.
Nhưng chính các bức thư Hotmail đã thu hút
sự chú ý của tôi. Một trong số chúng được gửi tới BulkeleyW@NBPW.com. Nó ghi:
Bill -
Chuyện
đang rối lên ở đây. Từ bỏ nguồn tin của mình sẽ có nhiều áp lực đấy - kiên quyết
lên nhé. Tối nay gọi tôi ở nhà vào 9:30
- Paul
Ra vậy. Paul Cemilletti là - hắn hẳn phải
là - kẻ tiết lộ. Hắn là người đã đưa thông tin có hại về Trion, về Goddard cho
tờ Nhật báo.
Giờ thì tất cả đều hiểu được, có phần nổi
da gà. Camilletti đang giúp tờ Nhật báo
Phố Wall gây tổn hại nghiêm trọng cho Jock Goddard, miêu tả ông đã cùn mòn,
tuổi già bóng xế. Goddard phải đi. Hội đồng quản trị của Trion, cũng như tất cả
các nhà phân tích và ngân hàng đầu tư sẽ thấy điều này trên những trang Nhật báo. Và ai sẽ là người hội đồng chỉ
định giữ vị trí của Goddard?
Thật rõ ràng, phải không?
Dù mệt lả, tôi phải lăn đi lộn lại rất lâu,
mãi cuối cùng mới ngủ được. Và giấc ngủ của tôi cứ chập chờn, đầy dằn vặt. Tôi
cứ nghĩ mãi về Augustine Goddard, già nua, nhỏ con, vai khom khom, ngồi ăn bánh
nướng trong bữa trưa xoàng xĩnh, hay hốc hác và phờ phạc khi đội ngũ quản trị nối
đuôi nhau đi qua mình rời khỏi phòng họp. Tôi mơ thấy Wyatt và Meacham, ức hiếp
tôi, đe dọa tôi với những chuyện ở tù; trong mơ, tôi đối mặt với chúng, bảo
chúng cuốn xéo, bỏ đi trước mặt chúng, chẳng hề kiềm chế. Tôi mơ thấy mình đột
nhập vào văn phòng của Camilletti và bị cả Chad và Nora cùng bắt quả tang.
Rồi khi đồng hồ báo thức cuối cùng đã đổ
chuông vào sáu giờ sáng, và tôi nhấc cái đầu đau nhói khỏi gối, tôi biết mình
phải kể cho Goddard biết về Camilletti.
Và rồi tôi nhận ra tôi mắc kẹt. Làm sao tôi
có thể bảo Goddard về Camilletti khi tôi có được bằng chứng nhờ đột nhập vào
văn phòng của hắn?
Giờ thì sao?
58
Sự thật rằng Camilletti cắt cổ - thằng tồi
giả vờ tức giận về bài viết trên tờ Nhật
báo Phố Wall - thực ra lại đứng đằng sau nó khiến tôi điên cả tiết. Hắn còn
tệ hơn thằng khốn: hắn bất trung với Goddard.
Có lẽ tôi thấy nhẹ người khi thực sự được kết
án đạo đức một điều gì đó sau hàng tuần làm một thằng cặn bã dối trá đê tiện.
Có lẽ cảm giác muốn bảo vệ cho Goddard khiến tôi thấy mình tốt đẹp hơn chút ít.
Cũng có lẽ nhờ giận dữ trước sự không trung thành của Camilletti, tôi có thể
thuận tiện lờ đi chuyện của mình. Hay có lẽ tôi chỉ là biết ơn Goddard đã chọn
mình, nhìn nhận mình như một người đặc biệt giỏi giang hơn những người khác.
Khó mà biết được bao nhiêu phần trong sự tức giận của tôi đối với Camilletti thực
sự là không ích kỷ. Đôi khi ý nghĩ rằng mình chẳng tốt đẹp gì hơn Camilletti
như một lưỡi dao thống khổ đâm xuyên qua tôi. Ý tôi là, đây, tôi đang ở Trion,
một kẻ lừa đảo giả vờ mình có thể đi trên mặt nước, trong khi lúc nào cũng đột
nhập vào các văn phòng, ăn trộm tài liệu và vừa cố dứt đi trái tim tập đoàn của
Jock Goddard, vừa ngồi trên xe Buick cổ của ông.
Thật quá sức. Những buổi toát-mồ-hôi-hột
lúc-bốn-giờ-sáng này đang làm tôi kiệt quệ. Chúng là mối nguy hiểm cho sức khỏe
tinh thần của tôi. Tốt hơn tôi không nên nghĩ, mà chỉ hoạt động nhờ điều khiển
hành trình thôi.
Vậy là, có lẽ tôi thực sự có tất cả lương
tâm của một con trăn Mỹ nhiệt đới. Tôi vẫn muốn bắt thằng khốn Paul Camilletti
đó.
Ít nhất tôi không có lựa chọn nào cho việc
mình đang làm. Tôi bị dồn ép phải làm. Trong khi đó, sự phản bội của Camilletti
lại ở một mức độ hoàn toàn khác. Hắn đang chủ động mưu đồ chống lại Goddard,
người đã đưa hắn vào công ty, tin tưởng hắn. Và ai biết được Camilletti còn làm
gì khác?
Goddard cần được biết. Nhưng tôi phải có vỏ
ngụy trang - một cách hợp lý để phát hiện ra điều đó mà không liên quan gì tới
chuyện đột nhập vào văn phòng của Camilletti.
Suốt dọc đường đi làm, đầu óc tôi vừa tận
hưởng tiếng gầm gào của động cơ phản lực trên chiếc Porsche, vừa tìm cách giải
quyết vấn đề này, và vào lúc đến văn phòng, tôi đã có một ý kha khá.
Làm việc tại văn phòng của Tổng Giám đốc Điều
hành cho tôi nhiều quyền lực. Nếu tôi gọi cho ai đó mình không biết và chỉ giới
thiệu đơn giản là Adam Cassidy, hẳn tôi sẽ không được trả lời điện thoại. Nhưng
Adam Cassidy, “gọi từ văn phòng của Tổng
Giám đốc Điều hành” hay “văn phòng của
Goddard” - như thể tôi đang ngồi trong văn phòng cạnh ông ta chứ không phải
cách hai ba chục mét xuôi xuống hành lang - sẽ được trả lời tất cả các cuộc gọi,
nhanh như chớp.
Vì vậy khi tôi gọi tới phòng Công nghệ
Thông tin của Trion và bảo họ “chúng tôi” muốn có bản sao của tất cả thư lưu trữ
nhận và gửi từ văn phòng của Giám đốc Tài chính trong vòng ba mươi ngày qua,
tôi lập tức nhận được sự hợp tác. Tôi không muốn chỉ tay vào Camilletti, nên
tôi làm ra vẻ như Goddard lo lắng về việc thông tin bị rò rỉ khỏi văn phòng
Giám đốc Tài chính.
Tôi nhận thấy một điều thú vị là Camilletti
có thói quen xóa bản sao của một số thư điện tử nhạy cảm nhất định, dù gửi hay
nhận. Rõ ràng hắn không muốn những bức thư đó được lưu trữ trong máy tính của
mình. Một tay sắc sảo như hắn hẳn phải biết bản sao của tất cả các bức thư điện
tử đều được lưu lại đâu đó trong ngân hàng dữ liệu của công ty. Vì thế hắn ưa sử
dụng hòm thư ngoài cho những mối liên hệ nhạy cảm hơn - bao gồm cả tờ Nhật báo Phố Wall. Tôi tự hỏi liệu hắn
có biết các máy tính ở Trion lưu giữ tất cả thư từ đi qua cáp sợi quang của
công ty, dù dùng Yahoo, Hotmail hay hòm thư nào khác hay không.
Anh bạn mới ở bộ phận IT, có vẻ nghĩ mình
đang giúp riêng cho chính Goddard, cũng cho tôi bản ghi cuộc gọi tất cả các cú
điện thoại tới và đi từ văn phòng của Giám đốc Tài chính. Không thành vấn đề,
anh ta nói. Công ty dĩ nhiên không thu lại nội dung đối thoại, nhưng dĩ nhiên họ
lưu trữ tất cả các số gọi đi và đến, đó là lệ thường ở các tập đoàn. Anh ta thậm
chí còn có thể cho tôi bản sao thư thoại của bất cứ ai. Nhưng như thế sẽ mất thời
gian.
Trong vòng một tiếng liền có kết quả. Tất cả
đều ở đó. Camilletti đã nhận được một số cuộc gọi từ anh chàng ở tờ Nhật báo trong vòng mười ngày trở lại.
Nhưng chứng cớ còn rành rành hơn, hắn đã gọi rất nhiều lần cho tay kia. Một hoặc
hai cuộc còn có thể lấp liếm là cố gắng đáp lại tay nhà báo - dù hắn từng quả
quyết rằng mình chưa bao giờ nói chuyện với người này.
Nhưng mười hai cuộc gọi, một số lần còn dài
tận năm, bảy phút? Không tốt chút nào.
Và rồi bản sao của các thư điện tử tới. “Từ bây giờ”, Camilletti viết, “chỉ gọi tôi bằng số ở nhà. ĐỪNG gọi tôi ở
Trion nữa. Thư chỉ nên gửi tới địa chỉ Hotmail này”.
Lấp liếm chuyện đó đi, cắt cổ ơi.
Trời, tôi thật nóng lòng được cho Goddard
thấy hồ sơ nho nhỏ của mình, nhưng ông ta hết họp lại họp từ giữa buổi sáng tới
tận chiều muộn - những buổi họp, như tôi nhận thấy, ông ta không bảo tôi tới.
Chỉ tới khi thấy Camilletti rời khỏi văn
phòng Goddard, tôi mới có cơ hội.
59
Camilletti thấy tôi khi đi ra, nhưng không
để ý; tôi hẳn chẳng khác gì một đồ đạc trong văn phòng. Goddard bắt gặp mắt tôi
và ông ta nhướn mày lên dò hỏi. Flo bắt đầu nói với ông, và tôi làm dấu
giơ-ngón-trỏ-lên mà Goddard thường làm, muốn nói tôi chỉ cần một phút thời gian
của ông. Ông ra hiệu nhanh cho Flo, rồi vẫy tay bảo tôi vào.
- Tôi làm như thế nào? - ông hỏi.
- Xin lỗi?
- Bài nói chuyện nhỏ của tôi với công ty ấy.
Ông ta thực sự quan tâm tôi nghĩ gì sao?
- Ông nói rất hay, - tôi bảo.
Ông cười, trông nhẹ người.
- Tôi luôn phải cảm ơn ông thầy dạy kịch
già ở trường đại học. Giúp tôi rất nhiều trong sự nghiệp, phỏng vấn, nói chuyện
trước công chúng, tất cả những việc như thế. Anh đã bao giờ diễn xuất chưa,
Adam?
Mặt tôi đỏ bừng. Rồi, hầu như ngày nào cũng
diễn. Trời ạ, ông ta đang ám chỉ điều gì?
- Không, thật vậy.
- Thực sự khiến anh thoải mái. Ôi trời, đâu
phải tôi là Cicero gì đó, nhưng... vậy anh có chuyện gì không?
- Là về bài viết trên tờ Nhật báo Phố Wall”, tôi nói.
- Sao vậy...? - ông băn khoăn hỏi.
- Tôi đã tìm ra người để lộ thông tin là
ai.
Ông ta nhìn tôi như thể không hiểu, vì vậy
tôi tiếp tục:
- Còn nhớ chúng ta nghĩ hẳn phải có ai đó
trong công ty tiết lộ thông tin cho bài của tờ Nhật báo...
- Phải, phải, - ông nói vẻ kiên nhẫn.
- Đó là - vâng, đó là Paul. Camilletti.
- Anh đang nói gì vậy?
- Tôi biết thật khó tin. Nhưng tất cả đều ở
đây, và khá rõ ràng. - Tôi đẩy các tờ in qua bàn ông. - Kiểm tra bức thư trên đầu
xem.
Ông cầm kính đọc trên sợi dây quanh cổ và
đeo lên. Cau mày, ông xem kỹ những tờ giấy. Khi ngước lên, mặt ông tối sầm.
- Chúng ở đâu ra vậy.
Tôi cười.
- IT. - Tôi né đi một ít và bảo, - Tôi yêu
cầu IT bản ghi cuộc gọi của tất cả mọi người ở Trion tới tờ Nhật báo Phố Wall. Rồi khi tôi thấy tất
cả các cuộc gọi đó từ máy của Paul, tôi nghĩ có thể là nhân viên hành chính gì
đó, vì vậy tôi yêu cầu bản sao thư của anh ấy.
Goddard trông hoàn toàn không vui vẻ, cũng
hiểu được. Thật ra, ông nhìn khá xuống tinh thần, vì vậy tôi bổ sung:
- Tôi rất tiếc. Tôi biết chuyện này hẳn phải
rất sốc. - Những lời sáo rỗng cứ thế đổ tuột ra khỏi miệng tôi. - Chính tôi
cũng không thực sự hiểu được.
- Tôi hy vọng anh tự thấy hài lòng với
mình, - Goddard nói.
Tôi lắc đầu.
- Hài lòng? Không, tôi chỉ muốn đi tới tận
cùng việc...
- Bởi vì tôi thấy ghê tởm, - ông nói. Giọng
ông run lên. - Anh nghĩ mình đang làm cái quái quỷ gì vậy? Anh nghĩ nơi này là
gì, Nhà Trắng của Nixon chắc? - Giờ ông gần như hét lên, nước bọt bắn ra khỏi
miệng.
Căn phòng đổ sập quanh tôi: chỉ có tôi và
ông ta, cách nhau hơn một mét mặt bàn. Máu như tràn lên tai. Tôi quá sửng sốt để
cất được lên lời.
- Xâm phạm sự riêng tư của người khác, bới lông
tìm vết, tìm những bản ghi điện thoại riêng, thư từ riêng và với tất cả những
gì tôi thấy, anh mở trộm thư của người ta! Tôi thấy sự nham hiểm đó đáng bị chỉ
trích, và tôi không muốn anh lặp lại nó một lần nào nữa. Giờ biến ra khỏi đây
đi.
Tôi lảo đảo đứng dậy, đầu trống rỗng, bị sốc.
Đến cửa tôi dừng bước quay lại.
- Tôi muốn xin lỗi, - tôi khàn khàn nói. - Tôi
tưởng mình làm việc có ích. Tôi sẽ - tôi sẽ dọn đồ ra khỏi văn phòng.
- Ôi, vì Chúa, ngồi lại xuống đi. - Cơn bão
dường như đã trôi qua. - Anh không có thời gian để dọn đồ ra khỏi văn phòng
đâu. Tôi có quá nhiều việc cần anh làm. - Giọng ông dịu đi. - Tôi biết anh chỉ
cố bảo vệ tôi. Tôi hiểu, Adam, và tôi đánh giá cao điều đó. Và tôi không phủ nhận
mình kinh ngạc về Paul. Nhưng để làm mọi chuyện có đường đúng và sai, và tôi ưa
đi đường đúng hơn. Anh bắt đầu kiểm soát thư từ và bản ghi điện thoại, rồi anh
sẽ nghe lén, và điều tiếp theo anh biết là mình sẽ có một sở cảnh sát chứ không
phải một tập đoàn. Và một công ty không thể hoạt động như thế được. Tôi không
biết ở Wyatt người ta làm thế nào, nhưng ở đây chúng tôi không làm như thế.
Tôi gật đầu.
- Tôi hiểu. Xin lỗi.
Ông giơ hai lòng bàn tay lên.
- Chuyện chưa bao giờ xảy ra. Quên nó đi.
Và tôi sẽ cho anh biết một điều khác - suy cho cùng thì không có công ty nào từng
thất bại bởi một trong những quản trị viên của nó lắm mồm với báo chí. Dù vì lý
do không hiểu nổi nào đi nữa. Giờ tôi sẽ tìm cách để xử lý việc này. Theo cách
của tôi.
Ông siết hai bàn tay vào nhau như thể muốn
bảo cuộc nói chuyện đã kết thúc.
- Tôi không cần điều khó chịu nào lúc này.
Chúng ta đang có những chuyện quan trọng hơn nhiều. Giờ tôi sẽ cần ý kiến của
anh về một vấn đề tối mật.
Ông ngồi ngay ngắn lại sau bàn, đeo kính đọc
lên và lấy ra cuốn sổ địa chỉ nhỏ bìa da đen cũ mòn. Ông nghiêm nghị nhìn tôi
qua gọng kính đọc.
- Đừng bao giờ nói với ai là nhà sáng lập
và Tổng Giám đốc Điều hành của Hệ Thống Trion không nhớ nổi các mật khẩu máy
tính của chính mình. Và nhất định đừng nói với ai về thiết bị cầm tay loại đặc
biệt mà tôi dùng để lưu trữ chúng. - Nhìn kỹ vào cuốn sổ nhỏ màu đen, ông gõ
bàn phím.
Trong một phút, máy in o o bật lên và nhả
ra vài tờ giấy. Ông với đến nó, lấy những tờ giấy ra rồi trao cho tôi.
- Chúng ta đang ở giai đoạn cuối của một vụ
mua lại lớn, rất lớn, - ông nói. - Có lẽ là vụ mua lại giá trị lớn nhất trong lịch
sử Trion. Nhưng có lẽ nó cũng sẽ là vụ đầu tư tốt nhất chúng ta từng có. Tôi
chưa thể cho anh biết chi tiết ngay, nhưng nếu các thương thảo của Paul tiếp tục
thành công, chúng ta sẽ có một thỏa thuận sẵn sàng thông báo vào cuối tuần tới.
Tôi gật đầu.
- Tôi muốn mọi thứ diễn ra trôi chảy hoàn hảo.
Đây là những thông tin cơ bản về công ty mới - số nhân sự, yêu cầu không gian,
vân vân. Nó sẽ lập tức được sáp nhập vào Trion, và đặt ngay ở trong tòa nhà
này. Dĩ nhiên điều đó có nghĩa là một phòng ban hiện tại nào đó phải chuyển ra
khỏi trụ sở và tới khu sở Yarborough hoặc Tam giác Nghiên cứu của chúng ta. Tôi
cần anh xét xem phòng ban nào, hay những phòng ban nào có thể chuyển đi mà ít
xáo trộn nhất, để có chỗ cho... cho vụ mua lại mới này. Được chứ? Xem kỹ những
trang giấy đó, và khi anh xong, hãy xé vụn nó. Và cho tôi biết suy nghĩ của anh
sớm nhất có thể.
- Được rồi.
- Adam, tôi biết tôi đổ lên đầu anh rất nhiều,
nhưng không thể tránh được. Tôi cần anh nói đúng như anh thấy. Tôi trông chờ
vào hiểu biết chiến lược của anh. - Ông với qua và siết lên vai tôi để làm vững
dạ. - Và sự trung thực nữa.
60
Jocelyn, nhờ trời, có vẻ càng lúc càng có
nhiều phút nghỉ giữa giờ uống-cà-phê và sang-phòng-con-gái hơn làm việc cho
tôi. Tới lần tiếp khi chị ta rời bàn, tôi lấy những tờ về Delphos mà Goddard
đưa cho - tôi biết nó hẳn phải về Delphos, thậm chí dù tên công ty không có
trên các trang - và nhanh chóng sao ra ở máy đằng sau bàn chị. Rồi tôi cho những
bản sao vào một phong bì bìa cứng.
Tôi gửi một bức thư tới “Arthur”, bảo hắn bằng
ngôn ngữ mã hóa rằng tôi có đồ mới cần gửi - và tôi muốn “trả lại” “quần áo”
tôi đã mua trên mạng.
Tôi biết gửi thư từ nơi làm là mạo hiểm. Thậm
chí dù sử dụng hòm thư Hushmail khiến thư được mã hóa. Nhưng tôi thiếu thời
gian. Tôi không muốn phải đợi tới khi về nhà, rồi có thể lại phải ra ngoài...
Meacham phản hồi gần như ngay lập tức. Hắn
muốn tôi không gửi đồ tới hòm thư ở bưu điện mà tới địa chỉ ở phố. Dịch ra là:
Hắn không muốn tôi quét văn bản và gửi bằng thư điện tử, hắn muốn thấy bản cứng
thật sự, dù hắn không nói tại sao. Có phải hắn muốn chắc chắn đó là bản gốc? Có
phải điều đó nghĩa là chúng không tin tôi?
Hắn cũng muốn chúng ngay lập tức, và vì lý
do nào đó hắn không muốn gặp mặt đối mặt. Tại sao? tôi tự hỏi. Hắn lo sợ tôi bị
theo đuôi ư? Dù lô gic của hắn là gì, hắn cũng muốn tôi để lại văn bản cho hắn ở
một trong những hộp chết chúng tôi đã luyện tập hàng tuần trước đó.
Sau sáu giờ một chút, tôi rời công sở, lái
tới một tiệm McDonald’s cách trụ sở Trion khoảng hai dặm. Phòng vệ sinh nam nhỏ,
từng-người-vào-một, và bạn có thể khóa cửa. Tôi khóa lại, tìm và mở hộp đựng giấy
vệ sinh ra, đặt phong bì bìa cứng cuộn lại vào trong và đóng hộp đựng lại. Cho
tới khi cần thay cuộn giấy vệ sinh, sẽ không ai nhìn vào trong - trừ Meacham.
Trên đường ra, tôi mua một bánh kẹp Quarter
Pounder - không phải tôi muốn ăn, mà để làm vỏ bọc, như tôi đã được dạy. Xuôi
xuống khoảng một dặm là một cửa hàng 7-Eleven với tường bê tông thấp xung quanh
khu đỗ xe phía trước. Tôi đỗ xe, đi vào và mua một lon Diet Pepsi, và uống nhiều
nhất có thể. Phần còn lại tôi đổ xuống cống trong khu đỗ xe. Tôi đặt một chì
câu lấy từ hộp đựng găng tay vào lon, để lon rỗng trên bờ tường bê tông.
Lon Pepsi là dấu hiệu cho Meacham, hắn thường
đều đặn lái xe qua cửa hàng 7-Seven này, rằng tôi đã để đồ tại hộp chết số ba,
nhà hàng McDonald’s. Ngón nghề tình báo đơn giản này sẽ cho phép Meacham lấy những
văn bản mà không bị thấy ở cùng tôi.
Vụ chuyển đồ diễn ra trôi chảy, như tôi xác
định. Tôi không có lý do để phải nghĩ khác đi.
Được rồi, việc tôi làm khiến tôi thấy mình
bẩn thỉu thật. Nhưng đồng thời, tôi không thể không cảm thấy hơi tự hào: Tôi
đang giỏi lên hẳn về chuyện gián điệp này.
61
Đến lúc tôi về nhà, có một bức thư điện tử
trong tài khoản Hushmail gửi từ “Arthur”. Meacham muốn tôi lái xe tới một nhà
hàng ở nơi khỉ ho cò gáy nào đó, cách hơn nửa giờ đồng hồ, ngay lập tức. Rõ
ràng chúng cho việc này là khẩn cấp.
Nơi đó hóa ra là một nhà hàng-spa sang trọng,
thánh địa của những kẻ sành ăn với tên Auberge. Tường tiền sảnh được trang trí
những bài báo về nơi này đăng trên tờ Ẩm
thực và các tạp chí tương tự.
Tôi hiểu tại sao Wyatt muốn gặp tôi ở đó,
và không phải chỉ vì đồ ăn. Nhà hàng được bài trí để đáp ứng sự thận trọng tối
đa - cho các cuộc gặp riêng tư, các vụ ngoại tình gì đó. Ngoài phòng ăn chính,
có các phòng hốc nhỏ, tách rời để ăn riêng, bạn có thể ra vào trực tiếp từ khu
đỗ xe thay vì phải đi qua phần chính của nhà hàng. Nó khiến tôi nhớ tới một
khách sạn cao cấp.
Wyatt đang ngồi bên bàn ăn trong một phòng
hốc với Judith Bolton. Judith tỏ ra thân mật, và thậm chí ngay cả Wyatt dường
như cũng ít hằn học hơn mọi khi. Có lẽ bởi vì tôi đã rất thành công lấy cho lão
những gì lão muốn. Có lẽ lão đang uống tới ly rượu thứ hai, hay có lẽ chính là
Judith, người có ảnh hưởng bí ẩn tới lão. Tôi khá chắc chắn rằng giữa Judith và
Wyatt không có chuyện gì, ít nhất là dựa vào ngôn ngữ cơ thể của họ. Nhưng rõ
ràng họ thân nhau, và lão chiều ả theo cách mà lão không hề đối xử với bất cứ
ai.
Người bồi bàn mang cho tôi một ly rượu
Sauvignon Blanc. Wyatt bảo anh ta đi, quay lại sau mười lăm phút, lúc ấy lão mới
gọi món. Giờ ở trong này chỉ có mình chúng tôi: tôi, Wyatt và Judith Bolton.
- Adam, - Wyatt vừa nói vừa gặm một miếng
bánh mì cỏ thơm của Ý, - những hồ sơ mày lấy được từ văn phòng của Giám đốc Tài
chính - chúng rất hữu ích.
- Tốt, - tôi nói. Giờ tôi là Adam rồi à? Và
đó thực sự là lời khen? Nó khiến tôi rùng cả mình.
- Đặc biệt tờ điều khoản về cái công ty
Delphos này, - lão tiếp tục. - Rõ ràng đó là một vụ mua lại chủ chốt, mang tính
quyết định đối với Trion. Không ngạc nhiên gì khi chúng sẵn sàng trả năm trăm
triệu đô bằng chứng khoán cho nó. Dù sao, nó cuối cùng cũng giải được bí ẩn. Nó
đặt mảnh cuối cùng trong trò xếp hình vào đúng chỗ. Chúng ta đã đoán ra AURORA
là gì.
Tôi nhìn lão ngây dại, cứ như thể tôi quan
tâm ấy, và gật đầu.
- Phi vụ này đáng lắm, đáng giá từng đồng một,
- lão nói. - Những phiền phức khổng lồ bọn tao phải trải qua để đưa mày vào
Trion, cuộc đào tạo, các biện pháp bảo đảm. Chi phí bỏ ra, rủi ro khổng lồ - tất
cả đều đáng giá. - Hắn nghiêng cốc về phía Judith, ả cười tự hào. - Lần này anh
nợ em nhiều đó, - lão nói với ả.
Tôi nghĩ: Thế còn tao là gì chứ, món gan
nghiền nhỏ mọn à?
- Giờ, tao muốn mày nghe cho kỹ đây, -
Wyatt nói. - Vì phần đặt cược rất lớn, và tao muốn mày hiểu được tính cấp bách.
Hệ thống Trion có vẻ đã phát triển được bước đột phá công nghệ quan trọng nhất
kể từ sau mạch tích hợp. Chúng đã giải quyết một vấn đề mà tất cả chúng ta nhọc
công trong hàng thập kỷ. Chúng vừa thay đổi lịch sử.
- Sếp chắc mình muốn cho tôi biết điều này
không?
- Ồ, tao muốn mày ghi nhớ. Mày là thằng
nhóc khôn khéo. Hãy chú ý cho kỹ đây. Thời đại của vi mạch Silicon đã qua rồi.
Trion không biết làm sao đã xoay xở phát triển được vi mạch quang học.
- Vậy thì sao?
Lão nhìn tôi với sự khinh miệt vô bờ.
Judith sốt sắng lên tiếng, vội vã, như thể để che đậy cho câu nói hớ của tôi.
- Intel đã bỏ ra hàng tỷ đô tìm cách giải
quyết điều này mà không thành công. Lầu Năm Góc đã miệt mài với nó hơn một thập
kỷ. Họ biết nó sẽ cách mạng hóa các hệ thống điều khiển máy bay và tên lửa của
mình, vì vậy họ trả gần như mọi thứ để đặt tay lên được một vi mạch quang học
hoạt động được.
- Vi mạch quang học, - Wyatt nói, - xử lý
các tín hiệu quang - ánh sáng - thay vì tín hiệu điện tử, sử dụng một chất gọi
là inđi phốt phua.
Tôi nhớ đã đọc được điều gì đó về inđi phốt
phua trong các hồ sơ của Camilletti.
- Đó là thứ dùng để làm ra laser.
- Trion thao túng thị trường đó. Đấy là dấu
hiệu. Họ cần inđi phốt phua cho chất bán dẫn trong vi mạch - nó có thể xử lý tốc
độ truyền tải dữ liệu cao hơn acxênit gali.
- Tôi chào thua rồi, - tôi nói. - Nó có gì
đặc biệt đến thế?
- Vi mạch quang học có một bộ điều biến có
thể chuyển đổi tín hiệu với tốc độ một trăm gigabyte một giây.
Tôi chớp mắt. Chuyện này với tôi cứ như nói
bằng tiếng Urdu. Judith chăm chú nhìn lão. Tôi tự hỏi liệu ả có hiểu điều gì
hay không.
- Đó chính là Chén Thánh. Tao sẽ nói với
mày theo khái niệm đơn giản hơn. Một mảnh vi mạch quang học nhỏ duy nhất với đường
kính chỉ gấp trăm lần sợi tóc giờ sẽ có thể xử lý đồng thời tất cả các cuộc điện
thoại của một tập đoàn, máy tính, vệ tinh và lưu lượng truyền hình. Hay có lẽ
mày sẽ có thể nhồi sọ điều này, thằng nhóc: với vi mạch quang học, mày có thể tải
về một bộ phim hai giờ ở dạng số trong một phần hai mươi giây, mày hiểu chứ?
Đây là một bước nhảy lượng tử trong ngành, trong máy tính, điện thoại di động,
vệ tinh và truyền hình cáp, kể hoài không hết được. Vi mạch quang hợp sẽ cho
phép những thứ như thế này. - hắn giơ điện thoại Wyatt Lucid lên. - nhận được
hình ảnh truyền hình không bị giật. Nó cực kỳ ưu việt, hơn bất cứ công nghệ nào
đang tồn tại - nó đảm bảo được tốc độ nhanh hơn, cần ít điện áp hơn nhiều, ít mất
tín hiệu hơn, ít tỏa nhiệt hơn... Nó thật đáng kinh ngạc. Đúng là thứ thiệt đó.
- Tuyệt vời, - tôi khẽ khàng nói. Tầm quan
trọng của điều tôi vừa làm bắt đầu thấm, và giờ tôi cảm thấy mình như một thằng
phản bội đáng nguyền rủa đối với Trion - tướng Benedict Arnold* của chính
Goddard. Tôi vừa đưa cho lão Nick Wyatt ghê tởm thứ công nghệ chuyển-đổi-hệ-thuyết
có giá trị nhất kể từ ti vi màu gì đó.
*[Benedict Arnold
V là một vị tướng trong cuộc Cách mạng Mỹ, ban đầu là tướng lĩnh bên Quân đội Lục
địa. Sau đó, ông lại đầu quân cho Quân đội Anh. Tên ông trở thành một từ hay được
dùng ở Hoa Kỳ để chỉ sự tráo trở, phản bội]
- Mừng vì giúp được sếp.
- Tao muốn từng đặc tả đến tận cái cuối
cùng, - Wyatt nói. - Tao muốn mẫu thử nghiệm của chúng. Tao muốn các ứng dụng
có bằng sáng chế, ghi chép trong phòng thí nghiệm, mọi thứ chúng có.
- Tôi không biết mình còn có thể lấy được
bao nhiêu nữa, - tôi nói. - Ý tôi là chỉ còn thiếu nước đột nhập tầng năm nữa
thôi...
- Ồ, cả điều đó nữa, nhóc, cả điều đó nữa.
Tao đã đặt mày vào vị trí mỡ đến miệng mèo rồi còn gì. Mày làm việc trực tiếp
cho Goddard, mày là một lính thân cận của hắn, mày có thể tiếp cận với hầu như
mọi thứ mày muốn.
- Không đơn giản như thế. Sếp biết vậy mà.
- Mức tin cậy anh có được là độc nhất vô nhị,
Adam, - Judith xen vào. - Anh có thể tiếp cận được với đủ loại dự án.
Wyatt cắt ngang:
- Tao không muốn mày giữ bí mật một điều chết
tiệt nào.
- Tôi không giữ bí mật...
- Vụ cắt giảm nhân sự khiến mày ngạc nhiên
lắm, thế chứ gì?
- Tôi đã nói với ông rằng sắp có thông báo
quan trọng nào đó. Lúc đó tôi thực sự không biết gì hơn.
- “Lúc đó”, - lão cáu kỉnh lặp lại. - Mày
biết về đợt cắt giảm đó trước khi CNN
biết, thằng khốn. Tin tức tình báo đó ở đâu? Tao lại còn phải xem CNBC để biết về đợt cắt giảm ở Trion khi
mà tao có gián điệp trong cái văn phòng chết giẫm của Tổng Giám đốc Điều hành
chắc?
- Tôi không...
- Mày đặt bọ trong văn phòng của Giám đốc
Tài chính. Nó thế nào rồi?
Bộ mặt rám nắng quá mức của lão tối sầm hơn
mọi khi, mắt lão đỏ ngầu. Tôi cảm thấy nước bọt lão bắn tóe ra.
- Tôi phải nhổ nó.
- Nhổ nó? - lão nói không tin nổi. - Tại
sao?
- Bộ phận An ninh của tập đoàn tìm thấy con
bọ tôi đặt lại phòng Nhân sự, và họ bắt đầu rà soát mọi nơi, vì vậy tôi phải cẩn
thận. Không thể liều mọi thứ được.
- Con bọ nằm trong văn phòng Giám đốc Tài
chính được bao lâu trước khi mày nhổ đi? - lão bật lại.
- Không quá một ngày.
- Một ngày sẽ cho mày cả đống thông tin.
- Không, nó - chậc, thứ đó hẳn bị trục trặc,
- tôi nói dối. - Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra.
Thẳng thắn mà nói, tôi cũng không chắc tại
sao mình lại giữ bí mật. Tôi đoán là vì con bọ tiết lộ rằng Camilletti là người
đã làm rò rỉ thông tin cho tờ Nhật báo Phố
Wall, và tôi không muốn Wyatt biết tất cả những công chuyện cá nhân của
Goddard. Tôi thực sự không nghĩ thông suốt lắm.
- Trục trặc? Sao tao thấy đáng ngờ quá. Tao
muốn con bọ đó về tay Arnie Meacham cuối ngày mai để nhân viên kỹ thuật kiểm
tra. Và tin đi, bọn chúng nói được ngay lập tức liệu mày có mó máy vào nó hay
không. Hay nếu mày chưa từng đặt nó vào trong văn phòng của Giám đốc Tài chính.
Và nếu mày nói dối tao, mẹ mày, mày tiêu rồi.
- Adam, - Judith nói. - Điều cốt yếu là
chúng ta hoàn toàn cởi mở và trung thực với nhau. Đừng giữ lại điều gì. Quá nhiều
thứ có thể đi đến sai lầm. Anh không nhìn thấy được bức tranh tổng thể.
Tôi lắc đầu.
- Tôi không có nó. Tôi phải vứt nó đi.
- Vứt đi? - Wyatt hỏi.
- Tôi... tôi rơi vào thế kẹt, bọn an ninh
đang rà soát các văn phòng, nên tôi nghĩ tốt nhất là lấy nó ra vứt vào thùng
rác xa chỗ đó vài khu. Tôi không muốn phá hỏng cả phi vụ vì một con bọ trục trặc
duy nhất.
Lão trừng mắt nhìn tôi vài giây.
- Đừng bao giờ giữ bí mật cái gì với bọn
tao, mày hiểu chứ? Đừng bao giờ. Giờ nghe đây. Bọn tao có nguồn tin tuyệt vời
cho biết người của Goddard đang sắp đặt một cuộc họp báo lớn tại trụ sở Trion
trong hai tuần tới. Một cuộc họp báo lớn, một tin quan trọng nào đó. Lưu lượng
thư điện tử mày đưa tao cho thấy chúng đang trên ngưỡng công bố ra công chúng
vi mạch quang học này.
- Họ sẽ không thông báo nếu như họ chưa nắm
được hết các bằng sáng chế, đúng không? - tôi nói. Đêm qua tôi đã tìm hiểu chút
ít trên mạng tới khuya. - Tôi chắc sếp đã cho đàn em kiểm tra tất cả các hồ sơ
Trion nộp cho Văn phòng Bằng sáng chế Mỹ.
- Đi học trường luật lúc rảnh rỗi à? -
Wyatt cười nhạt. - Mày nộp hồ sơ cho Văn phòng Bằng sáng chế Mỹ vào giây phút
cuối, muộn nhất có thể, thằng khốn ạ, để tránh bị lộ sớm hay bị vi phạm. Chúng
sẽ không nộp hồ sơ cho tới ngay trước thông báo. Cho tới lúc đó, quyền sở hữu
trí tuệ được giữ như một bí mật thương mại. Cũng có nghĩa là, cho tới khi chúng
nộp hồ sơ - có thể vào bất cứ lúc nào trong hai tuần tới - đây sẽ là mùa chúng
ta đi săn đặc tả thiết kế. Đồng hồ đang tích tắc. Mẹ kiếp, tao không muốn mày
ngủ hay nghỉ ngơi dù chỉ một phút chừng nào mày chưa lấy được đến chi tiết cuối
cùng về vi mạch quang học, hiểu rõ rồi chứ?
Tôi mệt mỏi gật đầu.
- Giờ thì xin thứ lỗi, bọn tao muốn gọi đồ
ăn.
Tôi đứng dậy khỏi bàn và đi ra toa lét nam
trước khi lái xe đi. Khi tôi rời khỏi phòng ăn riêng, một người đưa mắt nhìn
tôi.
Tôi hoảng hồn.
Tôi quay ngoắt lại và đi qua phòng ăn riêng
để tới bãi đỗ xe.
Lúc đó tôi không chắc trăm phần trăm lắm,
nhưng người trong hành lang trông rất giống Paul Camilletti.
62
Có người trong văn phòng tôi.
Khi tới làm vào sáng hôm sau, tôi thấy họ từ
đằng xa - hai người đàn ông, một trẻ, một già hơn - và tôi sững người. Đã bảy
giờ ba mươi sáng, và không hiểu tại sao Jocelyn không ở bàn mình. Trong khoảnh
khắc, đủ loại khả năng lướt qua đầu tôi, càng về sau càng tệ: Nhân viên an ninh
không biết làm sao đã tìm thấy thứ gì đó trong văn phòng tôi. Hay tôi đã bị đuổi
việc và họ đang dọn đồ khỏi bàn. Hay tôi bị bắt.
Tiến về phía văn phòng, tôi cố giấu sự căng
thẳng. Tôi vui vẻ lên tiếng, như thể họ là bạn thân ghé qua chơi:
- Chuyện gì vậy?
Người nhiều tuổi hơn đang ghi chép lên một
kẹp hồ sơ, người trẻ hơn giờ đang cúi người qua máy tính của tôi. Người nhiều
tuổi hơn, tóc bạc và ria quặp, kính không vành, nói:
- Nhân viên an ninh. Thư ký của anh, cô
Chang, cho chúng tôi vào.
- Có chuyện gì vậy?
- Chúng tôi đang rà soát tất cả các văn
phòng trên tầng bảy. Không biết liệu anh đã nhận được thông báo về vụ vi phạm
an ninh ở bộ phận Nhân sự chưa.
Tất cả chuyện là như thế sao? Tôi nhẹ người.
Nhưng chỉ trong một vài giây. Nếu như họ tìm thấy thứ gì trong bàn tôi thì sao?
Liệu tôi có để món đồ nghề gián điệp nào rồi khóa lại trong ngăn bàn hay ngăn tủ
hồ sơ không? Tôi đã tạo thành thói quen không bao giờ để gì trong đó. Nhưng nếu
tôi sơ suất? Tôi căng ra như dây đàn đến mức có thể dễ dàng lầm lỡ để lại đồ ở
đó.
- Hay quá, - tôi nói. - Thật mừng có các
anh ở đây. Các anh chưa tìm thấy thứ gì chứ, phải không?
Một thoáng im lặng trôi qua. Người trẻ hơn
nhìn lên từ máy tính của tôi và không trả lời.
Người lớn tuổi hơn bảo:
- Vẫn chưa, chưa đâu.
- Tôi không nghĩ mình là mục tiêu, chắc chắn
rồi, - tôi bổ sung. - Trời ạ, tôi không quan trọng đến thế. Ý tôi là ở trên tầng
này, trong văn phòng của các sếp ấy.
- Chúng tôi không được phép trao đổi về vấn
đề đó, nhưng chưa, chúng tôi chưa tìm thấy gì cả. Tuy nhiên, cũng không có
nghĩa là chúng tôi sẽ không tìm thấy.
- Máy tính của tôi ổn chứ? - tôi nói với
người thanh niên.
- Cho đến giờ không phát hiện ra thiết bị
hay thứ gì như thế. - Anh ta trả lời. - Nhưng chúng tôi sẽ phải chạy một vài chẩn
đoán. Anh đăng nhập vào cho chúng tôi được không?
- Chắc chắn rồi.
Tôi không gửi thư nào có thể buộc tội mình
từ máy tính này, phải không nhỉ?
Chà, có, tôi đã gửi. Tôi gửi thư cho
Meacham từ tài khoản Hushmail. Nhưng thậm chí dù tin nhắn đó không được mã hóa,
nó cũng sẽ không nói cho họ biết điều gì. Tôi chắc chắn tôi không lưu tệp tin
nào mà mình không nên có vào máy tính. Điều đó thì chắc chắn. Tôi bước ra đằng
sau bàn và gõ mật khẩu. Cả hai nhân viên an ninh đều biết ý nhìn ra chỗ khác
cho tới khi tôi đã đăng nhập xong.
- Ai được vào văn phòng của anh? - người lớn
tuổi hơn hỏi.
- Chỉ có tôi. Và Jocelyn.
- Và đội lao công nữa, - anh ta tiếp tục.
- Tôi đoán thế, nhưng tôi chưa bao giờ thấy
họ.
- Anh chưa bao giờ thấy họ? - Anh ta lặp lại
ngờ vực. - Nhưng anh làm tới tối muộn, đúng không?
- Họ còn làm muộn hơn.
- Còn về thư từ nội bộ thì sao? Anh có biết
có người chuyển thư nào tới đây khi anh ra ngoài không?
Tôi lắc đầu.
- Mọi thứ đều tới bàn của Jocelyn. Người ta
không bao giờ chuyển thẳng tới bàn tôi.
- Có ai ở phòng công nghệ thông tin từng xử
lý máy tính hay điện thoại của anh không?
- Như tôi biết thì không.
Người trẻ hơn bảo:
- Anh nhận được thư nào lạ lùng không?
- Lạ lùng...?
- Từ những người anh không biết, với tệp
tin đính kèm gì đó.
- Như tôi nhớ thì không.
- Nhưng anh có sử dụng các dịch vụ thư điện
tử khác phải không? Ý tôi là ngoài Trion?
- Chắc chắn rồi.
- Đã bao giờ anh truy cập vào chúng từ máy
tính này chưa?
- Rồi, tôi chắc là rồi.
- Và ở những hòm thư đó anh có bao giờ nhận
được thư nào trông buồn cười không?
- Chậc, lúc nào tôi cũng nhận được thư rác,
như tất cả mọi người thôi. Anh biết đấy, Viagra hay “Dài thêm bảy centimet” hay
thư về gái trang trại. - Dường như không ai trong hai người bọn họ có tính hài
hước. - Nhưng tôi chỉ xóa hết đi.
- Sẽ chỉ mất năm mười phút, - người trẻ hơn
nói, đẩy một cái đĩa vào ổ CD-ROM. - Có lẽ anh có thể làm một tách cà phê gì
đó.
Thực ra tôi phải họp, vì vậy tôi bỏ mấy tay
an ninh lại văn phòng, dù cảm thấy không yên tâm lắm, rồi tới Plymouth, một
trong các phòng họp nhỏ.
Tôi không thích họ lại hỏi về các hòm thư
ngoài. Như thế tồi tệ lắm. Đúng hơn, nó dọa tôi sợ chết khiếp. Nếu như họ quyết
định lục lọi tất cả thư từ của tôi thì sao? Tôi đã được thấy điều đó dễ thực hiện
như thế nào. Nếu họ phát hiện ra tôi đã yêu cầu bản sao lưu lượng thư của
Camilletti? Điều đó có khiến tôi thành kẻ bị nghi ngờ không?
Khi đi ngang qua văn phòng của Goddard, tôi
thấy cả ông và Flo đều không có mặt - Jock tới cuộc họp, tôi biết. Rồi tôi đi
qua Jocelyn, chị mang theo một ca cà phê. Trên đó có in dòng chữ LÝ TRÍ ĐI VẮNG
- QUAY LẠI SAU NĂM PHÚT.
- Bọn an ninh ngu ngốc đó còn ở bàn tôi
không? - chị hỏi.
- Giờ họ ở trong văn phòng tôi rồi, - tôi
nói và tiếp tục đi.
Chị hơi vẫy tay chào.
63
Goddard và Camilletti ngồi quanh một cái
bàn tròn nhỏ cùng Giám đốc Điều hành Jim Colvin, còn một Jim nữa, Giám đốc Nhân
sự Jim Sperling, và vài phụ nữ tôi không nhận ra. Sperling, một người da đen với
râu cạo sát và kính gọng dây quá cỡ, đang nói về “đối tượng cơ hội”, tôi đoán ông ta muốn nói các nhân viên họ có thể
cắt bỏ. Jim Sperling không mặc áo cổ lọ như Jock Goddard, nhưng cũng gần như thế
- áo-khoác-thể-thao-và-áo-phông-cổ-bẻ-sẫm-màu. Chỉ có Jim Colvin mặc com lê cà
vạt công sở truyền thống.
Cậu trợ lý tóc vàng trẻ tuổi của Sperling
dúi cho tôi vài tờ giấy liệt kê các phòng ban và những cá nhân khờ khạo tội
nghiệp sẽ là ứng cử viên cho chiếc rìu. Tôi đọc lướt nhanh qua và thấy đội
Maestro không ở trên đó. Rốt cuộc vẫn là tôi cứu được công việc cho họ.
Rồi tôi để ý danh sách tên của bộ phận Tiếp
thị Sản phẩm mới, trong đó có Phil Bohjalian. Nhân viên có thâm niên này sẽ bị
cắt giảm, cả Chad và Nora đều không ở trong danh sách, nhưng Phil đã bị nhắm
vào. Vì Nora, hẳn là vậy. Mỗi giám đốc và phó giám đốc đã được yêu cầu xếp hạng
cấp dưới của mình và cắt bỏ ít nhất một phần mười. Nora rõ ràng đã chọn xử tử
Phil.
Buổi họp gần gần giống một phiên đóng dấu.
Sperling lên danh sách, làm “tình huống
kinh doanh” cho những “vị trí”
ông ta muốn loại bỏ, và ít có thảo luận. Goddard trông ủ rũ; Camilletti trông
hăng hái, thậm chí hơi sôi nổi.
Khi Sperling nhắc tới bộ phận Tiếp thị Sản
phẩm mới, Goddard quay sang tôi, im lặng chờ ý kiến của tôi.
- Tôi có thể nói một chút được không? - tôi
chen vào.
- Ừm, dĩ nhiên, - Sperling nói.
- Ở đây có một cái tên, Phil Bohjalian. Ông
ta đã đi cùng công ty phải hai mươi, hai mươi mốt năm rồi.
- Ông ta cũng xếp hạng thấp nhất, -
Camilletti nói. Tôi tự hỏi liệu Goddard đã nói gì với hắn về vụ rò rỉ tin cho tờ
Nhật báo Phố Wall chưa. Tôi không thể
đoán được từ thái độ của Camilletti, vì hắn xử sự với tôi cũng chẳng khó chịu
nhiều hơn hay ít đi so với thường lệ. - Hơn nữa với thâm niên của ông ta ở công
ty, phúc lợi cho ông ta tốn của chúng ta rất nhiều tiền.
- Chậc, tôi muốn hỏi về xếp hạng của ông ấy,
- tôi nói. - Tôi biết cách làm việc của ông ấy, và tôi nghĩ điểm của ông ấy có
lẽ nghiêng về lề lối quan hệ cá nhân hơn.
- Lề lối, - Camilletti nói.
- Nora Sommers không thích tính cách của
ông ấy.
Công nhận vậy, Phil không hẳn là bạn bè
thân thiết với tôi, nhưng ông ta không thể gây hại gì cho tôi, và tôi thấy tệ
cho ông ấy.
- Chà, nếu đây chỉ là vấn đề xung đột về
tính cách, đó là lạm dụng hệ thống xếp hạng, - Jim Sperling nói. - Anh muốn nói
rằng Nora Sommers đang lạm dụng hệ thống?
Tôi thấy rõ chuyện có thể đi đến đâu. Tôi
có thể giữ việc cho Phil Bohjalian, đồng thời vứt bỏ Nora. Thật cám dỗ nếu có
thể cứ thế lên tiếng và cắt cổ Nora. Không ai trong phòng này đặc biệt quan
tâm, dù về khía cạnh nào đi nữa. Tin sẽ xuống tới Tom Lundgren, hắn có lẽ sẽ
không chống đối để giữ lại bà ta. Thực ra, nếu Goddard không dứt tôi ra khỏi
nanh vuốt của Nora, chắc chắn trên danh sách sẽ là tên tôi chứ không phải Phil.
Goddard sắc sảo nhìn tôi, Sperling cũng vậy.
Những người khác quanh bàn đang ghi chép.
- Không, - cuối cùng tôi nói. - Tôi không
nghĩ chị ấy lạm dụng hệ thống. Đó chỉ là chuyện hợp nhau giữa hai người thôi.
Tôi nghĩ cả hai đều làm được việc của mình.
- Rồi, - Sperling nói. - Chúng ta tiếp tục
được chứ?
- Nghe này, - Camilletti nói: - Chúng ta
đang cắt giảm bốn nghìn nhân sự. Chúng ta không thể xét kỹ từng người một được.
Tôi gật đầu.
- Dĩ nhiên.
- Adam, - Goddard nói. - Giúp tôi một chuyện.
Tôi cho Flo nghỉ sáng nay - anh không phiền đi lấy cho tôi, ừm, thiết bị cầm
tay trong văn phòng chứ? Tôi để quên. - Mắt ông như lấp lánh. Ông muốn nói tới
cuốn sổ ghi hẹn nhỏ màu đen của mình, và tôi đoán câu đùa là dành cho tôi.
- Chắc chắn rồi, - tôi nói và nuốt mạnh. - Quay
trở lại ngay.
Cửa văn phòng Goddard đóng nhưng không
khóa. Cuốn sổ đen nhỏ đang nằm trên mặt bàn trống, ngăn nắp, cạnh máy tính.
Tôi ngồi xuống ghế và nhìn quanh các vật dụng,
những khung ảnh Margaret vợ ông, tóc bạc, trông như bà ngoại; một bức ảnh ngôi
nhà ven hồ. Tôi để ý thấy không có ảnh con trai ông, Elijah: có lẽ quá đau đớn
khi gợi nhớ lại.
Tôi đang ở một mình trong văn phòng của
Jock Goddard, và Flo nghỉ buổi sáng. Tôi có thể ở đây bao lâu mà không khiến
Goddard nghi ngờ? Liệu có thời gian tìm cách vào máy tính của ông ta không? Nếu
như Flo xuất hiện khi tôi đang làm thế thì sao...?
Không. Mạo hiểm điên rồ. Đây là văn phòng của
Tổng Giám đốc Điều hành, và có lẽ lúc nào cũng có người ra người vào. Và tôi
không thể liều lĩnh mất hơn hai hay ba phút cho việc vặt này: Goddard sẽ tự hỏi
tôi đang ở đâu. Có lẽ tôi đi vệ sinh trước khi lấy cho ông cuốn sổ: như thế hẳn
giải thích được năm phút, không hơn.
Nhưng có lẽ tôi sẽ không bao giờ có được cơ
hội này nữa.
Tôi vội vã giở cuốn sổ cũ ra và thấy các số
điện thoại, ghi chép nguệch ngoạc trên các ô lịch... và trên trang bên trong
bìa sau là dòng chữ hoa được viết cẩn thận, “GODDARD” và bên dưới nó là
“62858”.
Đó phải là mật khẩu của ông.
Bên trên năm con số đó, bị gạch đi là “THANGSAU
2858.” Tôi nhìn hai dãy số và đoán nó đều là ngày tháng, và chúng đều là cùng một
ngày: Ngày 28 tháng Sáu năm 1958. Rõ ràng một ngày quan trọng với Goddard. Tôi
không biết ngày gì. Có lẽ là ngày cưới. Và cả hai cách viết rõ ràng đều là mật
khẩu.
Tôi vớ lấy một cái bút và một mẩu giấy chép
lại mã và mật khẩu.
Nhưng tại sao không sao chép cả cuốn sổ? Rất
có thể có những thông tin quan trọng khác ở đây.
Đóng cửa văn phòng Goddard lại sau lưng
tôi, tôi tới máy sao chép sau bàn Flo.
- Anh đang định giành việc của tôi à, Adam?
- giọng Flo cất lên.
Tôi quay lại và thấy Flo cầm một cái túi
Saks Đại lộ số năm. Cô ta đang nhìn tôi dữ dằn.
- Chào buổi sáng, Flo, - tôi nói một cách tự
nhiên. - Không, đừng lo. Tôi chỉ lấy đồ cho Jock thôi.
- Thế là tốt. Bởi vì tôi đã ở đây lâu hơn,
và tôi sẽ ghét phải chèn ép anh đấy. - Ánh mắt cô ta dịu đi, và một nụ cười ngọt
ngào nở trên khuôn mặt.
64
Khi buổi họp kết thúc, Goddard lách tới chỗ
tôi và quàng tay qua vai tôi.
- Tôi thích điều anh làm trong đó, - ông
nói nhỏ.
- Nghĩa là sao?
Chúng tôi bước dọc hành lang tới văn phòng
của ông.
- Tôi muốn nói về sự kiềm chế của anh trong
trường hợp Nora Sommers. Tôi biết anh cảm thấy thế nào về chị ta. Tôi biết chị
ta thấy thế nào về anh. Với anh loại bỏ chị ta hẳn sẽ là điều dễ dàng nhất trên
thế giới. Và thẳng thắn thì tôi sẽ không phản đối lắm đâu.
Tôi hơi thấy không thoải mái trước cảm tình
của Goddard, nhưng tôi cười, cúi đầu.
- Đó là điều đúng đắn phải làm, - tôi nói.
- “Ai
có đủ quyền hành và cái ác - Mà chẳng bắt ai đau đớn một ngày”, - Goddard
nói, - “Người ấy đáng được Chúa trời ban
phước”. Shakespeare. Trong tiếng Anh hiện đại: Khi anh có quyền lực để giày
xéo lên người khác và anh không làm thế - chà, đó là khi anh chứng tỏ được anh
thực sự là ai.
- Tôi cho là vậy.
- Và người lớn tuổi hơn mà anh muốn giúp giữ
việc là ai?
- Chỉ là một nhân viên làm tiếp thị.
- Bạn bè?
- Không. Tôi cũng không nghĩ ông ấy đặc biệt
quý mến gì tôi. Tôi chỉ nghĩ ông ấy là một nhân viên trung thành.
- Tốt cho anh đấy. - Goddard siết mạnh vai
tôi. ông dẫn tôi vào văn phòng, dừng lại một lúc trước bàn của Flo.
- Chào cưng, - ông nói. - Tôi muốn xem váy
để xác nhận cho chắc nào.
Flo tươi cười rạng rỡ, mở túi Saks, lấy ra
một chiếc váy bé gái nhỏ bằng lụa trắng và tự hào giơ lên.
- Tuyệt diệu, - ông nói. - Đúng là tuyệt diệu.
Rồi chúng tôi đi vào văn phòng và ông đóng
cửa lại.
- Tôi vẫn chưa nói một lời nào với Paul, -
Goddard nói, ngồi xuống đằng sau bàn. - Và tôi cũng chưa quyết định liệu tôi có
nói không. Anh vẫn chưa bảo ai khác, đúng không? Về chuyện tờ Nhật báo đó?
- Đúng vậy.
- Cứ để như thế đi. Nghe này, Paul và tôi
có một vài quan điểm khác nhau, và có lẽ đây là cách cậu ấy đốt lửa dưới chân
tôi. Có lẽ cậu ấy nghĩ mình đang giúp công ty. Tôi không biết nữa. - Một tiếng
thở dài sườn sượt. - Nếu tôi thực sự nhắc tới chuyện này với cậu ấy - chà, tôi
không muốn tin lan ra xung quanh. Tôi không muốn bất cứ điều khó chịu nào. Những
ngày này chúng ta có chuyện quan trọng hơn nhiều nhiều lần.
- Được rồi.
Ông liếc xéo tôi.
- Tôi chưa bao giờ tới nhà hàng Auberge,
nhưng tôi nghe nói nó rất tuyệt. Anh nghĩ sao?
Bụng tôi ọc ạch. Mặt nóng bừng lên.
Camilletti đã ở đó tối hôm qua, tồi tệ đến thế là cùng.
- Tôi chỉ - thực ra tôi chỉ uống một ly rượu.
- Anh không bao giờ đoán nổi ai tối qua
cũng ăn ở đó đâu, - Goddard nói. Biểu cảm của ông không thể đọc nổi. - Nicholas
Wyatt.
Rõ ràng Camilletti đã hỏi dò xung quanh, cố
phủ nhận rằng tôi đã ngồi với Wyatt sẽ là tự sát.
- Ồ, chuyện đó, - tôi nói, cố tỏ ra chán
chường. - Từ khi tôi nhận việc ở Trion, Wyatt đã theo tôi...
- Ồ, vậy à?- Goddard ngắt lời. - Vậy dĩ nhiên
anh không còn lựa chọn nào khác ngoài chấp nhận lời mời ăn tối với ông ta, hử?
- Không, giám đốc, không phải như vậy, - tôi
nói, nuốt khan.
- Anh thay đổi công việc không có nghĩa là
anh từ bỏ bạn bè cũ, chắc vậy.
Tôi lắc đầu, nhíu mày. Mặt tôi cảm giác
đang đỏ bừng lên y như mặt Nora.
- Thực ra không phải chuyện bạn bè gì...
- Ồ, tôi biết chuyện như thế nào, - Goddard
nói. - Người kia khiến anh thấy tội lỗi và phải gặp ông ta chỉ vì chuyện ngày
xưa, còn anh không muốn thô lỗ, và rồi ông ta đề nghị mật ngọt chết ruồi...
- Ông biết tôi không có ý định...
- Dĩ nhiên là không, dĩ nhiên là không, - Goddard lẩm bẩm. - Anh không phải là loại người đó. Thôi tôi xin. Tôi biết nhìn
người. Tôi thích nghĩ đó là một trong những điểm mạnh của mình.
Khi về văn phòng, tôi ngồi xuống bàn, run rẩy.
Sự việc Camilletti báo cáo cho Goddard biết
hắn thấy tôi ở Auberge cùng lúc với Wyatt có nghĩa là Camilletti ít nhất cũng
nghi ngờ động cơ của tôi. Hắn hẳn phải nghĩ tối thiểu cũng là tôi để mặc ông chủ
cũ nài nỉ, níu kéo mình. Nhưng hắn là Camilletti, hắn có lẽ có ý tưởng đen tối
hơn thế nữa.
Thật đúng là một tai họa chết tiệt. Tôi
cũng tự hỏi liệu Goddard có thực sự nghĩ tất cả chuyện này là vô hại không.
“Tôi biết nhìn người”, ông ta đã nói vậy. Ông ta ngờ nghệch đến thế sao? Tôi
không biết phải nghĩ gì. Nhưng rõ ràng từ giờ trở đi tôi phải rất cẩn thận dè
chừng.
Tôi hít thở sâu, ấn mạnh đầu ngón tay lên
đôi mắt nhắm. Dù thế nào đi nữa, tôi vẫn phải tiếp tục kiên trì thôi.
Vài phút sau, tôi tìm kiếm nhanh trên
website của Trion và thấy tên người điều hành đơn vị sở hữu Trí tuệ trong bộ phận
Pháp lý của Trion. Hắn tên là Bob Frankenheimer, bốn mươi tư tuổi, đã làm cho
Trion được tám năm. Trước đó hắn là Tổng Cố vấn ở Oracle, và trước đó nữa làm ở
Wilson, Sonsini, một công ty luật lớn ở Thung lũng Silicon. Nhìn ảnh, hắn béo
phì quá mức, với tóc quăn đen, râu mọc lún phún, kính dày. Nhìn như một gã mọt
sách hoàn hảo.
Tôi gọi hắn từ bàn mình, vì tôi muốn hắn thấy
mã gọi và biết tôi gọi từ văn phòng của Tổng Giám đốc. Hắn trả lời điện thoại,
với giọng êm dịu đến ngạc nhiên, như giọng ca sĩ trên sóng đêm khuya của một
đài rock nhẹ.
- Anh Frankenheimer, tôi là Adam Cassidy tại
văn phòng của Tổng Giám đốc Điều hành.
- Tôi giúp gì được anh? - hắn hỏi, nghe thực
sự hợp tác.
- Chúng tôi muốn xem lại tất cả bằng sáng chế
của bộ phận số ba trăm hai mươi.
Đó là một nước đi táo bạo, và chắc chắn mạo
hiểm. Nếu như hắn lại đề cập chuyện này với Goddard thì sao? Sẽ đại thể là vô
phương giải thích.
Một quãng lặng dài.
- Dự án AURORA?
- Đúng vậy, - tôi nói tự nhiên. - Tôi biết lẽ
ra chúng tôi cần phải có tất cả các bản sao hồ sơ ở đây, nhưng tôi vừa bỏ hai
giờ đồng hồ qua tìm khắp mọi nơi, nhưng tôi không thể tìm được, làm Jock thực sự
bực tức về chuyện này. - Tôi hạ giọng, - Tôi là người mới ở đây - tôi chỉ vừa mới
bắt đầu - và tôi không muốn làm hỏng việc này.
Lại một khoảng lặng, giọng Frankenheimer đột
nhiên trở nên lạnh hơn, ít hợp tác hơn, như thể tôi vừa bấm nhầm nút.
- Tại sao
anh lại gọi tôi?
Tôi không biết ý hắn là gì, nhưng rõ ràng
tôi vừa dẫm chân vào.
- Vì tôi đoán anh là người có thể giúp tôi giữ được việc, - tôi nói, hơi cười châm chọc.
- Anh nghĩ tôi có các bản sao ở đây? - hắn sẵng
giọng.
- Chậc, vậy anh có biết các bản sao hồ sơ ở
đâu không?
- Anh Cassidy, tôi có một đội gồm sáu luật
sư hàng đầu về lĩnh vực sở hữu trí tuệ trong này có thể xử lý hầu hết tất cả mọi
chuyện. Nhưng hồ sơ của AURORA? Ồ, không. Chúng phải do các luật sư bên ngoài xử
lý. Tại sao? Được vin vào cớ “an ninh tập đoàn”. - Giọng hắn cứ to dần lên, và hắn
nghe thực sự phẫn nộ. - “An ninh tập đoàn”. Bởi vì có lẽ là những luật sư bên
ngoài thực hiện được một loại an ninh tốt hơn người của chính Trion. Vậy tôi hỏi
anh: Một thông điệp như thế nên hiểu như thế nào? - Hắn không còn nghe êm dịu nữa.
- Thật không phải, - tôi nói. - Vậy ai xử lý
các hồ sơ.
Frankenheimer thở hắt ra. Hắn chua chát, giận
dữ, có thể làm ứng cử viên sáng giá cho bệnh đau tim.
- Tôi ước mình giúp được
anh. Nhưng rõ ràng người ta cũng không thể tin cậy trao cho chúng tôi thông tin
đó. Các biểu trưng văn hóa của chúng ta nói gì chứ, “Truyền Thông Mở”? Tôi
thích nó quá đi mất. Tôi nghĩ chắc mình phải in nó lên áo phông mặc trong Giải
đấu Tập đoàn mất thôi.
Sau khi dập máy, tôi đi ngang qua văn phòng
của Camilletti trên đường tới nhà vệ sinh nam, và rồi tôi lộn ngược lại.
Ngồi trong văn phòng của Paul Camilletti với
vẻ mặt nghiêm trọng, là anh bạn cũ của tôi.
Chad Pierson.
Tôi rảo bước nhanh hơn, không muốn bị ai
trong hai người đó nhìn thấy qua tường kính văn phòng của Camilletti. Dù tại
sao tôi không muốn bị thấy thì tôi chẳng rõ. Giờ tôi chạy theo bản năng.
Chúa ơi, Chad mà biết Camilletti ư? Hắn
chưa bao giờ nói hắn quen, và cứ xét thái độ nhún nhường và khiêm tốn của Chad,
điều đó chính là loại chuyện mà hắn hẳn sẽ huênh hoang với tôi. Tôi không nghĩ
ra được bất cứ lý do hợp lý - hay ít nhất là vô hại - nào giải thích được việc
hai người đó có thể đang nói chuyện. Và chắc chắn không phải chuyện bạn bè:
Camilletti sẽ không phí thời gian với hạng sâu bọ như Chad.
Lý do hợp lý duy nhất là lý do tôi sợ nhất:
Chad đã đem nghi ngờ về tôi thẳng lên cấp trên cao nhất, hay cao nhất mà hắn có
thể với tới. Nhưng tại sao lại là Camilletti?
Không nghi ngờ gì rằng Chad muốn làm hại
tôi, và một khi hắn nghe được về người mới được tuyển từ Viễn thông Wyatt, hắn
có lẽ đã lựa Kevin Griffin ra để tìm thông tin bôi nhọ tôi. Và hắn đã gặp may.
Nhưng có thật hay không?
Ý tôi là, Kevin Griffin thực sự biết được
bao nhiêu về tôi? Hắn biết các tin đồn, chuyện ngồi lê đôi mách; hắn có thể bảo
biết gì đó về quá khứ của tôi ở Wyatt. Nhưng đây là một kẻ mà thanh danh của
chính mình còn phải xem xét. Dù bộ phận An ninh của Wyatt đã nói gì với Trion,
rõ ràng người ở Trion tin điều đó - nếu không họ đã không đá hắn đi nhanh như
thế.
Vậy liệu Camilletti có thực sự tin vào những
lời buộc tội gián tiếp từ một nguồn tin có vấn đề, rất có thể là một đống rác
rưởi, như Kevin Griffin không?
Mặt khác... giờ hắn đã thấy tôi đi ăn với
Wyatt, trong một nhà hàng kín đáo, có lẽ hắn sẽ tin.
Bụng tôi bắt đầu đau quặn. Tôi tự hỏi liệu
mình có bị loét dạ dày không.
Thậm chí nếu như đúng vậy, cũng sẽ chỉ là rắc
rối nhỏ bé nhất mà thôi.
65
Ngày hôm sau, thứ Bảy, là bữa tiệc ngoài trời
của Goddard. Tôi mất một tiếng rưỡi để đến ngôi nhà ven hồ của Goddard, phải đi
qua nhiều đoạn đường làng hẹp. Trên đường đi, tôi gọi cho bố bằng điện thoại di
động, một sai lầm. Tôi nói vài câu với Antwoine, rồi bố chen vào, hổn hển cáu gắt,
vẫn con người lôi cuốn như mọi khi, và đòi tôi tới ngay lập tức.
- Không thể đâu, bố ạ, - tôi nói. - Con có
công chuyện cần phải làm.
Tôi không muốn nói mình phải tới bữa tiệc
ngoài trời ở ngôi nhà nông thôn của Tổng Giám đốc Điều hành. Đầu tôi lướt qua tất
các phản ứng mà ông có thể có và bị quá tải. Nào là bài diễn văn về các Tổng
Giám đốc Điều hành thối nát, nào là bài diễn văn về Adam-thằng-liếm-gót-thảm-hại,
rồi bài mày-không-biết-mày-là-ai, bài bọn-nhà-giàu-bắt-mày-nhớ-là-chúng-giàu-có,
bài cái-gì-chứ-mày-không-muốn-bỏ-thời-gian-ở-với-thằng-bố-đang-chết-dần-của-mày-à...
- Bố cần gì không? - tôi nói thêm, biết ông
sẽ không bao giờ thừa nhận mình cần gì.
- Tao không cần gì cả, - ông gắt gỏng. - Không
cần nếu mày quá bận.
- Sáng mai con đến, được chứ?
Bố im lặng, cho tôi biết mình đã chọc giận
ông, rồi để Antwoine nói chuyện, ông đã lại biến thành con người khó chịu thường
lệ.
Tôi chấm dứt cuộc gọi khi tới ngôi nhà. Nơi
này được cắm biển gỗ đơn giản trên cọc, chỉ có chữ GODDARD và một con số. Rồi một
con đường đất dài đầy vết xe qua đám cây cối rậm rạp, đột ngột mở rộng vào đường
lái xe vòng tròn đầy vỏ sò vỡ. Một thằng nhóc mặc áo xanh đang tạm thời đóng
vai trò người phục vụ. Tôi miễn cưỡng đưa cho nó chìa khóa chiếc Porsche.
Ngôi nhà nằm trải dài, ấm cúng, ván lợp màu
xám, trông giống như xây từ cuối thế kỷ mười chín gì đó. Nó tọa lạc trên một
mũi đất nhìn ra hồ, với bốn ống khói đá lớn và cây thường xuân leo trên các tấm
ván lợp. Mặt trước là bãi cỏ mênh mông, tỏa mùi như vừa được cắt, và đây đó là
những cây sồi già khổng lồ và cây thông khẳng khiu.
Hai ba mươi người đang đứng trên khắp bãi cỏ,
mặc quần ngắn áo phông và trên tay cầm đồ uống. Một đám trẻ con chạy qua lại,
la hét và ném bóng, chơi đùa. Một cô bé tóc vàng xinh xắn ngồi tại bàn phát thẻ
trước hiên nhà. Cô bé cười, tìm thẻ tên và đưa cho tôi.
Hoạt động chính có lẽ ở mặt bên kia nhà,
bãi cỏ đằng sau thoai thoải xuống cầu tàu bằng gỗ trên mặt nước, ở đó mọi người
đông đúc hơn. Tôi nhìn quanh tìm gương mặt quen thuộc, nhưng không thấy ai. Một
người phụ nữ mập mạp khoảng sáu mươi mặc áo caphtan đỏ tía, da nhăn nheo và tóc
bạc trắng, tiến đến chỗ tôi.
- Anh lạc đường thì phải, - bà ta tử tế
nói. Giọng bà trầm và khàn, và mặt cũng dãi dầu sương gió và gây ấn tượng mạnh
như ngôi nhà.
Tôi biết ngay lập tức bà hẳn phải là vợ của
Goddard. Bà trông thô kệch y như được quảng cáo. Mordden nói đúng: bà thực sự
trông giống như một chú chó nhăn.
- Tôi là Margaret Goddard. Anh chắc là
Adam.
Tôi chìa tay ra, hãnh diện không biết vì
sao bà lại nhận được tôi, rồi nhớ ra tên mình nằm ở trước ngực áo.
- Rất vui được gặp bà, bà Goddard, - tôi
nói.
Bà không chỉnh lại tôi, bảo tôi gọi mình là
Margaret.
- Jock kể với tôi khá nhiều về anh. - Bà bắt
tay tôi rất lâu và gật đầu. Đôi mắt nâu nhỏ mở rộng. Bà trông kinh ngạc, trừ
phi tôi tưởng tượng ra điều đó. Bà lại gần hơn. - Chồng tôi là một ông già lẩm
cẩm hay hoài nghi, và không dễ gây được ấn tượng với ông ấy. Vậy nên anh hẳn phải
giỏi lắm.
Một hành lang dưới mái hiên ôm lấy phía sau
ngôi nhà. Tôi đi qua vài vỉ nướng Cajun lớn màu đen với hàng cuộn khói bốc lên
từ than hồng. Vài cô gái mặc đồng phục trắng đang đứng trông đống bánh kẹp, thịt
nướng và thịt gà cháy xèo xèo. Một quầy dài được đặt gần đó với khăn trải bàn vải
lanh trắng, một số thanh niên ở độ tuổi học cao đẳng đang ở đó, rót đồ uống thập
cẩm, nước ngọt và bia vào các cốc nhựa trong. Tại bàn khác, một người đang mở vỏ
hàu và trải chúng ra trên lớp đá lạnh.
Khi tiến đến mái hiên, tôi bắt đầu nhận ra
mọi người, phần lớn họ là các lãnh đạo cấp khá cao ở Trion, đi cùng vợ con.
Nancy Schwartz, phó giám đốc cao cấp của bộ phận Giải pháp Kinh doanh, một người
phụ nữ nhỏ bé, tóc sẫm màu, dáng vẻ lo lắng, mặc áo phông Day Glo màu vàng của Trion được may trong Giải đấu Tập đoàn năm ngoái, đang chơi bóng vồ với Rick Durant,
Giám đốc Tiếp thị, cao, mảnh khảnh, rám nắng với mái tóc sấy tạo kiểu, cả hai đều
trông u sầu. Nhân viên hành chính của Goddard, Flo, mặc váy Hawaii bằng lụa, đầy
hoa và rất ấn tượng, đang lượn quanh như thể chính mình là bà chủ nhà.
Rồi tôi thấy Alana, cặp chân dài rám nắng nổi
bật trên nền cái quần lửng trắng. Cô cũng thấy tôi đúng lúc đó, và mắt như sáng
bừng lên. Cô có vẻ ngạc nhiên. Cô ngấm ngầm vẫy tay nhanh và cười với tôi rồi
quay đi. Tôi không hiểu như thế nghĩa là gì, nếu nó có nghĩa. Có lẽ cô muốn kín
đáo về quan hệ giữa chúng tôi, chuyện đừng-mang-quan-hệ-cá-nhân-vào-công-ty cũ
rích.
Tôi đi qua sếp cũ của mình, Tom Lundgren, hắn
mặc một chiếc áo sơ mi chơi golf xấu xí với các dải xám và hồng tươi. Hắn đang vừa
cầm một chai nước và căng thẳng xé lớp vỏ nhãn thành một dải dài hoàn hảo vừa
cười gượng gạo nghe một người phụ nữ da đen hấp dẫn nói, có lẽ là Audrey
Bethune, Phó Giám đốc và người đứng đầu đội Guru. Đứng hơi lùi về đằng sau là một
người phụ nữ tôi cho là vợ của Lundgren, mặc đồ chơi golf giống hệt, mặt cũng gần
như đỏ ửng và bực bội hệt ông ta. Một cậu nhóc cao gầy đang nắm lấy khuỷu tay
bà ta và léo nhéo nài nỉ gì đó.
Cách đấy khoảng mươi mười lăm mét, Goddard
đang cười phá lên giữa một đám người trông quen thuộc. Ông đang uống một chai
bia và mặc áo sơ mi xanh mở khuy, ống tay áo cuộn lên, quần kaki gấp nếp phẳng
lì, thắt lưng vải xanh hải quân với hình cá voi trên mặt, và giày da nâu cũ kỹ.
Một vị nam tước miền quê vừa lập dị vừa kiểu cách điển hình. Một cô bé chạy ra
chỗ ông, thế là ông cúi người rồi như ma thuật lấy ra một đồng xu từ sau tai
nó. Nó kêu ré lên ngạc nhiên. Ông đưa cho cô bé đồng tiền và nó chạy đi, la hét
vui sướng.
Ông nói gì đó, và người nghe cười phá lên
như thể ông là Jay Leno, Eddie Murphy và Rodney Dangerfield đồng thời nhập lại
thành một. Paul Camilletti đứng ở bên cạnh, mặc quần jean phẳng phiu, bạc mầu
và áo sơ mi trắng mở khuy, tay áo cũng xắn lên. Hắn chọn đúng bản ghi nhớ cách
ăn mặc, dù tôi thì không - tôi mặc quần kaki ngắn và áo phông cổ bẻ.
Đối diện hắn là Jim Colvin, Giám đốc Điều
hành, hai cẳng chân trắng nhợt lẻo khẻo như chim chích lộ ra phía dưới cái quần
ngắn hiệu Bermuda màu xám giản dị. Đúng là một cuộc trình diễn thời trang thực
thụ. Goddard ngước lên, bắt gặp ánh mắt tôi và ra hiệu bảo tôi tới.
Khi tôi bắt đầu bước đến, một người tự dưng
từ đâu xuất hiện và bắt lấy cánh tay tôi. Nora Sommers, mặc áo đan màu hồng với
cổ đứng và quần kaki rộng cỡ, trông sướng rơn khi gặp tôi.
- Adam! - Mụ kêu lên. - Tôi mừng thấy anh ở
đây quá! Chỗ này không tuyệt sao?
Tôi gật đầu, cười lịch sự.
- Con gái chị có đến không?
Trông mụ đột nhiên không thoải mái.
- Megan đang trải qua một thời kỳ khó khăn,
con bé tội nghiệp. Nó chẳng bao giờ muốn dành thời gian với tôi. - Thật buồn cười,
tôi nghĩ, tôi cũng đang trải qua đúng thời kỳ như thế đấy. - Nó thích đi cưỡi
ngựa với bố nó còn hơn lãng phí một buổi chiều với mẹ và hội bạn buồn chán ở chỗ
làm của mẹ.
Tôi gật đầu.
- Xin phép...
- Anh đã bao giờ có dịp thấy bộ sưu tập xe
của Jock chưa? Nó ở trong nhà để xe đằng kia.
Mụ chỉ về một ngôi nhà trông giống như kho
thóc cách khoảng trăm mét bên kia bãi cỏ.
- Anh phải thấy những chiếc xe đó. Chúng thật
lộng lẫy!
- Tôi sẽ xem, cảm ơn, - tôi nói, rồi bước một
bước về phía nhóm của Goddard.
Nora tóm chặt cánh tay tôi hơn.
- Adam, tôi luôn muốn nói với anh, tôi rất
vui trước thành công của anh. Nó thực sự nói lên rằng Jock sẵn lòng đánh cược
vào anh, đúng không? Đặt niềm tin vào anh? Tôi thật mừng cho anh!
Tôi nồng nhiệt cảm ơn mụ và gỡ cánh tay tôi
ra khỏi móng vuốt mụ.
Tôi tới chỗ Goddard và lịch sự đứng sang một
bên cho tới khi ông thấy tôi và vẫy tôi lại. Ông giới thiệu tôi với Stuart
Lurie, người lãnh đạo bộ phận Giải pháp Doanh nghiệp, ông ta bảo, “Chuyện thế
nào, anh bạn?”, và siết thật chặt tay tôi. Ông ta trông khá điển trai, khoảng bốn
mươi tuổi, đã sớm hói và cạo sát ở hai bên nên trông vừa kỹ tính vừa hay ho.
- Adam là tương lai của Trion, - Goddard
nói.
- Chà, này, rất vui được gặp tương lai! -
Lurie nói với một thoáng châm chọc. - Anh sẽ không rút đồng xu nào ra từ tai cậu
ấy chứ, Jock?
- Không cần làm thế, - Jock nói. - Adam
luôn lấy thỏ ra khỏi mũ, đúng không, Adam?
Goddard quàng tay qua vai tôi, một hành động
lúng túng vì tôi cao hơn ông nhiều.
- Đi với tôi, - ông khẽ khàng nói.
Ông dẫn tôi đi tới hành lang dưới mái hiên.
- Một chút nữa tôi sẽ thực hiện một nghi lễ
truyền thống nho nhỏ, - Ông nói trong khi chúng tôi leo lên những bậc thang gỗ.
Tôi giữ cửa che mở cho ông. - Tôi đem tặng những món quà nhỏ, những vật be bé
ngốc nghếch - quà đùa giỡn thôi, thật đấy.
Tôi cười, tự hỏi tại sao ông lại kể cho tôi
điều này.
Chúng tôi đi qua hành lang dưới mái hiên, với
đồ đạc cũ kỹ làm bằng liễu gai, vào tiền phòng, rồi vào phần chính của ngôi
nhà. Sàn làm bằng gỗ thông bản rộng cũ, nó kêu cót két khi chúng tôi bước qua.
Tường đều được sơn màu trắng sữa, và mọi thứ đều toát lên vẻ sáng sủa, vui vẻ
và ấm cúng. Nó tỏa ra thứ mùi không thể miêu tả nổi của các ngôi nhà cũ. Tất cả
đều thoải mái, gần gũi và sống động. Đây là ngôi nhà của một người giàu có
không tự phụ, tôi nghĩ. Chúng tôi đi xuống một hành lang rộng, qua phòng khách
có lò sưởi bằng đá lớn, rồi quành ở góc vào hành lang hẹp lát gạch. Cúp và đồ
trưng bày xếp trên giá hai bên hành lang. Rồi chúng tôi vào một phòng sách nhỏ
với bàn đọc dài ở chính giữa, trên đặt máy tính và máy in, cùng vài hộp các
tông lớn. Đây rõ ràng là phòng làm việc của Goddard.
- Bệnh viêm xương khớp cũ lại tái phát, -
ông xin lỗi, chỉ những hộp các tông lớn trên bàn đọc, đầy quà đã được gói sẵn. -
Anh là thanh niên lực lưỡng. Nếu anh không phiền mang những thứ này ra chỗ dãy
ghế, gần quầy...
- Không phiền chút nào, - tôi nói, thất vọng
nhưng không để lộ ra. Tôi nâng một cái hộp to tướng lên, nó không chỉ nặng mà
còn kềnh càng, sức nặng không cân và cồng kềnh đến mức tôi gần như không thấy nổi
đường phía trước khi bước đi.
- Tôi sẽ dẫn anh ra khỏi đây, - Goddard
nói.
Tôi theo ông ta vào hành lang hẹp. Cái hộp
cọ xát vào giá hai bên, và tôi phải quay nó hơi nghiêng lên trên để luồn kéo nó
qua. Tôi cảm thấy cái hộp huých phải gì đó. Rồi một tiếng loảng xoảng lớn, tiếng
kính vỡ.
- Thôi chết, - tôi thốt lên.
Tôi quay cái hộp để thấy được chuyện gì vừa
xảy ra. Tôi trân trối nhìn: tôi hẳn đã gạt một cái cúp rơi khỏi giá. Giờ nó biến
thành chục mảnh vỡ màu vàng rải rác trên sàn gạch. Đó là loại cúp trông như bằng
vàng ròng nhưng thực ra là đồ gốm được mạ vàng gì đó.
- Chúa ơi, tôi xin lỗi, - tôi nói, đặt cái
hộp xuống và cúi mình nhặt các mảnh vỡ. Tôi đã rất thận trọng với cái hộp, thế
mà không hiểu sao tôi lại va phải nó, tôi không biết sao lại thế nữa.
Goddard quay đi chỗ khác, mặt trắng bệch.
- Quên nó đi, - ông nói gượng gạo.
Tôi cố nhặt hết những mảnh vỡ mình nhặt được.
Nó là - nó từng là - bức tượng của một cầu thủ bóng bầu dục. Có một mảnh mũ, một
mảnh nắm tay, một quả bóng nhỏ. Bệ bằng gỗ có tấm biển đồng ghi: VÔ ĐỊCH NĂM
1995 - TRƯỜNG LAKEWOOD - ELIJAH GODDARD - VỊ TRÍ CHỦ CÔNG.
Elijah Goddard, theo lời Judtih Bolton, là
người con trai đã mất của Goddard.
- Jock, - tôi nói. - Tôi rất xin lỗi.
Một mảnh lởm chởm khía vào tay tôi đau đớn.
- Tôi nói quên chuyện đó đi, - Goddard nói,
giọng cứng rắn. - Không sao đâu. Giờ thôi nào, ta đi thôi.
Tôi không biết phải làm gì, tôi thấy thật tệ
vì đã phá hủy kỷ vật của cậu con trai đã mất. Tôi muốn dọn dẹp đống đổ vỡ,
nhưng tôi cũng không muốn làm ông tức giận thêm. Quá nhiều chuyện cho tất cả mớ
thiện ý tôi xây dựng được với người đàn ông già này. Vết rách trong lòng bàn
tay tôi giờ ứa máu.
- Bà Walsh sẽ dọn chỗ này, - ông nói, giọng
có phần gay gắt. - Đi nào, hãy mang các món quà này ra.
Ông đi xuống hành lang và biến mất đâu đó.
Trong lúc ấy, tôi nâng cái hộp lên mang nó đi, cực kỳ cẩn thận, qua hành lang hẹp
ra khỏi ngôi nhà. Tôi để lại một dấu tay dính máu trên hộp các tông.
Khi quay lại lấy hộp thứ hai, tôi thấy
Goddard ngồi trên ghế trong góc phòng làm việc, ông ngồi khom vai, đầu chìm
trong bóng tối, và ông cầm cái đế cúp gỗ bằng cả hai tay. Tôi do dự, không chắc
mình nên làm gì, liệu tôi nên rời khỏi đây, bỏ ông lại một mình, hay tôi nên tiếp
tục chuyển mấy cái hộp và giả bộ như không thấy ông.
- Nó là một thằng nhóc dễ chịu, - Goddard đột
nhiên lên tiếng, nhẹ giọng đến nỗi đầu tiên tôi cứ ngỡ mình tưởng tượng. Tôi dừng
bước. Giọng ông trầm, khàn khàn và bé, không to hơn một tiếng thì thầm. - Một vận
động viên thể thao, cao lớn, ngực vạm vỡ, cũng như anh. Và nó có... có tài mang
lại hạnh phúc. Khi nó bước vào phòng, anh sẽ thấy tâm trạng khá hẳn lên. Nó khiến
người ta cảm thấy tốt đẹp. Nó điển trai, và tử tế, và có - có ánh lấp lánh
trong mắt nó...
Ông chậm rãi ngẩng đầu lên và nhìn xa xăm.
- Thậm chí khi nó chỉ là một đứa bé, nó hầu
như không bao giờ khóc hay nhặng xị lên hay...
Goddard dứt giọng, và tôi đứng đó giữa
phòng, cứng người lại, chỉ lắng nghe. Tôi đã vo một cái khăn ăn vào trong bàn
tay để thấm máu, và tôi cảm thấy nó bắt đầu ướt.
- Anh hẳn sẽ thích nó, - Goddard nói. Ông
nhìn về phía tôi, nhưng không hẳn vào tôi, như thể ông đang thấy con trai mình
tại chỗ tôi đứng. - Đúng vậy. Anh với nó hẳn sẽ trở thành bạn.
- Tôi rất tiếc không gặp được cậu ấy.
- Ai cũng yêu nó. Đây là một thằng bé được
đặt vào thế gian này để làm mọi người hạnh phúc - nó có tia sáng, nó có nụ... -
Giọng ông vỡ ra. - Nụ cười-đẹp nhất...
Goddard cúi đầu xuống, và vai ông rung lên.
Một phút sau ông nói:
- Rồi một ngày ở công ty, tôi nhận được một
cuộc gọi từ Margaret. Bà ấy hét lên... Bà ấy thấy nó trong phòng ngủ. Tôi lái
xe về, tôi không suy nghĩ minh mẫn được nữa... Elijah đã bỏ trường Haverford
vào năm thứ ba - thật ra là, họ tống cổ nó, điểm số nó sụt thảm hại, nó không tới
trường nữa. Nhưng tôi không thể bắt nó nói về chuyện đó được. Tôi ngờ là nó
dùng thuốc, dĩ nhiên, và tôi cố nói chuyện với nó, nhưng giống như nói với bức
tường vậy. Nó chuyển về nhà, hầu hết thời gian ở lì trong phòng hay ra ngoài với
bọn nhóc mà tôi không biết. Sau này tôi nghe được từ một người bạn của nó là nó
đã hút heroin vào đầu năm thứ ba. Nó không phải bọn thanh niên phạm pháp, nó là
một anh chàng tài năng, tính dễ chịu, một đứa con ngoan... Nhưng rồi đến một
lúc nó bắt đầu... từ đó là gì nhỉ, tiêm chích? Và điều đó làm nó thay đổi.
Không còn ánh sáng trong mắt nó nữa. Nó bắt đầu suốt ngày nói dối. Cứ như thể
nó đang cố xóa bỏ tất cả con người cũ của nó. Anh hiểu tôi nói gì không?
Goddard ngước lên. Nước mắt giờ chảy xuống
mặt ông.
Tôi gật đầu.
Một vài giây chậm chạp trôi qua, rồi ông tiếp
tục.
- Nó đang tìm kiếm gì đó, tôi đoán vậy. Nó
cần thứ mà thế giới này không thể cho nó. Hoặc có lẽ nó quá đa cảm và nó quyết
định mình cần loại bỏ phần đó trong mình.
Giọng ông lại trở nên nặng nề.
- Và sau đó là phần còn lại.
- Jock, - tôi lên tiếng, muốn ông dừng lời.
- Nhân viên điều tra y tế kết luận đó là
dùng thuốc quá liều, ông ta bảo không nghi ngờ gì chuyện đó là có chủ ý, rằng
Elijah biết mình đang làm gì. - Bàn tay múp míp áp lên mắt. - Tôi tự hỏi mình,
liệu tôi đã có thể làm gì khác đi? Tôi đã làm hỏng nó như thế nào? Tôi thậm chí
từng dọa sẽ để nó bị bắt. Chúng tôi cố đưa nó đi cai nghiện. Tôi đã chuẩn bị đẩy
nó tới đó, bắt nó phải đi, nhưng tôi không bao giờ có cơ hội. Và tôi tự hỏi
mình hết lần này đến lần khác: Tôi có quá cứng rắn, quá nghiêm khắc với nó
không? Hay không đủ cứng rắn? Tôi có quá bù đầu vào công việc của mình không? -
Tôi nghĩ là tôi có như vậy đấy. Hồi đó tôi quá tham vọng. Tôi quá bận rộn xây dựng
Trion đến nỗi chẳng thể cho nó một người cha thực sự.
Giờ ông nhìn thẳng vào tôi, và tôi thấy được
nỗi đau khổ trong mắt ông. Nó như một lưỡi dao đâm vào bụng tôi. Mắt tôi ươn ướt.
- Anh đi làm và xây dựng vương quốc nho nhỏ
của mình, - ông nói, - rồi anh quên mất điều gì thực sự đáng giá. - Ông chớp mắt
liên hồi. - Tôi không muốn anh quên mất, Adam. Không bao giờ.
Goddard trông càng nhỏ hơn, héo hon hơn, và
như đã một trăm tuổi.
- Nó nằm trên giường dính đầy dãi và nước
tiểu như trẻ nhỏ, và tôi ôm nó trong tay như một đứa bé sơ sinh. Anh biết nhìn
thấy con mình nằm trong quan tài là như thế nào không? - ông thì thầm. Tôi nổi
da gà, phải quay đầu đi. - Tôi nghĩ mình không bao giờ quay lại làm việc nổi.
Tôi cứ ngỡ mình không thể vượt qua điều đó. Margaret nói tôi chưa bao giờ vượt
qua được. Trong gần hai tháng liền tôi ở nhà. Tôi không thể tìm ra lý do để sống
nữa. Một chuyện như thể này xảy ra và anh - anh sẽ nghi ngờ giá trị của mọi thứ.
Ông dường như nhớ ra mình có khăn tay trong
túi, và ông lấy nó lau mặt.
- Ôi chao, nhìn tôi xem, - ông nói với một
tiếng thở dài sườn sượt, và bất ngờ ông cười. - Nhìn lão già ngu xuẩn này xem.
Khi tôi ở tuổi anh, tôi tưởng tượng khi mình già như bây giờ tôi hẳn đã tìm ra
ý nghĩa của cuộc đời. - Ông cười buồn bã. - Và giờ tôi không đến được gần ý
nghĩa cuộc đời hơn bất cứ khi nào trước kia. Ồ, tôi biết nó không phải là cái
gì. Bằng quá trình loại bỏ. Tôi đã phải mất một đứa con để biết được điều đó.
Anh có nhà to xe đẹp, và có lẽ họ đưa anh lên trang bìa tờ tạp chí Fortune, và anh cho rằng mình đã hiểu được
hết tất cả, phải không? Cho tới khi Chúa gửi cho anh một bức điện tín nho nhỏ
nói, “Ồ, quên không nhắc, chẳng thứ nào
trong số đó có ý nghĩa. Và tất cả mọi người ngươi yêu quý trên thế gian này, thực
ra chỉ là ta cho ngươi mượn họ thôi, hiểu chưa. Và tốt nhất là ngươi nên yêu
thương họ khi còn có thể”. - Một giọt nước mắt chầm chậm lăn xuống má ông. -
Tới ngày hôm nay tôi vẫn hỏi mình, tôi đã bao giờ hiểu Elijah chưa? Có lẽ chưa.
Tôi từng nghĩ mình hiểu. Tôi biết mình yêu nó, hơn tôi nghĩ mình có thể yêu bất
cứ ai. Nhưng tôi có thực sự hiểu con trai mình không? Tôi không thể nói chắc.
Ông lắc đầu chậm rãi, và tôi thấy ông bắt đầu
bình tĩnh lại.
- Bố anh thật rất may mắn, dù ông ấy là ai,
vô cùng may mắn, và ông sẽ không bao giờ hiểu đâu. Ông ấy có được một người con
như anh, một người con vẫn còn ở bên ông ấy. Tôi biết ông ấy hẳn phải tự hào vì
anh.
- Tôi không chắc điều đó lắm, - tôi nói nhỏ.
- Ồ, tôi thì chắc đấy, - Goddard nói. - Vì
tôi biết tôi hẳn sẽ tự hào.
------------
Còn tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét