Thứ Bảy, 3 tháng 9, 2022

Đời Ảo - Phần VI

Đời Ảo
(Nguyên tác: Paranoia)

Tác giả: Joseph Finder
Dịch giả: Tâm Thủy
Nhà xuất bản Lao Động - Năm xuất bản: 2011

Phần 6 - Hộp Chết

Hộp chết: Nơi thả đồ, ẩn mình. Biệt ngữ tình báo chỉ một địa điểm vật lý được che giấu sử dụng làm biện pháp liên lạc giữa điệp viên và người đưa tin, chỉ huy điệp vụ hay một điệp viên khác trong một tổ chức hay mạng lưới tình báo. - Từ điển tình báo quốc tế.

57

Với tôi, tối nay thế này vẫn còn là sớm - tôi về nhà vào chín giờ ba mươi, suy nhược và căng thẳng, cần tới ba ngày ngủ li bì. Vừa lái xe khỏi Trion, tôi vừa thầm tua đi tua lại cảnh với Mordden, cố hiểu cho rõ. Tôi tự hỏi liệu gã có định kể cho ai biết rồi giao nộp tôi không. Và nếu không, thì tại sao? Hay hắn định nắm thóp tôi như thế nào đó? Tôi không biết phải đối phó như thế nào, và đấy là điều tồi tệ nhất.
Rồi tôi mơ tưởng tới cái giường mới tinh với đệm Dux và tôi sẽ thả mình lên nó như thế nào ngay khi về tới nhà. Cuộc đời của tôi đã đi đến chỗ nào thế này? Tôi mơ tưởng được ngủ. Thảm hại.
Dù sao tôi cũng không thể ngủ ngay, vì tôi vẫn còn việc phải làm. Tôi phải bỏ những hồ sơ của Camilletti ra khỏi đôi bàn tay nóng bỏng của mình rồi gửi cho Meacham và Wyatt. Tôi không muốn giữ những văn bản đó lâu hơn việc của mình một phút nào.
Vì vậy tôi dùng máy quét Meacham đưa cho, chuyển chúng thành tệp PDF, mã hóa chúng và gửi bằng thư điện tử bảo mật qua dịch vụ vô danh.
Sau khi làm xong, tôi lấy trình KeyGhost ra, cắm vào máy tính và bắt đầu tải về. Khi tôi mở văn bản đầu tiên, tôi phát cáu - nó giống như một khối ngôn từ vô nghĩa. Rõ ràng xôi hỏng bỏng không. Tôi xem kỹ hơn và thấy thực ra có khuôn mẫu ở đây; có thể rốt cuộc tôi chưa làm hỏng chuyện. Tôi nhận ra tên của Camilletti, một loạt số và ký tự, rồi cả câu.
Hàng trang hàng trang chữ. Mọi thứ hắn gõ vào máy tính ngày hôm đó, và rất nhiều.
Điều đầu tiên: Tôi lấy mật khẩu của hắn. Sáu con số, kết thúc bằng 82 - có lẽ là ngày sinh nhật con hắn. Hoặc ngày cưới. Đại loại như thế.
Nhưng còn thú vị hơn nhiều là tất cả đống thư điện tử. Rất nhiều, đầy các thông tin mật về công ty, về việc mua lại một công ty hắn đang đảm trách. Công ty đó là Delphos, tôi đã thấy trong hồ sơ. Đó là công ty mà họ chuẩn bị trả cả núi tiền và cổ phiếu để mua về.
Có các bức thư trao đổi qua lại, đánh nhãn TRION TUYỆT MẬT, về một phương pháp bí mật mới để quản lý hàng hóa mà họ đã đưa vào áp dụng vài tháng trước nhằm đối phó với nạn sao chép và giả mạo, đặc biệt ở châu Á. Một vài phần của từng thiết bị Trion, dù là điện thoại để bàn, điện thoại cầm tay hay máy quét y khoa giờ đều được khắc laser lô gô và số sê ri. Các dấu nhận dạng cực nhỏ chỉ có thể thấy dưới kính hiển vi: Chúng không thể làm giả, và chúng chứng minh rằng sản phẩm thực sự do Trion sản xuất.
Có nhiều thông tin về các nhà chế tạo vi mạch ở Singapore mà Trion hoặc đã mua lại, hoặc đã đầu tư vào rất nhiều. Thú vị thật - Trion đang dấn sâu vào lĩnh vực sản xuất vi mạch, hoặc ít nhất cũng đặt cọc một chân trong đó.
Tôi cảm thấy kỳ quặc khi đọc tất cả những điều này. Cứ như thể đang giở qua nhật ký của ai đó. Tôi cũng cảm thấy tội lỗi - không phải vì lòng trung thành với Camilletti, dĩ nhiên rồi, mà bởi vì Goddard. Tôi gần như thấy được cái đầu giống thần lùn của Goddard trong một bong bóng trôi trên không, không tán thành nhìn tôi lục thư điện tử, các trao đổi và ghi chép riêng của Camilletti. Có lẽ đó là vì tôi mệt nhoài, nhưng tôi thấy tồi tệ với những việc mình đang làm. Nghe lạ thật, tôi biết - ăn trộm những thứ về dự án AURORA rồi chuyển cho Wyatt thì được, nhưng đưa cho chúng những gì tôi không được phân công lấy thì lại hoàn toàn là phản bội những người chủ mới của tôi.

Cụm chữ NBPW bật ra trước mắt. Chúng hẳn phải chỉ tờ Nhật báo phố Wall. Tôi muốn thấy phản ứng của hắn về bài trên tờ Nhật báo, nên tôi phóng to dòng chữ lên, và suýt thì ngã khỏi ghế.
Từ những gì tôi thấy, Camilletti sử dụng một số hòm thư khác nhau ngoài Trion - Hotmail, Yahoo, và của một công ty truy cập Internet địa phương nào đó. Những thư khác có vẻ là dùng cho chuyện riêng, như trao đổi với người môi giới chứng khoán, thư ngắn cho anh chị em và bố, những thứ như thế.
Nhưng chính các bức thư Hotmail đã thu hút sự chú ý của tôi. Một trong số chúng được gửi tới BulkeleyW@NBPW.com. Nó ghi:

Bill -

Chuyện đang rối lên ở đây. Từ bỏ nguồn tin của mình sẽ có nhiều áp lực đấy - kiên quyết lên nhé. Tối nay gọi tôi ở nhà vào 9:30

- Paul

Ra vậy. Paul Cemilletti là - hắn hẳn phải là - kẻ tiết lộ. Hắn là người đã đưa thông tin có hại về Trion, về Goddard cho tờ Nhật báo.
Giờ thì tất cả đều hiểu được, có phần nổi da gà. Camilletti đang giúp tờ Nhật báo Phố Wall gây tổn hại nghiêm trọng cho Jock Goddard, miêu tả ông đã cùn mòn, tuổi già bóng xế. Goddard phải đi. Hội đồng quản trị của Trion, cũng như tất cả các nhà phân tích và ngân hàng đầu tư sẽ thấy điều này trên những trang Nhật báo. Và ai sẽ là người hội đồng chỉ định giữ vị trí của Goddard?
Thật rõ ràng, phải không?

Dù mệt lả, tôi phải lăn đi lộn lại rất lâu, mãi cuối cùng mới ngủ được. Và giấc ngủ của tôi cứ chập chờn, đầy dằn vặt. Tôi cứ nghĩ mãi về Augustine Goddard, già nua, nhỏ con, vai khom khom, ngồi ăn bánh nướng trong bữa trưa xoàng xĩnh, hay hốc hác và phờ phạc khi đội ngũ quản trị nối đuôi nhau đi qua mình rời khỏi phòng họp. Tôi mơ thấy Wyatt và Meacham, ức hiếp tôi, đe dọa tôi với những chuyện ở tù; trong mơ, tôi đối mặt với chúng, bảo chúng cuốn xéo, bỏ đi trước mặt chúng, chẳng hề kiềm chế. Tôi mơ thấy mình đột nhập vào văn phòng của Camilletti và bị cả Chad và Nora cùng bắt quả tang.
Rồi khi đồng hồ báo thức cuối cùng đã đổ chuông vào sáu giờ sáng, và tôi nhấc cái đầu đau nhói khỏi gối, tôi biết mình phải kể cho Goddard biết về Camilletti.
Và rồi tôi nhận ra tôi mắc kẹt. Làm sao tôi có thể bảo Goddard về Camilletti khi tôi có được bằng chứng nhờ đột nhập vào văn phòng của hắn?
Giờ thì sao?

58

Sự thật rằng Camilletti cắt cổ - thằng tồi giả vờ tức giận về bài viết trên tờ Nhật báo Phố Wall - thực ra lại đứng đằng sau nó khiến tôi điên cả tiết. Hắn còn tệ hơn thằng khốn: hắn bất trung với Goddard.
Có lẽ tôi thấy nhẹ người khi thực sự được kết án đạo đức một điều gì đó sau hàng tuần làm một thằng cặn bã dối trá đê tiện. Có lẽ cảm giác muốn bảo vệ cho Goddard khiến tôi thấy mình tốt đẹp hơn chút ít. Cũng có lẽ nhờ giận dữ trước sự không trung thành của Camilletti, tôi có thể thuận tiện lờ đi chuyện của mình. Hay có lẽ tôi chỉ là biết ơn Goddard đã chọn mình, nhìn nhận mình như một người đặc biệt giỏi giang hơn những người khác. Khó mà biết được bao nhiêu phần trong sự tức giận của tôi đối với Camilletti thực sự là không ích kỷ. Đôi khi ý nghĩ rằng mình chẳng tốt đẹp gì hơn Camilletti như một lưỡi dao thống khổ đâm xuyên qua tôi. Ý tôi là, đây, tôi đang ở Trion, một kẻ lừa đảo giả vờ mình có thể đi trên mặt nước, trong khi lúc nào cũng đột nhập vào các văn phòng, ăn trộm tài liệu và vừa cố dứt đi trái tim tập đoàn của Jock Goddard, vừa ngồi trên xe Buick cổ của ông.

Thật quá sức. Những buổi toát-mồ-hôi-hột lúc-bốn-giờ-sáng này đang làm tôi kiệt quệ. Chúng là mối nguy hiểm cho sức khỏe tinh thần của tôi. Tốt hơn tôi không nên nghĩ, mà chỉ hoạt động nhờ điều khiển hành trình thôi.
Vậy là, có lẽ tôi thực sự có tất cả lương tâm của một con trăn Mỹ nhiệt đới. Tôi vẫn muốn bắt thằng khốn Paul Camilletti đó.
Ít nhất tôi không có lựa chọn nào cho việc mình đang làm. Tôi bị dồn ép phải làm. Trong khi đó, sự phản bội của Camilletti lại ở một mức độ hoàn toàn khác. Hắn đang chủ động mưu đồ chống lại Goddard, người đã đưa hắn vào công ty, tin tưởng hắn. Và ai biết được Camilletti còn làm gì khác?
Goddard cần được biết. Nhưng tôi phải có vỏ ngụy trang - một cách hợp lý để phát hiện ra điều đó mà không liên quan gì tới chuyện đột nhập vào văn phòng của Camilletti.
Suốt dọc đường đi làm, đầu óc tôi vừa tận hưởng tiếng gầm gào của động cơ phản lực trên chiếc Porsche, vừa tìm cách giải quyết vấn đề này, và vào lúc đến văn phòng, tôi đã có một ý kha khá.
Làm việc tại văn phòng của Tổng Giám đốc Điều hành cho tôi nhiều quyền lực. Nếu tôi gọi cho ai đó mình không biết và chỉ giới thiệu đơn giản là Adam Cassidy, hẳn tôi sẽ không được trả lời điện thoại. Nhưng Adam Cassidy, “gọi từ văn phòng của Tổng Giám đốc Điều hành” hay “văn phòng của Goddard” - như thể tôi đang ngồi trong văn phòng cạnh ông ta chứ không phải cách hai ba chục mét xuôi xuống hành lang - sẽ được trả lời tất cả các cuộc gọi, nhanh như chớp.
Vì vậy khi tôi gọi tới phòng Công nghệ Thông tin của Trion và bảo họ “chúng tôi” muốn có bản sao của tất cả thư lưu trữ nhận và gửi từ văn phòng của Giám đốc Tài chính trong vòng ba mươi ngày qua, tôi lập tức nhận được sự hợp tác. Tôi không muốn chỉ tay vào Camilletti, nên tôi làm ra vẻ như Goddard lo lắng về việc thông tin bị rò rỉ khỏi văn phòng Giám đốc Tài chính.
Tôi nhận thấy một điều thú vị là Camilletti có thói quen xóa bản sao của một số thư điện tử nhạy cảm nhất định, dù gửi hay nhận. Rõ ràng hắn không muốn những bức thư đó được lưu trữ trong máy tính của mình. Một tay sắc sảo như hắn hẳn phải biết bản sao của tất cả các bức thư điện tử đều được lưu lại đâu đó trong ngân hàng dữ liệu của công ty. Vì thế hắn ưa sử dụng hòm thư ngoài cho những mối liên hệ nhạy cảm hơn - bao gồm cả tờ Nhật báo Phố Wall. Tôi tự hỏi liệu hắn có biết các máy tính ở Trion lưu giữ tất cả thư từ đi qua cáp sợi quang của công ty, dù dùng Yahoo, Hotmail hay hòm thư nào khác hay không.

Anh bạn mới ở bộ phận IT, có vẻ nghĩ mình đang giúp riêng cho chính Goddard, cũng cho tôi bản ghi cuộc gọi tất cả các cú điện thoại tới và đi từ văn phòng của Giám đốc Tài chính. Không thành vấn đề, anh ta nói. Công ty dĩ nhiên không thu lại nội dung đối thoại, nhưng dĩ nhiên họ lưu trữ tất cả các số gọi đi và đến, đó là lệ thường ở các tập đoàn. Anh ta thậm chí còn có thể cho tôi bản sao thư thoại của bất cứ ai. Nhưng như thế sẽ mất thời gian.

Trong vòng một tiếng liền có kết quả. Tất cả đều ở đó. Camilletti đã nhận được một số cuộc gọi từ anh chàng ở tờ Nhật báo trong vòng mười ngày trở lại. Nhưng chứng cớ còn rành rành hơn, hắn đã gọi rất nhiều lần cho tay kia. Một hoặc hai cuộc còn có thể lấp liếm là cố gắng đáp lại tay nhà báo - dù hắn từng quả quyết rằng mình chưa bao giờ nói chuyện với người này.
Nhưng mười hai cuộc gọi, một số lần còn dài tận năm, bảy phút? Không tốt chút nào.
Và rồi bản sao của các thư điện tử tới. “Từ bây giờ”, Camilletti viết, “chỉ gọi tôi bằng số ở nhà. ĐỪNG gọi tôi ở Trion nữa. Thư chỉ nên gửi tới địa chỉ Hotmail này”.
Lấp liếm chuyện đó đi, cắt cổ ơi.
Trời, tôi thật nóng lòng được cho Goddard thấy hồ sơ nho nhỏ của mình, nhưng ông ta hết họp lại họp từ giữa buổi sáng tới tận chiều muộn - những buổi họp, như tôi nhận thấy, ông ta không bảo tôi tới.
Chỉ tới khi thấy Camilletti rời khỏi văn phòng Goddard, tôi mới có cơ hội.

59

Camilletti thấy tôi khi đi ra, nhưng không để ý; tôi hẳn chẳng khác gì một đồ đạc trong văn phòng. Goddard bắt gặp mắt tôi và ông ta nhướn mày lên dò hỏi. Flo bắt đầu nói với ông, và tôi làm dấu giơ-ngón-trỏ-lên mà Goddard thường làm, muốn nói tôi chỉ cần một phút thời gian của ông. Ông ra hiệu nhanh cho Flo, rồi vẫy tay bảo tôi vào.
- Tôi làm như thế nào? - ông hỏi.
- Xin lỗi?
- Bài nói chuyện nhỏ của tôi với công ty ấy.
Ông ta thực sự quan tâm tôi nghĩ gì sao?
- Ông nói rất hay, - tôi bảo.
Ông cười, trông nhẹ người.
- Tôi luôn phải cảm ơn ông thầy dạy kịch già ở trường đại học. Giúp tôi rất nhiều trong sự nghiệp, phỏng vấn, nói chuyện trước công chúng, tất cả những việc như thế. Anh đã bao giờ diễn xuất chưa, Adam?
Mặt tôi đỏ bừng. Rồi, hầu như ngày nào cũng diễn. Trời ạ, ông ta đang ám chỉ điều gì?
- Không, thật vậy.
- Thực sự khiến anh thoải mái. Ôi trời, đâu phải tôi là Cicero gì đó, nhưng... vậy anh có chuyện gì không?
- Là về bài viết trên tờ Nhật báo Phố Wall”, tôi nói.
- Sao vậy...? - ông băn khoăn hỏi.
- Tôi đã tìm ra người để lộ thông tin là ai.
Ông ta nhìn tôi như thể không hiểu, vì vậy tôi tiếp tục:
- Còn nhớ chúng ta nghĩ hẳn phải có ai đó trong công ty tiết lộ thông tin cho bài của tờ Nhật báo...
- Phải, phải, - ông nói vẻ kiên nhẫn.
- Đó là - vâng, đó là Paul. Camilletti.
- Anh đang nói gì vậy?
- Tôi biết thật khó tin. Nhưng tất cả đều ở đây, và khá rõ ràng. - Tôi đẩy các tờ in qua bàn ông. - Kiểm tra bức thư trên đầu xem.
Ông cầm kính đọc trên sợi dây quanh cổ và đeo lên. Cau mày, ông xem kỹ những tờ giấy. Khi ngước lên, mặt ông tối sầm.
- Chúng ở đâu ra vậy.
Tôi cười.
- IT. - Tôi né đi một ít và bảo, - Tôi yêu cầu IT bản ghi cuộc gọi của tất cả mọi người ở Trion tới tờ Nhật báo Phố Wall. Rồi khi tôi thấy tất cả các cuộc gọi đó từ máy của Paul, tôi nghĩ có thể là nhân viên hành chính gì đó, vì vậy tôi yêu cầu bản sao thư của anh ấy.
Goddard trông hoàn toàn không vui vẻ, cũng hiểu được. Thật ra, ông nhìn khá xuống tinh thần, vì vậy tôi bổ sung:
- Tôi rất tiếc. Tôi biết chuyện này hẳn phải rất sốc. - Những lời sáo rỗng cứ thế đổ tuột ra khỏi miệng tôi. - Chính tôi cũng không thực sự hiểu được.
- Tôi hy vọng anh tự thấy hài lòng với mình, - Goddard nói.
Tôi lắc đầu.
- Hài lòng? Không, tôi chỉ muốn đi tới tận cùng việc...
- Bởi vì tôi thấy ghê tởm, - ông nói. Giọng ông run lên. - Anh nghĩ mình đang làm cái quái quỷ gì vậy? Anh nghĩ nơi này là gì, Nhà Trắng của Nixon chắc? - Giờ ông gần như hét lên, nước bọt bắn ra khỏi miệng.
Căn phòng đổ sập quanh tôi: chỉ có tôi và ông ta, cách nhau hơn một mét mặt bàn. Máu như tràn lên tai. Tôi quá sửng sốt để cất được lên lời.
- Xâm phạm sự riêng tư của người khác, bới lông tìm vết, tìm những bản ghi điện thoại riêng, thư từ riêng và với tất cả những gì tôi thấy, anh mở trộm thư của người ta! Tôi thấy sự nham hiểm đó đáng bị chỉ trích, và tôi không muốn anh lặp lại nó một lần nào nữa. Giờ biến ra khỏi đây đi.
Tôi lảo đảo đứng dậy, đầu trống rỗng, bị sốc. Đến cửa tôi dừng bước quay lại.
- Tôi muốn xin lỗi, - tôi khàn khàn nói. - Tôi tưởng mình làm việc có ích. Tôi sẽ - tôi sẽ dọn đồ ra khỏi văn phòng.
- Ôi, vì Chúa, ngồi lại xuống đi. - Cơn bão dường như đã trôi qua. - Anh không có thời gian để dọn đồ ra khỏi văn phòng đâu. Tôi có quá nhiều việc cần anh làm. - Giọng ông dịu đi. - Tôi biết anh chỉ cố bảo vệ tôi. Tôi hiểu, Adam, và tôi đánh giá cao điều đó. Và tôi không phủ nhận mình kinh ngạc về Paul. Nhưng để làm mọi chuyện có đường đúng và sai, và tôi ưa đi đường đúng hơn. Anh bắt đầu kiểm soát thư từ và bản ghi điện thoại, rồi anh sẽ nghe lén, và điều tiếp theo anh biết là mình sẽ có một sở cảnh sát chứ không phải một tập đoàn. Và một công ty không thể hoạt động như thế được. Tôi không biết ở Wyatt người ta làm thế nào, nhưng ở đây chúng tôi không làm như thế.
Tôi gật đầu.
- Tôi hiểu. Xin lỗi.
Ông giơ hai lòng bàn tay lên.
- Chuyện chưa bao giờ xảy ra. Quên nó đi. Và tôi sẽ cho anh biết một điều khác - suy cho cùng thì không có công ty nào từng thất bại bởi một trong những quản trị viên của nó lắm mồm với báo chí. Dù vì lý do không hiểu nổi nào đi nữa. Giờ tôi sẽ tìm cách để xử lý việc này. Theo cách của tôi.
Ông siết hai bàn tay vào nhau như thể muốn bảo cuộc nói chuyện đã kết thúc.
- Tôi không cần điều khó chịu nào lúc này. Chúng ta đang có những chuyện quan trọng hơn nhiều. Giờ tôi sẽ cần ý kiến của anh về một vấn đề tối mật.
Ông ngồi ngay ngắn lại sau bàn, đeo kính đọc lên và lấy ra cuốn sổ địa chỉ nhỏ bìa da đen cũ mòn. Ông nghiêm nghị nhìn tôi qua gọng kính đọc.
- Đừng bao giờ nói với ai là nhà sáng lập và Tổng Giám đốc Điều hành của Hệ Thống Trion không nhớ nổi các mật khẩu máy tính của chính mình. Và nhất định đừng nói với ai về thiết bị cầm tay loại đặc biệt mà tôi dùng để lưu trữ chúng. - Nhìn kỹ vào cuốn sổ nhỏ màu đen, ông gõ bàn phím.
Trong một phút, máy in o o bật lên và nhả ra vài tờ giấy. Ông với đến nó, lấy những tờ giấy ra rồi trao cho tôi.
- Chúng ta đang ở giai đoạn cuối của một vụ mua lại lớn, rất lớn, - ông nói. - Có lẽ là vụ mua lại giá trị lớn nhất trong lịch sử Trion. Nhưng có lẽ nó cũng sẽ là vụ đầu tư tốt nhất chúng ta từng có. Tôi chưa thể cho anh biết chi tiết ngay, nhưng nếu các thương thảo của Paul tiếp tục thành công, chúng ta sẽ có một thỏa thuận sẵn sàng thông báo vào cuối tuần tới.
Tôi gật đầu.
- Tôi muốn mọi thứ diễn ra trôi chảy hoàn hảo. Đây là những thông tin cơ bản về công ty mới - số nhân sự, yêu cầu không gian, vân vân. Nó sẽ lập tức được sáp nhập vào Trion, và đặt ngay ở trong tòa nhà này. Dĩ nhiên điều đó có nghĩa là một phòng ban hiện tại nào đó phải chuyển ra khỏi trụ sở và tới khu sở Yarborough hoặc Tam giác Nghiên cứu của chúng ta. Tôi cần anh xét xem phòng ban nào, hay những phòng ban nào có thể chuyển đi mà ít xáo trộn nhất, để có chỗ cho... cho vụ mua lại mới này. Được chứ? Xem kỹ những trang giấy đó, và khi anh xong, hãy xé vụn nó. Và cho tôi biết suy nghĩ của anh sớm nhất có thể.
- Được rồi.
- Adam, tôi biết tôi đổ lên đầu anh rất nhiều, nhưng không thể tránh được. Tôi cần anh nói đúng như anh thấy. Tôi trông chờ vào hiểu biết chiến lược của anh. - Ông với qua và siết lên vai tôi để làm vững dạ. - Và sự trung thực nữa.

60

Jocelyn, nhờ trời, có vẻ càng lúc càng có nhiều phút nghỉ giữa giờ uống-cà-phê và sang-phòng-con-gái hơn làm việc cho tôi. Tới lần tiếp khi chị ta rời bàn, tôi lấy những tờ về Delphos mà Goddard đưa cho - tôi biết nó hẳn phải về Delphos, thậm chí dù tên công ty không có trên các trang - và nhanh chóng sao ra ở máy đằng sau bàn chị. Rồi tôi cho những bản sao vào một phong bì bìa cứng.
Tôi gửi một bức thư tới “Arthur”, bảo hắn bằng ngôn ngữ mã hóa rằng tôi có đồ mới cần gửi - và tôi muốn “trả lại” “quần áo” tôi đã mua trên mạng.
Tôi biết gửi thư từ nơi làm là mạo hiểm. Thậm chí dù sử dụng hòm thư Hushmail khiến thư được mã hóa. Nhưng tôi thiếu thời gian. Tôi không muốn phải đợi tới khi về nhà, rồi có thể lại phải ra ngoài...
Meacham phản hồi gần như ngay lập tức. Hắn muốn tôi không gửi đồ tới hòm thư ở bưu điện mà tới địa chỉ ở phố. Dịch ra là: Hắn không muốn tôi quét văn bản và gửi bằng thư điện tử, hắn muốn thấy bản cứng thật sự, dù hắn không nói tại sao. Có phải hắn muốn chắc chắn đó là bản gốc? Có phải điều đó nghĩa là chúng không tin tôi?
Hắn cũng muốn chúng ngay lập tức, và vì lý do nào đó hắn không muốn gặp mặt đối mặt. Tại sao? tôi tự hỏi. Hắn lo sợ tôi bị theo đuôi ư? Dù lô gic của hắn là gì, hắn cũng muốn tôi để lại văn bản cho hắn ở một trong những hộp chết chúng tôi đã luyện tập hàng tuần trước đó.

Sau sáu giờ một chút, tôi rời công sở, lái tới một tiệm McDonald’s cách trụ sở Trion khoảng hai dặm. Phòng vệ sinh nam nhỏ, từng-người-vào-một, và bạn có thể khóa cửa. Tôi khóa lại, tìm và mở hộp đựng giấy vệ sinh ra, đặt phong bì bìa cứng cuộn lại vào trong và đóng hộp đựng lại. Cho tới khi cần thay cuộn giấy vệ sinh, sẽ không ai nhìn vào trong - trừ Meacham.
Trên đường ra, tôi mua một bánh kẹp Quarter Pounder - không phải tôi muốn ăn, mà để làm vỏ bọc, như tôi đã được dạy. Xuôi xuống khoảng một dặm là một cửa hàng 7-Eleven với tường bê tông thấp xung quanh khu đỗ xe phía trước. Tôi đỗ xe, đi vào và mua một lon Diet Pepsi, và uống nhiều nhất có thể. Phần còn lại tôi đổ xuống cống trong khu đỗ xe. Tôi đặt một chì câu lấy từ hộp đựng găng tay vào lon, để lon rỗng trên bờ tường bê tông.
Lon Pepsi là dấu hiệu cho Meacham, hắn thường đều đặn lái xe qua cửa hàng 7-Seven này, rằng tôi đã để đồ tại hộp chết số ba, nhà hàng McDonald’s. Ngón nghề tình báo đơn giản này sẽ cho phép Meacham lấy những văn bản mà không bị thấy ở cùng tôi.
Vụ chuyển đồ diễn ra trôi chảy, như tôi xác định. Tôi không có lý do để phải nghĩ khác đi.
Được rồi, việc tôi làm khiến tôi thấy mình bẩn thỉu thật. Nhưng đồng thời, tôi không thể không cảm thấy hơi tự hào: Tôi đang giỏi lên hẳn về chuyện gián điệp này.

61

Đến lúc tôi về nhà, có một bức thư điện tử trong tài khoản Hushmail gửi từ “Arthur”. Meacham muốn tôi lái xe tới một nhà hàng ở nơi khỉ ho cò gáy nào đó, cách hơn nửa giờ đồng hồ, ngay lập tức. Rõ ràng chúng cho việc này là khẩn cấp.
Nơi đó hóa ra là một nhà hàng-spa sang trọng, thánh địa của những kẻ sành ăn với tên Auberge. Tường tiền sảnh được trang trí những bài báo về nơi này đăng trên tờ Ẩm thực và các tạp chí tương tự.
Tôi hiểu tại sao Wyatt muốn gặp tôi ở đó, và không phải chỉ vì đồ ăn. Nhà hàng được bài trí để đáp ứng sự thận trọng tối đa - cho các cuộc gặp riêng tư, các vụ ngoại tình gì đó. Ngoài phòng ăn chính, có các phòng hốc nhỏ, tách rời để ăn riêng, bạn có thể ra vào trực tiếp từ khu đỗ xe thay vì phải đi qua phần chính của nhà hàng. Nó khiến tôi nhớ tới một khách sạn cao cấp.
Wyatt đang ngồi bên bàn ăn trong một phòng hốc với Judith Bolton. Judith tỏ ra thân mật, và thậm chí ngay cả Wyatt dường như cũng ít hằn học hơn mọi khi. Có lẽ bởi vì tôi đã rất thành công lấy cho lão những gì lão muốn. Có lẽ lão đang uống tới ly rượu thứ hai, hay có lẽ chính là Judith, người có ảnh hưởng bí ẩn tới lão. Tôi khá chắc chắn rằng giữa Judith và Wyatt không có chuyện gì, ít nhất là dựa vào ngôn ngữ cơ thể của họ. Nhưng rõ ràng họ thân nhau, và lão chiều ả theo cách mà lão không hề đối xử với bất cứ ai.
Người bồi bàn mang cho tôi một ly rượu Sauvignon Blanc. Wyatt bảo anh ta đi, quay lại sau mười lăm phút, lúc ấy lão mới gọi món. Giờ ở trong này chỉ có mình chúng tôi: tôi, Wyatt và Judith Bolton.

- Adam, - Wyatt vừa nói vừa gặm một miếng bánh mì cỏ thơm của Ý, - những hồ sơ mày lấy được từ văn phòng của Giám đốc Tài chính - chúng rất hữu ích.
- Tốt, - tôi nói. Giờ tôi là Adam rồi à? Và đó thực sự là lời khen? Nó khiến tôi rùng cả mình.
- Đặc biệt tờ điều khoản về cái công ty Delphos này, - lão tiếp tục. - Rõ ràng đó là một vụ mua lại chủ chốt, mang tính quyết định đối với Trion. Không ngạc nhiên gì khi chúng sẵn sàng trả năm trăm triệu đô bằng chứng khoán cho nó. Dù sao, nó cuối cùng cũng giải được bí ẩn. Nó đặt mảnh cuối cùng trong trò xếp hình vào đúng chỗ. Chúng ta đã đoán ra AURORA là gì.
Tôi nhìn lão ngây dại, cứ như thể tôi quan tâm ấy, và gật đầu.
- Phi vụ này đáng lắm, đáng giá từng đồng một, - lão nói. - Những phiền phức khổng lồ bọn tao phải trải qua để đưa mày vào Trion, cuộc đào tạo, các biện pháp bảo đảm. Chi phí bỏ ra, rủi ro khổng lồ - tất cả đều đáng giá. - Hắn nghiêng cốc về phía Judith, ả cười tự hào. - Lần này anh nợ em nhiều đó, - lão nói với ả.
Tôi nghĩ: Thế còn tao là gì chứ, món gan nghiền nhỏ mọn à?
- Giờ, tao muốn mày nghe cho kỹ đây, - Wyatt nói. - Vì phần đặt cược rất lớn, và tao muốn mày hiểu được tính cấp bách. Hệ thống Trion có vẻ đã phát triển được bước đột phá công nghệ quan trọng nhất kể từ sau mạch tích hợp. Chúng đã giải quyết một vấn đề mà tất cả chúng ta nhọc công trong hàng thập kỷ. Chúng vừa thay đổi lịch sử.
- Sếp chắc mình muốn cho tôi biết điều này không?
- Ồ, tao muốn mày ghi nhớ. Mày là thằng nhóc khôn khéo. Hãy chú ý cho kỹ đây. Thời đại của vi mạch Silicon đã qua rồi. Trion không biết làm sao đã xoay xở phát triển được vi mạch quang học.
- Vậy thì sao?
Lão nhìn tôi với sự khinh miệt vô bờ. Judith sốt sắng lên tiếng, vội vã, như thể để che đậy cho câu nói hớ của tôi.
- Intel đã bỏ ra hàng tỷ đô tìm cách giải quyết điều này mà không thành công. Lầu Năm Góc đã miệt mài với nó hơn một thập kỷ. Họ biết nó sẽ cách mạng hóa các hệ thống điều khiển máy bay và tên lửa của mình, vì vậy họ trả gần như mọi thứ để đặt tay lên được một vi mạch quang học hoạt động được.
- Vi mạch quang học, - Wyatt nói, - xử lý các tín hiệu quang - ánh sáng - thay vì tín hiệu điện tử, sử dụng một chất gọi là inđi phốt phua.
Tôi nhớ đã đọc được điều gì đó về inđi phốt phua trong các hồ sơ của Camilletti.
- Đó là thứ dùng để làm ra laser.
- Trion thao túng thị trường đó. Đấy là dấu hiệu. Họ cần inđi phốt phua cho chất bán dẫn trong vi mạch - nó có thể xử lý tốc độ truyền tải dữ liệu cao hơn acxênit gali.
- Tôi chào thua rồi, - tôi nói. - Nó có gì đặc biệt đến thế?
- Vi mạch quang học có một bộ điều biến có thể chuyển đổi tín hiệu với tốc độ một trăm gigabyte một giây.
Tôi chớp mắt. Chuyện này với tôi cứ như nói bằng tiếng Urdu. Judith chăm chú nhìn lão. Tôi tự hỏi liệu ả có hiểu điều gì hay không.
- Đó chính là Chén Thánh. Tao sẽ nói với mày theo khái niệm đơn giản hơn. Một mảnh vi mạch quang học nhỏ duy nhất với đường kính chỉ gấp trăm lần sợi tóc giờ sẽ có thể xử lý đồng thời tất cả các cuộc điện thoại của một tập đoàn, máy tính, vệ tinh và lưu lượng truyền hình. Hay có lẽ mày sẽ có thể nhồi sọ điều này, thằng nhóc: với vi mạch quang học, mày có thể tải về một bộ phim hai giờ ở dạng số trong một phần hai mươi giây, mày hiểu chứ? Đây là một bước nhảy lượng tử trong ngành, trong máy tính, điện thoại di động, vệ tinh và truyền hình cáp, kể hoài không hết được. Vi mạch quang hợp sẽ cho phép những thứ như thế này. - hắn giơ điện thoại Wyatt Lucid lên. - nhận được hình ảnh truyền hình không bị giật. Nó cực kỳ ưu việt, hơn bất cứ công nghệ nào đang tồn tại - nó đảm bảo được tốc độ nhanh hơn, cần ít điện áp hơn nhiều, ít mất tín hiệu hơn, ít tỏa nhiệt hơn... Nó thật đáng kinh ngạc. Đúng là thứ thiệt đó.
- Tuyệt vời, - tôi khẽ khàng nói. Tầm quan trọng của điều tôi vừa làm bắt đầu thấm, và giờ tôi cảm thấy mình như một thằng phản bội đáng nguyền rủa đối với Trion - tướng Benedict Arnold* của chính Goddard. Tôi vừa đưa cho lão Nick Wyatt ghê tởm thứ công nghệ chuyển-đổi-hệ-thuyết có giá trị nhất kể từ ti vi màu gì đó.

*[Benedict Arnold V là một vị tướng trong cuộc Cách mạng Mỹ, ban đầu là tướng lĩnh bên Quân đội Lục địa. Sau đó, ông lại đầu quân cho Quân đội Anh. Tên ông trở thành một từ hay được dùng ở Hoa Kỳ để chỉ sự tráo trở, phản bội]

- Mừng vì giúp được sếp.
- Tao muốn từng đặc tả đến tận cái cuối cùng, - Wyatt nói. - Tao muốn mẫu thử nghiệm của chúng. Tao muốn các ứng dụng có bằng sáng chế, ghi chép trong phòng thí nghiệm, mọi thứ chúng có.
- Tôi không biết mình còn có thể lấy được bao nhiêu nữa, - tôi nói. - Ý tôi là chỉ còn thiếu nước đột nhập tầng năm nữa thôi...
- Ồ, cả điều đó nữa, nhóc, cả điều đó nữa. Tao đã đặt mày vào vị trí mỡ đến miệng mèo rồi còn gì. Mày làm việc trực tiếp cho Goddard, mày là một lính thân cận của hắn, mày có thể tiếp cận với hầu như mọi thứ mày muốn.
- Không đơn giản như thế. Sếp biết vậy mà.
- Mức tin cậy anh có được là độc nhất vô nhị, Adam, - Judith xen vào. - Anh có thể tiếp cận được với đủ loại dự án.
Wyatt cắt ngang:
- Tao không muốn mày giữ bí mật một điều chết tiệt nào.
- Tôi không giữ bí mật...
- Vụ cắt giảm nhân sự khiến mày ngạc nhiên lắm, thế chứ gì?
- Tôi đã nói với ông rằng sắp có thông báo quan trọng nào đó. Lúc đó tôi thực sự không biết gì hơn.
- “Lúc đó”, - lão cáu kỉnh lặp lại. - Mày biết về đợt cắt giảm đó trước khi CNN biết, thằng khốn. Tin tức tình báo đó ở đâu? Tao lại còn phải xem CNBC để biết về đợt cắt giảm ở Trion khi mà tao có gián điệp trong cái văn phòng chết giẫm của Tổng Giám đốc Điều hành chắc?
- Tôi không...
- Mày đặt bọ trong văn phòng của Giám đốc Tài chính. Nó thế nào rồi?
Bộ mặt rám nắng quá mức của lão tối sầm hơn mọi khi, mắt lão đỏ ngầu. Tôi cảm thấy nước bọt lão bắn tóe ra.
- Tôi phải nhổ nó.
- Nhổ nó? - lão nói không tin nổi. - Tại sao?
- Bộ phận An ninh của tập đoàn tìm thấy con bọ tôi đặt lại phòng Nhân sự, và họ bắt đầu rà soát mọi nơi, vì vậy tôi phải cẩn thận. Không thể liều mọi thứ được.
- Con bọ nằm trong văn phòng Giám đốc Tài chính được bao lâu trước khi mày nhổ đi? - lão bật lại.
- Không quá một ngày.
- Một ngày sẽ cho mày cả đống thông tin.
- Không, nó - chậc, thứ đó hẳn bị trục trặc, - tôi nói dối. - Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra.
Thẳng thắn mà nói, tôi cũng không chắc tại sao mình lại giữ bí mật. Tôi đoán là vì con bọ tiết lộ rằng Camilletti là người đã làm rò rỉ thông tin cho tờ Nhật báo Phố Wall, và tôi không muốn Wyatt biết tất cả những công chuyện cá nhân của Goddard. Tôi thực sự không nghĩ thông suốt lắm.
- Trục trặc? Sao tao thấy đáng ngờ quá. Tao muốn con bọ đó về tay Arnie Meacham cuối ngày mai để nhân viên kỹ thuật kiểm tra. Và tin đi, bọn chúng nói được ngay lập tức liệu mày có mó máy vào nó hay không. Hay nếu mày chưa từng đặt nó vào trong văn phòng của Giám đốc Tài chính. Và nếu mày nói dối tao, mẹ mày, mày tiêu rồi.
- Adam, - Judith nói. - Điều cốt yếu là chúng ta hoàn toàn cởi mở và trung thực với nhau. Đừng giữ lại điều gì. Quá nhiều thứ có thể đi đến sai lầm. Anh không nhìn thấy được bức tranh tổng thể.
Tôi lắc đầu.
- Tôi không có nó. Tôi phải vứt nó đi.
- Vứt đi? - Wyatt hỏi.
- Tôi... tôi rơi vào thế kẹt, bọn an ninh đang rà soát các văn phòng, nên tôi nghĩ tốt nhất là lấy nó ra vứt vào thùng rác xa chỗ đó vài khu. Tôi không muốn phá hỏng cả phi vụ vì một con bọ trục trặc duy nhất.
Lão trừng mắt nhìn tôi vài giây.
- Đừng bao giờ giữ bí mật cái gì với bọn tao, mày hiểu chứ? Đừng bao giờ. Giờ nghe đây. Bọn tao có nguồn tin tuyệt vời cho biết người của Goddard đang sắp đặt một cuộc họp báo lớn tại trụ sở Trion trong hai tuần tới. Một cuộc họp báo lớn, một tin quan trọng nào đó. Lưu lượng thư điện tử mày đưa tao cho thấy chúng đang trên ngưỡng công bố ra công chúng vi mạch quang học này.
- Họ sẽ không thông báo nếu như họ chưa nắm được hết các bằng sáng chế, đúng không? - tôi nói. Đêm qua tôi đã tìm hiểu chút ít trên mạng tới khuya. - Tôi chắc sếp đã cho đàn em kiểm tra tất cả các hồ sơ Trion nộp cho Văn phòng Bằng sáng chế Mỹ.
- Đi học trường luật lúc rảnh rỗi à? - Wyatt cười nhạt. - Mày nộp hồ sơ cho Văn phòng Bằng sáng chế Mỹ vào giây phút cuối, muộn nhất có thể, thằng khốn ạ, để tránh bị lộ sớm hay bị vi phạm. Chúng sẽ không nộp hồ sơ cho tới ngay trước thông báo. Cho tới lúc đó, quyền sở hữu trí tuệ được giữ như một bí mật thương mại. Cũng có nghĩa là, cho tới khi chúng nộp hồ sơ - có thể vào bất cứ lúc nào trong hai tuần tới - đây sẽ là mùa chúng ta đi săn đặc tả thiết kế. Đồng hồ đang tích tắc. Mẹ kiếp, tao không muốn mày ngủ hay nghỉ ngơi dù chỉ một phút chừng nào mày chưa lấy được đến chi tiết cuối cùng về vi mạch quang học, hiểu rõ rồi chứ?
Tôi mệt mỏi gật đầu.
- Giờ thì xin thứ lỗi, bọn tao muốn gọi đồ ăn.
Tôi đứng dậy khỏi bàn và đi ra toa lét nam trước khi lái xe đi. Khi tôi rời khỏi phòng ăn riêng, một người đưa mắt nhìn tôi.
Tôi hoảng hồn.
Tôi quay ngoắt lại và đi qua phòng ăn riêng để tới bãi đỗ xe.
Lúc đó tôi không chắc trăm phần trăm lắm, nhưng người trong hành lang trông rất giống Paul Camilletti.

62

Có người trong văn phòng tôi.
Khi tới làm vào sáng hôm sau, tôi thấy họ từ đằng xa - hai người đàn ông, một trẻ, một già hơn - và tôi sững người. Đã bảy giờ ba mươi sáng, và không hiểu tại sao Jocelyn không ở bàn mình. Trong khoảnh khắc, đủ loại khả năng lướt qua đầu tôi, càng về sau càng tệ: Nhân viên an ninh không biết làm sao đã tìm thấy thứ gì đó trong văn phòng tôi. Hay tôi đã bị đuổi việc và họ đang dọn đồ khỏi bàn. Hay tôi bị bắt.
Tiến về phía văn phòng, tôi cố giấu sự căng thẳng. Tôi vui vẻ lên tiếng, như thể họ là bạn thân ghé qua chơi:
- Chuyện gì vậy?
Người nhiều tuổi hơn đang ghi chép lên một kẹp hồ sơ, người trẻ hơn giờ đang cúi người qua máy tính của tôi. Người nhiều tuổi hơn, tóc bạc và ria quặp, kính không vành, nói:
- Nhân viên an ninh. Thư ký của anh, cô Chang, cho chúng tôi vào.
- Có chuyện gì vậy?
- Chúng tôi đang rà soát tất cả các văn phòng trên tầng bảy. Không biết liệu anh đã nhận được thông báo về vụ vi phạm an ninh ở bộ phận Nhân sự chưa.
Tất cả chuyện là như thế sao? Tôi nhẹ người. Nhưng chỉ trong một vài giây. Nếu như họ tìm thấy thứ gì trong bàn tôi thì sao? Liệu tôi có để món đồ nghề gián điệp nào rồi khóa lại trong ngăn bàn hay ngăn tủ hồ sơ không? Tôi đã tạo thành thói quen không bao giờ để gì trong đó. Nhưng nếu tôi sơ suất? Tôi căng ra như dây đàn đến mức có thể dễ dàng lầm lỡ để lại đồ ở đó.
- Hay quá, - tôi nói. - Thật mừng có các anh ở đây. Các anh chưa tìm thấy thứ gì chứ, phải không?
Một thoáng im lặng trôi qua. Người trẻ hơn nhìn lên từ máy tính của tôi và không trả lời.
Người lớn tuổi hơn bảo:
- Vẫn chưa, chưa đâu.
- Tôi không nghĩ mình là mục tiêu, chắc chắn rồi, - tôi bổ sung. - Trời ạ, tôi không quan trọng đến thế. Ý tôi là ở trên tầng này, trong văn phòng của các sếp ấy.
- Chúng tôi không được phép trao đổi về vấn đề đó, nhưng chưa, chúng tôi chưa tìm thấy gì cả. Tuy nhiên, cũng không có nghĩa là chúng tôi sẽ không tìm thấy.
- Máy tính của tôi ổn chứ? - tôi nói với người thanh niên.
- Cho đến giờ không phát hiện ra thiết bị hay thứ gì như thế. - Anh ta trả lời. - Nhưng chúng tôi sẽ phải chạy một vài chẩn đoán. Anh đăng nhập vào cho chúng tôi được không?
- Chắc chắn rồi.
Tôi không gửi thư nào có thể buộc tội mình từ máy tính này, phải không nhỉ?
Chà, có, tôi đã gửi. Tôi gửi thư cho Meacham từ tài khoản Hushmail. Nhưng thậm chí dù tin nhắn đó không được mã hóa, nó cũng sẽ không nói cho họ biết điều gì. Tôi chắc chắn tôi không lưu tệp tin nào mà mình không nên có vào máy tính. Điều đó thì chắc chắn. Tôi bước ra đằng sau bàn và gõ mật khẩu. Cả hai nhân viên an ninh đều biết ý nhìn ra chỗ khác cho tới khi tôi đã đăng nhập xong.
- Ai được vào văn phòng của anh? - người lớn tuổi hơn hỏi.
- Chỉ có tôi. Và Jocelyn.
- Và đội lao công nữa, - anh ta tiếp tục.
- Tôi đoán thế, nhưng tôi chưa bao giờ thấy họ.
- Anh chưa bao giờ thấy họ? - Anh ta lặp lại ngờ vực. - Nhưng anh làm tới tối muộn, đúng không?
- Họ còn làm muộn hơn.
- Còn về thư từ nội bộ thì sao? Anh có biết có người chuyển thư nào tới đây khi anh ra ngoài không?
Tôi lắc đầu.
- Mọi thứ đều tới bàn của Jocelyn. Người ta không bao giờ chuyển thẳng tới bàn tôi.
- Có ai ở phòng công nghệ thông tin từng xử lý máy tính hay điện thoại của anh không?
- Như tôi biết thì không.
Người trẻ hơn bảo:
- Anh nhận được thư nào lạ lùng không?
- Lạ lùng...?
- Từ những người anh không biết, với tệp tin đính kèm gì đó.
- Như tôi nhớ thì không.
- Nhưng anh có sử dụng các dịch vụ thư điện tử khác phải không? Ý tôi là ngoài Trion?
- Chắc chắn rồi.
- Đã bao giờ anh truy cập vào chúng từ máy tính này chưa?
- Rồi, tôi chắc là rồi.
- Và ở những hòm thư đó anh có bao giờ nhận được thư nào trông buồn cười không?
- Chậc, lúc nào tôi cũng nhận được thư rác, như tất cả mọi người thôi. Anh biết đấy, Viagra hay “Dài thêm bảy centimet” hay thư về gái trang trại. - Dường như không ai trong hai người bọn họ có tính hài hước. - Nhưng tôi chỉ xóa hết đi.
- Sẽ chỉ mất năm mười phút, - người trẻ hơn nói, đẩy một cái đĩa vào ổ CD-ROM. - Có lẽ anh có thể làm một tách cà phê gì đó.

Thực ra tôi phải họp, vì vậy tôi bỏ mấy tay an ninh lại văn phòng, dù cảm thấy không yên tâm lắm, rồi tới Plymouth, một trong các phòng họp nhỏ.
Tôi không thích họ lại hỏi về các hòm thư ngoài. Như thế tồi tệ lắm. Đúng hơn, nó dọa tôi sợ chết khiếp. Nếu như họ quyết định lục lọi tất cả thư từ của tôi thì sao? Tôi đã được thấy điều đó dễ thực hiện như thế nào. Nếu họ phát hiện ra tôi đã yêu cầu bản sao lưu lượng thư của Camilletti? Điều đó có khiến tôi thành kẻ bị nghi ngờ không?
Khi đi ngang qua văn phòng của Goddard, tôi thấy cả ông và Flo đều không có mặt - Jock tới cuộc họp, tôi biết. Rồi tôi đi qua Jocelyn, chị mang theo một ca cà phê. Trên đó có in dòng chữ LÝ TRÍ ĐI VẮNG - QUAY LẠI SAU NĂM PHÚT.
- Bọn an ninh ngu ngốc đó còn ở bàn tôi không? - chị hỏi.
- Giờ họ ở trong văn phòng tôi rồi, - tôi nói và tiếp tục đi.
Chị hơi vẫy tay chào.

63

Goddard và Camilletti ngồi quanh một cái bàn tròn nhỏ cùng Giám đốc Điều hành Jim Colvin, còn một Jim nữa, Giám đốc Nhân sự Jim Sperling, và vài phụ nữ tôi không nhận ra. Sperling, một người da đen với râu cạo sát và kính gọng dây quá cỡ, đang nói về “đối tượng cơ hội”, tôi đoán ông ta muốn nói các nhân viên họ có thể cắt bỏ. Jim Sperling không mặc áo cổ lọ như Jock Goddard, nhưng cũng gần như thế - áo-khoác-thể-thao-và-áo-phông-cổ-bẻ-sẫm-màu. Chỉ có Jim Colvin mặc com lê cà vạt công sở truyền thống.
Cậu trợ lý tóc vàng trẻ tuổi của Sperling dúi cho tôi vài tờ giấy liệt kê các phòng ban và những cá nhân khờ khạo tội nghiệp sẽ là ứng cử viên cho chiếc rìu. Tôi đọc lướt nhanh qua và thấy đội Maestro không ở trên đó. Rốt cuộc vẫn là tôi cứu được công việc cho họ.
Rồi tôi để ý danh sách tên của bộ phận Tiếp thị Sản phẩm mới, trong đó có Phil Bohjalian. Nhân viên có thâm niên này sẽ bị cắt giảm, cả Chad và Nora đều không ở trong danh sách, nhưng Phil đã bị nhắm vào. Vì Nora, hẳn là vậy. Mỗi giám đốc và phó giám đốc đã được yêu cầu xếp hạng cấp dưới của mình và cắt bỏ ít nhất một phần mười. Nora rõ ràng đã chọn xử tử Phil.
Buổi họp gần gần giống một phiên đóng dấu. Sperling lên danh sách, làm “tình huống kinh doanh” cho những “vị trí” ông ta muốn loại bỏ, và ít có thảo luận. Goddard trông ủ rũ; Camilletti trông hăng hái, thậm chí hơi sôi nổi.
Khi Sperling nhắc tới bộ phận Tiếp thị Sản phẩm mới, Goddard quay sang tôi, im lặng chờ ý kiến của tôi.
- Tôi có thể nói một chút được không? - tôi chen vào.
- Ừm, dĩ nhiên, - Sperling nói.
- Ở đây có một cái tên, Phil Bohjalian. Ông ta đã đi cùng công ty phải hai mươi, hai mươi mốt năm rồi.
- Ông ta cũng xếp hạng thấp nhất, - Camilletti nói. Tôi tự hỏi liệu Goddard đã nói gì với hắn về vụ rò rỉ tin cho tờ Nhật báo Phố Wall chưa. Tôi không thể đoán được từ thái độ của Camilletti, vì hắn xử sự với tôi cũng chẳng khó chịu nhiều hơn hay ít đi so với thường lệ. - Hơn nữa với thâm niên của ông ta ở công ty, phúc lợi cho ông ta tốn của chúng ta rất nhiều tiền.
- Chậc, tôi muốn hỏi về xếp hạng của ông ấy, - tôi nói. - Tôi biết cách làm việc của ông ấy, và tôi nghĩ điểm của ông ấy có lẽ nghiêng về lề lối quan hệ cá nhân hơn.
- Lề lối, - Camilletti nói.
- Nora Sommers không thích tính cách của ông ấy.
Công nhận vậy, Phil không hẳn là bạn bè thân thiết với tôi, nhưng ông ta không thể gây hại gì cho tôi, và tôi thấy tệ cho ông ấy.
- Chà, nếu đây chỉ là vấn đề xung đột về tính cách, đó là lạm dụng hệ thống xếp hạng, - Jim Sperling nói. - Anh muốn nói rằng Nora Sommers đang lạm dụng hệ thống?
Tôi thấy rõ chuyện có thể đi đến đâu. Tôi có thể giữ việc cho Phil Bohjalian, đồng thời vứt bỏ Nora. Thật cám dỗ nếu có thể cứ thế lên tiếng và cắt cổ Nora. Không ai trong phòng này đặc biệt quan tâm, dù về khía cạnh nào đi nữa. Tin sẽ xuống tới Tom Lundgren, hắn có lẽ sẽ không chống đối để giữ lại bà ta. Thực ra, nếu Goddard không dứt tôi ra khỏi nanh vuốt của Nora, chắc chắn trên danh sách sẽ là tên tôi chứ không phải Phil.
Goddard sắc sảo nhìn tôi, Sperling cũng vậy. Những người khác quanh bàn đang ghi chép.
- Không, - cuối cùng tôi nói. - Tôi không nghĩ chị ấy lạm dụng hệ thống. Đó chỉ là chuyện hợp nhau giữa hai người thôi. Tôi nghĩ cả hai đều làm được việc của mình.
- Rồi, - Sperling nói. - Chúng ta tiếp tục được chứ?
- Nghe này, - Camilletti nói: - Chúng ta đang cắt giảm bốn nghìn nhân sự. Chúng ta không thể xét kỹ từng người một được.
Tôi gật đầu.
- Dĩ nhiên.
- Adam, - Goddard nói. - Giúp tôi một chuyện. Tôi cho Flo nghỉ sáng nay - anh không phiền đi lấy cho tôi, ừm, thiết bị cầm tay trong văn phòng chứ? Tôi để quên. - Mắt ông như lấp lánh. Ông muốn nói tới cuốn sổ ghi hẹn nhỏ màu đen của mình, và tôi đoán câu đùa là dành cho tôi.
- Chắc chắn rồi, - tôi nói và nuốt mạnh. - Quay trở lại ngay.

Cửa văn phòng Goddard đóng nhưng không khóa. Cuốn sổ đen nhỏ đang nằm trên mặt bàn trống, ngăn nắp, cạnh máy tính.
Tôi ngồi xuống ghế và nhìn quanh các vật dụng, những khung ảnh Margaret vợ ông, tóc bạc, trông như bà ngoại; một bức ảnh ngôi nhà ven hồ. Tôi để ý thấy không có ảnh con trai ông, Elijah: có lẽ quá đau đớn khi gợi nhớ lại.
Tôi đang ở một mình trong văn phòng của Jock Goddard, và Flo nghỉ buổi sáng. Tôi có thể ở đây bao lâu mà không khiến Goddard nghi ngờ? Liệu có thời gian tìm cách vào máy tính của ông ta không? Nếu như Flo xuất hiện khi tôi đang làm thế thì sao...?
Không. Mạo hiểm điên rồ. Đây là văn phòng của Tổng Giám đốc Điều hành, và có lẽ lúc nào cũng có người ra người vào. Và tôi không thể liều lĩnh mất hơn hai hay ba phút cho việc vặt này: Goddard sẽ tự hỏi tôi đang ở đâu. Có lẽ tôi đi vệ sinh trước khi lấy cho ông cuốn sổ: như thế hẳn giải thích được năm phút, không hơn.
Nhưng có lẽ tôi sẽ không bao giờ có được cơ hội này nữa.
Tôi vội vã giở cuốn sổ cũ ra và thấy các số điện thoại, ghi chép nguệch ngoạc trên các ô lịch... và trên trang bên trong bìa sau là dòng chữ hoa được viết cẩn thận, “GODDARD” và bên dưới nó là “62858”.
Đó phải là mật khẩu của ông.
Bên trên năm con số đó, bị gạch đi là “THANGSAU 2858.” Tôi nhìn hai dãy số và đoán nó đều là ngày tháng, và chúng đều là cùng một ngày: Ngày 28 tháng Sáu năm 1958. Rõ ràng một ngày quan trọng với Goddard. Tôi không biết ngày gì. Có lẽ là ngày cưới. Và cả hai cách viết rõ ràng đều là mật khẩu.
Tôi vớ lấy một cái bút và một mẩu giấy chép lại mã và mật khẩu.
Nhưng tại sao không sao chép cả cuốn sổ? Rất có thể có những thông tin quan trọng khác ở đây.
Đóng cửa văn phòng Goddard lại sau lưng tôi, tôi tới máy sao chép sau bàn Flo.
- Anh đang định giành việc của tôi à, Adam? - giọng Flo cất lên.
Tôi quay lại và thấy Flo cầm một cái túi Saks Đại lộ số năm. Cô ta đang nhìn tôi dữ dằn.
- Chào buổi sáng, Flo, - tôi nói một cách tự nhiên. - Không, đừng lo. Tôi chỉ lấy đồ cho Jock thôi.
- Thế là tốt. Bởi vì tôi đã ở đây lâu hơn, và tôi sẽ ghét phải chèn ép anh đấy. - Ánh mắt cô ta dịu đi, và một nụ cười ngọt ngào nở trên khuôn mặt.

64

Khi buổi họp kết thúc, Goddard lách tới chỗ tôi và quàng tay qua vai tôi.
- Tôi thích điều anh làm trong đó, - ông nói nhỏ.
- Nghĩa là sao?
Chúng tôi bước dọc hành lang tới văn phòng của ông.
- Tôi muốn nói về sự kiềm chế của anh trong trường hợp Nora Sommers. Tôi biết anh cảm thấy thế nào về chị ta. Tôi biết chị ta thấy thế nào về anh. Với anh loại bỏ chị ta hẳn sẽ là điều dễ dàng nhất trên thế giới. Và thẳng thắn thì tôi sẽ không phản đối lắm đâu.
Tôi hơi thấy không thoải mái trước cảm tình của Goddard, nhưng tôi cười, cúi đầu.
- Đó là điều đúng đắn phải làm, - tôi nói.
- “Ai có đủ quyền hành và cái ác - Mà chẳng bắt ai đau đớn một ngày”, - Goddard nói, - “Người ấy đáng được Chúa trời ban phước”. Shakespeare. Trong tiếng Anh hiện đại: Khi anh có quyền lực để giày xéo lên người khác và anh không làm thế - chà, đó là khi anh chứng tỏ được anh thực sự là ai.
- Tôi cho là vậy.
- Và người lớn tuổi hơn mà anh muốn giúp giữ việc là ai?
- Chỉ là một nhân viên làm tiếp thị.
- Bạn bè?
- Không. Tôi cũng không nghĩ ông ấy đặc biệt quý mến gì tôi. Tôi chỉ nghĩ ông ấy là một nhân viên trung thành.
- Tốt cho anh đấy. - Goddard siết mạnh vai tôi. ông dẫn tôi vào văn phòng, dừng lại một lúc trước bàn của Flo.
- Chào cưng, - ông nói. - Tôi muốn xem váy để xác nhận cho chắc nào.
Flo tươi cười rạng rỡ, mở túi Saks, lấy ra một chiếc váy bé gái nhỏ bằng lụa trắng và tự hào giơ lên.
- Tuyệt diệu, - ông nói. - Đúng là tuyệt diệu.
Rồi chúng tôi đi vào văn phòng và ông đóng cửa lại.
- Tôi vẫn chưa nói một lời nào với Paul, - Goddard nói, ngồi xuống đằng sau bàn. - Và tôi cũng chưa quyết định liệu tôi có nói không. Anh vẫn chưa bảo ai khác, đúng không? Về chuyện tờ Nhật báo đó?
- Đúng vậy.
- Cứ để như thế đi. Nghe này, Paul và tôi có một vài quan điểm khác nhau, và có lẽ đây là cách cậu ấy đốt lửa dưới chân tôi. Có lẽ cậu ấy nghĩ mình đang giúp công ty. Tôi không biết nữa. - Một tiếng thở dài sườn sượt. - Nếu tôi thực sự nhắc tới chuyện này với cậu ấy - chà, tôi không muốn tin lan ra xung quanh. Tôi không muốn bất cứ điều khó chịu nào. Những ngày này chúng ta có chuyện quan trọng hơn nhiều nhiều lần.
- Được rồi.
Ông liếc xéo tôi.
- Tôi chưa bao giờ tới nhà hàng Auberge, nhưng tôi nghe nói nó rất tuyệt. Anh nghĩ sao?
Bụng tôi ọc ạch. Mặt nóng bừng lên. Camilletti đã ở đó tối hôm qua, tồi tệ đến thế là cùng.
- Tôi chỉ - thực ra tôi chỉ uống một ly rượu.
- Anh không bao giờ đoán nổi ai tối qua cũng ăn ở đó đâu, - Goddard nói. Biểu cảm của ông không thể đọc nổi. - Nicholas Wyatt.
Rõ ràng Camilletti đã hỏi dò xung quanh, cố phủ nhận rằng tôi đã ngồi với Wyatt sẽ là tự sát.
- Ồ, chuyện đó, - tôi nói, cố tỏ ra chán chường. - Từ khi tôi nhận việc ở Trion, Wyatt đã theo tôi...
- Ồ, vậy à?-  Goddard ngắt lời. - Vậy dĩ nhiên anh không còn lựa chọn nào khác ngoài chấp nhận lời mời ăn tối với ông ta, hử?
- Không, giám đốc, không phải như vậy, - tôi nói, nuốt khan.
- Anh thay đổi công việc không có nghĩa là anh từ bỏ bạn bè cũ, chắc vậy.
Tôi lắc đầu, nhíu mày. Mặt tôi cảm giác đang đỏ bừng lên y như mặt Nora.
- Thực ra không phải chuyện bạn bè gì...
- Ồ, tôi biết chuyện như thế nào, - Goddard nói. - Người kia khiến anh thấy tội lỗi và phải gặp ông ta chỉ vì chuyện ngày xưa, còn anh không muốn thô lỗ, và rồi ông ta đề nghị mật ngọt chết ruồi...
- Ông biết tôi không có ý định...
- Dĩ nhiên là không, dĩ nhiên là không, - Goddard lẩm bẩm. - Anh không phải là loại người đó. Thôi tôi xin. Tôi biết nhìn người. Tôi thích nghĩ đó là một trong những điểm mạnh của mình.
Khi về văn phòng, tôi ngồi xuống bàn, run rẩy.
Sự việc Camilletti báo cáo cho Goddard biết hắn thấy tôi ở Auberge cùng lúc với Wyatt có nghĩa là Camilletti ít nhất cũng nghi ngờ động cơ của tôi. Hắn hẳn phải nghĩ tối thiểu cũng là tôi để mặc ông chủ cũ nài nỉ, níu kéo mình. Nhưng hắn là Camilletti, hắn có lẽ có ý tưởng đen tối hơn thế nữa.
Thật đúng là một tai họa chết tiệt. Tôi cũng tự hỏi liệu Goddard có thực sự nghĩ tất cả chuyện này là vô hại không. “Tôi biết nhìn người”, ông ta đã nói vậy. Ông ta ngờ nghệch đến thế sao? Tôi không biết phải nghĩ gì. Nhưng rõ ràng từ giờ trở đi tôi phải rất cẩn thận dè chừng.
Tôi hít thở sâu, ấn mạnh đầu ngón tay lên đôi mắt nhắm. Dù thế nào đi nữa, tôi vẫn phải tiếp tục kiên trì thôi.
Vài phút sau, tôi tìm kiếm nhanh trên website của Trion và thấy tên người điều hành đơn vị sở hữu Trí tuệ trong bộ phận Pháp lý của Trion. Hắn tên là Bob Frankenheimer, bốn mươi tư tuổi, đã làm cho Trion được tám năm. Trước đó hắn là Tổng Cố vấn ở Oracle, và trước đó nữa làm ở Wilson, Sonsini, một công ty luật lớn ở Thung lũng Silicon. Nhìn ảnh, hắn béo phì quá mức, với tóc quăn đen, râu mọc lún phún, kính dày. Nhìn như một gã mọt sách hoàn hảo.
Tôi gọi hắn từ bàn mình, vì tôi muốn hắn thấy mã gọi và biết tôi gọi từ văn phòng của Tổng Giám đốc. Hắn trả lời điện thoại, với giọng êm dịu đến ngạc nhiên, như giọng ca sĩ trên sóng đêm khuya của một đài rock nhẹ.
- Anh Frankenheimer, tôi là Adam Cassidy tại văn phòng của Tổng Giám đốc Điều hành.
- Tôi giúp gì được anh? - hắn hỏi, nghe thực sự hợp tác.
- Chúng tôi muốn xem lại tất cả bằng sáng chế của bộ phận số ba trăm hai mươi.
Đó là một nước đi táo bạo, và chắc chắn mạo hiểm. Nếu như hắn lại đề cập chuyện này với Goddard thì sao? Sẽ đại thể là vô phương giải thích.
Một quãng lặng dài.
- Dự án AURORA?
- Đúng vậy, - tôi nói tự nhiên. - Tôi biết lẽ ra chúng tôi cần phải có tất cả các bản sao hồ sơ ở đây, nhưng tôi vừa bỏ hai giờ đồng hồ qua tìm khắp mọi nơi, nhưng tôi không thể tìm được, làm Jock thực sự bực tức về chuyện này. - Tôi hạ giọng, - Tôi là người mới ở đây - tôi chỉ vừa mới bắt đầu - và tôi không muốn làm hỏng việc này.
Lại một khoảng lặng, giọng Frankenheimer đột nhiên trở nên lạnh hơn, ít hợp tác hơn, như thể tôi vừa bấm nhầm nút.
- Tại sao anh lại gọi tôi?
Tôi không biết ý hắn là gì, nhưng rõ ràng tôi vừa dẫm chân vào.
- Vì tôi đoán anh là người có thể giúp tôi giữ được việc, - tôi nói, hơi cười châm chọc.
- Anh nghĩ tôi có các bản sao ở đây? - hắn sẵng giọng.
- Chậc, vậy anh có biết các bản sao hồ sơ ở đâu không?
- Anh Cassidy, tôi có một đội gồm sáu luật sư hàng đầu về lĩnh vực sở hữu trí tuệ trong này có thể xử lý hầu hết tất cả mọi chuyện. Nhưng hồ sơ của AURORA? Ồ, không. Chúng phải do các luật sư bên ngoài xử lý. Tại sao? Được vin vào cớ “an ninh tập đoàn”. - Giọng hắn cứ to dần lên, và hắn nghe thực sự phẫn nộ. - “An ninh tập đoàn”. Bởi vì có lẽ là những luật sư bên ngoài thực hiện được một loại an ninh tốt hơn người của chính Trion. Vậy tôi hỏi anh: Một thông điệp như thế nên hiểu như thế nào? - Hắn không còn nghe êm dịu nữa.
- Thật không phải, - tôi nói. - Vậy ai xử lý các hồ sơ.
Frankenheimer thở hắt ra. Hắn chua chát, giận dữ, có thể làm ứng cử viên sáng giá cho bệnh đau tim.
- Tôi ước mình giúp được anh. Nhưng rõ ràng người ta cũng không thể tin cậy trao cho chúng tôi thông tin đó. Các biểu trưng văn hóa của chúng ta nói gì chứ, “Truyền Thông Mở”? Tôi thích nó quá đi mất. Tôi nghĩ chắc mình phải in nó lên áo phông mặc trong Giải đấu Tập đoàn mất thôi.
Sau khi dập máy, tôi đi ngang qua văn phòng của Camilletti trên đường tới nhà vệ sinh nam, và rồi tôi lộn ngược lại.
Ngồi trong văn phòng của Paul Camilletti với vẻ mặt nghiêm trọng, là anh bạn cũ của tôi.
Chad Pierson.
Tôi rảo bước nhanh hơn, không muốn bị ai trong hai người đó nhìn thấy qua tường kính văn phòng của Camilletti. Dù tại sao tôi không muốn bị thấy thì tôi chẳng rõ. Giờ tôi chạy theo bản năng.
Chúa ơi, Chad mà biết Camilletti ư? Hắn chưa bao giờ nói hắn quen, và cứ xét thái độ nhún nhường và khiêm tốn của Chad, điều đó chính là loại chuyện mà hắn hẳn sẽ huênh hoang với tôi. Tôi không nghĩ ra được bất cứ lý do hợp lý - hay ít nhất là vô hại - nào giải thích được việc hai người đó có thể đang nói chuyện. Và chắc chắn không phải chuyện bạn bè: Camilletti sẽ không phí thời gian với hạng sâu bọ như Chad.
Lý do hợp lý duy nhất là lý do tôi sợ nhất: Chad đã đem nghi ngờ về tôi thẳng lên cấp trên cao nhất, hay cao nhất mà hắn có thể với tới. Nhưng tại sao lại là Camilletti?
Không nghi ngờ gì rằng Chad muốn làm hại tôi, và một khi hắn nghe được về người mới được tuyển từ Viễn thông Wyatt, hắn có lẽ đã lựa Kevin Griffin ra để tìm thông tin bôi nhọ tôi. Và hắn đã gặp may.
Nhưng có thật hay không?
Ý tôi là, Kevin Griffin thực sự biết được bao nhiêu về tôi? Hắn biết các tin đồn, chuyện ngồi lê đôi mách; hắn có thể bảo biết gì đó về quá khứ của tôi ở Wyatt. Nhưng đây là một kẻ mà thanh danh của chính mình còn phải xem xét. Dù bộ phận An ninh của Wyatt đã nói gì với Trion, rõ ràng người ở Trion tin điều đó - nếu không họ đã không đá hắn đi nhanh như thế.
Vậy liệu Camilletti có thực sự tin vào những lời buộc tội gián tiếp từ một nguồn tin có vấn đề, rất có thể là một đống rác rưởi, như Kevin Griffin không?
Mặt khác... giờ hắn đã thấy tôi đi ăn với Wyatt, trong một nhà hàng kín đáo, có lẽ hắn sẽ tin.
Bụng tôi bắt đầu đau quặn. Tôi tự hỏi liệu mình có bị loét dạ dày không.
Thậm chí nếu như đúng vậy, cũng sẽ chỉ là rắc rối nhỏ bé nhất mà thôi.

65

Ngày hôm sau, thứ Bảy, là bữa tiệc ngoài trời của Goddard. Tôi mất một tiếng rưỡi để đến ngôi nhà ven hồ của Goddard, phải đi qua nhiều đoạn đường làng hẹp. Trên đường đi, tôi gọi cho bố bằng điện thoại di động, một sai lầm. Tôi nói vài câu với Antwoine, rồi bố chen vào, hổn hển cáu gắt, vẫn con người lôi cuốn như mọi khi, và đòi tôi tới ngay lập tức.
- Không thể đâu, bố ạ, - tôi nói. - Con có công chuyện cần phải làm.
Tôi không muốn nói mình phải tới bữa tiệc ngoài trời ở ngôi nhà nông thôn của Tổng Giám đốc Điều hành. Đầu tôi lướt qua tất các phản ứng mà ông có thể có và bị quá tải. Nào là bài diễn văn về các Tổng Giám đốc Điều hành thối nát, nào là bài diễn văn về Adam-thằng-liếm-gót-thảm-hại, rồi bài mày-không-biết-mày-là-ai, bài bọn-nhà-giàu-bắt-mày-nhớ-là-chúng-giàu-có, bài cái-gì-chứ-mày-không-muốn-bỏ-thời-gian-ở-với-thằng-bố-đang-chết-dần-của-mày-à...
- Bố cần gì không? - tôi nói thêm, biết ông sẽ không bao giờ thừa nhận mình cần gì.
- Tao không cần gì cả, - ông gắt gỏng. - Không cần nếu mày quá bận.
- Sáng mai con đến, được chứ?
Bố im lặng, cho tôi biết mình đã chọc giận ông, rồi để Antwoine nói chuyện, ông đã lại biến thành con người khó chịu thường lệ.

Tôi chấm dứt cuộc gọi khi tới ngôi nhà. Nơi này được cắm biển gỗ đơn giản trên cọc, chỉ có chữ GODDARD và một con số. Rồi một con đường đất dài đầy vết xe qua đám cây cối rậm rạp, đột ngột mở rộng vào đường lái xe vòng tròn đầy vỏ sò vỡ. Một thằng nhóc mặc áo xanh đang tạm thời đóng vai trò người phục vụ. Tôi miễn cưỡng đưa cho nó chìa khóa chiếc Porsche.
Ngôi nhà nằm trải dài, ấm cúng, ván lợp màu xám, trông giống như xây từ cuối thế kỷ mười chín gì đó. Nó tọa lạc trên một mũi đất nhìn ra hồ, với bốn ống khói đá lớn và cây thường xuân leo trên các tấm ván lợp. Mặt trước là bãi cỏ mênh mông, tỏa mùi như vừa được cắt, và đây đó là những cây sồi già khổng lồ và cây thông khẳng khiu.
Hai ba mươi người đang đứng trên khắp bãi cỏ, mặc quần ngắn áo phông và trên tay cầm đồ uống. Một đám trẻ con chạy qua lại, la hét và ném bóng, chơi đùa. Một cô bé tóc vàng xinh xắn ngồi tại bàn phát thẻ trước hiên nhà. Cô bé cười, tìm thẻ tên và đưa cho tôi.

Hoạt động chính có lẽ ở mặt bên kia nhà, bãi cỏ đằng sau thoai thoải xuống cầu tàu bằng gỗ trên mặt nước, ở đó mọi người đông đúc hơn. Tôi nhìn quanh tìm gương mặt quen thuộc, nhưng không thấy ai. Một người phụ nữ mập mạp khoảng sáu mươi mặc áo caphtan đỏ tía, da nhăn nheo và tóc bạc trắng, tiến đến chỗ tôi.
- Anh lạc đường thì phải, - bà ta tử tế nói. Giọng bà trầm và khàn, và mặt cũng dãi dầu sương gió và gây ấn tượng mạnh như ngôi nhà.
Tôi biết ngay lập tức bà hẳn phải là vợ của Goddard. Bà trông thô kệch y như được quảng cáo. Mordden nói đúng: bà thực sự trông giống như một chú chó nhăn.
- Tôi là Margaret Goddard. Anh chắc là Adam.
Tôi chìa tay ra, hãnh diện không biết vì sao bà lại nhận được tôi, rồi nhớ ra tên mình nằm ở trước ngực áo.
- Rất vui được gặp bà, bà Goddard, - tôi nói.
Bà không chỉnh lại tôi, bảo tôi gọi mình là Margaret.
- Jock kể với tôi khá nhiều về anh. - Bà bắt tay tôi rất lâu và gật đầu. Đôi mắt nâu nhỏ mở rộng. Bà trông kinh ngạc, trừ phi tôi tưởng tượng ra điều đó. Bà lại gần hơn. - Chồng tôi là một ông già lẩm cẩm hay hoài nghi, và không dễ gây được ấn tượng với ông ấy. Vậy nên anh hẳn phải giỏi lắm.

Một hành lang dưới mái hiên ôm lấy phía sau ngôi nhà. Tôi đi qua vài vỉ nướng Cajun lớn màu đen với hàng cuộn khói bốc lên từ than hồng. Vài cô gái mặc đồng phục trắng đang đứng trông đống bánh kẹp, thịt nướng và thịt gà cháy xèo xèo. Một quầy dài được đặt gần đó với khăn trải bàn vải lanh trắng, một số thanh niên ở độ tuổi học cao đẳng đang ở đó, rót đồ uống thập cẩm, nước ngọt và bia vào các cốc nhựa trong. Tại bàn khác, một người đang mở vỏ hàu và trải chúng ra trên lớp đá lạnh.
Khi tiến đến mái hiên, tôi bắt đầu nhận ra mọi người, phần lớn họ là các lãnh đạo cấp khá cao ở Trion, đi cùng vợ con. Nancy Schwartz, phó giám đốc cao cấp của bộ phận Giải pháp Kinh doanh, một người phụ nữ nhỏ bé, tóc sẫm màu, dáng vẻ lo lắng, mặc áo phông Day Glo màu vàng của Trion được may trong Giải đấu Tập đoàn năm ngoái, đang chơi bóng vồ với Rick Durant, Giám đốc Tiếp thị, cao, mảnh khảnh, rám nắng với mái tóc sấy tạo kiểu, cả hai đều trông u sầu. Nhân viên hành chính của Goddard, Flo, mặc váy Hawaii bằng lụa, đầy hoa và rất ấn tượng, đang lượn quanh như thể chính mình là bà chủ nhà.

Rồi tôi thấy Alana, cặp chân dài rám nắng nổi bật trên nền cái quần lửng trắng. Cô cũng thấy tôi đúng lúc đó, và mắt như sáng bừng lên. Cô có vẻ ngạc nhiên. Cô ngấm ngầm vẫy tay nhanh và cười với tôi rồi quay đi. Tôi không hiểu như thế nghĩa là gì, nếu nó có nghĩa. Có lẽ cô muốn kín đáo về quan hệ giữa chúng tôi, chuyện đừng-mang-quan-hệ-cá-nhân-vào-công-ty cũ rích.
Tôi đi qua sếp cũ của mình, Tom Lundgren, hắn mặc một chiếc áo sơ mi chơi golf xấu xí với các dải xám và hồng tươi. Hắn đang vừa cầm một chai nước và căng thẳng xé lớp vỏ nhãn thành một dải dài hoàn hảo vừa cười gượng gạo nghe một người phụ nữ da đen hấp dẫn nói, có lẽ là Audrey Bethune, Phó Giám đốc và người đứng đầu đội Guru. Đứng hơi lùi về đằng sau là một người phụ nữ tôi cho là vợ của Lundgren, mặc đồ chơi golf giống hệt, mặt cũng gần như đỏ ửng và bực bội hệt ông ta. Một cậu nhóc cao gầy đang nắm lấy khuỷu tay bà ta và léo nhéo nài nỉ gì đó.
Cách đấy khoảng mươi mười lăm mét, Goddard đang cười phá lên giữa một đám người trông quen thuộc. Ông đang uống một chai bia và mặc áo sơ mi xanh mở khuy, ống tay áo cuộn lên, quần kaki gấp nếp phẳng lì, thắt lưng vải xanh hải quân với hình cá voi trên mặt, và giày da nâu cũ kỹ. Một vị nam tước miền quê vừa lập dị vừa kiểu cách điển hình. Một cô bé chạy ra chỗ ông, thế là ông cúi người rồi như ma thuật lấy ra một đồng xu từ sau tai nó. Nó kêu ré lên ngạc nhiên. Ông đưa cho cô bé đồng tiền và nó chạy đi, la hét vui sướng.
Ông nói gì đó, và người nghe cười phá lên như thể ông là Jay Leno, Eddie Murphy và Rodney Dangerfield đồng thời nhập lại thành một. Paul Camilletti đứng ở bên cạnh, mặc quần jean phẳng phiu, bạc mầu và áo sơ mi trắng mở khuy, tay áo cũng xắn lên. Hắn chọn đúng bản ghi nhớ cách ăn mặc, dù tôi thì không - tôi mặc quần kaki ngắn và áo phông cổ bẻ.
Đối diện hắn là Jim Colvin, Giám đốc Điều hành, hai cẳng chân trắng nhợt lẻo khẻo như chim chích lộ ra phía dưới cái quần ngắn hiệu Bermuda màu xám giản dị. Đúng là một cuộc trình diễn thời trang thực thụ. Goddard ngước lên, bắt gặp ánh mắt tôi và ra hiệu bảo tôi tới.
Khi tôi bắt đầu bước đến, một người tự dưng từ đâu xuất hiện và bắt lấy cánh tay tôi. Nora Sommers, mặc áo đan màu hồng với cổ đứng và quần kaki rộng cỡ, trông sướng rơn khi gặp tôi.
- Adam! - Mụ kêu lên. - Tôi mừng thấy anh ở đây quá! Chỗ này không tuyệt sao?
Tôi gật đầu, cười lịch sự.
- Con gái chị có đến không?
Trông mụ đột nhiên không thoải mái.
- Megan đang trải qua một thời kỳ khó khăn, con bé tội nghiệp. Nó chẳng bao giờ muốn dành thời gian với tôi. - Thật buồn cười, tôi nghĩ, tôi cũng đang trải qua đúng thời kỳ như thế đấy. - Nó thích đi cưỡi ngựa với bố nó còn hơn lãng phí một buổi chiều với mẹ và hội bạn buồn chán ở chỗ làm của mẹ.
Tôi gật đầu.
- Xin phép...
- Anh đã bao giờ có dịp thấy bộ sưu tập xe của Jock chưa? Nó ở trong nhà để xe đằng kia.
Mụ chỉ về một ngôi nhà trông giống như kho thóc cách khoảng trăm mét bên kia bãi cỏ.
- Anh phải thấy những chiếc xe đó. Chúng thật lộng lẫy!
- Tôi sẽ xem, cảm ơn, - tôi nói, rồi bước một bước về phía nhóm của Goddard.
Nora tóm chặt cánh tay tôi hơn.
- Adam, tôi luôn muốn nói với anh, tôi rất vui trước thành công của anh. Nó thực sự nói lên rằng Jock sẵn lòng đánh cược vào anh, đúng không? Đặt niềm tin vào anh? Tôi thật mừng cho anh!
Tôi nồng nhiệt cảm ơn mụ và gỡ cánh tay tôi ra khỏi móng vuốt mụ.

Tôi tới chỗ Goddard và lịch sự đứng sang một bên cho tới khi ông thấy tôi và vẫy tôi lại. Ông giới thiệu tôi với Stuart Lurie, người lãnh đạo bộ phận Giải pháp Doanh nghiệp, ông ta bảo, “Chuyện thế nào, anh bạn?”, và siết thật chặt tay tôi. Ông ta trông khá điển trai, khoảng bốn mươi tuổi, đã sớm hói và cạo sát ở hai bên nên trông vừa kỹ tính vừa hay ho.
- Adam là tương lai của Trion, - Goddard nói.
- Chà, này, rất vui được gặp tương lai! - Lurie nói với một thoáng châm chọc. - Anh sẽ không rút đồng xu nào ra từ tai cậu ấy chứ, Jock?
- Không cần làm thế, - Jock nói. - Adam luôn lấy thỏ ra khỏi mũ, đúng không, Adam?
Goddard quàng tay qua vai tôi, một hành động lúng túng vì tôi cao hơn ông nhiều.
- Đi với tôi, - ông khẽ khàng nói.
Ông dẫn tôi đi tới hành lang dưới mái hiên.
- Một chút nữa tôi sẽ thực hiện một nghi lễ truyền thống nho nhỏ, - Ông nói trong khi chúng tôi leo lên những bậc thang gỗ. Tôi giữ cửa che mở cho ông. - Tôi đem tặng những món quà nhỏ, những vật be bé ngốc nghếch - quà đùa giỡn thôi, thật đấy.
Tôi cười, tự hỏi tại sao ông lại kể cho tôi điều này.
Chúng tôi đi qua hành lang dưới mái hiên, với đồ đạc cũ kỹ làm bằng liễu gai, vào tiền phòng, rồi vào phần chính của ngôi nhà. Sàn làm bằng gỗ thông bản rộng cũ, nó kêu cót két khi chúng tôi bước qua. Tường đều được sơn màu trắng sữa, và mọi thứ đều toát lên vẻ sáng sủa, vui vẻ và ấm cúng. Nó tỏa ra thứ mùi không thể miêu tả nổi của các ngôi nhà cũ. Tất cả đều thoải mái, gần gũi và sống động. Đây là ngôi nhà của một người giàu có không tự phụ, tôi nghĩ. Chúng tôi đi xuống một hành lang rộng, qua phòng khách có lò sưởi bằng đá lớn, rồi quành ở góc vào hành lang hẹp lát gạch. Cúp và đồ trưng bày xếp trên giá hai bên hành lang. Rồi chúng tôi vào một phòng sách nhỏ với bàn đọc dài ở chính giữa, trên đặt máy tính và máy in, cùng vài hộp các tông lớn. Đây rõ ràng là phòng làm việc của Goddard.
- Bệnh viêm xương khớp cũ lại tái phát, - ông xin lỗi, chỉ những hộp các tông lớn trên bàn đọc, đầy quà đã được gói sẵn. - Anh là thanh niên lực lưỡng. Nếu anh không phiền mang những thứ này ra chỗ dãy ghế, gần quầy...
- Không phiền chút nào, - tôi nói, thất vọng nhưng không để lộ ra. Tôi nâng một cái hộp to tướng lên, nó không chỉ nặng mà còn kềnh càng, sức nặng không cân và cồng kềnh đến mức tôi gần như không thấy nổi đường phía trước khi bước đi.
- Tôi sẽ dẫn anh ra khỏi đây, - Goddard nói.
Tôi theo ông ta vào hành lang hẹp. Cái hộp cọ xát vào giá hai bên, và tôi phải quay nó hơi nghiêng lên trên để luồn kéo nó qua. Tôi cảm thấy cái hộp huých phải gì đó. Rồi một tiếng loảng xoảng lớn, tiếng kính vỡ.
- Thôi chết, - tôi thốt lên.
Tôi quay cái hộp để thấy được chuyện gì vừa xảy ra. Tôi trân trối nhìn: tôi hẳn đã gạt một cái cúp rơi khỏi giá. Giờ nó biến thành chục mảnh vỡ màu vàng rải rác trên sàn gạch. Đó là loại cúp trông như bằng vàng ròng nhưng thực ra là đồ gốm được mạ vàng gì đó.
- Chúa ơi, tôi xin lỗi, - tôi nói, đặt cái hộp xuống và cúi mình nhặt các mảnh vỡ. Tôi đã rất thận trọng với cái hộp, thế mà không hiểu sao tôi lại va phải nó, tôi không biết sao lại thế nữa.
Goddard quay đi chỗ khác, mặt trắng bệch.
- Quên nó đi, - ông nói gượng gạo.
Tôi cố nhặt hết những mảnh vỡ mình nhặt được. Nó là - nó từng là - bức tượng của một cầu thủ bóng bầu dục. Có một mảnh mũ, một mảnh nắm tay, một quả bóng nhỏ. Bệ bằng gỗ có tấm biển đồng ghi: VÔ ĐỊCH NĂM 1995 - TRƯỜNG LAKEWOOD - ELIJAH GODDARD - VỊ TRÍ CHỦ CÔNG.
Elijah Goddard, theo lời Judtih Bolton, là người con trai đã mất của Goddard.
- Jock, - tôi nói. - Tôi rất xin lỗi.
Một mảnh lởm chởm khía vào tay tôi đau đớn.
- Tôi nói quên chuyện đó đi, - Goddard nói, giọng cứng rắn. - Không sao đâu. Giờ thôi nào, ta đi thôi.
Tôi không biết phải làm gì, tôi thấy thật tệ vì đã phá hủy kỷ vật của cậu con trai đã mất. Tôi muốn dọn dẹp đống đổ vỡ, nhưng tôi cũng không muốn làm ông tức giận thêm. Quá nhiều chuyện cho tất cả mớ thiện ý tôi xây dựng được với người đàn ông già này. Vết rách trong lòng bàn tay tôi giờ ứa máu.
- Bà Walsh sẽ dọn chỗ này, - ông nói, giọng có phần gay gắt. - Đi nào, hãy mang các món quà này ra.
Ông đi xuống hành lang và biến mất đâu đó. Trong lúc ấy, tôi nâng cái hộp lên mang nó đi, cực kỳ cẩn thận, qua hành lang hẹp ra khỏi ngôi nhà. Tôi để lại một dấu tay dính máu trên hộp các tông.
Khi quay lại lấy hộp thứ hai, tôi thấy Goddard ngồi trên ghế trong góc phòng làm việc, ông ngồi khom vai, đầu chìm trong bóng tối, và ông cầm cái đế cúp gỗ bằng cả hai tay. Tôi do dự, không chắc mình nên làm gì, liệu tôi nên rời khỏi đây, bỏ ông lại một mình, hay tôi nên tiếp tục chuyển mấy cái hộp và giả bộ như không thấy ông.
- Nó là một thằng nhóc dễ chịu, - Goddard đột nhiên lên tiếng, nhẹ giọng đến nỗi đầu tiên tôi cứ ngỡ mình tưởng tượng. Tôi dừng bước. Giọng ông trầm, khàn khàn và bé, không to hơn một tiếng thì thầm. - Một vận động viên thể thao, cao lớn, ngực vạm vỡ, cũng như anh. Và nó có... có tài mang lại hạnh phúc. Khi nó bước vào phòng, anh sẽ thấy tâm trạng khá hẳn lên. Nó khiến người ta cảm thấy tốt đẹp. Nó điển trai, và tử tế, và có - có ánh lấp lánh trong mắt nó...
Ông chậm rãi ngẩng đầu lên và nhìn xa xăm.
- Thậm chí khi nó chỉ là một đứa bé, nó hầu như không bao giờ khóc hay nhặng xị lên hay...
Goddard dứt giọng, và tôi đứng đó giữa phòng, cứng người lại, chỉ lắng nghe. Tôi đã vo một cái khăn ăn vào trong bàn tay để thấm máu, và tôi cảm thấy nó bắt đầu ướt.
- Anh hẳn sẽ thích nó, - Goddard nói. Ông nhìn về phía tôi, nhưng không hẳn vào tôi, như thể ông đang thấy con trai mình tại chỗ tôi đứng. - Đúng vậy. Anh với nó hẳn sẽ trở thành bạn.
- Tôi rất tiếc không gặp được cậu ấy.
- Ai cũng yêu nó. Đây là một thằng bé được đặt vào thế gian này để làm mọi người hạnh phúc - nó có tia sáng, nó có nụ... - Giọng ông vỡ ra. - Nụ cười-đẹp nhất...
Goddard cúi đầu xuống, và vai ông rung lên. Một phút sau ông nói:
- Rồi một ngày ở công ty, tôi nhận được một cuộc gọi từ Margaret. Bà ấy hét lên... Bà ấy thấy nó trong phòng ngủ. Tôi lái xe về, tôi không suy nghĩ minh mẫn được nữa... Elijah đã bỏ trường Haverford vào năm thứ ba - thật ra là, họ tống cổ nó, điểm số nó sụt thảm hại, nó không tới trường nữa. Nhưng tôi không thể bắt nó nói về chuyện đó được. Tôi ngờ là nó dùng thuốc, dĩ nhiên, và tôi cố nói chuyện với nó, nhưng giống như nói với bức tường vậy. Nó chuyển về nhà, hầu hết thời gian ở lì trong phòng hay ra ngoài với bọn nhóc mà tôi không biết. Sau này tôi nghe được từ một người bạn của nó là nó đã hút heroin vào đầu năm thứ ba. Nó không phải bọn thanh niên phạm pháp, nó là một anh chàng tài năng, tính dễ chịu, một đứa con ngoan... Nhưng rồi đến một lúc nó bắt đầu... từ đó là gì nhỉ, tiêm chích? Và điều đó làm nó thay đổi. Không còn ánh sáng trong mắt nó nữa. Nó bắt đầu suốt ngày nói dối. Cứ như thể nó đang cố xóa bỏ tất cả con người cũ của nó. Anh hiểu tôi nói gì không?
Goddard ngước lên. Nước mắt giờ chảy xuống mặt ông.
Tôi gật đầu.
Một vài giây chậm chạp trôi qua, rồi ông tiếp tục.
- Nó đang tìm kiếm gì đó, tôi đoán vậy. Nó cần thứ mà thế giới này không thể cho nó. Hoặc có lẽ nó quá đa cảm và nó quyết định mình cần loại bỏ phần đó trong mình.
Giọng ông lại trở nên nặng nề.
- Và sau đó là phần còn lại.
- Jock, - tôi lên tiếng, muốn ông dừng lời.
- Nhân viên điều tra y tế kết luận đó là dùng thuốc quá liều, ông ta bảo không nghi ngờ gì chuyện đó là có chủ ý, rằng Elijah biết mình đang làm gì. - Bàn tay múp míp áp lên mắt. - Tôi tự hỏi mình, liệu tôi đã có thể làm gì khác đi? Tôi đã làm hỏng nó như thế nào? Tôi thậm chí từng dọa sẽ để nó bị bắt. Chúng tôi cố đưa nó đi cai nghiện. Tôi đã chuẩn bị đẩy nó tới đó, bắt nó phải đi, nhưng tôi không bao giờ có cơ hội. Và tôi tự hỏi mình hết lần này đến lần khác: Tôi có quá cứng rắn, quá nghiêm khắc với nó không? Hay không đủ cứng rắn? Tôi có quá bù đầu vào công việc của mình không? - Tôi nghĩ là tôi có như vậy đấy. Hồi đó tôi quá tham vọng. Tôi quá bận rộn xây dựng Trion đến nỗi chẳng thể cho nó một người cha thực sự.
Giờ ông nhìn thẳng vào tôi, và tôi thấy được nỗi đau khổ trong mắt ông. Nó như một lưỡi dao đâm vào bụng tôi. Mắt tôi ươn ướt.
- Anh đi làm và xây dựng vương quốc nho nhỏ của mình, - ông nói, - rồi anh quên mất điều gì thực sự đáng giá. - Ông chớp mắt liên hồi. - Tôi không muốn anh quên mất, Adam. Không bao giờ.
Goddard trông càng nhỏ hơn, héo hon hơn, và như đã một trăm tuổi.
- Nó nằm trên giường dính đầy dãi và nước tiểu như trẻ nhỏ, và tôi ôm nó trong tay như một đứa bé sơ sinh. Anh biết nhìn thấy con mình nằm trong quan tài là như thế nào không? - ông thì thầm. Tôi nổi da gà, phải quay đầu đi. - Tôi nghĩ mình không bao giờ quay lại làm việc nổi. Tôi cứ ngỡ mình không thể vượt qua điều đó. Margaret nói tôi chưa bao giờ vượt qua được. Trong gần hai tháng liền tôi ở nhà. Tôi không thể tìm ra lý do để sống nữa. Một chuyện như thể này xảy ra và anh - anh sẽ nghi ngờ giá trị của mọi thứ.
Ông dường như nhớ ra mình có khăn tay trong túi, và ông lấy nó lau mặt.
- Ôi chao, nhìn tôi xem, - ông nói với một tiếng thở dài sườn sượt, và bất ngờ ông cười. - Nhìn lão già ngu xuẩn này xem. Khi tôi ở tuổi anh, tôi tưởng tượng khi mình già như bây giờ tôi hẳn đã tìm ra ý nghĩa của cuộc đời. - Ông cười buồn bã. - Và giờ tôi không đến được gần ý nghĩa cuộc đời hơn bất cứ khi nào trước kia. Ồ, tôi biết nó không phải là cái gì. Bằng quá trình loại bỏ. Tôi đã phải mất một đứa con để biết được điều đó. Anh có nhà to xe đẹp, và có lẽ họ đưa anh lên trang bìa tờ tạp chí Fortune, và anh cho rằng mình đã hiểu được hết tất cả, phải không? Cho tới khi Chúa gửi cho anh một bức điện tín nho nhỏ nói, “Ồ, quên không nhắc, chẳng thứ nào trong số đó có ý nghĩa. Và tất cả mọi người ngươi yêu quý trên thế gian này, thực ra chỉ là ta cho ngươi mượn họ thôi, hiểu chưa. Và tốt nhất là ngươi nên yêu thương họ khi còn có thể”. - Một giọt nước mắt chầm chậm lăn xuống má ông. - Tới ngày hôm nay tôi vẫn hỏi mình, tôi đã bao giờ hiểu Elijah chưa? Có lẽ chưa. Tôi từng nghĩ mình hiểu. Tôi biết mình yêu nó, hơn tôi nghĩ mình có thể yêu bất cứ ai. Nhưng tôi có thực sự hiểu con trai mình không? Tôi không thể nói chắc.
Ông lắc đầu chậm rãi, và tôi thấy ông bắt đầu bình tĩnh lại.
- Bố anh thật rất may mắn, dù ông ấy là ai, vô cùng may mắn, và ông sẽ không bao giờ hiểu đâu. Ông ấy có được một người con như anh, một người con vẫn còn ở bên ông ấy. Tôi biết ông ấy hẳn phải tự hào vì anh.
- Tôi không chắc điều đó lắm, - tôi nói nhỏ.
- Ồ, tôi thì chắc đấy, - Goddard nói. - Vì tôi biết tôi hẳn sẽ tự hào.
------------
Còn tiếp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét