Tư cách Mõ
Tác giả: Nam Cao
NXB Văn Học - 1986
Bây giờ thì hắn trở thành mõ thật rồi. Một
thằng mõ đủ tư cách mõ, chẳng chịu kém một anh mõ chính tông một tí gì: cũng đê
tiện, cũng lầy là, cũng tham ăn. Hơi thấy nhà nào lách cách mâm bát là hắn đến
ngay. Hắn ngồi tít ngoài xa, ngay chỗ cổng vào. Người ta bưng cho một mình hắn một
mâm. Hắn trơ tráo ngồi ăn. Ăn xong, còn thừa bao nhiêu, hộn tất cả vào, lấy lá
đùm thành một đùm to bằng cái vế đùi, để đem về cho vợ, cho con. Có khi hắn còn
sán đến những chỗ người ta thái thịt, dỡ xôi, lấy cắp hoặc xin thêm một đùm to
nữa. Hắn bỏ cả hai đùm vào cái tay nải rất to, lần đi ăn cỗ nào hắn cũng đem
theo. Thế rồi một tay xách tay nải, một tay chống ba toong, hắn ra về, mặt đỏ
gay vì rượu, và trầu, đầy vẻ phè phỡn và hể hả... Mùa đến, hắn vác một cái đòn
càn có quấn mấy sợi thừng ở một đầu, đi hết ruộng nọ đến ruộng kia:
- Mùa màng, anh em đến xin cụ lượm lúa...
Mùa màng, anh em đến xin ông lượm lúa... Đến xin bà, hay thầy, hay cô lượm lúa...
Mồm hắn nói, tay hắn lượm. Hắn cứ chọn những
gồi nào to nhất, mẩy nhất thì lượm. Cụ hay ông, hay bà, hay thầy, cô, bằng lòng
cho hay không, cũng mặc! Mặc cho ông, bà, thầy, cô tiếc. Hạt thóc quý như hạt
ngọc. Nhưng tiếc cũng chẳng làm sao được. Ai nấy đều im như thóc cả. Người ta
đã nói: tham như mõ. Nếu nó không tham, sao nó làm mõ? Còn mình không lẽ mình lại
keo với cả từ thằng mõ trở đi?... Hà hà! Cứ vậy là ăn câu đấy. Hắn biết thóp
người ta như vậy, nên hắn lại càng làm dữ. Hết mùa rồi đến Tết. Trước Tết, hắn
xách ba toong đi trước, vợ thì đội một cái thúng cái đi sau. Chúng đến từng
nhà, xin mỗi nhà bát gạo. Mùng một Tết, bố con hắn xách một bao chè với năm quả
cau, đến mừng tuổi các ông quan viên để kiếm cỗ và kiếm tiền phong bao. Bao chè
với cau của hắn, hắn đem đến rồi lại đem về: có ông nào ngu đến nỗi lấy cau chè
của hắn? Người ta thừa biết hắn chỉ có độc trọi một bao chè ấy, đem đi hết nhà
này sang nhà nọ, xong mấy ngày Tết lại đem đi bán lại... Thế rồi độ mùng năm,
mùng sáu, vợ chồng hắn lại đi tua lần nữa, để xin bánh chưng thừa...
Cứ thế, hắn ỷ vào cái địa vị hèn hạ của
mình để nhiễu người ta, và lấy sự nhiễu được của người ta làm khoái lắm. Nhiều
người phải bực mình. Họ lại còn bực mình vì cái cách hắn ưng nịnh những người rộng
rãi và tỏ vẻ xấc láo, bùng phỉu đối với những kẻ không lấy gì mà rộng rãi với hắn
được. Thật hắn đã vô liêm sỉ quá. Mỗi lần hắn đi khỏi, những người đàn bà nguýt
theo, chúm mỏ ra và lẩm bẩm:
- Giống mõ có khác! Không trách được người
ta gọi là đồ mõ!... Trông ghét quá!...
Người ta tưởng như ông trời đã cố ý sinh ra
hắn như thế để mà làm mõ; hắn có cái cốt cách của một thằng mõ ngay từ khi còn ở
trong bụng mẹ, và là mõ ngay từ ngày mới sinh...
*
* *
Không! Lộ sinh ra là con một ông quan viên
tử tế, hẳn hoi. Và chỉ mới cách đây độ ba năm, hắn vẫn còn được gọi là anh cu Lộ.
Anh cu Lộ hiền như đất. Cờ bạc không, rượu chè không, anh chỉ chăm chăm, chút
chút làm để nuôi vợ, nuôi con. Bố mẹ chết cả rồi. Chị cu thì y như con mài mại:
lúc nào cũng chửa. Vừa mới dạo nào, trông bụng chị to bằng cái thúng, rồi bẵng
đi một dạo không gặp chị, đến lúc gặp thì bụng đã lại mây mẩy rồi. Người đàn bà
mắn quá! Vườn đất hẹp. Gia sản không có gì. Anh cu Lộ chỉ độc nai lưng ra cày
thuê, cuốc mướn. Nói thế, nghĩa là nhà cũng túng. Nhưng túng thì túng thật, mà
bụng dạ anh ta khá. Anh chỉ làm mà ăn với nuôi vợ, nuôi con, chứ không hề ăn trộm,
ăn cắp của ai. Cái sự túng làm liều, anh tịnh là không có. Nhà hàng xóm có con
gà, con vịt chạy sang, hoặc buồng chuối, quả mít liền kề ngay với giậu nhà anh,
anh cũng mặc thây, không hề có cái tính tắt ma, tắt mắt. Nói cho phải, thì anh
cu Lộ ăn ở phân minh lắm. Bởi vậy, kẻ trên, người dưới, hàng xóm láng giềng ai
cũng mến...
Họ đạo Lưu An có tất cả chừng sáu chục suất
đinh. Sáu mươi suất đinh tập họp lại với nhau, thành một cái làng nhỏ trong cái
làng to. Trừ những việc sưu thuế, tạp dịch là những việc họ cùng chịu chung với
dân lương, còn thì giáo dân nhất nhất cái gì cũng theo ước lệ riêng. Họ ăn họp,
khao vọng riêng với nhau, đặt ra những tước vị riêng. Ông trùm bên họ, cũng như
người lí trưởng bên dân. Dưới ông trùm, đến ông quản giáo, trông coi việc dạy
trẻ học kinh. Sau cùng đến ông sơ, tức là những ông đã đỗ bằng Sơ học yếu lược,
và đã nộp lệ và làm rượu trình bằng. Đấy là hạng quan viên. Bởi làm người đàn anh
bên họ đạo, không quá nặng nề, tốn kém như làm ông lí ông phó bên dân lương,
nên đến già nửa người trong họ là quan viên. Chỉ còn hơn vài chục trai em. Bởi
vậy, bọn trai em cứ phải đi phu choanh choách. Đã có quan viên, có trai em, tất
cũng phải có một thằng mõ nữa cho đủ bộ. Nhưng tìm đâu ra mõ? Các cụ bèn nghĩ một
cách. Người mõ không gọi là mõ nữa. Các cụ gọi là lềnh. Lềnh chuyên việc quét dọn
nhà thờ, và đi mời từng nhà một, chứ không phải rao. Mỏi chân một tí nhưng
không xấu hổ. Họ sẽ cắt lượt các trai em ra làm lềnh mỗi người ba năm. Người lềnh
được ngồi ngang với trai em khác, và hết hạn rồi, nếu có tiền hay tài cán, muốn
làm quan viên, vẫn được. Như vậy, thì cũng chẳng có gì là mất giá trị. Đến lần,
đến lượt thì làm, ai cũng làm...
Nhưng một năm xưa, một tên vô gia cư, chẳng
biết quê quán nơi đâu, đem một con vợ theo đến ngụ ở làng này. Vợ chồng đi làm
thuê, làm mướn kiếm ăn. Chúng ở nhờ nhà bà lão mù, bán thuốc cam, sài, ghẻ, lở
bên cạnh chợ. Một hôm, chẳng may người vợ chết. Cả hai vợ chồng cùng chưa vào
làng. Vậy cố nhiên là làng không chịu chôn cho. Hàng xóm cũng nhất định không
chôn. Họ còn hạch sách nọ kia, toan làm rầy rà cho người chồng và người chứa chịu.
Không biết liệu ra sao, anh chồng bèn mua một chục cau đem lên kêu với họ đạo,
xin họ chôn làm phúc, rồi anh ta xin nhập đạo. Họ nhận, làm ma cho người vợ. Rồi
nhân tiện muốn giúp đỡ anh chồng, họ bèn cho anh ta làm sãi để thay cho người lềnh
và cấp cho anh ta mấy sào đất bên cạnh nhà thờ để làm vườn, lại cho anh ta tiền
để làm một cái nhà con con. Từ đấy trai em trong họ không còn phải cắt lượt
nhau làm lềnh nữa. Được bốn mươi năm như vậy. Rồi người sãi chết. Hắn không có
con để mà nối nghiệp. Chân sãi khuyết. Bọn trai em quên hẳn cái lệ lềnh ngày
xưa rồi, chỉ biết có sãi là một anh na ná như thằng mõ, bây giờ nhất định bướng,
không chịu làm việc ấy. Bàn định mãi, các cụ bỗng nhớ đến anh cu Lộ. Nghĩ đến một
cách rụt rè thôi.
- Giá anh ta chịu cáng đáng cho thì hay
quá! Anh ta cẩn thận mà sạch sẽ...
Mà nhà cũng túng. Vườn đất hẹp. Cáng đáng
được thì thêm bốn sào vườn nữa, sưu thuế không phải đóng.
- Mà mỗi kì thuế họ lại còn cho thêm tiền...
Kể ra thì chỉ toàn cái lợi. Nhưng chỉ sợ
anh ấy còn e cái tiếng...
- Tiếng tăm gì! Quét dọn nhà thờ thì cũng
là làm việc thờ phượng, ai làm không được. Còn đi mời quan viên, thì mình là
người dưới, đi mời người trên một tiếng, cũng không đáng à.
Một cụ kêu lên thế. Cụ tiên chỉ mủm mỉm cười,
rồi hỏi:
- Hay là ta cho tìm anh ấy đến, dỗ anh ấy
xem sao?
Lộ đến. Người ta kể tất cả những cái lợi ra
mà nhử. Rồi người ta lại cố cắt nghĩa cho anh hiểu; làm sãi chẳng có gì mà nhục,
cũng là làm việc họ đấy thôi; ai cũng ngại, không chịu đứng ra cáng đáng, thì
mình đứng ra cáng đáng giùm cho cả họ; có phải mình tham lợi, tự nhiên đem trầu
cau đến xin làm đâu mà sợ tiếng?...
- Không, thế này anh cu ạ: giá như anh cầu
cạnh để làm thì còn có người nói được. Đằng này anh không cầu cạnh. Chúng tôi gọi
anh đến cho làm thì việc gì anh không làm? Ấy là tất cả các cụ, cùng quan viên
trên, quan viên dưới đều mến cái bụng anh hiền lành... Anh cứ làm.
Lộ bùi tai, làm vậy. Và quả nhiên, hắn làm
được ít lâu thì nhà đỡ xo dụi hơn trước thật. Bởi vì hắn chăm chỉ lắm. Mấy sào
vườn họ cho, hắn cuốc xới rất kĩ càng. Hắn làm ngô, làm mía được mấy vụ tốt
luôn. Tiền của họ cho, hắn bỏ ra lấy khô bã cho lợn ăn. Sưu thuế không mất một
đồng trinh, làm được đồng nào được cả. Làm gì không dễ chịu?
Bấy giờ những anh khác trông thấy thế mới
sinh ra tiếc. Họ thấy Lộ làm sãi ngon ăn quá. Họ ngấm ngầm ghen với hắn. Và chẳng
người nào bảo người nào, họ vô tình về hùa với nhau để báo thù.
Những lời tiếng mỉa mai truyền từ người nọ
đến người kia. Lộ thấy những bạn bè cứ lảng dần. Những người ít tuổi hơn, nói đến
hắn, cũng gọi bằng thằng. Trong những cuộc hội họp, nếu hắn có vui miệng nói
chõ vào một vài câu, nhiều người đã ra vẻ khinh khỉnh, không thèm bắt chuyện...
Hắn nhận thấy sự thay đổi ấy, và bắt đầu hối hận. Nhưng sự đã trót rồi, biết
làm sao được nữa? Hắn tặc lưỡi và nghĩ bụng: “Tháng Ba này, thằng nào thằng ấy
đến ba ngày không được một bát cơm, dãi nhỏ ra, hết còn làm bộ!...”. Một ý phấn
khích đã bắt đầu nảy mầm trong khối óc hiền lành ấy... Một hôm, trong một đám
khao, Lộ vừa chực ngồi cỗ thì ba người ngồi trước đứng cả lên. Lộ ngồi trơ lại
một mình. Mặt hắn đỏ bừng lên. Hắn do dự một lúc rồi cũng phải đứng lên nốt, mặt
bẽn lẽn cúi gầm xuống đất. Chủ nhà hiểu ba anh kia có ý gai ngạnh không chịu ngồi
chung với mõ. Ông tìm một người khác, xếp vào cho đủ cỗ, và an ủi Lộ:
- Chú ăn sau cũng được.
Lộ ầm ừ cho xong chuyện, rồi nhân một lúc
không ai để ý, lẻn ra về. Hắn tấm tức rất lâu. Trông thấy vợ, hắn cúi mặt,
không dám nhìn thị, làm như thị đã rõ cái việc nhục nhã vừa rồi. Hắn thở ngắn
thở dài, lắm lúc hắn muốn bỏ phắt việc, trả lại vườn cho họ đỡ tức. Nhưng nghĩ
thì cũng tiếc. Hắn lại tặc lưỡi một cái, và nghĩ bụng: “Mặc chúng nó!...”. Hắn
chỉ định từ giờ chẳng đi ăn cỗ đám nào nữa là ổn chuyện... Nhưng khổ một nỗi,
không đi, không được. Đám nào có ăn, tất nhiên chủ nhân không chịu để hắn về.
Làm cỗ cho cả họ ăn còn được, có hẹp gì một cỗ cho thằng sãi? Để nó nhịn đói mà
về, nó chửi thầm cho. Mà thiên hạ người ta cũng cười vào mặt, là con người bủn
xỉn... Ấy, người ta cứ suy hơn, tính thiệt như vậy, mà nhất định giữ thằng sãi
lại. Không ai chịu ngồi với hắn, thì hắn sẽ ngồi một mình một cỗ trong bếp, hay
một chỗ nào kín đáo cho hắn ngồi...
Mới đầu, Lộ tưởng ngồi như thế, có lẽ là
yên ổn đấy. Nhưng người ta tồi lắm. Người ta nhất định bêu xấu hắn. Trong nhà
đám, một chỗ dù kín đáo thế nào, mà chả có người chạy qua, chạy lại. Mỗi người
đi qua lại hỏi hắn một câu:
- Lộ à, mày?
Cũng có người đế thêm:
- Chà! Cỗ to đấy nhỉ? Đằng ấy hóa ra lại ...
bở!
A! Thế ra họ nói kháy anh cu Lộ vậy, cáu lắm.
Hắn tặc lưỡi một cái và nghĩ bụng: “Muốn nói, ông cho chúng mày nói chán! Ông cần
gì!...”. Hắn lập tức bê cỗ về sân, đặt lên phản, ung dung ngồi. Nói thật ra,
thì hắn cũng không được ung dung lắm. Tai hắn vẫn đỏ như cái hoa mào gà, và mặt
hắn thì bẽn lẽn muốn chữa thẹn, hắn nhai nhồm nhoàm và vênh vênh nhìn người ta,
ra vẻ bất cần ai. Sau cái bữa đầu, hắn thấy thế cũng chẳng sao, và bữa thứ hai
đã quen quen, không ngượng nghịu gì mấy nữa. Bữa thứ ba thì quen hẳn. Muốn báo
thù lại những anh đã cười hắn trước, tự hắn đi bưng lấy cỗ, và chọn lấy một cỗ
thật to để các anh trông mà thèm. Bây giờ thì đến lượt người chủ không được bằng
lòng. Có một mình nó ăn mà đòi một cỗ to hơn bốn người ăn!...
- Mẹ kiếp! Không trách được người ta bảo:
“Tham như mõ”.
A! Họ bảo hắn là mõ vậy... Tham như mõ vậy!...
Đã vậy thì hắn tham cho mà biết!... Từ đấy, không những hắn đòi cỗ to, lúc ăn hắn
lại còn đòi xin thêm xôi, thêm thịt, thêm cơm nữa. Không đem lên cho hắn thì tự
hắn xông vào chỗ làm cỗ mà xúc lấy. Ăn hết bao nhiêu thì hết, còn lại hắn gói
đem về cho vợ con ăn, mà nếu vợ con ăn không hết, thì kho nấu lại để ăn hai ba
ngày... Hà hà! Phong lưu thật!... Cho chúng nó cứ cười khỏe đi!
*
* *
Cứ vậy, hắn tiến bộ mãi trong nghề nghiệp
mõ. Người ta càng khinh hắn, càng làm nhục hắn, hắn càng không biết nhục.
Hỡi ôi! Thì ra lòng khinh, trọng của chúng
ta có ảnh hưởng đến cái nhân cách của người khác nhiều lắm; nhiều người không
biết gì là tự trọng, chỉ vì không được ai trọng cả; làm nhục người là một cách
rất diệu để khiến người sinh đê tiện...
Bây giờ thì hắn mõ hơn cả những thằng mõ
chính tông. Hắn nghĩ ra đủ cách xoay người ta. Vào một nhà nào, nếu không được
vừa lòng, là ra đến ngõ, hắn chửi ngay, không ngượng:
- Mẹ! Xử bẩn cả với thằng mõ...
1942
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét