Chí Phèo
Tác giả: Nam Cao
NXB Văn Học - 1986
Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ
rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu chửi trời, có hề gì? Trời có của riêng nhà nào?
Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: Đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức
mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc
nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ thế này thì tức thật! Tức
chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn.
Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế thì có phí rượu không? Thế thì có khổ
hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi
này! A ha! Phải đấy hắn cứ thế mà chửi, hắn chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn,
đẻ ra cái thằng Chí Phèo? Mà có trời biết! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng
không ai biết.
*
Một anh đi thả ống lươn, một buổi sáng tinh
sương đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch
bỏ không, anh ta rước lấy và đem cho một người đàn bà góa mù. Người đàn bà góa
mù này bán hắn cho một bác phó cối không con và khi bác phó cối này chết thì hắn
bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ. Năm hai mươi tuổi, hắn làm
canh điền cho ông lý Kiến, bây giờ cụ bá Kiến, ăn tiên chỉ làng. Hình như, có mấy
lần bà ba nhà ông lý, trẻ lắm mà lại hay ốm lửng, bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng,
đấm lưng gì đấy. Người ta bảo ông lý ra đình thì hách dịch, cả làng phải sợ, mà
về nhà phải sợ cái bà ba còn trẻ này. Người bà ấy phốp pháp, má bà ấy hây hây,
mà ông lý thì hay đau lưng lắm; người có bệnh đau lưng thì hay sợ vợ mà chúa đời
là khỏe ghen. Có người bảo ông lý ghen anh canh điền khỏe mạnh mà sợ bà ba
không dám nói. Có người thì bảo anh canh điền ấy được bà ba quyền thu quyền bổ
trong nhà tin cẩn nên lấy trộm tiền trộm thóc nhiều. Mỗi người nói một cách. Chẳng
biết đâu mà lần. Chỉ biết một hôm Chí bị giải huyện rồi nghe đâu phải đi tù.
Không biết tù mấy năm, nhưng hắn đi biệt tăm bảy, tám năm, rồi một hôm, hắn lại
lù lù ở đâu lần về. Hắn về lần này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là
ai. Trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn,
cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần
áo nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng
với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!
Hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ
uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều. Rồi say khướt, hắn xách một
cái vỏ chai đến cổng nhà bá Kiến, gọi tận tên tục ra mà chửi. Cụ bá không có
nhà. Thấy điệu bộ hung hăng của hắn, bà cả đùn bà hai, bà hai thúc bà ba, bà ba
gọi bà tư, nhưng kết cục chẳng bà nào dám ra nói với hắn một vài lời phải
chăng. Mắc cái phải cái thằng liều lĩnh quá, nó lại say rượu, tay nó lại lăm
lăm cầm một cái vỏ chai, mà nhà lúc ấy toàn đàn bà cả... Thôi thì cứ đóng cái cổng
cho thật chặt, rồi mặc thây cha nó, nó chửi thì tai liền miệng đấy, chửi thì lại
nghe! Thành thử chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu!... Thật là ầm ỹ!
Hàng xóm phải một bữa điếc tai, nhưng có lẽ trong bụng thì họ hả: xưa nay họ mới
chỉ được nghe bà cả, bà hai, bà ba, bà tư nhà cụ Bá chửi người ta, bây giờ họ mới
thấy người ta chửi lại cả nhà cụ bá. Mà chửi mới sướng miệng làm sao! Mới ngoa
ngắt làm sao. Họ bảo nhau: Phen này cha con thằng bá Kiến đố còn dám vác mặt đi
đâu nữa! Mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất. Cũng có người hiền lành hơn bảo: “Phúc
đời nhà nó, chắc ông lý không có nhà...”. Ông lý đây là ông lý Cường, con giai
cụ Bá nổi tiếng là hách dịch, coi người như rơm rác. Phải ông lý Cường thử có
nhà xem nào! Quả nhiên họ nói có sai đâu! Đấy, có tiếng người sang sảng quát:
“Mày muốn lôi thôi gì?... Cái thằng không cha không mẹ này! Mày muốn lôi thôi
gì?...”. Đã bảo mà! Cái tiếng quát tháo kia là tiếng lý Cường. Lý Cường đã về!
Lý Cường đã về! Phải biết... A ha! Một cái tát rất kêu. Ôi! Cái gì thế này? Tiếng
đấm tiếng đá nhau bình bịch. Thôi, cứ gọi là tan xương! Bỗng “choang” một cái,
thôi phải rồi, hẳn đập cái chai vào cột cổng... ồ hắn kêu! Hắn vừa chửi vừa kêu
làng như bị người ta cắt họng. Ồ hắn kêu!
- Ối làng nước ơi! Cứu tôi với... Ối làng
nước ôi! Bố con thằng bá Kiến nó đâm chết tôi! Thằng lý Cường nó đâm chết tôi rồi,
làng nước ôi!...
Và họ thấy Chí Phèo lăn lộn dưới đất, vừa
kêu vừa lấy mảnh chai cào vào mặt. Máu ra loe loét trông gớm quá! Mấy con chó
xông vào quanh hắn, sủa rất hăng. Lý Cường hơi tái mặt, đứng nhìn mà cười nhạt,
cười khinh bỉ. Hừ! Ngỡ là gì, chẳng hóa ra nằm ăn vạ! Thì ra hắn định đến đây nằm
vạ!
Người ta tuôn đến xem. Mấy cái ngõ tối xung
quanh đùn ra biết bao nhiêu là người! Thật ồn ào như chợ. Bà cả, bà hai, bà ba,
bà tư nhà cụ bá cũng vững dạ vì có anh lý, cũng xưng xỉa ra chửi góp. Thật ra,
các bà muốn xem Chí Phèo ra làm sao? Không khéo nó có ý gieo vạ cho cụ ông phen
này...
Nhưng kìa cụ ông đã về. Cụ cất tiếng rất
sang hỏi: “Cái gì mà đông như thế này?”. Chỗ này “lạy cụ”, chỗ kia “lạy cụ”,
người ta kính cẩn giãn ra, và Chí Phèo bỗng nằm dài, không nhúc nhích rên khe
khẽ như gần chết.
Thoáng nhìn qua, đã hiểu cơ sự rồi. Làm lý
trưởng rồi chánh tổng, bây giờ lại đến lượt con cụ làm lý trưởng, những việc
như thế này cụ không lạ gì. Cụ hãy quát mấy bà vợ đang xưng xỉa chực tâng công
với chồng:
- Các bà đi vào nhà, đàn bà chỉ lôi thôi,
biết gì?
Rồi quay lại bọn người làng, cụ dịu giọng
hơn một chút:
- Cả các ông, các bà nữa, về đi thôi chứ!
Có gì mà xúm lại như thế này?
Không ai nói gì, người ta dần dần tản đi.
Vì nể cụ bá cũng có, nhưng vì nghĩ đến sự yên ổn của mình cũng có: người nhà
quê vốn ghét lôi thôi. Ai dại gì đứng ỳ ra đấy, có làm sao họ triệu mình đi làm
chứng. Sau còn trơ lại Chí Phèo và cha con cụ bá. Bây giờ cụ mới lại gần hắn,
khẽ lay và gọi:
- Anh Chí ơi! Sao anh lại làm ra thế ?
Chí Phèo lim dim mắt, rên lên:
- Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đấy
thôi. Nhưng tao mà chết thì có thằng sạt nghiệp, mà còn rũ tù chưa biết chừng.
Cụ bá cười nhạt, nhưng tiếng cười giòn giã
lắm: người ta bảo cụ hơn người cũng chỉ bởi cái cười.
- Cái anh này nói mới hay! Ai làm gì mà anh
phải chết? Đời người chứ có phải con ngóe đâu? Lại say rồi phải không?
Rồi đổi giọng, cụ thân mật hỏi:
- Về bao giờ thế? Sao không vào tôi chơi?
Đi vào nhà uống nước.
Thấy Chí Phèo không nhúc nhích, cụ tiếp
luôn:
- Nào đứng lên đi. Cứ vào đây uống nước đã.
Có cái gì ta nói chuyện tử tế với nhau, cần gì mà phải làm thanh động lên như
thế, người ngoài biết, mang tiếng cả.
Rồi vừa xốc Chí Phèo, cụ vừa phàn nàn:
- Khổ quá! Giá có tôi ở nhà thì đâu đến nỗi.
Ta nói chuyện với nhau, thế nào cũng xong. Người lớn cả, chỉ một câu chuyện với
nhau là đủ. Chỉ tại thằng lý Cường nóng tính không biết nghĩ trước nghĩ sau.
Ai, chứ anh với nó còn có họ kia đấy.
Chí Phèo chẳng biết họ hàng ra làm sao,
nhưng cũng thấy lòng nguôi nguôi. Hắn cố làm ra vẻ nặng nề, ngồi lên. Cụ bá biết
rằng mình đã thắng, đưa mắt nháy con một cái, cụ quát:
- Lý Cường đâu! Tội mày đáng chết. Không bảo
người ta đun nước, mau lên!
Cụ dắt Chí Phèo đứng dậy, giục thêm vài tiếng
nữa, và Chí Phèo chịu đi: hắn chỉ cố khập khiễng cái chân như bị què. Là vì lúc
ấy trong người hắn rượu đã hơi nhạt rồi, không còn kêu gào chửi bới; và không
còn nghe kêu gào chửi bới, hắn thấy hình như không còn hăng hái nữa. Sự ngọt
ngào làm mềm nhũn, vả lại những người đứng xem về cả rồi, hắn thấy hình như trơ
trọi. Cái sợ cố hữu trong lòng thức dậy, cái sợ xa xôi thuở ngày xưa. Hắn thấy
quả là táo bạo. Không táo bạo mà dám gây sự với cha con bá Kiến, bốn đời làm tổng
lý. Và nghĩ thế, hắn thấy hắn cũng oai. Hắn làm cái ông gì ở làng này? Không
vây cánh, không họ hàng thân thích; anh em không có, đến bố mẹ cũng không... Ờ
thế mà cũng dám độc lực chọi nhau với lý trưởng, chánh tổng, bá hộ tiên chỉ
làng Vũ Đại, Chánh Hội đồng kỳ hào, huyện hào, Bắc kỳ nhân dân đại biểu, khét tiếng
đến cả trong hàng huyện. Thử hỏi đã có mặt nào trong cái làng hơn hai nghìn suất
đinh này làm được thế? Kể làm rồi có chết cũng là cam tâm. Vậy mà không: cái cụ
bá thét ra lửa ấy lại xử nhũn, mời hắn vào nhà xơi nước. Thôi cũng hả, đã xử
nhũn thì hắn vào. Nhưng bỗng hắn lại hơi ngần ngại; biết đâu cái lão cáo già
này nó lại chả lừa hắn vào nhà rồi lôi thôi? Ồ mà thật có thể như thế lắm! Này
nó hãy lôi ngay mấy cái mâm cái nồi hay đồ vàng đồ bạc ra khoác vào cổ hắn, rồi
cho vợ ra kêu làng lên, rồi cột cổ hắn vào, chần cho một trận om xương, rồi vu
cho là ăn cướp thì sao? Cái thằng bá Kiến này, già đời đục khoét, còn đớn cái
nước gì mà chịu lép như trấu thế? Thôi dại gì mà vào miệng cọp, hắn cứ đứng đây
này, cứ lăn ra đây này, lại kêu toáng lên xem nào. Nhưng nghĩ ngợi một tí, hắn
có lăn ra kêu nữa, liệu có còn ai ra? Vả lại bây giờ rượu nhạt rồi, nếu lại phải
rạch mặt mấy nhát nữa thì cũng đau. Thôi cứ vào! Vào thì vào, cần quái gì. Muốn
đập đầu thì vào ngay nhà nó mà đập đầu còn hơn ở ngoài. Cùng lắm, nó có giở quẻ,
hắn cũng chỉ đến đi ở tù. Ở tù thì hắn coi là thường. Thôi cứ vào.
Vào rồi, hắn mới biết những cái hắn sợ là
hão cả. Bá Kiến quả có ý muốn dàn xếp cùng hắn thật. Không phải cụ đớn, chính
thật cụ khôn róc đời, thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân.
Chí Phèo không là anh hùng, nhưng nó là cái thằng liều lĩnh. Liều lĩnh thì ai
thèm chấp! Thế nào là mềm nắn rắn buông? Cái nghề làm việc quan, nếu nhất nhất
cái gì cũng đè đầu ấn cổ thì lại bán nhà đi cho sớm. Cụ vẫn bảo lý Cường như thế
đấy. Vũ dũng như hắn mà làm lý trưởng là nhờ có cụ. Cụ mà chết đi rồi, “chúng
nó” lại không cho ăn bùn.
Tiếng vậy, làm tổng lý không phải việc dễ. Ở
cái làng này, dân quá hai nghìn, xa phủ xa tỉnh, kể ăn thì cũng dễ ăn nhưng
không phải hễ mà làm lý trưởng thì cứ việc ngồi mà khoét. Hồi năm nọ, một thầy
địa lý qua đây có bảo đất làng này vào cái thế “quần ngư tranh thực”, vì thế mà
bọn đàn anh chỉ là một đàn cá tranh mồi. Mồi thì ngon đấy, nhưng mà năm bè bảy
mối, bè nào cũng muốn ăn. Ngoài mặt tử tế với nhau, nhưng thật ra trong bụng
lúc nào cũng muốn cho nhau lụn bại để cưỡi lên đầu lên cổ. Ngay thằng Chí Phèo
này đến đây sinh sự biết đâu lại không có thằng nào ẩy đến? Nếu cụ không chịu
nhịn, làm cho to chuyện có khi tốn tiền. Cái nghề quan bám thằng có tóc ai bám
thằng trọc đầu? Bỏ tù nó thì dễ rồi; nhưng bỏ tù nó cũng có ngày nó được ra, liệu
lúc ấy nó có để mình yên không chứ? Cụ phải cái vụ thằng năm Thọ, mãi đến giờ vẫn
chưa quên.
Năm Thọ vốn là một thằng đầu bò đầu bướu. Hồi
ấy, bá Kiến mới ra làm lý trưởng, nó hình như kình nhau với lão ra mặt; lý Kiến
muốn trị nhưng chưa có dịp. Được ít lâu, hắn can dự vào một vụ cướp bị bắt
giam; lý Kiến ngấm ngầm vận động cho vào tù. Vẫn tưởng một người vai vế như năm
Thọ mà thất cơ lỡ vận đến nỗi tội tù làm gì còn dám vác mặt mo về làng? Lý Kiến
mừng thầm rằng đã nhổ được cây đinh trước mắt. Nào ngờ một buổi tối lý Kiến
đang ngồi một mình soạn giấy má thì năm Thọ vác dao xộc vào. Nó đứng chặn lấy cửa
và bảo: nếu kêu lên một tiếng thì đâm chết liền. Thì ra nó vượt ngục và về đây
nhờ ông lý một cái thẻ mang tên một người lương thiện và một trăm đồng bạc để
trốn đi. Nó lại bảo: nghe nó thì nó đi biệt, mà không nghe thì nó đâm chết, rồi
muốn ra sao thì ra; còn muốn sống với vợ con thì nghe nó.
Lẽ tất nhiên là lý Kiến nghe, năm Thọ đi
phen ấy là mất tăm, cũng không bao giờ về nữa thật. Nhưng thói đời, tre già
măng mọc, có bao giờ hết những thằng du côn? Năm Thọ vừa đi, lại có binh Chức ở
đâu lần về. Mà thằng này lúc nó còn ở nhà, nào nó có ngạo ngược gì cho cam! Người
ta đã phải gọi hắn là cục đất. Ai bảo làm sao thì ư hữ làm vậy, mới quát một tiếng
thì đã đái cả ra quần, thuế bổ một đồng thì đóng quá hai, đến nỗi có con vợ hay
hay mắt, bị người ta ghẹo cũng chỉ im im rồi về nhà hành vợ chứ chẳng dám ho he
gì, thế đấy: cái nghề đời hiền quá cũng hóa ngu, ở đâu chứ ở đất này đã ngu, đã
nhịn thì chúng nó ấn cho đến không còn ngóc đầu lên được. Hắn làm thì làm cật lực
mà quanh năm vẫn nghèo rớt mồng tơi; chỉ vì một miếng cũng không giữ được mà
ăn; đứa nào nó vớ nó cũng xoay, mà đứa nào xoay thì cũng chịu. Sau cùng bực
quá, hắn ra đi lính. Lại càng thêm tội! Không bực còn được vợ, tuy rằng thỉnh
thoảng có bị sấy sớt ra ngoài, những vẫn là vợ mình. Bực thì hóa ra mất vợ. Bởi
vì chị vợ ở nhà còn trẻ, mới hai con, cái mắt sắc như dao lại hồng hồng đôi má,
bỗng nhiên sinh ra vắng chồng, của ngon trờ trờ ngay trước mắt, ai mà chịu được?
Nhà chị binh ở gần đường. Ông phó đi đánh bạc
ban đêm về cũng tạt vào; anh trương tuần đi tuần cũng tạt vào; anh hàng xóm
cũng mò sang, thậm chí đến cái thằng hương Điền, đầu hai thứ tóc, già đời làm đầy
tớ cho các ông lý trưởng, cũng mon men vào gạ gẫm. Vợ binh Chức đã nghiễm nhiên
thành một con nhà thổ không phải trả tiền để bọn lý dịch trong làng chuyên đổi.
Chính ngay lý Kiến, tuy hồi ấy đã có đến ba vợ, cũng không nỡ bỏ hoài cái của
không dưng được trời cho; và không bỏ hoài, ông còn được lợi. Mỗi lần chị binh
đi lĩnh lương hay lĩnh măng đa của chồng, phải mượn ông lý đi nhận thực. Không
ông lý nào vác của nhà đi ăn mà nhận thực cho người ta, điều ấy là cố nhiên.
Nhưng với lý Kiến thì không những cơm rượu tiền túi, còn phải cho ngồi xe chung
và còn ở lại tỉnh nữa.
Thế là mấy đồng bạc lương đi đời; mấy đứa
con của chị ngày mai chỉ được mấy cái kẹo đạn mút, hay hậu hĩnh ra thì được mấy
cặp bánh giầy giò ăn. Thành thử công lao anh binh, rút lại chỉ cho chị binh mỗi
tháng một lần hưởng những cuộc vui với ông lý nhà.
Chẳng hiểu anh ta cũng biết thế mà chán cảnh
nhà hay sao mà mãn hạn ba năm cũng không thấy trở về. Rồi ít lâu sau, có trát về
làng tróc nã và áp giải tên Trần Văn Chức. Lý Kiến khai tên ấy thuộc hạng dân
lưu tán không về làng. Nhưng khai hôm trước thì hôm sau hắn về. Lý Kiến sai đầy
tớ đem trát đến nhà đòi hắn. Hắn đến ngay, nhưng lại dẫn theo cả vợ và hai con.
Không đợi ông lý nói một câu, hắn rút con dao chọc tiết lợn ra, nhăm nhăm cầm ở
tay mà bảo rằng: “Chẳng nói giấu gì ông, tôi can án giết người. Nếu ông không
thương, mà bắt giải thì vợ con tôi chết đói. Thôi thì đằng nào chúng nó cũng chết,
tôi đâm chúng nó chết ở đây rồi ông bắt đi ở tù luôn thể”. Mắt hắn đỏ ngầu; lưỡi
dao hắn hoa lên loang loáng, chỉ trông cũng lạnh gáy. Hắn có thể giết người được
lắm, mà không chỉ giết có vợ và con thôi, khi hắn có gan đâm chết vợ con thì hắn
có kiêng gì cái cổ của người khác nữa? Lý Kiến nghĩ ngợi một lúc rồi bảo cứ về
rồi ông liệu. Ông liệu nghĩa là ông che đậy cái án của hắn cho không ai biết và
mỗi lần có trát về nhắc, ông lại khai rằng: vẫn chưa có tên Chức về. Thế là hắn
nghiễm nhiên sống ở ngay chính giữa quê hương hắn. Và bây giờ người ta thấy vợ
hắn rất chính chuyên mà lại trung thành, chị chăm chỉ làm ăn để nuôi hắn. Những
ông trưởng, ông phó tự nhiên nghĩ bụng rằng: người ta có chồng rồi mà còn chàng
màng thì phải tội; ai cũng sinh ra tử tế cả, chỉ trừ anh Binh, bởi vì Chức bây
giờ lại rất mực ngang ngược. Hắn ăn vườn đấy, nhưng chẳng nộp thuế cho ai. Thúc
hắn thì hắn chửi, cắm vườn hắn thì hắn chém, sinh chuyện với hắn thì chính lý
trưởng làng có lỗi bởi vì cố ý ẩn lậu hắn là một tên can phạm. Ấy thế mà hắn
cũng chưa vừa lòng đâu. Một hôm, không hiểu nghĩ ngợi thế nào, hắn vác dao đến
bảo thẳng vào mặt lý Kiến rằng:
- Hồi tôi còn tại ngũ, tôi gửi về nhà có
trăm. Không biết vợ tôi nó tiêu pha gì hay cho trai mà không còn một đồng nào cả.
Tôi hỏi nó thì nó bảo: ở nhà đàn bà con gái một mình, không dám giữ tiền, được
đồng nào mang gửi ông lý cả. Tôi sợ nó bịa ra nên đã trói sẵn nó ở nhà. Bây giờ
tôi đến thưa với ông, tính toán xem được bao nhiêu cho đem về nuôi cháu. Thiếu
một đồng thì tôi không để yên cho chúng nó.
Lý Kiến hiểu rằng: “chúng nó” đây có thể gồm
cả ông. Ông cười nhạt bảo rằng:
- Thế này này, anh Binh ạ: chị ấy gửi tôi
thì quả là không có...
Hắn trợn mắt lên quát:
- Thế thì thằng nào ăn đi?
Lý Kiến vội nói lấp ngay:
- Thế nhưng mà anh có thiếu tiền thì cứ bảo
tôi một tiếng. Chị ấy trót tiêu đi rồi thì có giết cũng chẳng ra. Lôi thôi làm
gì sinh tội.
Ông mở tráp ra quăng hắn 5 đồng bạc. Hắn cầm
lấy, “lạy ông” tử tế, rồi xách dao ra về. Từ hôm ấy hắn thành tử tế với lý Kiến,
nhận là chỗ đầy tớ chân tay, nhưng lý Kiến thỉnh thoảng vẫn phải cho hắn tiền.
Cho mãi đến năm ngoái đây, hắn chết...
*
Thì năm nay lại nảy ra Chí Phèo, một thằng
hiền lành như đất - tội nghiệp cho hắn, có lần lý Kiến thấy hắn vừa bóp đùi cho
bà ba, vừa run run! Bỗng nhiên vùng dậy giở toàn những giọng uống máu người
không tanh. Thì ra già néo đứt dây. Cụ tiên chỉ làng Vũ Ðại nhận ra rằng: đè
nén con em đến nỗi nó không chịu được phải bỏ làng đi là dại. Mười thằng đã đi
ra thì chín thằng trở về với cái vẻ hung đồ, cái tính ương ngạnh học được từ
phương xa. Một người khôn ngoan chỉ bóp đến nửa chừng. Hãy ngấm ngầm đẩy người
ta xuống sông, nhưng rồi dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn đập ghế đòi cho
được năm đồng, nhưng được rồi thì lại vất trả lại năm hào “vì thương anh túng
quá”! Và cũng phải tùy mặt nữa: những thằng có máu mặt, vợ đẹp, con đàn chính
là những thằng dễ bóp; trái lại những thằng tứ cố vô thân, giết chúng thì dễ,
nhưng giết được, chỉ còn có xương; mà gây với chúng là mở một dịp tốt để cho
các phe nghịch xoay lại mình. Làng nào cũng có nhiều cánh, mỗi cánh kết bè kết
đảng chung quanh một người: cánh cụ bá Kiến, cánh ông đội Tảo, cánh ông Tư Ðạm,
cánh ông Bát Tùng... Bằng ấy cánh du lại với nhau để bóc lột con em, nhưng ngấm
ngầm chia rẽ, nhè từng chỗ hở để mà trị nhau. Cụ lại nhận ra rằng: ở cái đất nhà
quê, bọn dân hiền lành chỉ è cổ làm nuôi bọn hào lý, nhưng chính bọn hào lý,
nhiều khi lại phải ngậm miệng cung cấp cho những thằng cùng hơn cả dân cùng liều
lĩnh, lúc nào cũng có thể cầm dao đâm người hay đâm mình.
Nhưng cụ không phải là một người ưa than thở.
Than thở chẳng ích gì cho ai, cái bọn dân đinh suốt đời bị đè nén sở dĩ bị đè
nén suốt đời chỉ vì khi bị đè nén chúng chỉ biết than thở chứ không biết làm gì
khác. Cụ bá Kiến không cần than thở: trị không lợi thì cụ dùng. Cụ nghĩ bụng
cũng phải có những thằng đầu bò chứ? Không có những thằng đầu bò thì lấy ai mà
trị những thằng đầu bò? Thế lực của cụ sở dĩ lấn át được những vây cánh khác, một
phần lớn cũng bởi cụ biết mềm biết cứng, biết thu dụng những thằng bạt mạng
không sợ chết và không sợ đi tù. Những thằng ấy chính là những thằng được việc.
Khi cần đến, chỉ cho nó dăm hào uống rượu, là có thể sai nó tác hại bất cứ anh
nào không nghe mình. Gặp người bướng bỉnh, đanh thép thì nó lừa đốt nhà hay cho
mấy lát dao; gặp người non mặt, thì nó quăng vào chai rượu lậu, hay gây sự rồi
lăn ra kêu làng. Có chúng nó sinh chuyện thì mới có dịp mà ăn, nếu không thì giữa
đám dân hiền lành và yên phận này, khéo lắm chỉ bóp nặn được vào vụ thuế. Thuế
một năm có một lần nếu chỉ trông vào đấy thì bán cha đi cũng không đủ để bù vào
chỗ ba, bốn nghìn bạc chạy chọt để tranh triện đồng.
Vì thế, đêm hôm ấy, ở nhà bá Kiến ra về,
Chí Phèo vô cùng hả hê! Bá Kiến đã không vu vạ gì cho hắn, lại còn giết gà mua
rượu cho hắn uống, xong lại đãi thêm đồng bạc để về uống thuốc. Ðồng bạc, làm
gì đến thế? Hắn loạng choạng vừa đi vừa cười; hắn chẳng cần đến ba xu. Lúc ngồi
tù hắn có học mót được mấy bài thuốc dấu: chỉ vài nắm lá, là mặt hắn lại đâu
vào đấy ngay. Còn đồng bạc lại để đi uống rượu...
*
Hắn uống được có ba hôm, hôm thứ tư thì hắn
trợn mắt lên, bảo con mẹ hàng rượu rằng:
- Hôm nay ông không có tiền; nhà mày bán chịu
cho ông một chai. Tối ông mang tiền đến trả.
Mụ bán hàng rượu hơi ngần ngừ. Thế là hắn
rút bao diêm đánh cái xòe, châm diêm lên mái lều của mụ. Mụ hoảng hốt kêu la om
xòm vội dập tắt được ngọn lửa vừa mới cháy. Rồi khóc khóc mếu mếu, mụ đưa chai
rượu. Hắn hầm hầm, chĩa vào mặt mụ bảo rằng:
- Cái giống nhà mày không ưa nhẹ! Ông mua
chứ ông có xin nhà mày đâu! Mày tưởng ông quỵt hở? Mày thử hỏi cả làng xem ông
có quỵt của đứa nào bao giờ không? Ông không thiếu tiền! Ông còn gửi đằng cụ
bá, chiều này ông đi lấy về ông trả.
Mụ vừa kéo áo lên quẹt nước mũi, vừa bảo:
- Chúng cháu không dám chắc lép nhưng quả
là ít vốn.
Hắn quát lên:
- Ít vốn thì tối nay ông trả. Nhà mày đã chết
ngay bây giờ hay sao?
Rồi hắn xách chai ra về. Hắn về cái miếu
con ở bờ sông, vì vốn từ trước đến nay không có nhà. Lúc đi đường, hắn đã vặn
được ở nhà nào đó bốn quả chuối xanh, và bốc của cô hàng xén một dúm con muối
trắng. Bây giờ hắn uống rượu với chuối xanh chấm muối trắng và thấy rằng cũng
ngon. Hắn uống rượu với cái gì cũng ngon.
Uống xong hắn chùi miệng, rồi ngật ngà ngật
ngưỡng đến nhà bá Kiến. Gặp ai hắn cũng bảo: hắn đến nhà cụ bá Kiến đòi nợ đây!
Mới trông thấy hắn vào đến sân, bá Kiến đã biết hắn đến sinh sự rồi. Cái mắt
thì ngầu lên, hai chân thì đi lảo đảo, cái môi bầm lại mà run bần bật. Cũng
may, hắn không cầm vỏ chai, bá Kiến cũng dõng dạc hỏi:
- Anh Chí đi đâu đấy?
Hắn chào to:
- Lạy cụ ạ. Bẩm cụ... Con đến cửa cụ để kêu
cụ một việc ạ.
Giọng hắn lè nhè và tiếng đã gần như méo
mó. Nhưng bộ điệu thì lại như hiền lành; hắn vừa gãi đầu gãi tai, vừa lải nhải:
- Bẩm cụ, từ ngày cụ bắt đi ở tù, con lại
sinh ra thích đi ở tù, bẩm có thế, con có nói gian thì trời tru đất diệt, bẩm
quả là đi tù sướng quá. Ði ở tù còn có cơm để mà ăn, bây giờ về làng về nước, một
thước đất cắm dùi không có, chả làm gì nên ăn. Bẩm cụ, con lại đến kêu cụ, cụ lại
cho con đi tù...
Cụ bá quát, bắt đầu bao giờ cụ cũng quát để
thử dây thần kinh của người.
- Anh này lại say khướt rồi!
Hắn xông lại gần, đảo ngược mắt, giơ tay
lên nửa chừng:
- Bẩm không ạ, bẩm thật là không say. Con đến
xin cụ cho con đi tù mà nếu không được thì... thì... thưa cụ...
Hắn móc đủ mọi túi, để tìm một cái gì, hắn
giơ ra: đó là một con dao nhỏ, nhưng rất sắc. Hắn nghiến răng nói tiếp:
- Vâng, bẩm cụ không được thì con phải đâm
chết dăm ba thằng, rồi cụ bắt con giải huyện.
Rồi hắn cúi xuống, tần mần gọt cạnh cái bàn
lim. Cụ bá cười khanh khách. Cụ vẫn tự phụ hơn đời cái cười Tào Tháo ấy. Cụ đứng
lên vỗ vai hắn mà bảo rằng:
- Anh bứa lắm. Nhưng này, anh Chí ạ, anh muốn
đâm người cũng không khó gì. Ðội Tảo nó còn nợ tôi năm mươi đồng đấy, anh chịu
khó đến đòi cho tôi, đòi được tự nhiên có vườn.
Ðội Tảo là một tay vai vế trong làng. Vây
cánh ông ta mạnh, vẫn kình nhau với nhà cụ bá mà cụ bá thường phải chịu bởi hắn
là cựu binh, lương hưu trí nhiều, quen thuộc nhiều, lại ăn nói giỏi. Hắn vay cụ
bá năm mươi đồng đã từ lâu, bây giờ đột nhiên trở mặt vỗ tuột, lấy cớ rằng số
tiền ấy tính vào món tiền chè lý Cường ra làm lý trưởng chưa tạ hắn. Cụ bá tức
như chọc họng, nhưng chưa biết làm thế nào, bởi vì thằng binh Chức, đầy tớ chân
tay của cụ, khả dĩ đương đầu với hắn được, chết năm ngoái rồi. Bây giờ cụ mới lại
gặp được Chí Phèo, có thể thay cho binh Chức. Cụ thử nói khích xem sao. Nếu nó
trị được đội Tảo thì tốt lắm. Nếu nó bị đội Tảo trị thì cụ cũng chẳng thiệt gì,
đằng nào cũng có lợi cho cụ cả.
Chí Phèo nhận ngay! Hắn tức khắc đến nhà đội
Tảo, và cất tiếng chửi ngay từ đầu ngõ. Giá gặp phải hôm khác, thì có án mạng rồi:
đội Tảo cũng có thể đâm chém được, chưa bao giờ chịu hàng trước cuộc giao
tranh. Nhưng phúc đời cho hắn, hay là cho Chí Phèo, hôm ấy hắn ốm liệt giường,
không sao nhắc mình dậy được, có lẽ hắn cũng không biết Chí Phèo chửi hắn. Vợ hắn,
thấy Chí Phèo thở ra mùi rượu, và biết rõ đầu đuôi món nợ, lấy năm mươi đồng giấu
chồng đưa cho người nhà đi theo Chí Phèo. Đàn bà vốn chuộng hòa bình; họ muốn
yên chuyện thì thôi, gai ngạnh làm gì cho sinh sự. Vả lại, bà đội cũng nghĩ rằng:
chồng mình đang ốm... chồng mình có nợ người ta hẳn hoi... Và năm chục đồng bạc
đối với nhà mình là mấy, lôi thôi lại chả tốn đến ba lần năm chục đồng!
Vì thế, Chí Phèo mới được vênh vênh ra về;
hắn thấy hắn oai thêm bậc nữa. Hắn tự đắc: “anh hùng làng này cóc có thằng nào
bằng ta!”. Cụ bá thấy mình thắng bên địch mà không cần đến hội đồng làm biên bản
xem chừng thích chí. Cụ đưa luôn cho anh đầy tớ chân tay mới luôn năm đồng.
- Anh Chí ạ, cả năm chục đồng này phần anh.
Nưng nếu anh lấy cả thì chỉ ba hôm là tan hết. Vậy anh cầm lấy chỗ này uống rượu
còn để tôi bán cho anh mảnh vườn; không có vườn đất thì làm ăn gì?
Chí Phèo “vâng dạ” ra về. Mấy hôm sau, cụ
bá bảo lý Cường cho hắn năm sào vườn ở bãi sông cắm thuế của một người làng hôm
nọ. Chí Phèo bỗng thành ra có nhà. Hồi ấy hắn mới đâu hăm bảy hay hăm tám...
*
Bây giờ thì hắn đã thành người không tuổi rồi.
Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi? Cái mặt hắn không trẻ
cũng không già; nó không còn phải là mặt người; nó là mặt của con vật lạ, nhìn
mặt những con vật có bao giờ biết tuổi? Cái mặt hắn vàng vàng mà lại muốn xạm
màu gio; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo. Vết những mảnh
chai của bao nhiêu lần ăn vạ kêu làng, bao nhiêu lần, hắn nhớ làm sao nổi? Bao
nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm! Những
việc ấy chính là cuộc đời của hắn; cuộc đời mà hắn cũng chả biết đã dài bao
nhiêu năm rồi. Bởi vì ngay đến cái thẻ có biên tuổi hắn cũng không có, trong sổ
làng người ta vẫn khai hắn là dân lưu tán, lâu năm không về làng. Hắn nhớ mang
máng rằng có lần hắn hai mươi tuổi, rồi hắn đi ở tù, rồi hình như hắn hăm nhăm
không biết có đúng không? Bởi từ đấy thì đối với hắn không còn ngày tháng nữa.
Bởi vì từ đấy hắn bao giờ cũng say. Những cơn say của hắn tràn cơn này qua cơn
khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức
dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu
trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận. Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẽ hắn
chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở đời. Có lẽ hắn cũng không biết rằng
hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Ðại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết
đâu hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao
nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Hắn
đâu biết vì hắn làm tất cả những việc ấy trong khi người hắn say; hắn say thì hắn
làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm. Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt
hắn mỗi khi hắn qua.
Vì thế cho nên hắn chửi hay là chẳng vì cái
gì hắn cũng chửi, cứ rượu xong là hắn chửi. Hắn chửi như những người say rượu
hát. Giá hắn biết hát thì có lẽ hắn không cần chửi. Khổ cho hắn và khổ cho người,
hắn lại không biết hát. Thì hắn chửi, cũng như chiều nay hắn chửi...
Hắn chửi trời và đời. Hắn chửi cả làng Vũ Ðại.
Hắn chửi tất cả những đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng mặc, ai mà
hoài hơi, tức mình hắn chửi đứa nào đẻ ra chính hắn, lại càng không ai cần! Và
hắn lấy thế làm ức lắm; bởi vì người ta không thể chửi nhau một mình; chửi nhau
một mình thì còn văn vẻ gì! Thế là chắc chắn đã có một cớ để tức tối, một cớ rất
chính đáng để hắn có thể hùng hổ đi báo thù. Phải, hắn phải báo thù, báo thù
vào bất cứ ai. Hắn phải vào nhà nào mới được, bất cứ nhà nào. Hắn sẽ rẽ vào bất
cứ ngõ nào hắn gặp để đập phá đốt nhà hay lăn ra kêu làng nước. Phải đấy, hắn sẽ
rẽ vào bất cứ ngõ nào hắn gặp... Á, đâu kia rồi mau mau...
Nhưng mà mặt trăng lên, mặt trăng rằm vành
vạnh. Và ánh trăng chảy trên đường trắng tinh. Ồ, cái gì đây, đen và méo mó
trên đường trăng nhễ nhại? Nó xệch xạc về bên trái, thu gọn vào rồi lại dài
loang ra, xé rách vài chỗ.
Nó cứ quần quật dưới chân Chí Phèo. Chí
Phèo đứng lại và nhìn nó và hắn bỗng nghiêng ngả cười. Hắn cười ngặt nghẽo, cười
rũ rượi. Giá hắn cứ chửi lại còn dễ nghe! Cái vật xệch xạc trên đường chính là
bóng hắn. Thế là hắn cười, và hắn quên báo thù: hắn đi qua cái ngõ đầu tiên kia
rồi. Bây giờ thì đến ngõ nhà tự Lãng, một anh thầy cúng có một bộ râu lờ phờ.
Chí Phèo bỗng nảy ra một ý: tạt vào đây và đập cái đàn chầu văn của lão tự nửa
mùa này ra. Bởi vì lão tự này vừa làm thầy cúng lại vừa làm nghề hoạn lợn. Cái
đàn của lão lừng phừng nghe còn chối tai hơn là lợn kêu. Nhưng lúc vào thì lão
tự lại đang uống rượu; lão uống rượu ngay ở sân, vừa uống vừa vuốt râu, vừa
rung rung cái đầu. Chí Phèo đứng lại nhìn, thấy lão cũng hay hay. Hắn thấy tất
cả những người uống rượu đều hay hay. Rồi đột nhiên hắn khát, trời ơi sao mà
khát! Khát đến cháy cổ họng... Không do dự, hắn lại bên lão tự, nhắc lấy chai
rượu ngửa cổ dốc vào mồm tu. Lão tự duỗi cái cổ gà vặt lông ra, trố mắt lên,
nhưng không nói gì. Lưỡi lão ríu lại rồi, còn nói làm sao được? Lão đã uống hết
hai phần chai. Còn một phần thì Chí Phèo tu nốt. Hắn tu có một hơi, rồi khà một
cái, chép cái miệng như còn thèm. Rồi hắn nắm lấy mấy cái râu lờ phờ của lão tự,
nâng soi lên trăng mà cười. Lão tự cũng cười. Hai thằng say rượu ngả vào nhau
mà cười, như một đôi tri kỷ cuồng. Rồi tự Lãng vào nhà xách hai chai rượu nữa;
lão còn đúng hai chai nữa, lão mời Chí Phèo uống nữa, uống thật say, không cần
gì. Cứ việc uống, đừng có lo ngại gì đấy! Vợ lão chết đến bảy tám năm nay rồi,
con gái lão chửa hoang bỏ lão đi, lão chỉ có một mình, không còn vợ con nào mè
nheo cả, lão muốn uống đến bao giờ thì uống. Cứ uống! Cứ uống, cứ uống đi ông bạn
lạc đường từ cung trăng xuống ạ! Uống thật tợn, uống đến đái ra rượu thì mới
thích. Nhịn uống để làm gì? Có giàu có sang, có làm nên ông cả bà lớn nữa, chết
cũng không ai gọi là “cụ lớn mả”! Lão sống có đến hơn năm mươi rồi mà chưa thấy
một cụ lớn mả nào sống sót! Chỉ có cái mả, cái mả đất. Ai chết cũng thành cái mả,
say sưa chết cũng thành cái mả, lo gì? Cứ say.
Chưa bao giờ Chí Phèo được thỏa thuê đến thế!
Hắn lấy làm lạ sao mãi đến hôm nay mới ngồi uống rượu với thằng cha tự này.
Chúng uống với nhau rất là nhiều. Và rất là nhiều. Người ta tưởng như cả làng
Vũ Ðại phải nhịn uống để đủ rượu cho chúng uống.
Ðến lúc hết cả hai chai thì tự Lãng đã bò
ra sân. Lão bò như cua và hỏi Chí Phèo rằng: người ta đứng lên bằng cái gì? Chí
Phèo vần ngửa lão ra, vuốt cái râu lờ phờ của lão mấy cái, rồi để mặc lão thế,
hắn lảo đảo ra về.
Hắn vừa đi vừa phanh ngực ra mà gãi. Hắn
gãi ngực rồi gãi lên cổ, gãi mang tai và gãi lên cả đầu. Có lúc hắn phải đứng lại
giữa đường mà gãi, ghệch chân lên mà gãi, hắn bứt rứt quá, ngứa ngáy quá, và chợt
nghĩ ngay đến cái bờ sông gần nhà. Bởi vì cái vườn của hắn ở gần một con sông
con, nước lặng và trong, khắp bãi trồng toàn dâu, gió đưa đẩy những thân mềm oặt
ẹo, cuộn theo nhau thành làn. Duy có vườn nhà hắn trồng toàn chuối, ở một góc
vườn có túp lều con. Những đêm trăng như đêm nay, cái vườn phẳng ngổn ngang những
bóng chuối đen như những cái áo nhuộm vắt tung trên bãi. Và những tàu chuối nằm
ngửa, ưỡn cong cong lên hứng lấy trăng xanh rời rợi như là ướt nước, thỉnh thoảng
bị gió lay lại giẫy lên đành đạch như là hứng tình.
Chí Phèo vừa tò mò nhìn những tàu lá chuối
vừa đi xuống vườn. Nhưng hắn không vào cái túp lều úp xúp mà ra thẳng bờ sông.
Hắn định sẽ nhảy xuống tắm cho khỏi ngứa ngáy rồi lăn ngay ra vườn mà ngủ. Tội
gì chui vào lều, bức đến không còn thở được. Một thằng như hắn, đập đầu không
chết, huống hồ là gió sương... Ðến bờ sông hắn dừng lại, vì hình như có người.
Có người thật, và hắn ngây ra nhìn.
Hắn nhìn, giữa hai lọ nước và tựa lưng vào
gốc chuối, một người đàn bà ngồi tênh hênh. Chính là người đàn bà, hắn biết vậy
là nhờ mái tóc dài buông xõa xuống vai trần và ngực... Hai tay trần của mụ
buông xuôi, cái mồm của mụ há hốc lên trăng mà ngủ, hay là chết. Đôi chân thì
duỗi thẳng ra trước mặt, cái váy đen xộc xệch... Bên kia, có lẽ vì mụ giẫy cái
yếm xẹo xọ để trật ra cái sườn nây nây. Tất cả những cái ấy phơi ra trăng, rười
rượi những trăng làm trắng những cái đó có lẽ ban ngày không trắng; trăng làm đẹp
lên. Chí Phèo tự nhiên thấy ứ đầy miệng bao nhiêu là nước dãi, mà cổ thì lại
khô, hắn nuốt ừng ực, hắn thấy cái gì rộn rạo ran khắp người. Bỗng nhiên hắn
run run. Ồ tại sao như thế được? Ðáng nhẽ chính người đàn bà khốn nạn kia phải
run mới phải, cái người đàn bà dại dột đã nằm ềnh ệch mà ngủ ngay gần nhà hắn
này.
Nhưng người đàn bà ấy lại chính là thị Nở,
một người ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn. Cái
mặt của thị đích thực là một sự mỉa mai của hóa công: nó ngắn đến nỗi người ta
có thể tưởng bề ngang lớn hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là
tai hại, nếu má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn, là
thứ mặt vốn nhiều hơn người ta tưởng, trên cổ người. Cái mũi thì vừa ngắn, vừa
to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những
cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở
như rạn ra. Ðã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm,
cũng may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Ðã thế những
cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần
cho sự xấu. Ðã thế thị lại dở hơi; đó là một ân huệ đặc biệt của Thượng đế chí
công; nếu sáng suốt thì người đàn bà ấy sẽ khổ sở ngay từ khi mua cái gương thứ
nhất. Và thị lại nghèo, nếu trái lại, ít nhất đã có một đàn ông khổ sở. Và thị
lại là dòng giống của một nhà có mả hủi: cái này khiến không một chàng trai nào
phải phân vân. Người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm. Ngoài ba mươi
tuổi, thị vẫn chưa có chồng. Ở cái làng Vũ Ðại này người ta kết bạn từ khi lên
tám, và có khi có con từ lúc mười lăm; không ai đợi đến năm hai mươi đẻ đứa con
thứ nhất. Cứ nhìn tình hình ấy thì ta nói quách: thị Nở không có chồng. Mà thị
cũng không còn ai thân thích, trừ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã
không chồng như thị. Số trời định thế, để không ai phải trơ trọi trên đời này.
Người cô làm thuê cho người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải
Phòng, có khi đi tận Hòn Gai, Cẩm Phả. Còn thị sống bằng những nghề lặt vặt ở
làng. Hai cô cháu sống trong một cái nhà tre cách vườn của Chí Phèo bởi một con
đê; hắn ở ngoài bãi, hai người ở trong xóm. Có lẽ chính vì thế mà thị Nở không
sợ cái thằng mà cả làng sợ. Gần gũi lâu cũng sinh quen, mà quen thì ít khi còn
sợ. Những người trông coi vườn bách thú thường bảo rằng hổ báo hiền y như mèo.
Vả lại có lý nào để thị sợ hắn đâu? Người ta không ai sợ kẻ khác phạm đến cái xấu,
cái nghèo, cái ngẩn ngơ của mình, mà thị lại chỉ có ba cái ấy... Một phần nữa
cũng bởi Chí Phèo ít khi ở nhà, mà ở nhà thì hắn lại hiền lành, ai có thể ác
trong khi ngủ? Hắn chỉ về nhà để ngủ.
Ngày nào thị Nở cũng phải qua vườn nhà hắn
hai ba lần, là vì qua vườn nhà hắn có một lối nhỏ đi ra sông; trước kia, cả xóm
vẫn dùng cái ngõ ấy để ra sông tắm giặt hay kín nước. Nhưng từ khi hắn đến người
ta thôi dần, tìm một lối khác đi xa hơn. Trừ thị Nở: thì đã bảo thị là người dở
hơi, thị không thích làm như kẻ khác. Quá tin ở người, quá tin ở mình liều
lĩnh, bướng bỉnh hay có lẽ chỉ không chịu rời thói quen. Nhưng hãy biết thị cứ
đi ngõ ấy và vẫn chẳng làm sao cả. Thế rồi quen đi. Có lần trong lúc Chí Phèo
ngủ, thị vào cả nhà hắn để rọi nhờ lửa nữa, có lần thị xin của hắn một ít rượu
về để bóp chân; hắn mải ngủ càu nhàu bảo thị rằng: ở xó nhà ấy, muốn rót bao
nhiêu thì rót, để yên cho hắn ngủ. Và lắm lúc thị ngạc nhiên: sao người ta ghê
hắn thế?
Chiều hôm ấy thị Nở cũng ra sông kín nước
như mọi chiều. Nhưng chiều hôm ấy, trăng lại sáng hơn mọi chiều, trăng tỏa trên
sông và sông gợn biết bao nhiêu gợn vàng. Những vàng ấy rung rinh mới trông thì
đẹp, nhưng trông lâu mỏi mắt. Gió lại mát như quạt hầu. Thị Nở thấy muốn ngáp
mà mí mắt thì nặng dần, toan díp lại. Thị vốn có một tật không sao chữa được:
có lúc đột nhiên muốn ngủ, bất cứ ở đâu hay đang làm gì. Bà cô thị bảo thị là một
người vô tâm. Ngáp một cái, thị nghĩ bụng: khoan hãy kín nước, hãy để lọ xuống
ngồi nghỉ đây. Bởi vì thị đã luật quật đập đất từ trưa tới giờ. Mà mấy khi được
một nơi mát thế, mát rợn da rợn thịt, sung sướng quá! Mát y như quạt hầu. Thị cởi
áo ra ngồi tựa vào gốc chuối, dáng ngồi không kín đáo, nhưng không bao giờ thị
biết thế nào là lả lơi. Con người vô tâm, không hay nghĩ xa xôi mà. Vả lại ở
đây chẳng có ai. Chí Phèo đã về đâu, mà hắn có về thì cũng say khướt đã ngủ từ
nửa đường và tới nhà tức khắc chúi đầu vào ngủ nốt. Hắn ra làm gì đây, cho có
ra nữa thì đã sao? Thị không thể sợ hắn có thể phạm đến thị bởi lẽ rất giản dị
là thị chưa thấy ai phạm đến thị bao giờ. Thật ra thì thị cũng chẳng nghĩ ngợi
nhiều đến thế. Trong óc thị đã có một bóng đen lan rồi. Thị không ngồi thì
không chịu được.
Ngồi một lúc thị thấy rằng: nếu cứ ngồi mãi
thì ngủ mất. Nhưng thị đã ngủ đến hai phần rồi. Và thị nghĩ: thì ngủ, ngủ thì
đã làm sao! Về nhà thì cũng chỉ ngủ, ngủ ngay đây cũng vậy. Bà cô đi theo hàng
ít ra cũng dăm hôm mới về. Thị cứ ngồi đây cho mát. Và thị ngủ. Thị ngủ ngon
lành và say sưa.
Chí Phèo vẫn say say nhìn và run run. Bỗng
nhiên hắn rón rén lại gần thị Nở: lần đầu tiên hắn rón rén, từ khi về làng. Thoạt
tiên, hắn xách cái lọ để ra xa, rồi hắn lẳng lặng ngồi xuống bên sườn thị.
Và thị Nở giật mình. Thị Nở mới kịp giật
mình thì thằng đàn ông đã bám víu lấy thị.... Thị vùng vẫy đẩy ra, thị mở mắt,
thị tỉnh hẳn, thị nhận ra Chí Phèo. Thị vừa thở, vừa vật nhau với hắn vừa hổn hển:
“Ô hay... Buông ra... Tôi kêu... Tôi kêu làng... Buông ra. Tôi kêu làng lên bây
giờ!” Thằng đàn ông phì cười. Sao thị lại kêu làng nhỉ? Hắn vẫn tưởng chỉ có hắn
mới kêu làng thôi; người ta lại kêu tranh của hắn, bỗng nhiên hắn la lên kêu
làng. Hắn kêu như một kẻ bị đâm, vừa kêu vừa dằn người đàn bà xuống. Thị Nở trố
mắt ngây ra nhìn. Thị Nở kinh ngạc: sao hắn lại kêu làng nhỉ? Mà hắn vẫn chưa
chịu thôi kêu làng. Cũng may người quanh đây không có ai lạ gì tiếng hắn, mà
khi hắn kêu làng thì không ai cần động dạng: họ lạu bạu chửi rồi lại ngủ; hắn
kêu làng cũng như người khác buồn, hát ngao. Đáp lại hắn chỉ có lũ chó cắn xao
lên trong xóm.
Thị Nở bỗng nhiên bật cười. Thị Nở vừa rủa
vừa đập tay lên lưng hắn. Nhưng đó là cái đập yêu, bởi vì đập xong, cái tay ấy
lại giúi lưng hắn xuống. Và chúng cười với nhau...
Bây giờ thì chúng ngủ bên nhau... Đứa bé bú
no thì ngủ. Người ta ngủ say sau khi làm việc yêu. Chúng ngủ như chưa bao giờ
được ngủ... Trăng vẫn thức, vẫn trong trẻo... Trăng rắc bụi trên sông, và sông
gợn biết bao nhiêu vàng. Nhưng đến gần sáng, bỗng nhiên Chí Phèo chống một tay
xuống đất, ngồi lên một nửa. Hắn thấy nôn nao, chân tay bủn rủn, như đến hai ba
ngày nhịn đói. Thế mà bụng lại phinh phính đầy, hình như bụng hơi đau. Còn hình
như gì nữa, thôi đúng đau bụng rồi. Đau thật, đau mỗi lúc một dữ! Nó cứ cuồn cuộn
lên. À mà trời lành lạnh. Hễ có gió thì kinh kinh. Mỗi lần gió, hắn rươn rướn
người. Hắn muốn đứng lên. Sao đầu nặng quá mà chân thì bẩy rẩy. Mắt hắn hoa
lên. Bụng quặn lại, đau gò người. Hắn ọe. Hắn ọe ba bốn cái. Ọe mãi. Giá mửa ra
được thì dễ chịu. Hắn cho một ngón tay vào móc họng. Hắn ọe ra một cái to hơn,
ruột hình như lộn lên. Nhưng cũng chỉ nhổ ra toàn nước dãi. Hắn nghỉ một tí rồi
lại cho tay vào mồm. Lần này thì mửa được. Trời ơi! Mửa thốc mửa tháo, mửa ồng ộc,
mửa đến cả ruột. Đến nỗi người đàn bà phải dậy. Thị ngồi nhỏm dậy và ngơ ngác
nhìn. Cái óc nặng nề ấy phải lâu mới nhớ ra và lâu mới hiểu.
Bây giờ thì Chí Phèo đã mửa xong. Hắn mệt
quá, lại vật người ra đất. Hắn đờ hai con mắt khẽ rên: hắn chỉ còn đủ sức để rên
khe khẽ. Từ đống mửa bay lại một mùi gì thoảng như mùi rượu, hắn bỗng nhiên
rùng mình.
Thị Nở lại. Đặt một tay lên ngực hắn (thị
suy nghĩ đến bây giờ mới xong), thị hỏi hắn:
- Vừa thổ hả?
Mắt hắn đảo lên nhìn thị, nhìn một thoáng rồi
lại đờ ra ngay.
- Ði vào nhà nhé?
Hắn làm như gật đầu. Nhưng cái đầu không động
đậy, chỉ có cái mí mắt là nhích thôi.
- Thì đứng lên.
Nhưng hắn đứng lên làm sao được. Thị quàng
tay vào nách hắn, đỡ cho hắn gượng ngồi. Rồi thị kéo hắn đứng lên. Hắn đu vào cổ
thị, hai người lảo đảo đi về lều.
Không có giường, chỉ có một cái chõng tre.
Thị để hắn nằm lên và đi nhặt nhạnh tất cả những manh chiếu rách đắp lên cho hắn.
Hắn hết rên. Hình như hắn ngủ. Thị cũng lim dim chực ngủ. Nhưng trong nhà nhiều
muỗi quá. Muỗi nhắc cho thị cái áo quên ngoài vườn. Thị ra vườn. Đôi lọ nhắc
cho thị việc đi kín nước, thị mải mốt mặc áo, kín nước, rồi xách đôi lọ nước đi
về nhà.
Trăng chưa lặn, không chừng trời còn khuya.
Thị lên giường định ngủ. Nhưng nhớ lại việc lạ lùng tối qua. Thị cười. Thị thấy
không buồn ngủ, và thị cứ lăn ra lăn vào.
Khi Chí Phèo mở mắt thì trời đã sáng lâu. Mặt
trời chắc đã cao, và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe chim ríu rít bên
ngoài là đủ biết. Nhưng trong cái lều ẩm thấp vẫn chỉ hơi tờ mờ. Ở đây người ta
thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài trời vẫn sáng. Chưa bao giờ Chí
Phèo nhận thấy thế bởi chưa bao giờ hết say.
Nhưng bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng
như tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay
không buồn nhấc, hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một
tý. Hắn sợ rượu cũng như những người ốm sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ
quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi
cá.
Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có.
Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy... Chao ôi là buồn!
- Vải hôm nay bán mấy?
- Kém ba xu dì ạ.
- Thế thì còn ăn thua gì!
- Thật thế đấy. Nhưng chẳng lẽ rằng lại
chơi.
Chí Phèo đoán một người đàn bà hỏi một người
đàn bà khác đi bán vải ở Nam Ðịnh về. Hắn nôn nao buồn, là vì mẩu chuyện ấy nhắc
cho hắn một cái gì rất xa xôi. Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia
đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn
nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.
Tỉnh dậy hắn thấy già mà vẫn còn cô độc. Buồn
thay cho đời! Có lý nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi
đầu... Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới
cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất
độc, đầy đọa cực nhọc mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là dấu hiệu
báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời
gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của
hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau.
Cũng may Thị Nở vào. Nếu thị không vào, cứ
để hắn vẩn vơ mãi, thì đến khóc được mất. Thị vào cắp một cái rổ, trong có một
nồi gì đậy vung. Đó là một nồi cháo hành còn nóng nguyên. Là vì lúc còn đêm, thị
trằn trọc một lát, thị bỗng nhiên nghĩ rằng: cái thằng liều lĩnh ấy kể ra thì
đáng thương, còn gì đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình. Giá thử
đêm qua không có thị thì hắn chết. Thị kiêu ngạo vì đã cứu sống một người. Thị
thấy như yêu hắn: đó là một cái lòng yêu của một người làm ơn. Nhưng cũng có cả
lòng yêu của một người chịu ơn. Một người như thị Nở càng không thể quên được.
Cho nên thị nghĩ: mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với
nhau! Ăn nằm với nhau như “vợ chồng”. Tiếng “vợ chồng”, thấy ngường ngượng mà
thinh thích. Đó vẫn là điều mong muốn âm thầm của con người khốn nạn ấy chăng.
Hay sự khoái lạc của xác thịt đã làm nổi dậy những tính tình mà thị chưa bao giờ
biết?
Chỉ biết rằng thị muốn gặp Chí Phèo, gặp hắn
mà nhắc lại chuyện đêm qua thì chắc buồn cười lắm. Gớm! Sao lại có thứ người
đâu mà lì quá thế? Người ta ngồi đấy mà dám xán lăn ngay vào, nó chả ngang ngược
mà người ta kêu bé, nó lại làm to hơn. Mà kể thì cũng ngù ngờ. Cái thằng trời
đánh không chết ấy, nó còn sợ ai mà hòng kêu. Nhưng mà đáng kiếp. Thổ trận ấy
thật là phải biết. Cứ gọi là hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được.
Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó
mà... Thế là vừa sáng thị đã chạy đi tìm gạo. Hành thì nhà thị may lại còn.
Thị nấu bỏ vào cái rổ, mang ra cho Chí
Phèo.
Thằng này rất ngạc nhiên. Hết ngạc nhiên
thì hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được
một người đàn bà cho. Xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái gì. Hắn vẫn
phải dọa nạt hay giật cướp. Hắn phải làm cho người ta sợ. Hắn nhìn bát cháo bốc
khói mà bâng khuâng. Thị Nở thì chỉ nhìn trộm hắn, rồi lại toe toét cười. Trông
thị thế mà có duyên. Tình yêu làm cho có duyên. Hắn thấy vừa vui lại vừa buồn.
Và một cái gì nữa, giống như là ăn năn. Cũng có thể như thế lắm. Người ta hay
ăn năn hối hận về tội ác khi không đủ sức để ác nữa. Thị Nở giục hắn ăn nóng. Hắn
cầm lấy bát cháo đưa lên mồm. Trời ơi cháo mới thơm làm sao! Chỉ khói xông vào
mũi cũng đủ làm người nhẹ nhõm. Hắn húp một húp và nhận ra rằng: những người suốt
đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo rất ngon. Nhưng sao lại mãi đến bây
giờ hắn mới nếm vị mùi cháo?
Hắn tự hỏi rồi lại tự trả lời: vì có ai nấu
cho ăn đâu? Mà còn ai nấu cho mà ăn nữa! Ðời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi
một tay “đàn bà”. Hắn nhớ đến “bà ba”, cái con quỷ cái hay bắt hắn bóp chân mà
lại kêu bóp lên trên, trên nữa, nó chỉ nghĩ đến sao cho thỏa nó chứ có yêu hắn
đâu. Hồi ấy hắn hai mươi. Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không
toàn là xác thịt. Người ta không thích cái gì người ta khinh. Vả lại bị một con
đàn bà gọi đến nhà mà bóp chân! Hắn thấy nhục hơn là thích, huống hồ lại sợ. Quả
thật, từ khi biết rằng con vợ chủ sai hắn làm một việc không chính đáng, hắn vừa
làm vừa run. Không làm thì không được: mọi việc trong nhà, quyền đàn bà. Chứ hắn,
hắn có lòng nào đâu! Ðến nỗi người đàn bà phát cáu. Bà thấy xa xôi không được,
phải làm đến nơi. Bà bảo hắn rằng: “Mày thực thà quá! Con trai gì hai mươi tuổi
mà đã như ông già”. Hắn vẫn giả vờ không hiểu. Bà lẳng lơ bảo: “Chả nhẽ tao gọi
mày vào chỉ để bóp chân thế này thôi ư?...”, và thấy hắn dùng dằng, bà mắng xơi
xơi vào mặt. Hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Không, hắn chưa được một người
đàn bà nào yêu cả. Vì thế mà bát cháo hành của thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn
có thể tìm bạn được, sao lại chỉ gây kẻ thù?
Bát cháo húp xong rồi, thị Nở đỡ lấy bát
cháo và múc thêm bát nữa. Hắn thấy mình vã bao nhiêu mồ hôi. Mồ hôi chảy ra
trên đầu, trên mặt, những giọt to như giọt nước. Hắn đưa tay áo quệt ngang một
cái, quệt mũi cười rồi lại ăn. Hắn càng ăn, mồ hôi lại càng nhiều. Thị Nở nhìn
hắn, lắc đầu thương hại. Hắn thấy lòng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng với thị
như với mẹ. Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch
mặt mà đâm chém người? Ðó là cái bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi. Hay
trận ốm thay đổi hắn về sinh lý, cũng thay đổi cả tâm lý nữa? Những người yếu
đuối vẫn hay hiền lành. Muốn ác, phải là kẻ mạnh. Hắn đâu còn mạnh nữa. Và có
lúc hắn ngẫm mình mà lo. Xưa nay hắn chỉ sống bằng giật cướp và dọa nạt. Nếu
không còn sức mà giật cướp, dọa nạt nữa thì sao? Ðã đành, hắn chỉ mạnh vì liều.
Nhưng hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có một lúc mà người ta không thể liều lĩnh được nữa.
Bấy giờ mới nguy! Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người
biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao
người khác lại không thể được. Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng phẳng,
thân thiện của những người lương thiện... Hắn băn khoăn nhìn thị Nở, như thăm
dò. Thị vẫn im lặng, cười tin cẩn, hắn thấy tự nhiên nhẹ người. Hắn bảo thị:
- Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?
Thị không đáp, nhưng cái mũi đỏ của thị như
càng bạnh ra. Hắn thấy thế cũng không có gì là xấu. Bằng một cái giọng nói và một
vẻ mặt rất phong tình theo ý hắn, hắn bảo thị:
- Hay mình sang đây ở với tớ một nhà cho
vui.
Thị lườm hắn. Một người thật xấu khi yêu
cũng lườm. Hắn thích chí khanh khách cười. Lúc tỉnh táo, hắn cười nghe thật hiền.
Thị Nở lấy làm bằng lòng lắm. Bấy giờ mấy bát cháo ý chừng đã ngấm. Hắn thấy
lòng rất vui. Hắn bẹo thị Nở một cái làm thị nẩy hẳn người lên. Và hắn cười, hắn
lại bảo:
- Ðằng ấy còn nhớ gì hôm qua không?
Thị phát khẽ hắn một cái, làm vẻ không ưa
đùa. Sao mà e lệ thế. Xấu mà e lệ thì cũng đáng yêu. Hắn cười ngất, và muốn làm
thị thẹn thùng hơn nữa, hắn véo thị một cái thật đau vào đùi. Lần này thì không
những thị nẩy người. Thị kêu lên choe chóe. Thị nắm cổ hắn mà giúi xuống. Chúng
tỏ tình với nhau, không cần đến những cái hôn. Ai lại hôn, khi có những cái môi
nứt nẻ như bờ ruộng vào kỳ đại hạn và cái mặt rạch ngang dọc như mặt thớt. Vả lại,
có những cách âu yếm bình dân hơn, chúng cấu véo hoặc phát nhau... thiết thực
biết mấy...
Chúng sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi.
Chúng cũng nhận thấy thế, và nhất định là lấy nhau. Như thế năm ngày chẵn, thị ở
nhà hắn cả ngày lẫn đêm, trừ những lúc đi kiếm tiền. Hắn không còn kinh rượu
nhưng cố uống cho thật ít. Ðể cho khỏi tốn tiền, nhưng nhất là để tỉnh táo để
yêu nhau. Ðàn bà không men như rượu nhưng cũng làm người say. Và hắn say thị lắm.
Nhưng thị lại là người dở hơi. Ðến hôm thứ sáu thì thị bỗng nhớ rằng thị có một
người cô ở đời. Người cô ấy nội ngày nay sẽ về. Thị nghĩ bụng: hãy đừng yêu để
hỏi cô thị đã.
Thấy thị hỏi, bà già kia bật cười. Bà tưởng
cháu bà nói đùa. Nhưng chợt nhớ rằng cháu bà vốn dở hơi. Bà bỗng trở nên hoảng
hốt. Bà nhục cho ông cha nhà bà. Cũng có lẽ bà tủi thân bà. Bà nghĩ đến cái đời
dằng dặc của bà, không có chồng. Bà thấy chua xót lắm. Bà uất ức, uất ức với ai
không biết. Nhưng rồi đổ cái uất ức ngay lên cháu bà! Người đàn bà đức hạnh ấy
thấy cháu bà sao mà đĩ thế! Thật đốn mạt. Ngoài ba mươi tuổi, mà chưa trót đời.
Ngoài ba mươi... ai lại còn đi lấy chồng. Ai đời lại còn đi lấy chồng! Ừ! Mà có
lấy thì lấy ai chứ?... Ðàn ông chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một
thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là đi rạch mặt ra ăn vạ.
Trời ơi! Nhục nhã ơi là nhục nhã! Hỡi ông cha nhà bà! Bà gào lên như con mẹ dại.
Bà xỉa xói vào mặt cái con cháu ba mươi tuổi mà chưa trót đời. Bà bảo phắt nó:
- Ðã nhịn được đến bằng này tuổi thì nhịn hẳn;
ai lại đi lấy thằng Chí Phèo!
Thị nghe thấy thế mà lộn ruột. Nhưng thị biết
cãi bà làm sao? Con người ấy có quyền nói thế, bởi con người ấy năm mươi tuổi rồi
còn ai lấy chồng. Thị biết cãi làm sao. Mà không cãi được thì giận dữ nổi lên
đùng đùng. Thị tức lắm! Thị tức lắm! Thị cần đổ cái tức ấy lên một người. Thị
lon ton chạy sang nhà nhân ngãi. Thị thấy hắn đang uống rượu, và vừa uống vừa lầm
bầm chửi thị về nhà lâu. Hắn không quen đợi; bởi phải đợi, hắn lại lôi rượu mà
uống cho đỡ buồn. Uống vào thì phải chửi, quen mồm rồi! Nhưng thị làm gì mà hắn
chửi? Mà hắn có quyền gì chửi thị? Ồ, thị điên lên mất! Thị dẫm chân xuống đất,
rồi lại nhảy cẫng lên như thượng đồng. Hắn thú vị quá, lắc lư cái đầu cười. Lại
còn cười! Nó nhạo thị, trời ơi! Thị điên lên mất, trời ơi là trời! Thị chống
hai tay vào háng, vênh vênh cái mặt, và tớn cái môi vĩ đại lên, trút vào mặt hắn
tất cả những lời bà cô. Hắn nghĩ ngợi một tí rồi hình như hiểu. Hắn bỗng nhiên
ngẩn người. Thoáng một cái, hắn lại như hít hít thấy cái hơi cháo hành. Hắn cứ
ngồi ngẩn mặt không nói gì. Thị trút giận xong rồi. Cái mũi đỏ dị xuống rồi lại
bạnh ra. Thị hả hê lắm lắm. Thị ngoay ngoáy cái mông đít ra về. Hắn sửng sốt đứng
lên gọi lại. Ai mà thèm lại! Còn muốn lôi thôi cái gì? Hắn đuổi theo thị, nắm lấy
tay thị. Thị gạt ra, lại giúi thêm cho một cái. Hắn lăn khèo xuống sân. Ðã lăn
ra thì hắn phải kêu: bao giờ chả thế. Hắn nhặt một hòn gạch toan đập đầu. Nhưng
hình như hắn chưa thật say. Vì hắn nghĩ đập đầu ở đây chỉ thiệt; đập đầu ở đây
để mà ăn vạ ai? Hắn phải tự đến cái nhà con đĩ Nở kia. Ðến để đâm chết cả nhà
nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó. Nếu không đâm được, lúc ấy hãy đập đầu
kêu làng. Muốn đập đầu, phải uống thật say. Không có rượu, lấy gì làm cho máu
nó chảy? Phải uống thêm chai nữa. Và hắn uống. Nhưng tức quá, càng uống càng tỉnh
ra. Tỉnh ra, chao ơi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa. Hắn cứ thoang thoảng thấy
hơi cháo hành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức. Rồi lại uống. Hắn ra đi với một con
dao ở thắt lưng. Hắn lảm nhảm: “Tao phải đâm chết nó!”. Nhưng hắn lại cứ thẳng
đường mà đi. Cái gì đã làm hắn quên rẽ vào nhà thị Nở? Những thằng điên và những
thằng say rượu không bao giờ làm những cái mà lúc ra đi chúng định làm.
Trời nắng lắm, nên đường vắng. Hắn cứ đi, cứ
chửi, cứ dọa giết “nó”, và cứ đi. Bây giờ đến ngõ nhà cụ Bá. Hắn xông xông đi
vào. Cả nhà đi làm đồng vắng, chỉ có mình cụ Bá đang nằm nghỉ trưa. Nghe tiếng
hắn, cụ thấy sao bực mình quá! Chính thật thì cụ cũng đang bực mình. Bởi vì cụ
thấy đầu hơi nhức. Cụ đang muốn có một bàn tay man mát xoa cái đầu. Cũng có lẽ,
cụ chỉ muốn bà Tư đừng đi lâu quá thế. Đi lâu thế, không biết rằng đi đâu? Sao
bà ấy còn trẻ quá! Gần bốn mươi rồi mà trông còn phây phây. Còn phây phây quá
đi nữa! Cụ năm nay đã ngoài sáu mươi. Già yếu quá, nghĩ mà chua xót. Già thế
thì bà ấy chỉ cũng già đi cho xong. Bà ấy lại cứ trẻ, cứ phây phây, cứ đẹp như
mới ngoài hai mươi tuổi, mà sao đa tình. Nhìn thì thích nhưng tưng tức lạ. Khác
gì nhai miếng thịt bò lựt sựt khi rụng gần hết răng. Mắt bà, miệng bà có duyên,
nhưng trông đĩ lắm. Hơi một tí là cười toe toét, tít cả mắt lại, cái má thì hây
hây. Mà thấy ghét những thằng trai trẻ, giá làm con bà không đáng, mà thấy đâu
cũng đùa. Chúng đùa nhạt như nước ốc, chỉ được cái thô tục, mà gặp ai đâu cũng
cười! Chẳng nghĩ gì đến địa vị cả, người đâu mà vô tâm! Tức lạ! Cụ chỉ muốn cho
tất cả những thằng trai trẻ đi tù... Những lúc như thế, thì một người dẫu khôn
ngoan cũng không bình tĩnh được. Nhất là khi trông thấy một thằng chỉ đến vòi
tiền uống rượu như Chí Phèo. Tuy vậy, cụ cũng móc sẵn năm hào. Thà móc sẵn để tống
nó đi cho chóng. Nhưng móc rồi, cụ cũng phải quát một câu cho nhẹ người:
- Chí Phèo đấy hở ? Lè bè vừa thôi chứ, tôi
không phải là cái kho.
Rồi ném bẹt năm hào xuống đất, cụ bảo hắn:
- Cầm lấy mà cút đi cho rảnh. Rồi làm mà ăn
chứ cứ báo người ta mãi à?
Hắn trợn mắt chỉ tay vào mặt cụ:
- Tao không đến đây xin năm hào.
Thấy hắn toan làm dữ cụ đành dịu giọng:
- Thôi, cầm lấy vậy, tôi không còn hơn.
Hắn vênh cái mặt lên, rất kiêu ngạo:
- Tao đã bảo là tao không đòi tiền.
- Giỏi! Hôm nay mới thấy anh không đòi tiền.
Thế anh cần gì?
Hắn dõng dạc:
- Tao muốn làm người lương thiện!
Bá Kiến cười ha hả:
- Ồ tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện
cho thiên hạ nhờ.
Hắn lắc đầu:
- Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm
thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người
lương thiện nữa. Biết không? Chỉ có một cách... biết không! Chỉ có một cách
là... cái này biết không?
Hắn rút dao ra xông vào. Bá Kiến ngồi nhỏm
dậy, Chí Phèo đã văng dao tới rồi. Bá Kiến chỉ kịp kêu một tiếng. Chí Phèo vừa
chém túi bụi vừa kêu làng thật to. Hắn kêu làng, không bao giờ người ta vội đến.
Bởi thế khi người ta đến thì hắn cũng đang giẫy đành đạch ở giữa bao nhiêu là
máu tươi. Mắt hắn trợn ngược. Mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng.
Ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứ ra.
*
Cả làng Vũ Ðại nhao lên. Họ bàn tán rất nhiều
về vụ án không ngờ ấy. Có nhiều kẻ mừng thầm. Không thiếu kẻ mừng ra mặt. Có
người nói xa xôi: “Trời có mắt đấy, anh em ạ!”. Người khác thì nói toạc ra: “Thằng
nào chứ hai thằng ấy chết thì không ai tiếc! Rõ thật bọn chúng nó giết nhau,
nào có phải cần đến tay người khác đâu”. Mừng nhất là bọn hào lý ở trong làng.
Họ tuôn đến hỏi thăm, nhưng chính là để nhìn lý Cường bằng những con mắt thỏa
mãn và khiêu khích. Ðội Tảo, không cần kín đáo, nói toang toang ngay ngoài chợ,
trước mặt bao người: “Thằng bố chết, thằng con lớp này không khỏi người ta cho
ăn bùn”. Ai chả hiểu “người ta” đó là chính ông. Bọn đàn em thì bàn nhỏ: “Thằng
mọt già ấy chết, anh em mình nên ăn mừng”. Những người biết điều thì hay ngờ vực,
họ chép miệng nói: “Tre già măng mọc, thằng ấy chết, còn thằng khác, chúng mình
cũng chẳng lợi tí gì đâu...”.
Bà cô thị Nở chỉ vào tận mặt cháu mà đay
nghiến:
- Phúc đời nhà mày, con nhé. Chả ôm lấy ông
Chí Phèo.
Thị cười và nói lảng:
- Hôm qua làm biên bản, lý Cường nghe đâu tốn
gần một trăm. Thiệt người lại tốn của.
Nhưng thị lại nghĩ thầm:
- Sao có lúc nó hiền như đất.
Và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn, thị
nhìn trộm bà cô, rồi nhìn nhanh xuống bụng:
- Nói dại, nếu mình chửa, bây giờ hắn chết
rồi, thì làm ăn thế nào?
Ðột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái
lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại...
Tháng 2 - 1941
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét